You are on page 1of 15

A.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH


1. Khái niệm về thị trường tài chính:
Bắt nguồn từ mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và tiết kiệm: một nền kinh tế
muốn tăng trưởng thì phải có hoạt động đầu tư; trước khi muốn đầu tư, phải huy
động vốn từ nguồn tiết kiệm; đầu tư có hiệu quả sinh ra lợi nhuận lại làm tăng
thêm nguồn tiết kiệm. Vì vậy, mối quan hệ nhân quả này tuần hoàn và tạo nên sự
phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để cho đầu tư gặp được tiết kiệm; phải có nơi để tạo
ra sự gặp gỡ này. Đó chính là quá trình giao lưu vốn hay nói khác hơn đó là thị
trường tài chính, là nơi tạo ra cơ chế cho những nguồn vốn nhàn rỗi không có chỗ
đầu tư giao lưu với những nhà đầu tư đang cần vốn.
Như vậy, thị trường tài chính là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi các sản
phẩm tài chính ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để đáp ứng nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong nền kinh tế. Trong đó, các chủ thể thừa vốn thì tìm kiếm lợi nhuận
thông qua hoạt động đầu tư, còn các chủ thể thiếu vốn bổ sung vốn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và các nhu cầu đầu tư khác. Việc hình thành quá trình giao
lưu vốn giữa những chủ thể thừa vốn và thiếu vốn đã tạo nên một thị trường với
đầy đủ cơ chế như trong một nền kinh tế thị trường. Đồng thời, do sản phẩm trên
thị trường là sản phẩm tài chính, có tính nhậy cảm và ảnh hưởng đến mọi thành
phần trong nền kinh tế nên thị trường tài chính là thị trường bậc cao. Do đó, thị
trường tài chính phải là loại thị trường bậc cao, chỉ tồn tại và hoạt động trong điều
kiện của nền kinh tế thị trường.
Vậy, thị trường tài chính hình thành trên cơ sở nào?
2. Cơ sở hình thành thị trường tài chính:
Cũng giống như các loại thị trường khác, thể chế thị trường phải được duy trì
trong nền kinh tế tài chính. Tức là, các chủ thể thừa vốn và thiếu vốn trên thị
trường tạo ra cung và cầu về sản phẩm tài chính. Giá các tài sản tài chính hình
thành thông qua quá trình giao lưu vốn giữa các chủ thể trên thị trường. Đó chính
là lợi tức hay giá phải trả để có được một tài sản tài chính và trong nền kinh tế,
vốn được phân bổ giữa các tài sản tài chính dựa trên tín hiệu của thị trường.
Để thị trường phát triển thì phải có một cơ chế thông thoáng. Do đó, các nhu cầu
giao lưu vốn trong xã hội phải được khuyến khích mạnh mẽ trong khuôn khổ luật
pháp. Vốn được giao lưu thông qua hai kênh chính là giao lưu vốn trực tiếp và
giao lưu vốn gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
- Kênh tài chính trực tiếp là kênh mà các chủ thể thừa vốn trực tiếp chuyển vốn
cho các chủ thể thiếu vốn, bằng cách mua các tài sản tài chính trực tiếp từ người
phát hành. Trong trường hợp này, luồng tiền được vận động thẳng từ người thừa
vốn đến người thiếu vốn. Hoạt động này có thể được nhận thấy rõ ràng nhất thông
qua mua bán cổ phiếu hoặc giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán.
- Kênh tài chính gián tiếp là kênh thông qua các trung gian tài chính như các Ngân
hàng, các định chế tài chính phi Ngân hàng và các tổ chức trung gian khác. Các tổ
chức tín dụng mà cụ thể là các Ngân hàng thương mại với vai trò là người huy
động vốn rồi đem cho vay. Còn những trung gian tài chính, thực hiện việc kinh
doanh chuyển vốn từ người dư vốn sang người cần vốn, bằng việc đặt một lãi suất
cao hơn cho các món cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi
nhuận. Tuy nhiên, thông qua hoạt động của các trung gian tài chính, lãi suất hay
còn gọi là giá của tiền tệ được hình thành trên cơ sở cung cầu của thị trường và
nhờ đó, các hoạt động tài chính gián tiếp được vận hành trên thị trường tài chính.
Như vậy, các định chế tài chính được hình thành và hoạt động có hiệu quả cũng
góp phần tạo nên một thị trường tài chính trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Thị
trường tài chính được hình thành đã thực hiện chức năng quan trọng của mình, là
tập trung các khoản tiền tiết kiệm tạo thành nguồn vốn lớn để tài trợ các dự án đầu
tư trong nền kinh tế xã hội.
3. Chức năng của thị trường tài chính:
Chức năng đầu tiên, cũng là chức năng quan trọng nhất của thị trường tài chính là
khơi thông các nguồn vốn và dẫn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế xã
hội. Để thực hiện được chức năng này, thị trường phải tạo ra các kênh huy động
vốn từ nơi thừa, như: cá nhân, hộ gia đình, các đơn vị kinh tế, tổ chức đoàn thể xã
hội, Chính phủ, … ở trong và ngoài nước để chuyển sang các nhà đầu tư thiếu
vốn, như: các đơn vị kinh tế, Chính phủ, cá nhân, hộ gia đình, …
Chức năng thứ hai của thị trường tài chính là kích thích tiết kiệm và đầu tư. Thị
trường tạo ra sân chơi, để những người có tiền nhàn rỗi có cơ hội đầu tư như nhau
và được tự do tham gia vào thị trường để tìm kiếm những nơi đầu tư có suất sinh
lợi cao nhất, tạo thành thói quen tích lũy tiền tệ một cách thường xuyên hơn, là
một nguồn đầu vào không thể thiếu của thị trường. Nếu thị trường không kích
thích được người dân tích lũy và tham gia vào thị trường như là một kênh dẫn vốn
cho nền kinh tế thì thị trường đó sẽ không thể hoạt động tốt. Đồng thời, nhà đầu tư
trên thị trường khi tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho các hoạt động đầu tư phải nhận
thức được việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, có hiệu suất sử dụng đồng
vốn cao nhất để bảo toàn vốn, sinh lời và tích lũy. Chính vì vậy, thị trường tài
chính có chức năng nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền
kinh tế, kích thích đổi mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tăng
hiệu quả đầu tư, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội.
Chức năng thứ ba của thị trường tài chính là làm gia tăng tính thanh khoản cho các
tài sản tài chính. Tính thanh khoản là tính chất dễ dàng chuyển hóa các tài sản tài
chính thành tiền mặt và được thực hiện ở thị trường thứ cấp, là thị trường mua bán,
giao dịch cổ phiếu và các giấy tờ có giá đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Tính
thanh khoản ở thị trường tài chính càng cao thì càng thu hút nhiều chủ thể tham
gia vào thị trường và giúp chủ sở hữu các tài sản tài chính dễ dàng chuyển đổi
danh mục đầu tư theo yêu cầu. Do đó, mỗi thị trường khác nhau có tính thanh
khoản khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển các định chế tài chính của thị
trường ấy. Nếu các cơ chế của thị trường thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các công cụ tài chính lưu thông thông suốt. Ngoài ra, thị trường tài chính còn
có chức năng định giá tài sản tài chính, phân phối vốn trên thị trường theo tín hiệu
của thị trường.
Tùy thuộc vào các chức năng khác nhau của thị trường cũng như các tiêu chí phân
loại khác nhau, thị trường tài chính cũng có nhiều cách phân loại khác nhau.
Nhưng tựu trung lại, thị trường tài chính thường có ba cách phân loại cơ bản: theo
thời hạn, tính chất luân chuyển vốn và theo cơ cấu của thị trường.
4. Phân loại thị trường tài chính:
Căn cứ theo thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành: thị
trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị trường chứng khoán.
- Thị trường tiền tệ là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn.
Các chứng từ có giá ngắn hạn như: tín phiếu Kho bạc, khoản vay ngắn hạn giữa
các Ngân hàng, thỏa thuận mua lại, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, … Đây là thị
trường nhằm thỏa mãn những nhu cầu vốn trong ngắn hạn. Căn cứ theo mục đích
này của thị trường mà không cần quan tâm đến thời hạn của các chứng từ có giá,
khái niệm trên được hiểu theo nghĩa của thị trường mở thì thị trường tiền tệ là thị
trường giao dịch, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá.
- Thị trường hối đoái là thị trường giao dịch, mua bán, trao đổi ngoại tệ và các
phương tiện thanh toán quốc tế. Thị trường ngoại hối là một cơ chế mà nhờ đó giá
trị tương đối của các đồng tiền quốc gia được xác lập. Đặc điểm của thị trường
ngoại hối là tiền được đổi lấy tiền, đây là thị trường thực sự và tất yếu mang tính
quốc tế; cứ khi nào mà dân chúng ở những khu vực đồng tiền khác nhau còn kinh
doanh với nhau thì các giao dịch ngoại hối còn rất cần thiết. Ngày nay, thị trường
hối đoái mang tính toàn cầu nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin. Trong hoạt
động kinh tế đối ngoại, các doanh nghiệp trong nước đều phải tham gia các thị
trường hối đoái để mua - bán, vay - cho vay ngoại tệ. Các nghiệp vụ trên thị
trường hối đoái phần lớn mang tính chất ngắn hạn (không quá một năm) nên thị
trường này được xem là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Khi đó, thị trường tài
chính chỉ bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường chứng khoán là thị trường giao dịch, mua bán các chứng từ có giá
trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng nhất của
thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang
nhà phát hành; qua đó, thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung ứng
nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Sản phẩm tài chính trên thị trường
chứng khoán là các loại trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ tài chính khác như:
chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phát sinh - hợp đồng tương lai, quyền chọn, quyền
mua cổ phiếu, chứng quyền. Thị trường chứng khoán tập trung vốn cho đầu tư và
phát triển kinh tế. Do đó, nó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và
nền kinh tế nói chung.
Căn cứ vào cơ cấu của thị trường, thị trường tài chính được phân thành thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành lần đầu các chứng từ có giá để huy
động và tập trung vốn. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang
nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp có đặc điểm là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho
người phát hành, tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư
cho toàn bộ nền kinh tế. Những người bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp
thường là Kho bạc, Ngân hàng Nhà nước, Công ty phát hành, Tập đoàn bảo lãnh
phát hành, …Thị trường sơ cấp thường diễn ra trong một thời gian nhất định.
- Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán trao đổi các chứng từ có giá đã phát
hành lần đầu. Trên thị trường này, các nhà đầu tư chuyển nhượng quyền mua bán
chứng khoán và điều đó làm cho chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản.
Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà
kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận
chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là
một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị
trường sơ cấp. Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự
do, giá giao dịch chứng khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị
trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường
thứ cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ
cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của
thị trường sơ cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao
đổi tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút
nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ
có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ chức thị trường không phân biệt đâu
là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng
diễn ra đồng thời hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán
mua bán lại. Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị
trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ thị
trường tài chính ổn định.
Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn, thị trường tài chính được phân thành thị
trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn.
- Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán nợ.
Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có
tính hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một
khoản tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới
kỳ hạn cuối cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ
nợ được chia làm ba loại khác nhau:
- Công cụ nợ ngắn hạn.
- Công cụ nợ trung hạn.
- Công cụ nợ dài hạn.
Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất
cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong quản trị điều
hành của bên vay.
- Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán vốn.
Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư,
…Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ
phần trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và
được chia cổ tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm
giữ. Chính vì vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng
cổ tức có thể cao hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành
doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu. Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn
người giữ chứng khoán nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ
chứng khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước.
Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là thị
trường phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền,
quyền chọn, hợp đồng tương lai, …
Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý. Vì
vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau:
- Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa.
- Thị trường thường trực và thị trường huy động.
- Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán.
Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng
đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã
được hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính
Việt Nam, tiểu luận này chỉ tập trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại
theo thời hạn luân chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái và thị
trường chứng khoán.
B. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
1. Thị trường tiền tệ:
a) Thị trường vốn ngắn hạn:
(Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ) Nhìn chung, thị
trường này chưa thực sự phát triển và Ngân hàng Nhà nước (NHTW) chưa thực sự
đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của
NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến
thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt
buộc... thiếu linh hoạt. Các Ngân hàng thương mại (NHTM) và Tổ chức tín dụng
cạnh tranh với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ
tiềm ẩn rủi ro cho chính các NHTM.
b) Thị trường liên ngân hàng
Hoạt động Ngân hàng hiện đang nóng với những diễn biến trái chiều và ba vấn đề
nổi cộm: các Ngân hàng thương mại khan hiếm tiền đồng Việt Nam, cung ngoại tệ
trong nền kinh tế tăng cao và sức ép dư luận về chống lạm phát từ việc cung ứng
tiền ra lưu thông.
Ba vấn đề trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để đáp ứng nhu cầu về tiền đồng
Việt Nam, cũng như cung ngoại tệ quá lớn và tăng mạnh, thì Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) phải đẩy mạnh mua ngoại tệ vào cung ứng đồng Việt Nam ra
lưu thông. Song cung ứng đồng Việt Nam ra lưu thông thì lại gặp phải sức ép của
dư luận về chống lạm phát đang tăng cao từ góc độ tiền tệ.
Càng về cuối năm khối lượng ngoại tệ chuyển vào Việt Nam càng tăng mạnh, lớn
nhất đó là kiều hối. Cũng về thời điểm cuối năm, các NHTM cổ phần và doanh
nghiệp cổ phần gấp rút phát hành cổ phiếu mới để hoàn thành kế hoạch năm 2007
về tăng vốn điều vốn lệ theo nghị quyết đại hội cổ đông biểu quyết nhất trí từ đầu
năm. Cổ đông là người Việt Nam ở nước ngoài, cổ đông nước ngoài phải chuyển
tiền về Việt Nam để góp vốn. Một bộ phận khác người Việt Nam ở nước ngoài
chuyển tiền về cho người thân vay mượn hoặc đầu tư hộ vào các loại trái phiếu
khác nhau.
Bên cạnh đó là tiền từ nước ngoài chuyển về đầu tư vào thị trường trường bất động
sản. Một nguồn vốn ngoại tệ quan trọng khác đó là vốn đầu tư gián tiếp vào thị
trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam thường sôi động vào cuối năm. Số vốn này
bao gồm cả việc mua chứng khoán trên Sở GDCK TP.HCM, Trung tâm GDCK
Hà Nội, cả số vốn mua cổ phần trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Tất cả số ngoại tệ đó phải chuyển sang nội tệ, tức là đồng Việt Nam. Song NHNN
Việt Nam với tư cách người mua bán cuối cùng can thiệp trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng thì hạn chế mua vào.
Những nguồn vốn ngoại tệ lớn tiếp theo đó là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn
ODA và nguồn thu từ khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam.
Về kim ngạch xuất nhập khẩu, đến hết tháng 11/2007, Việt Nam đạt kim ngạch
nhập khẩu 54,11 tỷ USD, tăng 31,1% so với cùng kỳ năm ngoái, kim ngạch xuất
khẩu tăng 20, nhập siêu 9,0 tỷ USD và dự báo cả năm 2007 cũng dừng ở mức 9,0
tỷ USD. Do nhập siêu nên thu hút một lượng vốn ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, cung
ngoại tệ vẫn dồi dào thể hiện tập trung ở thặng dư cán cân vãng lai, đến nay chưa
có con số thống kê được công bố chính thức.
Nguồn thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho hay, chỉ riêng 6 tháng đầu năm
2007, NHNN đã mua vào 9 tỷ USD để tăng quỹ dự trữ, tương ứng cung ứng ra lưu
thông 144.000 tỷ đồng. Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, phát biểu tại cuộc hội thảo hai
Luật Ngân hàng, tổ chức sáng ngày 29/11/2007 tại TP.HCM thì con số này của cả
năm 2007 không thấp hơn 12 tỷ USD. Như vậy số tiền đồng Việt Nam cung ứng
ra lưu thông qua kênh mua ngoại tệ lên tới gần 200.000 tỷ đồng. Với việc mua vào
một khối lượng lớn USD đã làm cho quỹ dự trữ ngoại tệ của quốc gia hiện nay lên
tới 20 tỷ USD.
Song mua khối lượng lớn như vậy nhưng lượng cung USD hiện nay trên thị
trường vẫn đang rất lớn, nếu không mua vào, tỷ giá VND/USD giảm mạnh và các
NHTM trở nên tình trạng thừa vốn USD, nhưng khan hiếm đồng Việt Nam.
Cũng do tình trạng thiếu hụt đồng Việt Nam, nên có thời điểm lãi suất cho vay qua
đêm trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã lên tới 12%/năm, thậm chí có thời
điểm lên tới 18%/năm, cao hơn lãi suất cho khách hàng vay vốn. NHNN thông
qua nghiệp vụ thị trường mở mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn cung ứng hơn
10.000 tỷ đồng cho các NHTM, nhưng không thấm gì so với nhu cầu khan hiếm
tiền đồng Việt Nam hiện nay của thị trường tiền tệ. Cũng chính do tình trạng đó,
nên hiện nay các NHTM đang đẩy mạnh huy động vốn trong nền kinh tế bằng
nhiều biện pháp khác nhau, như tăng chi phí khuyến mãi, tăng lãi suất, từ đó tạo
áp lực tăng lãi suất cho vay và từ đó góp phần tạo thêm áp lực gia tăng lạm phát.
Bởi vậy, trong điều hành chính sách tiền tệ cần có chiến lược dài hạn, chủ động
hơn, đảm bảo khoa học và sát thông lệ quốc tế. Cần tham khảo và học hỏi kinh
nghiệm của các nước trong khu vực, như: Trung Quốc, Philippines,… có điều kiện
giống Việt Nam nhưng họ không lúng túng như nước ta.
2. Thị trường hối đoái:
Tỷ giá hối đoái sụt giảm gần đây chủ yếu do áp lực giảm cung ứng tiền VND
trong lưu thông để kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, nhiều định chế tài chính lớn
đều đưa ra nhận định, khả năng tỷ giá VND/USD sẽ theo chiều hướng đi xuống
trong thời gian từ nay đến hết năm 2007.
Tuy nhiên ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng, tỷ giá hối đoái sẽ không mất hơn 0,5%
trong những tháng còn lại của năm (từ đầu năm đến nay tỷ giá giảm 0,5%). NHNN
sẽ có động thái can thiệp khi đồng USD giảm dưới mức 16.000 VND/USD.
Thị trường đang xuất hiện tình trạng khan hiếm tiền đồng, tỷ giá sụt giảm. Vậy tại
sao NHNN vẫn chưa có động thái tích cực trong việc hút USD về?
Đây là một bài toán đã được NHNN tính toán, vì nếu tiếp tục tung VND hút USD
về thì lượng tiền trong lưu thông sẽ gia tăng, kéo theo lạm phát. Điều này cho
thấy, nếu NHNN không thực hiện chủ trương trên, tốc độ lạm phát còn cao hơn.
Nhiều khả năng, tốc độ lạm phát của Việt Nam trong năm nay sẽ cao hơn mức
tăng trưởng của nền kinh tế, khó đạt được mục tiêu mà Chính phủ và Quốc hội đã
đề ra. Như vậy, để kiềm chế lạm phát buộc NHNN phải hạn chế việc đưa tiền ra.
Theo đó, ngoài các chính sách khác, NHNN đành giảm hoặc ngưng mua USD.
Trên thị trường, lãi suất huy động VND đang chuyển động tăng do khan hiếm
VND, kéo theo lãi suất đầu ra tăng. Hậu quả là giá cả tăng, doanh nghiệp phải điều
chỉnh giá bán đảm bảo lợi nhuận, lúc này lạm phát sẽ còn cao hơn?
Việc khan hiếm tiền đồng chỉ là nhất thời. Trên thực tế, hiện còn nhiều ngân hàng
đang dư vốn khả dụng và chưa giải ngân kịp. Điều này được chứng minh, gần đây
nhiều nhà băng phải chạy đua giải ngân để đảm bảo chỉ tiêu cuối năm, trong đó
đáng chú ý là cho vay mua bất động sản; gia tăng hạn mức, thời gian, đồng thời
giảm lãi suất đầu ra để thu hút khách hàng.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam năm nay dự báo sẽ lên đến 30 - 40%.
Như vậy, nếu tăng thêm cung tiền, khả năng tín dụng tăng trưởng nóng còn cao
hơn sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Lãi suất qua đêm có những thời điểm lên đến 16 - 17%/năm và hiện vẫn duy trì
trên mức 10%/năm, cao gần gấp 3 lần so với trước, thưa ông?
Về căn bản, mức tăng trưởng tín dụng đang gia tăng nóng, tính thanh khoản trên
thị trường liên ngân hàng chỉ biến động trong một thời gian ngắn. Có thể gần đây,
nhu cầu thanh toán hàng hóa của khách hàng tăng mạnh nên họ cần đến vốn ngân
hàng.
Từ đó, các ngân hàng đổ xô vay trên thị trường liên ngân hàng khiến lãi suất qua
đêm biến động. Nhưng sau Tết Dương lịch, tính thanh khoản của thị trường liên
ngân hàng sẽ ổn định trở lại.
Tuy nhiên, một thực tế cho thấy, việc dự báo và quản trị rủi ro thanh khoản của
một số ngân hàng còn yếu kém. Nếu các ngân hàng xây dựng được bảng cân đối
tài sản đến từng ngày, chắc chắn sẽ không xảy ra hiện tượng khan hiếm tiền đồng
như thời gian gần đây.
Tỷ giá hối đoái sẽ biến động như thế nào trong thời gian tới và NHNN sẽ có động
thái điều chỉnh vào lúc nào?
Với tỷ giá hối đoái, nếu đã biến động thì sẽ mạnh hơn cả lãi suất, có thể lên đến 5 -
10%. Nếu kinh doanh trên thị trường hối đoái mà không có dự báo trước dẫn đến
lỗ là chuyện bình thường. Người mua cuối cùng bao giờ cũng là NHNN.
Nếu thấy cần, NHNN sẽ mua vào và ngưng mua khi thấy không cần thiết. Tuy
nhiên, khi tỷ giá xuống mức 16.000 VND/USD sẽ có điều chỉnh ngay, vì nếu để tỷ
giá xuống thấp sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Do đó, nhiều khả năng tỷ giá chỉ có thể sụt giảm xuống mức xấp xỉ 16.000
VND/USD. Hiện nay mức giảm của tỷ giá là 0,5%, nên mức tối đa chỉ xuống
khoảng 1% cho cả năm 2007.
Thực tế, NHNN có mua vào USD và lượng USD hút về từ đầu tháng 8 đến nay đạt
gần 6 tỷ USD. Nhưng do vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp vào Việt Nam tăng
nhanh, cung dội, trong khi cầu yếu đã góp phần làm tỷ giá suy giảm.
3. Thị trường chứng khoán:
a) Những thành tựu đạt được của thị trường chứng khoán Việt Nam
Về tổ chức và phát triển thị trường: Thị trường chứng khoán có tổ chức phá triển
nhanh về quy mô, tổng mức vốn hóa trên thị trường ngày càng tăng. Doanh nghiệp
và chính phủ đã sử dụng thị trường chứng khoán như một kênh đẩy mạnh việc thu
hút vốn đầu tư và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế.
Khung pháp lý, chính sách cho hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán
từng bước được hoàn thiện.
Tính công khai, minh bạch của các tổ chức niêm yết được tăng cường, hoạt động
sản xuất kinh doanh có bước phát triển khá về quy mô, doanh số và lợi nhuận. Thị
trường chứng khoán đã làm gia tăng uy tín của công ty niêm yết.
Thị trường chứng khoán góp phần tạo sự thành công của chương trình cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước kết nối với niêm yết và đăng ký giao dịch.
Thị trường chứng khoán tạo điều kiện nâng cao trình độ quản lý, đều hành hoạt
động nghiệp vụ chuyên môn trong lĩnh vực chứng khoán.
Góp phần đa dạng hóa va phát triển các định chế tài chính trung gian.
Thị trường chứng khoán giúp đẩy mạnh việc phổ biến kiến thức về chứng khoán
và thị trường chứng khoán trong công chúng.
Thị trường chứng khoán từng bước thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế.
b) Những hạn chế của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thị trường chứng khoán chưa thật sự khẳng định được vai trò của một kênh huy
động vốn chủ lực trong nền kinh tế hiện nay.
Môi trường pháp lý chưa có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển, thể chế cho hoạt động thị trường còn chưa hoàn chỉnh.
Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành
quản lý thị trường còn nhiều hạn chế.
Quy mô thị trường chứng khoán còn nhỏ, hàng hóa giao dịch với số lượng chưa
nhiều, chất lượng chưa cao. Chỉ số VN-Index chưa thực sự trở thành phong vũ
biểu của nền kinh tế.
Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường chứng khoán còn mất cân đối gây nên
những biến động cho thị trường. Thị trường chứng khoán hoạt động chưa thực sự
ổn định, vững chắc, kể cả hoạt động giao dịch mà nguyên nhân chính vẫn phụ
thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn.
Tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, hoạt động của
thị trường tự do còn rộng.
Hệ thống các tổ chức trung gian và hổ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài
chính, quản trị công ty và chất lượng dịch vụ.
Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các thị
trường giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán còn bất cập trước sự phát
triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có đầu tư, nâng cấp theo hướng
hiện đại.
Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin
học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn yếu.
Thị trường chứng khoán còn thiếu khả năng tiếp cận với thị trường chứng khoán
thế giới trong xu thế hội nhập.
Chưa có kinh nghiệm trong quản lý chính sách.
Từ thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, để củng cố và phát triển, chúng ta
phải thực sự nâng cao vai trò của thị trường tài chính trong bối cảnh Việt Nam
hiện nay.
C. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM HIỆN NAY
Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong
vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn
đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn
cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi
hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình
thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính
cho sự nghiệp phát triển của đất nước.
1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế
Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng
thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần
kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán,
…Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn
mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi
suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn
lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ
nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi
dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền
tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường
vốn.
Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong
muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là
một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao
của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn
danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt
Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi
suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt khác, nhà
đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động nguồn vốn
lớn, tức thì, không bị bó hẹp như cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này còn phụ
thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư từ những dự án kinh tế có sức sinh lời
cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ chế hoạt động cho thị trường
chứng khoán phát triển.
2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế
Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp
khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn
lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài. Đối với
nguồn lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính để
những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa
vào cất trữ. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối với
nguồn lực tài chính bên ngoài, cần có chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra
bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút nguồn
lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài.
Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh
bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực
sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút
vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên
đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội
cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá
trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu
tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trò
kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh quá trình tự do hóa tài chính và hội
nhập quốc tế
Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế -
xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy
nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể
phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng
việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền
kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới tiến hành cải
cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính.
Đối với tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau:
- Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết
định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đoái, có tác động
mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng
trưởng kinh tế.
- Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của
Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với
một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là
neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây
dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một giới hạn nhất định
xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước
và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như:
- Tự do hóa giao dịch vãng lai
- Tự do hóa giao dịch vốn
- Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ
Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các
giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính
qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài
được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là
lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng
tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển
đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế
theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc
gia.
Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể
hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập
quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những
vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của
nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính
được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua
bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài
chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể
hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để
đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài
chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế
giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy
tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là
yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể
tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố
con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện
thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa,
xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau.
Tóm lại, việc hình thành thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong công cuộc
xây dựng phát triển đất nước. Đây là thị trường tiền đề cho mọi hoạt động của nền
kinh tế xã hội được diễn ra, bắt đầu từ việc tạo lập nguồn vốn đến nâng cao hiệu
quả kinh tế xã hội và cuối cùng là hội nhập và nền kinh tế thế giới. Cho nên, thị
trường tài chính cần được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, có cơ chế
giám sát phù hợp nhằm hạn chế những tác hại, rủi ro khi có khuảng hoảng tài
chính.

Thị trường tài chính là nơi diễn ra các giao dịch mua, bán các loại tích sản tài
chính hay các công vốn hoặc vốn. Đây cũng là một bộ phận quan trọng bậc nhất
trong hệ thống tài chính, chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị
trường tài chính phát triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội
của một quốc gia.

Vai trò, chức năng

• Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến
người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu
tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
• Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng
nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh.
• Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ
đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người
cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính
toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi
cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản
thân mình.
• Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính
sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như
phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
• Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu,
trái phiếu, đổi tiền.

Cấu trúc của thị trường tài chính

• Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần

Thị trường nợ Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay
vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái
khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính
chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì
hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ
là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên.
Thị trường vốn cổ phần Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty
phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của
công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí,
thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ).

• Thị trường cấp một và thị trường cấp hai

Thị trường cấp một' Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán
chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng
khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian
là các ngân hàng.
Thị trường cấp hai Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát
hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này thì
người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty
phát hành không thu được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ khi
chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một.

• Thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Thị trường tiền tệ Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn
(kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm).
Thị trường vốn Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn
như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị
trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu.

Thị trường tài chính là một bộ phận quan trọng bậc nhất trong hệ thống tài chính,
chi phối toàn bộ hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Thị trường tài chính phát
triển góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.

Vai trò, chức năng

• Thị trường tài chính đóng vai trò là kênh dẫn vốn từ người tiết kiệm đến
người kinh doanh. giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu
tư sinh lợi đến những người có cơ hội đầu tư sinh lợi.
• Thị trường tài chính thúc đẩy việc tích lũy và tập trung tiền vốn để đáp ứng
nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, sản xuất kinh doanh.
• Thị trường tài chính giúp cho việc sử dụng vốn có hiệu quả hơn, không chỉ
đối với người có tiền đầu tư mà còn cả với người vay tiền để đầu tư. Người
cho vay sẽ có lãi thông qua lãi suất cho vay. Người đi vay vốn phải tính
toán sử dụng vốn vay đó hiệu quả nhất do họ phải hoàn trả cả vốn và lãi
cho người cho vay đồng thời phải tạo thu nhập và tích lũy cho chính bản
thân mình.
• Thị trường tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính
sách mở cửa, cải cách kinh tế của Chính phủ thông qua các hình thức như
phát hành trái phiếu ra nước ngoài, bán cổ phần, thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào các ngành sản xuất kinh doanh trong nước.
• Thị trường tài chính cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu,
trái phiếu, đổi tiền.

Cấu trúc của thị trường tài chính

• Thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần

Thị trường nợ Phương pháp chung nhất mà các công ty sử dụng để vay
vốn trên thị trường tài chính là đưa ra một công cụ vay nợ, ví dụ như trái
khoán hay một món vay thế chấp. Công cụ vay nợ là sự thoả thuận có tính
chất hợp đồng có lãi suất cố định và hoàn trả tiền vốn vào cuối kì hạn. Kì
hạn dưới 1 năm là ngắn hạn, trên 1 năm là trung và dài hạn. Thị trường nợ
là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ kể trên.

Thị trường vốn cổ phần Phương pháp thứ hai để thu hút vốn là các công ty
phát hành cổ phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu sở hữu một phần tài sản của
công ty có quyền được chia lợi nhuận ròng từ công ty sau khi trừ chi phí,
thuế và thanh toán cho chủ nợ (những người sở hữu công cụ nợ.
• Thị trường cấp một và thị trường cấp hai

Thị trường cấp một' Là thị trường tài chính trong đó diễn ra việc mua bán
chứng khoán đang phát hành hay chứng khoán mới. Việc mua bán chứng
khoán trên thị trường cấp một thường được tiến hành thông qua trung gian
là các ngân hàng.

Thị trường cấp hai Là thị trường mua bán lại những chứng khoán đã phát
hành. Khi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường này thì
người vừa bán chứng khoán nhận được tiền bán chứng khoán còn công ty
phát hành không thu được tiền nữa, một công ty thu được vốn chỉ khi
chứng khoán của nó được bán lần đầu tiên trên thị trường cấp một.

• Thị trường tiền tệ và thị trường vốn

Thị trường tiền tệ Là một thị trường tài chính chỉ có các công cụ ngắn hạn(
kỳ hạn thanh toán dưới 1 năm).

Thị trường vốn Là thị trường diễn ra việc mua bán các công cụ nợ dài hạn
như cổ phiếu, trái phiếu. Thị trường vốn được phân thành ba bộ phận là thị
trường cổ phiếu, các khoản cho vay thế chấp và trái phiếu

You might also like