You are on page 1of 72

THƢ VIỆN - EBOOK > DỰ ÁN EBOOK > Phòng đọc trực tuyến > CHUYỆN ĐÔNG - CHUYỆN TÂY

(An Chi)

PDA

View Full Version : CHUYỆN ĐÔNG - CHUYỆN TÂY (An Chi)

08-03-2007, 07:21 AM
Nhân Hƣng vừa mới sang Hoa Kỳ có tặng Mọt Già một bộ CHUYỆN ĐÔNG - CHUYỆN TÂY của (Huệ Thiên/An
Chi/Võ Thiện Hoa) Đọc một mình không đủ sƣớng nên post từ từ lên đây cho mọi ngƣời cùng đọc coi nhƣ chung
vui món quà Tết của Hƣng (Chủ xị có khác. Chu đáo ghê, có quà cho mem ở nƣớc ngoài. Chắc phải thành lập
phân hội Nam Cali quá). Cũng xin cảm ơn bạn cayphong đã gợi ý cho chủ đề này.

08-03-2007, 07:24 AM
[Đề nghị ghi rõ Nguồn: www.thuvien-ebook.com (http://www.thuvien-ebook/) nếu bạn chia sẻ nội dung những
bài này]

1- (KTNN 95, ngày 01-11-1992)


Sa Tăng có công bảo vệ Đƣờng Tam Tạng đi thỉnh kinh, cuối cùng đắc đạo và trở thành Kim thân La Hán. Vì cớ
gì mà thỉnh thoảng vẫn nghe ngƣời ta chửi là "đồ quỷ SaTăng”?

AN CHI: Đấy là hai Sa Tăng khác nhau. Sa Tăng trong tiếng chửi là Sa Tăng bên Chúa Jesus, còn SaTăng mà
bạn nói đến là Sa Tăng bên Phật Thích Ca. Sa Tăng bên đạo Thiên Chúa là trùm của loài quỷ, thƣờng đƣợc nói
đến trong Tân Uớc của Kinh Thánh, chẳnghạn: "Ngài ở nơi đồng vắng chịu quỷ Satan cám dỗ bốn mƣơi ngày, ở
chung với thú rừng, và có thiên-sứ hầu việc Ngài" (Mác, 1:3). Satan ở đây chính là tên con quỷ mà ngƣời ta vẫn
phát âm thành "Sa Tăng". Vậy xin phân biệt rõ kẻo oan cho Sa Ngộ Tịnh trong Tây du ký.

08-03-2007, 07:31 AM
2- (KTNN 95, ngày 01-11-1992)
Mƣời hai bên nƣớc trong "phận gái 12 bến nƣớc" là gì? Có phải chăng là 12 cƣơng vị trong xã hội xƣa của ta và
Trung Quốc nhƣ: Cao là công, hầu khanh, tƣớng; trung là sĩ, nông, công, thƣơng; và thấp là ngƣ, tiều, canh,
mục? còn trong và đục có phải là thanh khiết, trong sạch và nhơ bẩn, tham ô hay không?

AN CHI: Nhiều ngƣời vẫn quan niệm mƣời hai bến nƣớc đúng nhƣ ông đã nêu. Chúng tôi không tin ở cách giải
thích trên mà cho rằng Huình-tịnh Paulus Của giảng có lý hơn:
"Con gái mƣời hai bến nƣớc: Thân con gái nhƣ chiếc đò, hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục, hoặc đƣa ngƣời
tốt, hoặc đƣa ngƣời xấu, may thì nhờ, rủi thì chịu. Tiếng nói mƣời hai bến nƣớc là nói cho vần".
(Đại Nam quấc âm tự vị, tập I, Sài Gòn, 1895. X. ở chữ bến, tr. 46-7).

Điều mà tác giả giảng rằng "Tiếng nói mƣời hai bến nƣớc là nói cho vần" thì chúng tôi lại quan niệm là do từ
nguyên dân gian mà ra. Đối với thành ngữ đang xét rõ ràng là hai tiếng trong, đục phải đƣợc hiểu rộng hơn cách
hiểu mà ông đã nêu.

08-03-2007, 08:02 AM
3. (KTNN 95, ngày 01-11-1992)
Rể Đông sàn có phải muốn nói Đông cung thái tử? Dâu Nam giáng có phải muốn nói tích trên núi Nam Giáng
(nàng Giáng Tiên) hay không?

AN CHI: Trƣớc hết xin nói rằng đây là rể Đông sàng, dâu Nam gián chứ không phải là "Đông sàn" và “Nam
giáng". Sàng là giƣờng: vậy Đông sàng là giƣờng phía Đông. Gián là khe núi: vậy Nam gián là khe núi phía
Nam. Vế rể Đông sàng bắt nguồn ở tích Đông sàng thản phúc, nghĩa là nằm thẳng bụng trên giƣờng phía Đông.
Chuyện rằng nhà Vƣơng Đạo có nhiều con trai chƣa vợ nên Hy Giám mới cho ngƣời sang đọ để kén chồng cho
con gái. Đám con trai nhà họ Vƣơng biết thế nên anh nào cũng lăng xăng tìm cách làm cho khách để ý. Chỉ có
Vƣơng Hy Chi là nằm khểnh trên giƣơng ở phía Đông, coi nhƣ không có chuyện gì xảy ra. Nghe ngƣời nhà thuật
lại, Hy Giám biết Hy Chi ắt là rể quý, bèn chọn ngày lành tháng tất mà gả con gái cho. Quả Vƣơng Hy Chi là thƣ
gia (caligrapher) nổi tiếng; ngày nay hễ nói đến thƣ pháp (calligraphie) Trung Hoa thì phải nhắc đến Vƣơng Hy
Chi. Vậy rể Đông sàng không liên quan gì đến Đông Cung thái tử.
Còn vế dâu Nam gián thì bắt nguồn từ lời của một bài trong Kinh Thi của Trung Hoa: Vu dĩ thể tần, Nam gián chi
tân nghĩa là đi hái rau tần bên khe núi phía Nam. Chỉ sự tần tảo của ngƣời con gái. Dâu Nam gián là con dâu
chịu thƣơng chịu khó. Vậy Nam gián không liên quan gì đến Giáng Hƣơng của Từ Thức hoặc Giáng Kiều của Tú
Uyên cả. Truyện Lục Vân Tiên có câu:

Xem đà đẹp đẽ hòa hai:


Này dâu Nam gián, nọ trai Đông sàng.

NatPhung
08-03-2007, 03:56 PM
Natphung ngƣỡng mộ Huệ Thiên - An Chi từ lâu lắm rồi, và ngay từ lúc ban đầu khi Huệ Thiên xuất hiện trên
Kiến Thức Ngày Nay trong mục Chuyện Đông ChuyệnTây, Natphung này đã sƣu tầm đƣợc tất cả KTNN từ cuốn
đầu tiên cho đến khoảng cuốn 300 mấy. Sau đó vì lý do cá nhân nên đã làm mất hết. Sở dĩ hàng tuần mong chờ
mua KTNN cũng chỉ là để đọc Huệ Thiên mà thôi.
Nay nhờ Goldfish mới biết đƣợc Huệ Thiên và An Chi là một ngƣời. Tuy rằng lúc trƣớc cũng hơi ngờ ngợ.
Viết đến đây lại chợt nhớ đến câu " Thiếu giả an chi, lão giả hoài", làm hơi bùi ngùi một chút, mới đây đó mà đã
mƣời mấy năm rồi ...
Nay đƣợc biết có cuốn Chuyện Đông ChuyệnTây của An Chi và có nhã ý post lên TVE cho các bạn cùng thƣởng
thức, Natphung này cảm kích vô cùng, nhƣng đọc kỹ lại thì thấy chỉ post lên từ từ, lại đâm ra giận ... Nói chơi
thôi, chứ Natphung cũng mong chờ ngày làm thành ebook để có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối. Cám ơn
trƣớc.

08-03-2007, 04:27 PM
Nay đƣợc biết có cuốn Chuyện Đông ChuyệnTây của An Chi và có nhã ý post lên TVE cho các bạn cùng thƣởng
thức, Natphung này cảm kích vô cùng, nhƣng đọc kỹ lại thì thấy chỉ post lên từ từ, lại đâm ra giận ... Nói chơi
thôi, chứ Natphung cũng mong chờ ngày làm thành ebook để có thể đọc một mạch từ đầu đến cuối. Cám ơn
trƣớc.

Hì hì. "Đƣờng về xa lắm ngƣời ơi".

Nhìn bộ Chuyện Đông ChuyệnTây 1 chồng 6 cuốn dầy nhƣ bộ "Cô Gái Đồ Long" thì chắc ngày làm ebook còn xa
lắm. NatPhung chịu khó đọc từ từ vậy. Nếu chờ không đƣợc thì hôm nào uống cà phê photocopy cho vài quyển.

Định bụng vừa post vừa đọc để đọc đƣợc lâu một chút, và nhớ đƣợc lâu hơn thêm một chút...

cayphong
08-03-2007, 05:01 PM
Trời! Nhanh tay quá anh , híc làm mình mất mối rồi >"<! Nhƣng không sao, anh cứ post đi, cayphong post phụ
với! ^^

08-03-2007, 11:33 PM
4. (KTNN 95, ngày 01-11-1992)
Nhà Ngô (939-965) tuy có bị Dƣơng Tam Khả cƣớp ngôi nhƣng Ngô Quyền cũng đã xƣng vƣơng, đóng đô ở
CỔLoa; sau đó Ngô Xƣơng Ngập và Ngô Xƣơng Văn cùng đƣợc sửgọi là Hậu Ngô vƣơng. Vì lý do gì mà ở cửa
miệng dân gian luônluôn nói: "Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn mà không nhắc đếnnhà Ngô"? Phải chăng do bài
hịch của cụ Nguyễn Trãi?

AN CHI: Ý bạn cho rằng do ảnh hƣởng của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo (không nhắc đến nhà Ngô)
nên ngƣời ta vẫn có thói quen nói "Đinh,Lê, Lý, Trần " thôi mà không nhắc đến nhà Ngô mặc dù nhà Ngô có
trƣớc nhà Đinh. Quả là ngƣời ta có thói quen dựa vào Bình Ngô đại cáo mà nói nhƣ thế thật, nhƣng đây chỉ là
dựa vào bản dịch của Bùi Kỷ đƣợc Trần Trọng Kim sử dụng trong Việt Nam sử lƣợc chứ không phải dựa vào
nguyên văn của Nguyễn Trãi. Bùi Kỷ dịch: "Từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây nền độc lập; cùng Hán, Đƣờng, Tống,
Nguyên hùng cứ một phƣơng". Nhƣng chính Nguyễn Trãi thì lại viết: "Tự Triệu, Đinh,Lý, Trần chi triệu tạo ngã
quốc; dữ Hán, Đƣờng, Tống,Nguyên nhi các đế nhất phƣơng" nghĩa là "Từ khi (các triều đại) Triệu, Đinh, Lý,
Trần bắt đầu dựng nên nƣớc ta (thì chúng ta) cùng với (các triều) Hán, Đƣờng, Tống, Nguyên mỗi bên mỗi làm
chủ một phƣơng (riêng của âu Lạc của Thục Phán bị Triệu Đà gồm thâu vào nƣớc Nam Việt nên ngƣời xƣa vẫn
quan niệm rằng Triệu Đà là vua của nƣớc ta. Bằng chứng là đền thờ Triệu Đà vẫn còn tồn tại mãi cho đến ngày
nay tại Đồng Sâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xƣơng, tỉnh Thái Bình.
Vậy Nguyễn Trãi đã không viết "Đinh, Lê, Lý, Trần" mà viết "Triệu, Đinh, Lý, Trần". Nhà Triệu đƣợc quan niệm
nhƣ triều đại đầu tiên của Việt Nam đã xƣng đế, ngang hàng và đồng thời với nhà Hán bên Trung Hoa do Hán
Cao tổ Lƣu Bang khai sáng năm 206 trƣớc Công nguyên. Còn nhà Trần, triều đại liền trƣớc nhà Lê (nhà Hồ thì bị
xem là ngụy triều) của Việt Nam, là triều đại đồng thời với nhà Nguyên, triều đại liền trƣớc nhà Minh của Trung
Hoa. Chính vì thế mà Nguyễn Trãi mới đặt nhà Triệu ở đầu và nhà Trần ở cuối của vế "Triệu,Đinh, Lý, Trần" mà
đối với vế "Hán, Đƣờng, Tống, Nguyên" trong đó Triệu đối với Hán còn Trần đối với Nguyên.

Thế là Nguyễn Trãi không những không nói đến nhà Ngô của Ngô Quyền mà cũng không nói đến nhà Lê của Lê
Đại Hành tức Lê Hoàn. Ta không nên đòi hỏiNguyễn Trãi phải nói cho đầy đủ vì ở đây ông không viết sử ký mà
chỉ làm văn hùng biện để tuyên cáo về một thắng lợi vĩ đại của dân tộc đối với quân xâm lƣợc nhà Minh. Nếu bắt
bẻ về thiếu sót, thì từ nhà Hán đến nhà Đƣờng, ông còn "bỏ quên" các nhà sau đây nữa: Ngụy, Thục, Ngô (thời
Tam quốc); Tây Tấn, Đông Tấn, Tống, Tề, Lƣơng, Trần, Bắc Ngụy, Tây Ngụy và Đông Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu
(thời Nam Bắc triều); Tống vàTùy. Tổng cộng đến 16 nhà, đâu phải là ít.

Ghi chú của :

Bình ngô đại cáo nguyên bản Hán văn, âm Hán-Việt, cùng 2 bản dịch của Ngô Tất Tố và Bùi Kỷ xem ở đây
(http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?p=28393#post28393)

08-03-2007, 11:40 PM
5. (KTNN 58, ngày 15-11-1992)
Có ngƣời nói rằng ngƣời Pháp lấy con gà trống làm vật tổ cho dân tộc mình. Xin cho biết tại sao?

AN CHI: Trƣớc hết, xin cải chính rằng con gà trống không phải là vật tổ (totem) của dân tộc Pháp.Thứ đến,
ngƣời ta cũng không nói con gà trống mà phải nói đầy đủ là con gà trống Gô-loa (con gaulois). Và con gà trống
Gô-loa là một biểu tƣợng (emblème) - chứ không phải "vật tổ" - của dân tộc Pháp. Vật tổ và biểu tƣợng là hai
khái niệm khác nhau. Việc lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tƣợng có bao hàm một sự chơi chữ ý nhị ở trong đó.
Tổ tiên của ngƣời Pháp là ngƣời Gô-loa(Gauiois). Ngƣời Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ Gallus trong
tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là gallus, có nghĩa là con gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm gallus của
tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm "ngƣời Gô-loa" lại vừa biểu hiện khái niệm con gà trống". Vậy cứ theo
ngôn ngữ này, ngƣời ta có thể chơi chữ bằng đẳng thức:

Ngƣời Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus).

Đó là lý do tại sao ngƣời Pháp lại lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tƣợng của dân tộc mình. Nếu ta biết rằng
tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao
ngƣời Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tƣợng cho dân tộc mình nhƣ thế.

Ghi chú của :


Ngày nay có mấy ai biết vật tổ của nƣớc mình là gì? biểu tƣợng của nƣớc mình là gì?
Ngay cả Việt Nam, thử hỏi từ học sinh cấp hai đến ... cấp bốn, cả những vị có văn bằng Tiến Sĩ, Luật Sƣ,... câu
hỏi trên, có lẽ chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời ... cƣời ra nƣớc mắt.

Theo ý các bạn :

Vật tổ của Việt Nam là:


1. Con Rồng.
2. Con Rồng và ... bà Tiên.
3. Thần Kim Quy.
3. Chim bằng (đại bàng) vật tổ của Âu Việt.
4. Thuồng luồng (cá sấu) vật tổ của Lạc Việt.
5. Ý kiến khác.

Biểu tƣợng của Việt Nam là:


1. Cây tre.
2. Cây lúa.
3. Trống đồng.
4. Hoa sen.
5. Bản đồ Việt Nam hình chữ S.
6. Quốc kỳ.
7. Ý kiến khác.
10-03-2007, 06:22 AM
6- (KTNN 96, ngày 15-11-1992)
Hoa Kỳ hiện nay có bao nhiêu tiểu bang? Tên của các tiểu bang đó?

AN CHI:
Hoa Kỳ có 50 bang:

1. Alabama, 2.Alaska, 3. Arizona, 4. Arkansas, 5. California, 6.Colorado, 7. Connecticut, 8. Delaware, 9. Floriđa,


10.Georgia, 1l. Hawaii, 12. Idaho, 13. Illinois, 14. Indiana, 15. Iowa, 16. Kansas, 17. Kentucky, 18. Louisiana,
19.Maine, 20. Maryland, 21. Massachusetts, 22. Michigan, 23. Minnesota, 24. Mississippi, 25. Missouri, 26.
Montana, 27. Nebraska, 28. Nevađa, 29. New Hampshire, 30. New Jersey, 31. New Mexico, 32. NewYork (chú ý:
thuộc bang này có thành phố cùng tên NewYork, trƣớc vẫn phiên bằng âm Hán Việt là Nữu ƣớc.Nhƣng thủ phủ
của bang New York lại là Albany), 33.North Carolina, 34. North Dakota, 35. Ohio, 36. Oklahoma, 37. Oregon,
38. Pennsylvania, 39. Rhode Island, 40. South Carol1na, 41. South Dakota, 42.Tennessee, 43. Texas, 44. Utah,
45. Vermont, 46.Virginia, 47. Washington, 48. West Virginia, 49.Wisconsin, 50. Wyoming.

Vùng Alaska, nằm ở phía TâyBắc của Hoa Kỳ, là đất mà nƣớc Nga Sa hoàng nhƣợng cho Hoa Kỳ từ năm 1867,
trở thành bang thứ 49 củanƣớc này từ năm 1958. Quần đảo Hawaii (tên cũ làSandwich), thủ phủ là Honolulu, là
lãnh thổ của Hoa Kỳ từ năm 1898, trở thành bang thứ 50 của nƣớc này cũng từ năm 1958.

10-03-2007, 06:23 AM
7- (KTNN 96, ngày 15-11-1992)
Tại sao lại gọi những ngƣời bán nam bán nữ (lại cái) là "pê-đê”.

AN CHI: Cái tên pê-đê dùng để chỉ những ngƣời bán nam bán nữ là kết quả của một lối hiểu sai lệch nay đã trở
thành thông dụng. Đó là do tiếng Pháp pédé, dạng tắt của pédéraste. Đây là một danh từ gồm hai từ căn gốc Hy
Lạp: péd- (<paidos = trẻ con) và -éraste(<erastês = si mê). Vậy pédéraste là ngƣời si mê trẻ con. Còn cái
nghĩa đích thực của từ này là: kẻ đàn ông hành dâm vào hậu môn của một bé trai. Nghĩa này đã cho ra nghĩa
rộng thông dụng hiện nay là: kẻ loạn dâm hậu môn. Vậy pédé trong tiếng Pháp không hề có nghĩa là "lại cái".

Ghi chú của :


Trong tiếng Anh thì chữ lại cái có 2 chữ: gay dùng chỉ đàn ông và lesbian dùng chỉ đàn bà.

10-03-2007, 06:24 AM
8- (KTNN 96, ngày 15-11-1992)
Một ông bạn của tôi có thắc mắc không biết tại sao thƣ tịch xƣa (bằng chữ Hán) không ở đâu có nói đến tên
Hồng Hà mà chỉ ghi có tên Nhị Hà. Xin tìm giúp xem sách xƣa có ghi tên Hồng Hà là những sách nào?

AN CHI: Xin thƣa, sở dĩ sách xƣa không có tên Hồng Hà vì đây là một cái tên rất mới do chính ngƣời Việt chúng
ta dịch từ tiếng Pháp, gọi nôm na hơn một chút là sông Hồng. Sông Hồng có đặc điểm nổi bật là nƣớc của nó về
mùa lũ thì rất đỏ, nên ngƣời Pháp dựa vào đó mà gọi nó là fleuve Rouge (sông Đỏ). Cũng cùng một cách đặt tên
nhƣ thế họ đã gọi sông Đà là rivière Noire (sông Đen) còn sông Lô thì lại là rivière Claire (sông Trong). Họ cũng
dịch tên sông Hoàng Hà của Trung Hoa sang tiếng Pháp là fleuve Jaune (sông Vàng) rồi lại dựa theo cách diễn
này mà dịch tên con song Dƣơng Tử (Dƣơng Tử Giang) thành fleuve Bleu (sông Xanh) mặc dù họ cũng đã có
một tên phiên âm từ Dƣơng Tử Giang thành Yang-tseu-kiang (trƣớc thƣờngviết là Yang-tsé-kiang). Vậy Hồng Hà
hay sông Hồng chỉ là những "bản dịch" sang tiếng Việt của tiếng Pháp fleuve Rouge mà thôi. Xin phân biệt với
Hồng Giang, một chi lƣu xƣa của sông Hồng, chảy qua tỉnh Hải Dƣơng.

Ghi chú của :


(Sao lục từ wikipedia)

Sông Hồng còn có các tên gọi khác nhƣ Hồng Hà (Tiếng Hoa
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng_Hoa): 紅河 Honghe), hay sông Cái (ngƣời Pháp đã phiên tên gọi
này thành Song-Koï). Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Qu%E1%BB%91c) đƣợc gọi là Nguyên Giang (元江, pinyin
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Pinyin) yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江). Đoạn từ Lào
Cai đến Việt Trì gọi là Sông Thao, đoạn qua Hà Nội còn gọi là Nhĩ Hà hoặc Nhị Hà.

Sông Hồng bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn, tỉnh Vân Nam (http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A2n_Nam), Trung
Quốc ở độ cao 1.776 m (http://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A9t). Chủ yếu nó chảy theo hƣớng tây bắc-đông
nam, qua huyện tự trị
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Huy%E1%BB%87n_t%E1%BB%B1_tr%E1%BB%
8B_Trung_Qu%E1%BB%91c&action=edit) Nguyên Giang
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Huy%E1%BB%87n_t%E1%BB%B1_tr%E1%BB%
8B_Nguy%C3%AAn_Giang&action=edit) của ngƣời Thái
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_Th%C3%A1i) (傣 Dăi), Di
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_Di) (彞), Cáp Nê
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_C%C3%A1p_N%C3%AA) (哈尼 Hani, ở Việt Nam gọi là
ngƣời Hà Nhì (http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di_H%C3%A0_Nh%C3%AC)) trƣớc khi sang
Việt Nam ở thị trấn Hà Khẩu (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_Kh%E1%BA%A9u) (Trung Quốc), giáp
giới với thành phố Lào Cai (http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0o_Cai) của Việt Nam, rồi chảy qua phía đông
thủ đô Hà Nội (http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0_N%E1%BB%99i) trƣớc khi đổ ra biển Đông
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n_%C4%90%C3%B4ng) ở cửa Ba Lạt (ranh giới giữa hai tỉnh Thái
Bình (http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i_B%C3%ACnh) và Nam Định
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_%C4%90%E1%BB%8Bnh)). Đồng bằng sông Hồng
(http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_b%E1%BA%B1ng_s%C3%B4ng_H%E1%BB%9 3ng)
nằm trên lƣu vực con sông này. Các sông nhánh chính của sông Hồng có thể kể đến là sông Đà
(http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_%C4%90%C3%A0), sông Lô
(http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_L%C3%B4) (với phụ lƣu là sông Chảy
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_Ch%E1%BA%A3y&action=edit) và sông Gâm
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_G%C3%A2m&action=edit)). Sông Hồng có phân lƣu
phía tả ngạn (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=T%E1%BA%A3_ng%E1%BA%A1n&action=edit) là sông
Đuống (http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_%C4%90u%E1%BB%91ng)Hải Dƣơng
(http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_D%C6%B0%C6%A1ng) và sông Luộc
(http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_Lu%E1%BB%99c) chảy từ Hƣng Yên
(http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0ng_Y%C3%AAn) đến huyện Vĩnh Bảo
(http://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh_B%E1%BA%A3o), thành phố Hải Phòng
(http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_Ph%C3%B2ng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông
Thái Bình (http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_Th%C3%A1i_B%C3%ACnh). Phân lƣu phía hữu ngạn
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=H%E1%BB%AFu_ng%E1%BA%A1n&action=edit) là sông Đáy
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_%C4%90%C3%A1y&action=edit) và sông Đài
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_%C4%90%C3%A0i&action=edit) (còn gọi là Lạch
Giang), nối sông Hồng và sông Đáy là hai sông Phủ Lý
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_Ph%E1%BB%A7_L%C3%BD&action=edit) và sông
Nam Định
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_Nam_%C4%90%E1%BB%8Bnh&action=edit). Ở
Trung Quốc, các sông nhƣ sông Lý Tiên (tức sông Đà
(http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_%C4%90%C3%A0)), sông Đăng Điều (tức sông Nậm Na
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=N%E1%BA%ADm_Na&action=edit)), sông Bàn Long (tức sông Lô
(http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_L%C3%B4)) và sông Phổ Mai (tức sông Nho Quế
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_Nho_Qu%E1%BA%BF&action=edit)) cùng một số sông
nhỏ khác nhƣ sông Mễ Phúc
(http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_M%E1%BB%85_Ph%C3%BAc&action=edit), sông
Nam Khê (http://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=S%C3%B4ng_Nam_Kh%C3%AA&action=edit) chảy qua
biên giới hai nƣớc vào Việt Nam.

Hình của Nasa về hệ thống sông Hồng

http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/3/34/Song_Hong.jpg

10-03-2007, 06:26 AM
9. (KTNN 97, ngày 01-12-1992)
Tại sao từ tập 1 đến tập 5, Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh không gọi luôn bộ phim dài của Mexico bằng
cái tên "Ngƣời giàu cũng khóc" mà gọi là "Nƣớc mắt ngƣời giàu để sau đó lại phải thay đổi tên gọi từ tập 6 trở
đi? Hai cách gọi đó có gì khác nhau không?

AN CHI: Tên gốc của bộ phim này đúng ra là Ngƣời giàu cũng khóc. Tên phim bằng tiếng Tây Ban Nha (Ngƣời
Mexico nói tiếng Tây Ban Nha) là Los ricostambien lloran. Sở dĩ 5 tập đầu của bộ phim đƣợc gọi là Nƣớc mắt
ngƣời giàu có lẽ vì đã theo bản dịch của Đào Minh Hiệp, ngƣời đã dịch lời phim (từ tiếng Nga) cho Đài truyền
hình Phú Yên (X. Tuổi trẻ chủ nhật, số 40-92, tr.17). Hai cách gọi trên đây có khác nhau hay không? Sau đây là
lời của Đào Minh Hiệp: "Quả thật tôi đã phải suy nghĩ rất lâu trƣớc khi quyết định dịch là Nƣớc mắt ngƣời giàu
mà vẫn bảo đảm chuyển tải đƣợc ý nghĩa chính xác của tên phim (...), đồng thời nghe hay hơn(…) Tôi nghĩ
không có gì khác nhau giữa hai tên phim (Tuổi trẻ chủ nhật, số 40-92). Sự thật thì quả là có khác nhau. Nƣớc
mắt ngƣờigiàu là một cấu trúc phi vị ngữ tính (non-prédicativ) còn Ngƣời giàu cũng khóc thì đã là một câu. Hai
cấu trúc đã khác nhau đến nhƣ thế thì không thể nói rằng hàm nghĩa của chúng hoàn toàn nhƣ nhau đƣợc. Nếu
cần thì các tác giả đã nói Las Ingrimas de los ricos (Nƣớc mắt ngƣời giàu) rồi. Nhƣng họ lại nói Los ricos
tambien lloran. Vậy tƣởng cứ nên dịch thành Ngƣời giàu cũng khóc cho sát với nguyên văn.

10-03-2007, 06:28 AM
10 (KTNN 97, ngày 01-12-1992)
Tại sao Colomb có công tìm ra châu Mỹ mà tên ông lại không đƣợc dùng để gọi châu này? Tên nƣớc Colombia
cóliên quan gì đến tên của Colomb hay không?

AN CHI: Chính Christophe Colomb đã gọi châu Mỹ là Tây ấn Độ (Indes occidentales) vì đã nhầm tƣởng rằng đó
là nƣớc ấn Độ. Do cách đặt tên này của Colomb mà thổ dân da đỏ châu Mỹ đã đƣợc gọi là Indien (tiếng Pháp),
Indian (tiếng Anh), nghĩa là ngƣời Ấn Độ. Saukhi biết rõ sự thật, ngƣời ta mới dần dần gọi châu Mỹ bằng cái tên
Amerique (tiếng Pháp), America (tiếng Anh) nhƣ hiện nay. Đúng là trong tên nƣớc Colombia có tên của Colomb.
Ông đã đến miền đất này năm 1502 nhƣng trƣớc đó thì Alonso de Hojeda đã phát hiện ra nó từ 1499. Sau khi
hoàn thành việc chinh phục đất này vào năm 1539 thì Gonzalo Jiménez de Quesada đã gọi nó là Nueva
Granada; mãi về sau nó mới đƣợc gọi là Colombia.

vinh_nhoc
13-03-2007, 02:39 PM
Cảm ơn không thấy chƣa đủ nên phải viết một lời động viên cho ngƣời viết: Cố gắng lên bác , em đang chờ câu
chuyện sau đấy.:smile:

14-03-2007, 07:54 AM
11. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tam tộc trong "tru di tam tộc" là những tộc nào?

AN CHI: Hai tiếng tam tộc có ít nhất là bốn cách hiểu mà Từ nguyên (một bộ từ điển tiếng Hán ra mắt năm
1915) đã cho nhƣ sau:
1. Cha mẹ, anh em, vợ con là tam tộc (Phụ mẫu, huynh đệ, thê tử vi tam tộc).
2. Họ cha, họ mẹ, họ vợ là tam tộc (Phụ tộc, mẫu tộc, thê tộc vi tam tộc).
3. Cha, con, cháu (= con của con) là tam tộc (Phụ, tử, tôn vi tam tộc).
4. Anh em của cha, anh em của mình, anh em của con là tam tộc (Phụ côn đệ, kỷ côn đệ, tử côn đệ vi tam tộc).

Vì có nhiều cách hiểu nhƣ trên cho nên ngay vụ án Nguyễn Trãi cách đây 555 năm (1442) cũng đƣợc ngƣời thời
nay hiểu khác nhau. Cao Huy Giá dịch Đại Việt sử ký toàn thƣ đã viết nhƣ sau:"Ngày 16 (tháng 8 năm Nhâm
Tuất - AC), giết hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời" (t.III, Hà Nội, 1972, ti.131).
Ba đời đƣơng nhiên chỉ có thể là đời cha, đời con và đời cháu (ứng với nghĩa 3 của Từ nguyên) mà thôi. Nhƣng
Phan Huy Lê thì lạiviết: "(…) Nguyễn Trãi bị ghen ghét gièm pha, có lần bị hạ ngục và cuối cùng bị tru di ba họ"
(Kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi (tập kỷ yếu), Hà Nội, 1982, tr.75). Ba họ, theo cách hiểu thông thƣờng là
họ cha, họ mẹ và họ vợ (ứng với nghĩa 2 của Từ nguyên), đƣơng nhiên phải nhiều và nặng hơn ba đời vì ba đời
chỉ thuộc có một họ mà thôi.

14-03-2007, 07:57 AM
12- (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao lại nói "ruột đau chín chiều'? Đó là những chiều nào, hƣớng nào? Hay đó là chín buổi chiều?

AN CHI: Chữ chiều ở đây chính là chữ mà Huình-Tịnh Paulus Của viết chìu và giảng là "chỗ uất khúc, vạy vò",
(Đại Nam quấc âm tự vị, tập I, Sài Gòn, 1895,tr. 145). Đây chính là cái nghĩa gốc đã cho ra nghĩa thông dụng
hiện đại của chiều trong chiều hƣớng, đƣờng một chiều, v.v. Ruột đau chín chiều là dịch ý của mấy tiếng Hán
cửu hồi trƣờng nghĩa là "chín (lần) quặn ruột". Giản Văn Đế nhà Lƣơng có viết: "Bi dao dạ hề, cửu hồi trƣờng"
(Đêm buồn dài dặc hề, chín lần ruột quặn). Tƣ Mã Thiên cũng viết: "Trƣờng nhất nhật nhi cửu hồi" (Một ngày
mà ruột quặn chín lần). Cái nét nghĩa "uất khúc, vạy vò" của từ chìu, mà Huình-tịnh Paulus Của đã ghi, rất ăn
khớp với cái nghĩa của tiếng hồi là "quanh", là "quặn". Vậy chín chiều là "bản dịch" rất sát của cửu hồi (cửu =
chín, hồi = chiều, nghĩa là quặn) nhƣng do cấu trúc của nó về mặt thuần túy hình thức rất giống với cấu trúc
của "(đƣờng) một chiều hoặc" (một sớm) một chiều nên mới dẫn đến hai cách hiểu nhầm đã đƣợc ghi nhận
trong câu hỏi. Cuối cùng, cũng phải nhắc lại rằng nếu theo đúng chính tả hiện nay thì chữ chìu của Huình-tịnh
Paulus Của phải đƣợc viết là chiều (Những chữ chiều trong chiều theo, chiều lòng, trăm chiều, v.v. đều đƣợc ông
nhất loạt viết thành chìu).

14-03-2007, 02:31 PM
13. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Tại sao có ngƣời lại cho rằng câu "Mũi dại lái phải chịu đòn" đúng ra phải là "Mũi vạy lái phải chịu đòn"?

AN CHI: Hình thức gốc và đúng là Mũi vạy lái phải chịu đòn. Câu tục ngữ này bắt nguồn từ đặc điểm của nghề
ghe thuyền. Mũi vạy là mũi lệch, mũi không đi đúng hƣớng cần thiết, có thể do nƣớc xoáy hoặc nƣớc xiết. Trong
điều kiện này ngƣời cầm lái đƣơng nhiên phải vất vả và phải vững tay vì anh ta là ngƣời chịu đòn. Chịu đòn
ngon lành thì thuyền sẽ ngon lành vƣợt qua dòng nƣớc xiết hoặc cơn nƣớc xoáy. Chịu đòn kém cỏi thì thuyền sẽ
chông chênh, thậm chí có thể bị lật. Vậy chịu đòn là gì? Là dùng sức của mình mà ghì cây đòn lái cho vững,
không để cho cái bánh lái bị dòng nƣớc làm chao đảo, quặt quẹo gây nguy hiểm cho con thuyền. Câu tục ngữ
muốn nói đến vai trò và tráchnhiệm của ngƣời chỉ huy trong tình thế khó khăn, nguy hiểm. Từ nguyên dân gian
đã biến nó thành "Mũi dại lái phải chịu đòn" đƣa đến cách hiểu hiện nay rằng dại là từ trái nghĩa với khôn còn
chịu đòn là bị đánh bằng roi vọt. Tuy nhiên, cái nghĩa ví von của câu này thì lại không khác lắm so với cái nghĩa
của câu gốc.

15-03-2007, 04:41 AM
14. (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Trong câu "đầu cua tai nheo" thì "tai nheo" là gì? Ý cả câu là gì?

AN CHI: Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên giảng câu đó nhƣ sau: "Chỉ những chuyện chắp nhặt, không đâu
vào đâu”. Tai là một từ Việt gốc Hán đọc theo âm Hán Việt, có nghĩa là (cái) mang cá. Đây là một từ cổ, xƣa vẫn
đƣợc dùng với tính cách là một từ độc lập, chẳng hạn nhƣ trong câu: "Lô cƣ cá vức bốn tai" (Chỉ nam ngọc âm
giải nghĩa, Trần Xuân Ngọc Lan phiên âm và chú giải, Hà Nội, 1985, tr.201 - Nhà chú giải đã không giảng chữ
tai trong câu này). Không bàn đến chuyện có thật con cá vức có bốn tai, nghĩa là bốn mang, hay không, ở đây
chúng tôi chỉ muốn dẫn chứng về cái nghĩa mà mình đã nêu. Chữ tai, Hán tự viết là 鰓, đƣợc Dictionnaire
classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur giảng là "ouiles de poisson" còn Mathews' Chinese-english
Dictionary cũng giảng là "the gills of a fish". Vậy tai theo là mang cá nheo. Mang cá nheo mà đi với đầu con cua
thì rõ ràng là chuyện chắp vá chẳng đâu vào đâu!

Ghi chú của :


Tại sao ba chữ "đầu" "cua" và "nheo" là tiếng Việt lại có một chữ "tai" tiếng Hán chun vô giữa vậy cà? Nếu đúng
"tai nheo" là "mang con cá nheo" thì chắc tục ngữ cũng phải có câu "đầu cua mang nheo" đồng tồn tại với câu
"đầu cua tai nheo" chớ.

Chính An Chi cũng nói thƣờng ngƣời ta trại từ một từ khó sang một từ dễ chớ không ai làm ngƣợc lại. Nhƣng
"mang" mà chuyển thành "tai" xong rồi thủ tiêu chữ "mang" luôn thì không giống với cách lý luận này.

15-03-2007, 09:08 PM
15- (KTNN 98, ngày 15-12-1992)
Rắn có phủ đƣợc mèo hay không? Nếu không, tại sao một số nơi ở miền Bắc lại có lƣu hành câu"Rắn phủ 1.
mèo"?

AN CHI: Về chuyện "rắn phủ mèo", trong Chân trời khoa học (của báo Khoa học phổ thông) tháng11.1990, kỹ
sƣ Nguyễn Quốc Thắng đã giải thích rõ ràng nhƣ sau: "Rắn thuộc lớp bò sát còn mèo thuộc lớp động vật có vú,
hai lớp này rất xa nhau về mặt tiến hóa. Theo nguyên tắc của sinh vật học, 2 loài khác nhau của cùng một giống
đã rất khó giao phối với nhau huống hồ ở đây rắn và mèo có cấu tạo cơ quan sinh dục hoàn toàn khác nhau, số
lƣợng nhiễm sắc thể trong tế bào cũng khác nhau, do đó khẳng định chúng không thể giao phốivới nhau đƣợc"
(tr.56).

Tất nhiên là có nhiều ngƣời quả quyết rằng chính mắt họ đã nhìn thấy rắn phủ mèo. Nhƣng sự thật thì hoặc là
họ đã nhìn gà hóa cuốc hoặc là điều này có nhiều phần chắc chắn hơn - họ đã "tung tin vịt một cách vô tội vạ
mà thôi. Còn "rắn phủ l. mèo" chỉ là một biến dạng của thành ngữ dán bùa l. mèo, một phần hẳn là cũng có do
ngƣời ta vẫn bị ám ảnh bởi cái chuyện "rắn phủ mèo". L. mèo là cái đầu hồi nhà, tức là cái phần hình tam giác
bên hông nhà mà đỉnh là nơi hai mái nhà giáp nhau. Ngày xƣa khi thợ mộc cất nhà xong, họ thƣờng dán một lá
bùa vào cái l. mèo nhà theo tín ngƣỡng, mà có khi cũng chỉ đơn giản là theo thói quen nghề nghiệp. Câu dán
bùa l. mèo bắt nguồn từ thực tế này; về sau nó đã bị từ nguyên dân gian bóp méo nên mới thành rắn phủ l.
mèo.

Ghi chú của :


1. "Lồn mèo: đầu hồi, góc giụm hình tam giác nơi hai mái nhà giáp nhau: Dán bùa lồn mèo." (Vƣơng Hồng Sển).
Chỗ này còn gọi là "khu đĩ" trong phƣơng ngữ miền bắc.
2. Xem thêm bài "Khu đ. và l. mèo (http://www.thuvien-
ebook.com/forums/showthread.php?p=27742#post27742)" trong Phòng đọc trực tuyến.

16-03-2007, 04:23 AM
16. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Tờ "Bát tự niên canh" có phải là tờ đăng ký kết hôn ngày xƣa hay không? Có phải "bát tự" có nghĩa là tám tờ
còn "niên canh" là có giá trị trong một năm hay không?

AN CHI: Nói cho đúng cú pháp tiếng Hán thì đó là niên canh bát tự, có nghĩa là tám chữ thuộc về tuổi tác. Đó là
tám chữ CAN CHI (thí dụ: Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Ất Mùi, v.v…) gồm có hai chữ chỉ giờ, hai chữ chỉ ngày,
hai chữ chỉ tháng và hai chữ chỉ năm mà một con ngƣời đã ra đời. Tờ niên canh bát tự là tờ ghi giờ, ngày, tháng
và năm sinh theo âm lịch của chàng trai hoặc cô gái để trao cho nhà gái hoặc nhà trai đi coi thầy xem tuổi hai
bên có hạp nhau hay không. Hễ hạp tuổi với nhau thì mới bàn tính đến chuyện hôn nhân chính thức. Vậy đó
không phải là tờ đăng ký kết hôn. Vả lại, chẳng cứ khi tính chuyện hôn nhân mới có khai niên canh bát tự. Chỉ
cần đi xem tử vi để biết chuyện bổn mạng thì cũng đã phải khai tám chữ cho thầy rồi (không có tám chữ thì
thầy làm sao lên bảng đƣợc).

16-03-2007, 11:58 PM
17. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Hai tiếng cù là trong "dầu cù là" xuất xứ từ đâu? Có phải tên một loại cây nào không?

AN CHI: Có ngƣời đã liên hệ hai tiếng cù là này với hai tiếng Cù Là là tên mà ngƣời xƣa ở miệt dƣới đã dùng để
gọi nƣớc Miến Điện. Số là trƣớc đây có một loại dầu cù là mang nhãn hiệu Mac Phsu, sản xuất tại Miến Điện,
đƣợc ông già bà cả trong Nam ƣa chuộng. Ngƣời ta cho rằng vì thứ đầu này đƣợc sản xuất tại nƣớc Cù Là
(=Miến Điện) nên nó mới đƣợc gọi là dầu cù là (=dầu sản xuất tại nƣớc Cù Là). Sau khi hai tiếng cù là trở thành
thông dụng trong phƣơng ngữ Nam Bộ thì ngữ danh từ dầu cù là đƣợc dùng rộng rãi để chỉ tất cả các loại dầu
cao, bất kể chúng đƣợc sản xuất tại nƣớc nào, đƣơng nhiên là kể cả tại nƣớc Tàu. Còn chính ngƣời Tàu thì lại gọi
dầu cù là là vạn kim du (tiếng Quảng Đông: màn cắm y du) bắt nguồn từ nhãn hiệu của một thứ dầu cù là là
hiệu Vạn Kim. Hiện chúng tôi chƣa tìm đƣợc tên của một loại cây nào gọi là cây "cù là".

18-03-2007, 12:55 AM
18. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Trong bài 'Hoàng hậu Hiếu Văn, làng Cổ Trai và đất Minh Linh" đăng trên Cửa Việt số 15, tháng 6-1992, Tố Am
Nguyễn Toại đã dựa vào thƣ tịch của Trung Quốc để khẳng định rằng Mạc Đăng Dung không phải là ngƣời Việt
mà là ngƣời Đãn từ Trung Quốc lƣu lạc sang. Xin hỏi ngƣời phụ trách mục"Chuyện Đông chuyện Tây" nghĩ sao
về điều khẳng định này?

AN CHI: Ngƣời đầu tiên phát hiện ra rằng Mạc Đăng Dung thuộc sắc dân Đãn Man là Trần Quốc Vƣợng tại Hội
nghị khoa học về Nguyễn Bỉnh Khiêm tổ chức ở Hải Phòng tháng 2.1985. Cứ liệu của ông là một số điều ghi
chép trong Minh sử. Bảy năm sau, Tố Am NguyễnToại lại tiếp tục khẳng định giống nhƣ Trần Quốc Vƣợng. Ngoài
Minh sử ra, ông còn nêu tên sách Đông Hoãn huyện chí của Trần Bá Đào đời Thanh. Chúng tôi cho rằng chẳng
qua Trần Bá Đào cũng chỉ viết theo Minh sử mà thôi và rằng những điều mà sách này đã chép về thành phần
dân tộc của Mạc Đăng Dung là hoàn toàn không thể tin tƣởng đƣợc.

Chỉ riêng một việc ngƣời Đại Minh "biết quá rõ" về lai lịch của Mạc Đăng Dung trong khi chính ngƣời Đại Việt thì
lại hoàn toàn mù tịt về điều đó, chỉ riêng mộtviệc đó thôi, cũng đã là điều hoàn toàn đáng ngờ rồi. Huống hồ chế
độ tuyển cử và chế độ bảo cứ quan chức của nƣớc ta vào thời Lê thật chặt chẽ và chu đáo, thì làm sao một tên
cha căng chú kiết - nếu quả ông ta là ngƣời Đãn Man - nhƣ Mạc Đăng Dung lại có thể len lỏi vào làm đô chỉ huy
sứ từ năm 1508 để lên ngôi hoàng đế 19 năm sau đó?

Theo truyền thuyết thì Mạc Đăng Dung xuất than từ nghề đánh cá - còn chúng tôi thì cho rằng bấy giờ ông ta là
một Khƣơng Thƣợng chờ thời - nên Minh sử mới dựa vào đó mà ghi chép một cách hồ đồ rằng ông là ngƣời Đãn
Man, vì Đãn Man là một sắc dân chuyên sống lƣu động trên ghe thuyền để làm nghề đánh cá và có khi là cả
nghề cƣớp biển nữa. Hoặc cũng có thể Minh sử đã cố ý ghi chép nhƣ thế để gián tiếp nhắn nhủ một cách trịch
thƣợng rằng một tên Đãn Man cũng đủ khả năng để làm vua nƣớc Đại Việt nhƣ thƣờng. Dù thế nào mặc lòng,
chúng tôi cho rằng ngƣời Việt Nam không thể đặt lòng tin tuyệt đối của mình vào sách Tàu đƣợc, nhất là sách
Tàu mà lại viết về những vấn đề lịch sử tế nhịcủa Việt Nam.

18-03-2007, 10:41 PM
19. (KTNN 99, ngày 01-01-1993)
Tiếng Anh đã có từ Christmas để chỉ lễ Giáng sinh, lại còn có cả từ Yule nữa. Xin cho biết xuất xứ của từ này.

AN CHI: Yule là hình thái hiện đại bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại yol, tiếng Anh cổ đại geol, với biến thể
geohhol. Đồng nghĩa và cùng gốc với nó hiện nay là tiếng Thụy Điển, tiếng Na Uy và tiếng Đan Mạch jul mà
tiếng Phần Lan láng giềng đã mƣợn và phát âm thành joulu. Theo Eric Partridge, hình thái cổ đại geol bắt nguồn
từ một hình thái tiền thân là geol, một kiểu hoán vị ngữ âm (metathesis) cùng gốc với tiếng La Tinh gelu, có
nghĩa là băng giá. Do đó mà tiếng Anh cổ đại còn có danh từ geola để chỉ tháng December (tháng Chạp dƣơng
lịch), mà nghĩa từ nguyên là tháng băng giá. Còn geol, nay là Yule, là ngày lễ của tháng geola, tức là ngày
Giáng sinh.

18-03-2007, 10:43 PM
20. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại gọi là "ông Táo"? "Táo" là gì?

AN CHI: Táo là tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt, có nghĩa Ià bếp. Đại táo là bếp to, nấu cho chiến sĩ (quân đội)
hoặc nhân viên (cơ quan) ăn tập thể rất đông ngƣời. Trung táo là bếp vừa, nấu cho cán bộ trung cấp. Còn tiểu
táo là bếp nhỏ, nấu riêng cho cán bộ cao cấp. Lại còn có đặc táo là bếp nhỏ loại đặc biệt thƣợng hảo hạng. Theo
tín ngƣỡng xƣa, bếp có thần bếp gọi là táo quân, táo vƣơng hoặc táo thần, khẩu ngữ còn gọi là táo công. Ngƣời
Việt Nam đã dịch táo công thành ông táo. Dân gian Việt Nam còn lấy hai tiếng ông táo để chỉ từng hòn trong ba
hòn đất dùng để bắc chảo bắc nồi lên mà xào mà nấu. Những hòn đất này thoạt đầu thì cháy nám, rồi lâu ngày
dài tháng, trở nên đen thủi đen thui (vì vậy mà trong khẩu ngữ ở Nam Bộ trƣớc đây, ngƣời ta còn dùng hai tiếng
ông táo để gọi đùa ngƣời Ấn Độ, rồi về sau cả lính da đen nữa).

21-03-2007, 07:55 AM
21- (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại nói "ngày tƣ ngày tết" và “tƣ niên" (là quanh năm). Hai tiếng "tƣ” này có liên quan gì với nhau hay
không?

AN CHI: Hán ngữ có một từ ghi bằng chữ 玆 , mà âm Hán Việt là tƣ, có nghĩa là năm, là mùa. Mathews'
Chinese-English Dictionary (p.1023. ch.6935) giảng là: "A year, a season”. Sách Lã thị xuân thu có câu: “Kim tƣ
mỹ hòa, lai tƣ mỹ mạch” nghĩa là mùa này tốt lúa gạo, mùa tới tốt lúa mì. Vì nó cùng một trƣờng nghĩa với tết
nên ngƣời ta đã ghép nó với từ này thành tƣ tết, rồi lại xen ngày vào mà nói thành ngày tƣ ngày tết.

Còn tƣ trong "tƣ niên” thì lại không liên quan gì đến tƣ trong "ngày tƣ ngày tết" cả. Nó là tƣ trong tƣ bề, tƣ
mùa, nghĩa là một biến thể ngữ âm của tứ là bốn. Tƣ bề là bốn bề, nghĩa là mọi phía; tƣ mùa là suốt bốn mùa,
nghĩa là quanh năm. Sự di chuyển tự nhiên và hợp lý từ bốn sang mọi, sang quanh trong nghĩa của tƣ bề, tƣ
mùa đã dẫn đến cách hiểu sai lệch rằng tƣ có nghĩa là quanh, là khắp, là cả, v.v.. Với cách hiểu sai lệch này,
ngƣời ta đã nói tƣ niên mà hiểu là quanh năm.

21-03-2007, 10:25 PM
22. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Con lân là con gì? Có phải đó cũng là con kỳ lân hay không? Tại sao ngoài Bắc gọi là "múa sƣ tử" mà trong Nam
lại gọi là "múa lân"?

AN CHI: Con lân cũng gọi là con kỳ lân. Nguyên kỳ là tên của con đực, còn lân là tên của con cái. Ngƣời ta ghép
lại mà gọi chung là kỳ lân. Ngày nay lân hoặc kỳ lân chỉ cả con đực lẫn con cái. Tiếng Pháp dịch là unicorne,
tiếng Anh là unicorn. Lân là con vật đứng hàng thứ hai trong tứ linh: long (rồng), lân, qui (rùa), phụng (phƣợng
hoàng). Nó là một con vật thần thoại thân hƣơu, móng ngựa, đuôi bò, miệng rộng, mũi to, có một sừng, lông
trên lƣng thì ngũ sắc mà dƣới bụng thì màu vàng. Tục truyền rằng nó là một con vật hiền lành (nhân thú),
không đạp lên cỏ tƣơi và không làm hại các vật sống. Tục còn truyền rằng vì nó là một con thú có nhân nhƣ thế
cho nên vua chúa ai là ngƣời có nhân thì mới đƣợc nhìn thấy nó. Múa lân tức là múa kỳ lân. Sở dĩ trong Nam gọi
múa lân mà ngoài Bắc gọi là múa sƣ tử là vì nhác trông thì con lân giống con sƣ tử (Đại Nam quấc âm tự vị của
Huình-tịnh Paulus Của cũng giảng lân là một "con thú giống con sƣ tử"). Vì vậy, ngƣời ta đã nhầm múa lân
thành "múa sƣ tử” rồi cứ thế mà gọi lâu ngày thành quen. Nhƣng cứ nhìn vào cái đầu lân (để múa) với cái
miệng rộng, cái mũi to và cái sừng nổi cộm thì biết ngay đó không phải là con sƣ tử rồi.

Ghi chú của :


Mặc dù ngƣời châu Âu dùng chữ Unicorn để gọi con kỳ lân của châu Á nhƣng con Unicorn của châu Âu là con
ngựa có 1 sừng thẳng giữa trán.
Tƣơng tự nhƣ trƣờng hợp họ dùng chữ Dragon để gọi con rồng của châu Á. Kỳ thực, trong văn hóa Âu Tây,
Dragon là loài khủng long có cánh, quái thú phun lửa, biểu tƣợg của cái ác làm hại loài ngƣời. Vì không hiểu rõ
con Rồng châu Á là linh vât làm mƣa giúp con ngƣời, và là biểu tƣợng tối cao của hoàng tộc, nên nhiều ngƣời
châu Âu vẫn còn tƣởng ngƣời châu Á thờ quỷ dữ.

22-03-2007, 09:58 PM
23. (KTNN 100, ngày 15-01-1993)
Tại sao lại gọi là "con giáp"? Mỗi con giáp có bao nhiêu năm?

AN CHI: Hai tiếng con giáp là một lối nói của phƣơng ngữ Nam Bộ. Trong phƣơng ngữ này con giáp là một chu
kỳ 12 năm âm lịch gọi bằng tên của 12 địa chi từ Tí đến Hợi. Nghĩa này đã cho ra một nghĩa rộng là chu kỳ thời
gian từ một năm đã cho đến năm cùng một tên chi với nó sau đó 12 năm, chẳng hạn từ năm Nhâm Thìn 1832
đến năm Giáp Thìn 1844, hoặc từ năm Đinh Hợi 1947 đến năm Kỷ Hợi 1959, v.v.. Do đó mà ngƣời sanh năm
Nhâm Thìn 1832 lớn hơn ngƣời sanh năm Giáp Thìn 1844 một con giáp, còn ngƣời sánh năm Kỷ Hợi 1959 thì
nhỏ hơn ngƣời sánh năm Đinh Hợi 1947 một con giáp. Ngoài ra, trong khẩu ngữ của tiếng địa phƣơng Nam Bộ,
con giáp còn có nghĩa là con vật tƣợng trƣng của mỗi chi trong 12 địa chi nữa (chẳng hạn con chuột cho năm
Tý, con trâu cho năm Sửu, v.v… Do đó mới có câu "Mƣời hai con giáp không giống con nào”.

Vậy tại sao lại gọi là con giáp? Nguyên ngày xƣa ngƣời ta đã theo thứ tự trƣớc sau của thập can và thập nhị chi
mà phối hợp các can và các chi với nhau sao cho có đƣợc một chu kỳ gồm 60 đơn vị bắt đầu từ Giáp Tí cho đến
Quý Hợi, trong đó mỗi đơn vị đƣợc gọi bằng một tên kép gồm có một tên can và một tên chi. Chu kỳ này đƣợc
trình bày thành một bảng gồm có 60 ô. Bảng này gọi là hoa giáp. Trong phƣơng ngữ Bắc Bộ, hoa giáp đã đƣợc
nói tắt thành giáp. Giáp thoạt đầu vẫn đƣợc hiểu là một chu kỳ gồm 60 năm, về sau lại đƣợc linh động hiểu
thành một chu kỳ 12 năm nhƣ cách hiểu thong thƣờng hiện nay. Tuy cũng cùng một cách chuyển nghĩa nhƣ
trên nhƣng trong phƣơng ngữ Nam Bộ thì hoa giáp lại trở thành con giáp vì hai lý do. Một là ngƣời ta vẫn bị ám
ảnh bởi các con vật tƣợng trƣng cho mỗi chi khi nói đến hoa giáp. Hai là tiếng con vừa có tác dụng nhắc nhớ đến
các con vật nhƣ đã nói ở trên, lại vừa đồng âm với con là một từ chỉ chu kỳ nhƣ trong con nƣớc, con trăng v.v.
mà hoa giáp thì rõ ràng là một chu kỳ. Vì hai lý do đó mà con đã thay thế cho hoa.

24-03-2007, 07:26 AM
24- (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
ĐỘC GIẢ: Xin cho biết xuất xứ của tên gọi Ba Son (Nhà máy Ba Son).

AN CHI: Về tên Ba Son, trong Sài Gòn năm xƣa, Vƣơng Hồng Sển đã ghi nhận bốn cách giải thích sau đây
1. Trƣớc kia có một anh thợ nguội tên Son, thứ ba, đã vào làm ở sở này. Ngƣời ta bèn lấy thứ và tên của anh
mà gọi tên sở là Ba Son.
2. Trƣớc khi Ba Son đƣợc thành lập thì nơi đó có một con xẻo chảy qua. Xẻo này có nhiều cá. Ngƣời Pháp
thƣờng đến câu ở đó và gọi nó là "mare aux poissons” (ao cá). Khi xây dựng xƣởng Ba Son, con xẻo tuy bị lấp
nhƣng tên vẫn còn. Ngƣời ta bèn phiên âm poissons thành Ba Son để gọi xƣởng mới thành lập.
3. Ba Son là do tiếng Pháp reparation có nghĩa là “công việc sửa chữa” mà ra (Ba Son vốn là nơi sửa chữa tàu
thủy).
4. Ba Son là do "bassin de radoub"nghĩa là "ụ sửa chữa vỏ tàu mà ra (bassin > Ba Son). Ông Vƣơng Hồng Sển
viết rõ nhƣ sau: "Theo quyển Promenades dans Saigon, tác giả, bà Hilda Arnold, ghi rằng buổi đầu ngƣời Pháp
đã xuất ra trên bảy triệu quan thời áy để lấp đất và xây cái ụ tàu "bassin de radoub" này, để có thể sửa chữa
các thứ tàu chiến, tàu buôn tại đây khỏi đem về tận Pháp quốc. Thời ấy, cuộc chuyển vận đều do đƣờng thủy,
nên cái "bassin de radoub" giúp họ nắm vận mạng xứ này trong tay". Trong bốn cách trên, chỉ có cách giải thích
thứ tƣ là đáng tin nhất mà thôi.

Về phần mình, chúng tôi cho rằng Ba Son là do tiếng Pháp bastion (= pháo đài) mà ra và tin rằng sẽ có ngày
chúng tôi chứng minh đƣợc mối quan hệ này.

Ghi chú của :


Cách thứ nhất, nhì và ba là tham khảo cho vui chớ không hợp lý về mặt nguồn gốc hay ngữ âm vì ngƣời mình,
đặc biệt là ngƣời miền Nam sẽ phát âm các từ:

1. Tại sao là anh thợ nguội mà không lấy tên của ông giám đốc?
2. poissons = "boa-dông" hay "boa-zông".
3. réparation = "rề-ba-ra-xông".
4. Cách thứ tƣ cũng không thuyết phục lắm về mặt ngữ âm, vì nếu âm từ chữ bassin thì ngƣời mình sẽ gọi
thành Bạt-xanh hay Bạt-xe chớ không thành Ba son.

Suy luận của An Chi về chữ bastion (Ba-xông = Ba-xoong = Ba Son) dễ chấp nhận hơn về mặt ngữ âm và
nguồn gốc.

Về ngữ âm, nên nhớ đa số sách báo Việt Ngữ thời xƣa đều gọi và viết là Ba-xoong chớ ít viết là Ba Son nhƣ sau
này.

Ngoài ra, khu vực dọc theo bờ sông Sài Gòn-Thị Nghè ngày xƣa là khu vực thành Gia Định (bastion de Gia Dinh)
mà Phan Thanh Giản và Lê Văn Duyệt đã từng cố gắng trấn thủ chống lại quân Pháp. Cho nên nghiêng về giả
thuyết bastion hơn.

27-03-2007, 03:02 AM
25. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Lục dục, thất tình là những tình cảm nào?

AN CHI:
1. Lục dục là tiếng nhà Phật chỉ sáu điều ham muốn do lục căn (mắt, tai, mũi, lƣỡi, thân và ý) mà ra: mắt muốn
nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lƣỡi muốn nếm ngon, thân muốn hƣởng sƣớng và ý muốn
biết hết.

2. Thất tình là bảy thứ tình cảm thƣờng khuấy động lòng ngƣời: hỉ (mừng), nộ (giận), ai (lo), cụ (sợ), ái (yêu),
ố (ghét) và dục (muốn).
Ghi chú của :
Trong lục dục thì đa số thành viên của TVE bị vƣớng cái dục thứ sáu (ý muốn biết hết, đọc hết, hiểu
hết,...download hết). Nặng nhất là các admin và MOD...

27-03-2007, 10:45 PM
26. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Điện ảnh là nghệ thuật thứ bảy. Xin cho biết sáu nghệ thuật kia.

AN CHI: Sáu nghệ thuật kia là:


1. âm nhạc,
2. múa,
3. hội họa,
4. điêu khắc,
5. kiến trúc,
6. kịch.

Ghi chú của :


Vậy lĩnh vực sáng tác không đƣợc liệt vào hàng nghệ thuật. Buồn nhỉ. Chỉ vì ngày xƣa các nhà viết sách ở châu
Âu hay châu Á đều là các nhà tƣ tƣởng nên văn học đƣợc xếp chung với philosophy (Âu) hay Thi Thƣ (Á)

Có ai biết nghệ thuật thứ tám là môn nào không? (Hỏi nghiêm túc nhé. Không phải là 888). Có vài lần nghe báo
chí hay đài nhắc đến nghệ thuật thứ tám nhƣng ngƣời thì ám chỉ ngành đồ họa, ngƣời thì ám chỉ một ngành
khác nào đó nên mình rất mơ hồ về cái gọi là nghệ thuật thứ tám.

Ghi chú của Caravan:


Trong 6 nghệ thuật trên, em nhớ là đƣợc chia là 2 mảng
+ Nghệ thuật liên quan không gian: hội họa, kiến trúc, điêu khắc
+ Nghệ thuật liên quan thời gian(cái này không nhớ chính xác): âm nhạc, múa, kịch.
Ngoài ra em thấy về trừu tƣợng không gian thì liên quan đến bán cầu não trái, còn 3 nghệ thuật kia liên quan
đến bán cầu não phải
28-03-2007, 07:28 AM
27. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Con dâu của vua gọi là gì? Tại sao con rể của vua lại gọi là “phò mã”?

AN CHI: Con dâu của vua gọi là hoàng tức. Hoàng là một thành tố chỉ những gì thuộc về vua, liên quan đến vua.
Tức là dạng tắt của tức phụ đã trở nên thông dụng, có nghĩa là con dâu. Con rể của vua vốn đƣợc gọi là hoàng
tế (tế là rể). Từ đời Ngụy, đời Tấn, chàng rể đƣợc phong làm phụ mã đô úy, gọi tắt là phụ mã, âm xƣa là phò
mã. Đây là một chức quan chuyên trách việc ngựa xe cho vua, anh chàng hoàng tế đƣợc cái tên phò mã là nhờ
ở chức này.

Ghi chú của :


Trên thiên đình thì chức "quan chuyên trách việc ngựa" gọi là bật mã ôn. Ai có xem Tây du ký chắc còn nhớ. Lúc
đó nếu gọi Mỹ Hầu Vƣơng là phò mã chắc đã chẳng xảy ra chuyện đại náo thiên đình. Có lẽ tại Ngọc Hoàng
không có con gái?

chithien
28-03-2007, 10:42 PM
Cạnh gò đống đa có con đƣờng tên là Đặng Tiến Đông . Theo em biết hình nhƣ ông này tên là Đặng Tiến Giản .
Do hai chữ này tự dạng giống nhau nên giới " Vứt bút lông đi giắt bút chì " nhầm . Có phải thế không các cụ ?

29-03-2007, 06:57 AM
Cạnh gò đống đa có con đƣờng tên là Đặng Tiến Đông . Theo em biết hình nhƣ ông này tên là Đặng Tiến Giản .
Do hai chữ này tự dạng giống nhau nên giới " Vứt bút lông đi giắt bút chì " nhầm . Có phải thế không các cụ ?

- Đỗ Đức Hùng trong "Đô đốc Đặng Tiến Đông" viết về tiểu sử và sự nghiệp Đặng Tiến Đông thì cho rằng ông là
một trong số các sĩ phu Bắc Hà sớm thấy sức mạnh mới ở phong trào Tây Sơn và đã đem lại hết tâm huyết để
phục vụ vƣơng triều mới này. Ông đƣợc Nguyễn Huệ phong làm đô đốc Đồng Tri, tƣớc Đông lĩnh hầu, giữ chức
trấn thủ xứ Thanh Hoá. Dƣới sự tổ chức và lãnh đạo tuyệt vời của Quang Trung - Nguyễn Huệ đô đốc Đặng Tiến
Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa.

- Phan Huy Lê trong bài viết "Đô đốc Long và một số di vật thời Tây Sơn mới phát hiện" đã chứng minh rằng Đô
đốc Long (1) hay Đô đốc Mƣu (2) (3) chính là Đô đốc Đặng Tiến Đông ngƣời làng Dƣơng Xá (Chƣơng Mỹ, Hà
Tây),một vị tƣớng tiên phong của Quang Trung, Nguyễn Huệ, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân
xâm lƣợc Thanh vào cuối thế kỷ 18.

- Nguyễn Trọng Trì đã giới thiệu 14 vị tƣớng Tây Sơn trong sách "Tây Sơn lƣơng tƣớng ngoại truyện" trong đó
tác giả cho rằng Đô đốc Long chính là Đặng Văn Long, tự là Tử Vân, quê ở huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (Bình
Định).

- Nguyễn Quang Thắng chứng minh trong "Quảng Nam đất nƣớc và nhân vật" rằng Đô đốc Long chính là Lê Văn
Long, ngƣời làng Phú Xuân Trung, huyện Lệ Dƣơng, châu Thăng Hoa (nay thuộc thị xã Tam Kỳ, Quảng Nam).

- Đặng Xuân Vĩnh phản đối các tác giả cho rằng ngƣời có công đánh trận Đống Đa không phải là Đặng Tiến Đông
mà là Đặng Tiến Giản . Bằng các cứ liệu lịch sử tác giả khẳng định Đặng Tiến Đông là ngƣời có công trong chiến
thắng mùa xuân năm Kỷ Dậu và lý giải một vài khuyết điểm của ông.

- Ngô Thế Long trong "Một số tƣ liệu liên quan đến Đô đốc Đặng Tiến Đông đời Tây Sơn" trích dẫn 6 đoạn tƣ liệu
từ các nguồn khác nhau liên quan đến Đô đốc Đặng Tiến Đông đời Tây Sơn chứng minh rằng Đặng Tiến Đông
thờ tại nhà thờ họ Đặng là vị tƣờng Tây Sơn đô đốc Long.
đoạn 1: tờ sắc phong cho đô đốc Đặng Tiến Đông.
Đoạn 2: Bia chùa Thuỷ Lâm.
Đoạn 3: chuông chùa Thuỷ Lâm và chuông chùa Trăm Gian.
Đoạn 4: Trích gia phả họ Đặng.
Đoạn 5: Về một số hoạt động khác của Đặng Tiến Đông.
Đoạn 6: Một số bài Ai Vãn (văn buồn) do Phan Huy ích làm giúp để điếu Đặng Đô Đốc ở Lƣơng Xá.

- Đỗ Văn Ninh trong bài "Đô đốc Đặng Tiến Đông hay Đô đốc Đặng Tiến Giản" khẳng định đó là Đô đốc Đặng
Tiến Giản với Đặng Tiến Đông là hai nhân vật khác nhau. Theo thứ tự tƣ liệu công bố trong bài viết của Phan
Huy Lê về bản sắc phong nay còn giữ đƣợc tại nhà thờ họ Đặng, về tấm bia trƣớc chùa Thuỷ Lâm thôn Lƣơng
Xá, về bức tƣợng của đô đốc Đông để xem xét và phân tích sự nhầm lẫn về đô đốc Đặng Tiến Đông, ông chính
là Đặng Tiến Giản một vị cựu thần nhà Lê theo hàng Tây Sơn. Còn đô đốc Long mới chính là ngƣời có công lớn
đã cầm đạo quân tiên phong của Tây Sơn đánh trận đống đa lẫy lừng.

...
(1) Hoàng Lê nhất thống chí - Ngô Gia Văn Phái.
(2) Đại nam chính biên liệt truyện - Quốc sử quán triều Nguyễn
(3) Tây Sơn thủy mạt khảo của Đào Nguyên Phổ

Có quá nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đƣa ra các tài liệu khác nhau về nguyên quán cũng nhƣ thân thế của hai vị
này.

Theo Natphung, hai ngƣời có chung tƣớc, ở chung nhà, ngủ chung giƣờng, có chung vợ vẫn có thể là hai ngƣời
khác nhau nhƣ trƣờng hợp... hai ông táo công, chồng của bà táo.

11-04-2007, 05:42 AM
28. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Tứ hỉ" là gì? Có phải đó cũng là "tứ khoái" hay không?

AN CHI: Tứ khoái là quan niệm của ngƣời Việt Nam gồm có: ăn, ngủ, đ. và ị. Đây là bốn cái thú có tính chất
sinh lý. Còn tứ hỉ là một quan niệm của ngƣời Trung Hoa, có nghĩa là bốn điều mừng, bốn điều tốt lành. Quan
niệm này bắt nguồn từ một bài thơ dân gian, tục gọi là Tứ hỉ thi (bài thơ về bốn điều vui mừng). Đây là một bài
thơ mà các trƣờng học ở thôn quê Trung Hoa ngày xƣa vẫn dạy cho học sinh. Nó đã đƣợc chép trong Dung trai
tùy bút của Hồng Mại đời Tống, Nguyên văn (phiên âm Hán Việt) nhƣ sau:

Đại hạn phùng cam vũ;


Tha hƣơng ngộ cố tri;
Động phòng hoa chúc dạ;
Kim bảng quải danh thì.

Dịch nghĩa:

Nắng hạn lâu ngày gặp mƣa nhuần


Nơi xứ ngƣời gặp đƣợc bạn cũ
Đêm đuốc hoa trong phòng cô dâu
Lúc thi đỗ bảng vàng treo tên.

Mỗi câu thơ nói lên một điều vui mừng. Tuy câu thứ ba nói lên điều vui mừng về đêm tân hôn, có phần nào
trùng với cái khoái thứ ba, nhƣng rõ ràng tứ khoái và tứ hỉ là hai quan niệm riêng biệt.

Ghi chú của :

Có một giai thoại văn học về Thủ Khoa Nghĩa, tức ông Bùi Hữu Nghĩa ở Chợ Gạo, Tiền Giang, liên quan đến bài
Tứ Hỉ Thi này. Chuyện kể ông là ngƣời dùng chữ rất tiết kiệm, luôn tìm cách cắt bớt chữ để câu văn súc tích hơn
nên nổi tiếng về tài giản lƣợc các bài thơ mà vẫn giữ nguyên ý.

Một hôm có ngƣời đem bài Tứ hỉ thi ra nhờ ông cắt bớt chữ. Tuy nhiên, ông bảo bài thơ này không thể cắt bớt,
ngƣợc lại mỗicâu phải thêm hai chữ cho mạch văn mạnh mẽ, ý tứ tuôn trào hơn. Trƣớc sự ngạc nhiên của mọi
ngƣời ông ngâm nga.

Cửu niên đại hạn phùng cam vũ;


Thiên lý tha hƣơng ngộ cố tri;
Hòa thƣợng động phòng hoa chúc dạ;
Thiếu niên kim bảng quải danh thì.

Rồi ông chậm rãi giảng giải (*)

"Nắng hạn lâu ngày gặp mƣa" thì ý không mạnh mẻ nhƣ chín năm hạn hán mới gặp mƣa thì cái hỉ, cái niềm vui
sau "chín năm trƣờng hận" ăn không dám ăn, uống không dám uống mà bây giờ có cả nƣớc ... tắm thì mới thật
là thống khoái.

"Nơi xứ ngƣời gặp đƣợc bạn cũ" thì cũng vui nhƣng niềm vui khi qua làng bên gặp ngƣời quen đâu có mừng
bằng đi nửa vòng trái đất tận California hay Florida, mà gặp ngƣời quen nhƣ tovanhung.

"Đêm đuốc hoa trong phòng cô dâu" sƣớng thì sƣớng nhƣng cũng "thế gian sự thƣờng", sao sƣớng bằng cái
sƣớng vị hòa thƣợng cả đời trì giới, nay phá lệ hoàn tục về ... cƣới vợ.

"Thi đỗ bảng vàng treo tên" lúc lụm cụm cỡ 20 năm sau ra đƣờng không ai thèm nhìn, thì sao sƣớng bằng
chàng thiếu niên tuổi trẻ giật giải trạng nguyên trong nhà thì rỡ ràng tông môn, mà ra đƣờng thì biết bao nhiêu
ngƣời đẹp liếc mắt đƣa tình.

---------------------
(*) lâu ngày không nhớ nguyên văn, xin vô phép cụ Thủ Khoa Nghĩa mà kể lại theo cái kiểu của .

11-04-2007, 05:51 AM
29. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
Xin cho biết tên nƣớc ta qua các thời kỳ lịch sử

AN CHI: Sau đây là quốc hiệu qua các đời:

1. Xích Quỷ (thời Kinh Dƣơng Vƣơng),


2. Văn Lang (thời HùngVƣơng),
3. Âu Lạc (đời An Dƣơng Vƣơng),
4. Vạn Xuân (đời Lý Nam Đế, 541-547),
5. Đại Cồ Việt (đời ĐinhTiên hoàng, 968-979),
6. Đại Việt từ đời Lý ThánhTông, 1055-1072),
7. Đại Ngu (đời Hồ Quí Ly, 1400),
8. Đại Việt (từ đời Lê Thái Tổ, 1428-1433),
9. Việt Nam (từ đời Gia Long, 1802-1819),
10. Đại Nam (từ đời MinhMạng, 1820-1840),
11. Việt Nam (Dân chủ Cộng hòa) từ 2.9.1945.

Sau khi An Dƣơng Vƣơng mất Cổ Loa và tự tử thì nƣớc Âu Lạc bị Triệu Đà sát nhập vào quận Nam Hải để lập
thành nƣớc Nam Việt. Nƣớc này lại bị nhà Hán chiếm rồi đặt thành Giao Chỉ bộ chia làm 9 quận trong đó 3 quận
Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, chủ yếu là Giao Chỉ, rồi đến Cửu Chân, có những phần đất cũ của Âu Lạc.
Năm 203, Hán Hiến Đế cải gọi là Giao Châu. Năm 679, Đƣờng Cao Tông đặt làm An Nam Đô hộ phủ. Thời pháp
thuộc, nƣớc ta bị chia làm Tonkin, Annam và Cochinchine. Trƣớc năm 1945, vẫn dịch thành Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ. Từ năm 1945, chính phủ lâm thời của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gọi là Bắc Bộ, Trung Bộ và
Nam Bộ. Sau đó, chính quyền thân Pháp gọi là Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần, rồi Bắc Việt, Trung Việt và
Nam Việt. Trƣớc 1945, tên Việt Nam vẫn có đƣợc dùng nhƣng đó chỉ là ngôn từ của sách báo hoặc là yếu tố
trong tên của tổ chức (nhƣ: Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, v.v. ) mà thôi.

11-04-2007, 09:20 PM
LƢỢM LẶT THÊM:
Xin hỏi tại sao ngƣời Việt mình lại nói "chết một cửa tứ" (dấu sắc) mà không nói "chết một cửa tử". Tử mới là
chết chứ. Mong đƣợc chỉ dẫn. Rất cám ơn.

NGUYỄN ĐỒNG DANH


(viethoc.org)

Thành ngữ "chết một cửa tứ" có nghĩa bóng là sắp bị thua lỗ, sắp gặp việc không may mắn v.v.. Theo chỗ hiểu
biết của tôi, thành ngữ này bắt nguồn từ môn chơi xăm hƣờng (có ngƣời gọi trại ra là tam hƣờng). Tôi không rõ
ngày nay ở Việt nam ngƣời ta có còn chơi môn này hay không.

Trƣớc hết xin nói về cái tên, xăm là thẻ (nhƣ xin xăm), hƣờng là màu hƣờng. Nguyên thuỷ trò chơi này có tên là
xăm hồng, nhƣng vì Hồng-Nhậm là tên của vua Tự-Đức, dân gian sợ phạm huý nên phải gọi là xăm hƣờng. Một
bộ săm hƣờng gồm có 63 chiếc thẻ (làm bằng ngà hay bằng xƣơng thú, bằng cật tre), 6 con súc sắc (hột xí
ngầu) và một cái tô. Mỗi thẻ săm có khắc một chữ, hoặc là Trạng nguyên (học vị cao nhất), hay Bảng nhản,
Thám hoa v.v. cho đến Tú tài (học vị thấp nhất). Còn con súc sắc (xí ngầu) thì ai cũng biết có sáu mặt, mỗi mặt
là một số. Số 1 và 4 màu đỏ, hai - ba - năm - sáu màu đen.

Ngƣời chơi đổ 6 hột súc sắc trong cái tô và thang điểm cơ bản dựa trên mặt tứ (màu đỏ) gồm: nhất hƣờng (có 1
mặt tứ), nhị hƣờng (2 mặt tứ) v.v. cho đến lục phú hƣờng (đƣợc 6 mặt tứ của 6 hột súc sắc). Ngƣời đổ đƣợc 6
mặt tứ sẽ đoạt tất cả các thẻ có trong cuộc chơi, kể cả thẻ đã thuộc về tay ngƣời khác và đƣợc thắng gấp đôi số
điểm quy định. Đây là trƣờng hợp hiếm hoi, đƣợc coi là tột đỉnh của vận may. Nhƣng ngƣời Việt lại có niềm tin
dị đoan rằng khi đạt đƣợc lục phú hƣờng, thì mừng ít mà lo nhiều, vì họ nghĩ rằng sau vận may mắn trong cờ
bạc tất sẽ gặp nhiều xui xẻo bất hạnh trong các công việc khác, nhất là những ai chơi xăm hƣờng trong ngày
đầu năm để đoán vận hên xui của mình.

Tóm lại, trong môn chơi xăm hƣờng vào những ngày Tết, ai gặp toàn cửa tứ (bốn nút màu đỏ của hột súc sắc)
thì sau đó cứ lo ngay ngáy sợ gặp những việc xui xẻo trong suốt cả năm. Do đó mà có thành ngữ “chết một cửa
tứ”.

12-04-2007, 06:19 AM
30. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Ba hồn bảy vía" là những hồn nào, vía nào? Tại sao có ngƣời còn cho rằng đàn ông có bảy vía mà đàn bà lại có
tới chín vía?

AN CHI: Ba hồn bảy vía là một quan niệm xuất phát từ Trung Hoa. Đây là một quan niệm của Đạo giáo. Tiếng
Hán là tam hồn thất phách. Sách Bảo Phác Tử của Cát Hồng đời Tấn có viết: "Muốn trở nên thần thông thì phải
luyện phép chia mình bằng nƣớc, lửa. Chia mình đƣợc thì thấy đƣợc ba hồn bảy vía của bản thân". Sách Vân cập
thất tiêm của Trƣơng Quân Phòng đời Tống nói rõ ba hồn là: thai quang, sàng linh và u tinh còn bảy vía là: thi
cẩu, phục thỉ, tƣớc âm, thôn tặc, phi độc, trừ uế và xú phế. Sự phân biệt bảy vía của đàn ông với chín vía của
đàn bà có thể chỉ là do một số ngƣời Việt Nam đặt ra. Họ giải thích rằng sở dĩ nhƣ thế là vì đàn ông có bảy lỗ
mà đàn bà thì có tới chín lỗ. Bảy lỗ thì bảy vía còn chín lỗ thì chín vía. Bảy lỗ ứng với bảy vía thì đúng với quan
niệm của dân gian cho rằng đó là bảy hồn bóng: bóng nhìn, bóng nghe, bóng thở và bóng nói. Hai lỗ mắt để
nhìn, hai lỗ tai để nghe, hai lỗ mũi để thở và lỗ miệng để nói thì đúng là bảy lỗ. Bảy lỗ này thì đàn ông và đàn
bà đều có. Còn chín lỗ là những lỗ nào? Là bảy lỗ trên cộng với lỗ tiểu tiện và lỗ đại tiện. Vậy chẳng có lẽ đàn
ông thì không có hai lỗ sau này chăng? Rõ ràng cách phân biệt đàn ông bảy lỗ với đàn bà chín lỗ là điều vô lý:
về phƣơng diện này thì nam nữ "tuyệt đối bình đẳng".

Nhƣng do đâu mà lại có quan niệm trên đây? Có thể là do một sự hiểu nhầm. Tiếng Hán gọi bảy lỗ là thất khiếu
và chín lỗ là cửu khiếu. Trong cửu khiếu thì bảy lỗ trên gọi là thƣợng khiếu còn hai lỗ dƣới gọi là hạ khiếu.
Thƣợng khiếu cũng gọi là dƣơng khiếu còn hạ khiếu cũng gọi là âm khiếu. Chúng tôi ngờ rằng ngƣời ta đã hiểu
nhầm âm khiếu là lỗ... riêng của phụ nữ, nên mới cho rằng đàn bà hơn đàn ông hai lỗ. Có lẽ vì thế mà sinh ra
chuyện "nam thất nữ cửu” chăng?

Ghi chú của :


* Sách của Đào Duy Anh ("Việt Nam văn hóa sử cƣơng", (1938), Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Tháp (tái bản),
1998), thiên thứ ba, chƣơng VI "Tín ngƣỡng và tế tự" ghi rằng:

Hồn là cái linh phụ vào phần khí của ngƣời, là phần khinh thanh, ngƣời ta chết thì bay lên không; còn phách là
cái linh phụ vào phần hình của ngƣời, là phần trọng trọc, khi ngƣời ta chết thì tiêu xuống đất. Đàn ông có ba
hồn phụ vào tam tiêu và bảy phách (vía) phụ vào thất khiếu, đàn bà thì có chín phách (vía) phụ vào cửu khiếu.

Và chú thích:

* Tam tiêu là miền miệng trên dạ dày là thƣợng tiêu, miền giữa dạ dày là trung tiêu, miền trên bàng quang là
hạ tiêu.
* Thất khiếu là bảy cái lỗ trên mặt: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, và miệng.
* Cửu khiếu là thất khiếu với hai khiếu: lỗ sinh thực khí và hậu môn

* Sách của Hoàng Quốc Hải ("Văn hóa phong tục", Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2005), chƣơng "Việc tang việc hiếu"
ghi rằng:

Theo quan niệm cổ xƣa, con ngƣời có 7 lỗ (thất khiếu) để hấp thụ vật chất, tinh thần mà trƣởng thành. Bảy lỗ
đó là : hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng. Đàn bà có thêm lỗ vú và lỗ sinh dục để đẻ và nuôi con. Khi hết
chức năng sinh đẻ lại trở về thất khiếu (Phật giáo phân biệt các động vật cao cấp, hễ đã có cửu khiếu (9 lỗ) đều
có thể tu Phật. Vì vậy, trong lịch sử có Tôn Hành giả gốc từ con khỉ. Cửu khiếu trong trƣờng hợp này kể cả đàn
ông và đàn bà tính theo thế ổn định : 2 lỗ tai, 2 lỗ mắt, hai lỗ mũi, miệng, lỗ sinh dục, lỗ bài tiết).

Hoàng Quốc Hải cũng nhƣ bất kỳ ngƣời nào khác cũng có quyền suy diễn cách của mình.
Cách suy diễn 2 cái khiếu là nhũ khiếu, hoặc một cái diễn giải khác gán cho là âm đạo vào hậu môn của ngƣời
nữ là một suy diễn chỉ có ở Việt Nam.
Vả lại, cách suy diễn của HQH thì đàn bà có đến 10 khiếu (hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi và miệng. Đàn bà có thêm
lỗ vú và lỗ sinh dục để đẻ và nuôi con.) chứ không còn là thất khiếu hay cửu khiếu nữa. Nếu suy diễn thì ngƣời
ta còn nhiều cái khiếu (cái lỗ) khác nữa, nhƣ mấy cái khiếu nhân tạo (xỏ lỗ tai) khiếu... chọ (khó chịu)

Nói cho vui thôi. Tuy nhiên khi tìm hiểu nghĩa của một từ/ngữ ta phải dựa vào từ điển, và từ nguyên chứ không
thể suy diễn.
Trong các từ điển tiếng Hán, nhƣ Từ Hải chẳng hạn, đều giải thích về thất khiếu (cũng gọi là dƣơng khiếu) nhƣ
An Chi đã giải thích. Tuy nhiên, còn có thêm một định nghĩa về cửu khiếu là dƣơng khiếu (7) + âm khiếu (2).
Âm khiếu là hai lỗ tiểu tiện và đại tiện (bên dƣới = âm) cộng với thất khiếu (bên trên = dƣơng) thành cửu khiếu.
Có lẽ ngƣời Việt mình hiểu lầm chữ âm khiếu và cho rằng âm nghĩa là thuộc về nữ giới nên mới gán hai cái
khiếu đó cho đàn bà chăng.

Nếu bạn để ý thì sẽ trong sách Tàu, ngƣời bị đầu độc (nhƣ Võ Đại Lang) hay tai nạn chấn thƣơng thì bị "máu
trào ra thất khiếu" chứ chẳng ai nói "máu trào ra cửu khiếu".

12-04-2007, 12:59 PM
31. (KTNN 101, ngày 01-02-1993)
"Tiền cheo" là tiền gì?

AN CHI: Trong Việt Nam văn hóa sử cƣơng, Đào Duy Anh đã liên hệ lệ nộp cheo Ở Việt Nam với tục lan nhai
(chặn đƣờng) của Trung Hoa. Còn Phan Kế Bính thì đã nói rõ nhƣ sau: "Lệ cƣới xin phải nộp tiền lan nhai cho
làng, thể gọi là nộp cheo. Ngƣời trong làng lấy nhau thì nộp độ một vài đồng bạc, gọi là cheo nội, ngƣời ngoài
lấy gái làng thì bao giờ cũng phải nộp nặng hơn, hoặc năm sáu đồng hoặc mƣơi đồng hoặc một vài chục, tùy tục
riêng từng làng, gọi là cheo ngoại. Có nơi không lấy tiền, bắt nộp bằng gạch bát tràng, hoặc nơi thì bắt nộp
bằng mâm đồng, bát sứ, tùy làng cần dùng thức gì thì nộp thức ấy chớ không nộp tiền, nhƣng chiếu giá tiền thì
cũng tƣơng đƣơng nhau. Ngoài lệ cheo làng, lại có lệ cheo hàng xóm, cheo bản tộc, cheo bản thôn, hoặc năm ba
tiền kẽm hoặc một vài quan hay một hai đồng bạc, v.v.. Hễ có cheo rồi mới thành gia thất. Cheo tức là ý phân
bua với làng nƣớc. Lấy nhau đã có cƣới cheo là sự hôn thú phân minh, về sau vợ chồng có điều gì không dễ mà
ly dị đƣợc nhau và ngƣời ngoài cũng không có phép mà tranh cạnh đƣợc nữa (Việt Nam phong tục, Nxb Đồng
Tháp, 1990, tr.180-181).

Thế là Phan Kế Bính đã nói rất rõ về khái niệm cheo. Nhƣng việc cả ông lẫn Đào Đây Anh liên hệ lệ nộp cheo với
tục lan nhai thì lại là một việc không đúng. Lan nhai (chặn đƣờng) là một tục lệ khác mà chính Phan Kế Bính
cũng có nói đến khi ông mô tả lệ giăng dây: "Trong lúc đi đƣờng thì những kẻ hèn hạ hoặc lấy sợi chỉ đỏ, hoặc
mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang giữa đƣờng, đám cƣới đi đến phải nói tử tế mà cho chúng nó vài hào thì chúng nó
mới cởi dây cho đi. Chỗ thì chúng nó bày hƣơng án, chờ đi đến, đốt một bánh pháo ăn mừng, chỗ ấy phải đãi họ
một vài đồng mới xuôi. Nếu bủn xỉn mà không cho chúng nó tiền, thì chúng cắt chỉ, cắt dây nói bậy nói bạ,
chẳng xứng đáng cho việc vui mừng, vì vậy đám nào cũng phải chọ” (Sđd, tr.59). Đây mới đích thị là tục lan
nhai.

NatPhung
14-04-2007, 05:29 PM
Trong Chuyện Đông Chuyện Tây câu 28 của tác giả An Chi nói về tứ hỉ nhƣ sau :

Đây là một bài thơ mà các trƣờng học ở thôn quê Trung Hoa ngày xƣa vẫn dạy cho học sinh. Nó đã đƣợc chép
trong Dung trai tùy bút của Hồng Mại đời Tống, Nguyên văn (phiên âm Hán Việt) nhƣ sau:

Đại hạn phùng cam vũ;


Tha hƣơng ngộ cố tri;
Động phòng hoa chúc dạ;
Kim bảng quải danh thì.

Dịch nghĩa:

Nắng hạn lâu ngày gặp mƣa nhuần


Nơi xứ ngƣời gặp đƣợc bạn cũ
Đêm đuốc hoa trong phòng cô dâu
Lúc thi đỗ bảng vàng treo tên.

Nhƣng tình cờ NatPhung đọc đƣợc trong Thần Đồng Thi của tác giả Uông Chu (汪洙) cũng có đúng bốn câu trên.
Vậy thực ra bài tứ hỉ thi này là của ai ? Hồng Mại hay Uông Chu ? Hay Hồng Mại chính là Uông Chu cũng nhƣ
Huệ Thiên chính là An Chi ?
Trong Từ điển nhân danh, địa danh và tác phẩm văn học nghệ thuật Trung Quốc của tác giả BS. Hoàng Xuân
Chỉnh (2000) có viết nhƣ sau :
Sheng Tong Shi - Thần Đồng Thi - Do thần đồng Uông Thù (汪洙) đời nhà Tống biên soạn, gồm 34 bài thơ làm
theo thể tuyệt cú, mỗi câu năm chữ. Đƣợc sáng tác khi tác giả mới 9 tuổi. (tr. 382).
Ở đây ta thấy nơi thì gọi là Chu, chỗ thì gọi là Thù, nhƣng gốc chữ Hán vẫn là 洙 (do đó là một).
Tự Điển Thiều Chửu : Thù cũng đọc là Chu

Mong cao nhân chỉ dạy.

NatPhung
15-04-2007, 01:11 AM
Vì chƣa tìm ra đƣợc bài Dung Trai tùy bút của Hồng Mại, nên Natphung không biết nội dung ra sao. Tuy nhiên,
trong bài Thần đồng thi của Uông Chu có hai chữ khác với bản Tứ hỉ thi do An Chi phiên âm. Đó là chữ "cửu 久"
thay vì "đại" và chữ "đỗng 洞" thay vì "động".
Sau đây là 4 câu trong bài Thần đồng thi (nguồn : vnthuquan) :

久旱逢甘雨,他鄉遇故知;
cửu hạn phùng cam vũ, tha hƣơng ngộ cố tri;
洞房花燭夜,金榜掛名時。
đỗng phòng hoa chúc dạ, kim bảng quải danh thì.

Từ điển Thiều Chửu : 洞 : đỗng, động.

NatPhung
15-04-2007, 09:40 AM
Do bác bận công việc khác, nên Natphung sẽ tiếp tục đƣa lên Chuyện Đông Chuyện Tây để các bạn cùng
thƣởng lãm. Tuy nhiên sẽ bớt hấp dẫn rất nhiều do thiếu phần ghi chú (nhƣ lời bàn Mao Tôn Cƣơng) uyên bác
nhƣng không kém phần dí dỏm của bác , nên Natphung mong mỏi các bạn sẽ tiếp tay Natphung để cho mục này
thêm phong phú và cũng mong bác tuy thời gian eo hẹp cũng lâu lâu ghé mắt và thêm ý kiến cho xôm tụ.

32. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)


“Chữ D.C. sau chữ Washington (Washington D.C.) là chữ gì ?

AN CHI : D.C. là 2 chữ đầu của District (of) Columbia. District of Columbia là một hạt liên bang, khác với
Columbia là thủ phủ của bang South Carolina. Vì Washington, thủ đô Hoa Kỳ, nằm trong hạt liên bang Columbia
nên ngƣời ta thƣờng viết Washington D.C. để phân biệt nó với Washington là tên một bang ờ miền tây bắc Hoa
Kỳ mà thủ phủ là Olympia.

33. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)


“Tại sao lại nói “con gái con đứa” để chỉ con gái và “đàn ông đàn ang” để chỉ đàn ông ?

AN CHI : Từ điển tiếng Việt 1992 giảng rằng con gái con đứa, là một lối nói của khẩu ngữ hàm ý chê bai để chỉ
gọi con gái nói chung. Đây chỉ là cách giảng theo nghĩa hiện đại. Còn xét về lịch đại thì con gái con đứa lại có
nghĩa là con gái con trai. “Trai” là nghĩa xƣa của đứa. Nghĩa này biến mất khỏi tiếng Việt hiện đại nhƣng trong
tiếng Mƣờng – một ngôn ngữ cùng gốc với tiếng Việt – thì đứa vẫn còn có nghĩa là “trai” (Xem, chẳng hạn, N.K.
Skolovskaja, Nguyễn Văn Tài, Jazƣk mƣơng, Moskva, 1987, tr. 189, từ 1830). Vì không còn biết đƣợc nghĩa của
đứa nữa nên ngƣời ta mới dùng cụm từ con gái con đứa để chỉ con gái một cách khái quát.

Trƣờng hợp của đàn ông đàng ang cũng tƣơng tự. Ang là biến thể ngữ âm của áng trong áng ná mà Từ điển Việt
- Bồ - La của A. de Rhodes và Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của đều giảng là “cha mẹ”. Vậy
ang là cha và đàn ông đàn ang là bậc ông bậc cha (so sánh với đàn anh đàn chị, chẳng hạn). Vì không còn biết
nghĩa của ang là gì nữa, nên ngƣời ta mới dùng cụm từ trên đây mà chỉ đàn ông nói chung, có hàm ý đùa cợt,
tƣởng rằng ở đây đàn ông đối nghĩa với đàn bà và cụm từ đang xét là kiểu từ lấp láy (mà không ngờ rằng ở đây
đàn ông là “bậc ông”, cũng nhƣ đàn anh là “bậc anh” và đàn chị là “bậc chị”.

Lời bàn (ra) của Natphung : Nhƣ vậy từ xƣa đến nay đàn chị vẫn là "bậc chị" còn đàn bà .... chỉ là đàn bà,
chẳng có bậc gì ráo trọi ... sao ?
Lời bàn của : Việt nam có câu đố "Trong các loại đàn, đàn nào kêu lớn nhứt?" Câu trả lời cho Natphung: Đàn bà.
Vậy đàn bà là bậc nhứt rồi. Có khi còn lớn lệnh hơn cả các ông, các "ang" nữa. Chẳng vậy mà ngày xƣa "dân
chơi" cỡ cụ Tú Xƣơng cũng đã than:
"Một trà một rƣợu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa đƣợc thứ nào hay thứ ấy.
Có chăng chừa rƣợu với chừa trà."

Ngày nay, "điên" nhƣ Bùi Giáng còn phải gọi là "bà trời". (Hình nhƣ trong TVE cũng có vài ngƣời nhƣ vậy).
Vậy là coi nhƣ đàn bà cũng có thứ bậc rồi, mà còn là bậc cao nữa. Chỉ còn lại 2 nhóm mà chƣa biết có bậc gì
không: "đàn em thân yêu" và "một nửa là đàn ông, một nửa là đàn bà". Đừng coi thƣờng mấy "đàn" này nhe.
"Đại biểu" của họ cũng không thiếu bậc anh hùng đó: Chẳng hạn Hoài Văn Hầu Trần quốc Toản và Tả quân Lê
văn Duyệt.

34. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)


“Trƣớc đây tôi cứ tƣởng bánh vẽ là bánh do ngƣời ta tƣởng tƣợng mà vẽ ra nên hai tiếng “bánh vẽ” mới dùng để
chỉ cái gì không có thật. Nhƣng trên Tuổi Trẻ chủ nhật số 28-92 (19.7.1992), trang 20, tác giả bài “Bánh vẽ” là
Đức Văn Hoa lại viết rằng đó là “một món bánh đặc sản cổ truyền của làng Vẽ, thôn Đông Ngạc, huyện Từ Liêm,
ngoại thành Hà Nội ngày nay” và câu ví :

Khát nƣớc đứng cạnh bờ ao


Đói ăn bánh vẽ chiêm bao đƣợc vàng

chính là đã nói đến thứ bánh đó của làng Vẽ.

AN CHI : Trong bài “Chữ và Nghĩa” (Ngôn ngữ, số 1, 1969 tr. 85-89) nhà văn Nguyễn Công Hoan cũng đã từng
nói nhƣ Đức Văn Hoa. Khác nhau là ở chỗ Nguyễn Công Hoan nói rằng bánh vẽ là loại bánh “thu đa nhập thiểu”
vì nó “to bằng quả ping pong, nhƣng khi ăn, bỏ vào miệng, bánh có nƣớc dãi làm tan ra thì nó chỉ tóp lại có một
tí” còn Đức Văn Hoa thì nói rằng đó là loại bánh “nạp thiểu thu đa” vì “bánh vẽ khi chƣa rán chín chỉ là một
miếng bột mỏng, bé tí tẹo, nhƣng khi rán chín sẽ nở phồng to nhƣ cái chén uống nƣớc.” Nguyễn Công Hoan còn
đề nghị viết hoa chữ “v” thành V“ẽ” nữa! Nhƣng cả Nguyễn Công Hoan lẫn Đức Văn Hoa đều không có lý: bánh
làng Vẽ, dù là “thu đa nhập thiểu” hay “nạp thiểu thu đa” thì cũng là thứ bánh có thật còn bánh vẽ lại là một thứ
bánh “hƣ” tuyệt đối, nghĩa là hoàn toàn không thật!

Bánh vẽ là một đơn vị từ vựng tiếng Việt ra đời bằng hình thức vay mƣợn theo lối dịch nghĩa (tiếng Pháp:
calque, tiếng Anh: calque, heteronym, loan translation) từ tiếng Hán là họa bỉnh. Sách Tam Quốc Chí, phần
Ngụy chí, truyện Lƣ Dục, có đoạn sau đây : “Tiếng tăm nhƣ bánh vẽ trên đất, không thể ăn đƣợc” (Danh nhƣ
họa địa tác bỉnh, bất khả đạm dã). Sách Truyền đăng lục cũng có ghi lại lời nói của Trí Nhàn: “Bánh vẽ không
thể làm cho hết đói” (Họa bỉnh bất khả sung cơ). Thơ của Lý Thƣơng Ẩn cũng có câu: “Cấp bậc (của quan) nhƣ
bánh vẽ” (Quan hàm đồng họa bỉnh). Thành ngữ họa bỉnh sung cơ (vẽ bánh làm nguôi cơn đói) vẫn còn tồn tại
trong tiếng Hán hiện đại.
Huình-Tịnh Paulus Của cũng đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị nhƣ sau: “Bánh vẽ. Cuộc dối giả, chữ gọi là
họa bỉnh.”

Vậy điều mà bạn “tƣởng” chính lại là điều hoàn toàn đúng sự thật và bánh vẽ chẳng có liên quan gì đến bánh
của làng Vẽ cả.

Lời bàn của :


Ở đời thƣờng khi bánh vẽ ngon hơn bánh thật, bởi cái trí tƣởng tƣợng của ta nó làm cho cái bánh vẽ luôn to hơn,
ngon hơn, thích hơn là bánh thật.
Mà hình nhƣ bánh vẽ cũng có nhiều ngƣời "ăn" hơn là bánh thật. Chỉ có điều là ngƣời ta không biết vì nó đƣợc
gọi bằng cái tên khác: "phép lịch sự", "lời chúc", "xã giao", "động viên", "khẩu hiệu", "khen thƣởng", "đạt thành
tích", "ủng hộ về mặt tinh thần",
Ví dụ:
- Chị uốn tóc kiểu này trông trẻ hẳn ra (trong bụng thì nghĩ: "Xí. Già mà còn ngựa")
- Cơ quan ta năm nay đạt thành tích cao, vƣợt chỉ tiêu 15% so với cùng kỳ năm ngoái. (Có ai biết năm nay lạm
phát tăng bao nhiêu phần trăm không? Vậy tiền thƣởng có tăng không?)
- Các anh chị còn trẻ, còn rất nhiều cơ hội nên phải luôn có gắng phấn đấu (chứ chúng tôi thì ... già rồi nên
miễn cái vụ phấn đấu...)
- Nƣớc ta biển bạc rừng vàng, tài nguyên thiên nhiên phong phú (có còn không?)
Ví dụ còn dài, ai có ý kiến hay xin ghi vào. tạm kết bằng câu thơ của Bút Tre.
Thi đua ta quyết thi đua,
Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu.
Hàng đầu rồi biết đi đâu.
Đi đâu không biết hàng đầu cứ lên.

15-04-2007, 03:35 PM
Vì chƣa tìm ra đƣợc bài Dung Trai tùy bút của Hồng Mại, nên Natphung không biết nội dung ra sao. Tuy nhiên,
trong bài Thần đồng thi của Uông Chu có hai chữ khác với bản Tứ hỉ thi do An Chi phiên âm. Đó là chữ "cửu 久"
thay vì "đại" và chữ "đỗng 洞" thay vì "động".
Sau đây là 4 câu trong bài Thần đồng thi (nguồn : vnthuquan) :

久旱逢甘雨,他鄉遇故知;
cửu hạn phùng cam vũ, tha hƣơng ngộ cố tri;
洞房花燭夜,金榜掛名時。
đỗng phòng hoa chúc dạ, kim bảng quải danh thì.

Từ điển Thiều Chửu : 洞 : đỗng, động.

Không dám nhận hai chữ cao nhân của anh Natphung, mà chắc cũng chẳng có ai lại nhảy vào tự nhận mình là
cao nhân cho dù có ... cao 1 thƣớc tám nhƣ cầu thủ bóng rổ. Thôi thì biết gì nói nấy coi nhƣ thầy bói sờ voi.

Dung trai tùy bút là một bộ sách của Hồng Mại, một học giả đời Tống chép lại những điều hay cho đời sau suy
gẫm, cũng kiểu nhƣ "Thƣợng Kinh Ký Sự" của Lê Hữu Trác hay Sài-gòn năm xƣa của Vƣơng Hồng Sển. Vì vậy
An Chi mới ghi là "chép trong Dung trai tùy bút..." chứ không nói là của Hồng Mại.

Bài Thần đồng thi tƣơng truyền là của Uông Chu (âm hiện đại đọc Uông Thù) sáng tác năm chín tuổi. Hiện nay
có nhiều giáo sƣ đại học tại Trung Quốc đang xét lại nhiều tác phẩm đƣợc gán cho là của thần đồng Uông Chu,
và cũng đồng ý với quan niệm này.

Hãy đọc vài câu trong "Thần đồng thi" các bạn có nghĩ rằng đây là suy nghĩ,và khẩu khí của một đứa bé, cho
dẫu nó là thần đồng nhƣ Trần Đăng Khoa.

春遊芳草地,夏賞綠荷池;
xuân du phƣơng thảo địa, hạ thƣởng lục hà trì;
秋飲黃花酒,冬吟白雪詩。
thu ẩm hoàng hoa tửu, đông ngâm bạch tuyết thi.
...
傾國姿容別,多開富貴家;
khuynh quốc tƣ dung biệt, đa khai phú quý gia;
...
人在艶陽中,桃花映面紅;
nhân tại diễm dƣơng trung, đào hoa ánh diện hồng;
年年二三月,底事笑春風。
niên niên nhị tam nguyệt, để sự tiếu xuân phong.

Con nít chín tuổi mà đòi mùa xuân dạo đồng cỏ, mùa hạ ngắm hồ xanh, mùa thu nhậu rƣợu thuốc, mùa đông
ngồi ngâm thơ vịnh tuyết trắng. Rồi thì những tơ tƣởng giai nhân sắc đẹp khuynh quốc, ngƣời đẹp má ánh hoa
đào nhƣ Thôi Hộ, rồi thì mỗi năm để tháng hai ba lấy vây-cây-xông (vacation) nghỉ mát mà cƣời cợt gió Xuân ...
thì khẩu khí lớn quá không? Hay là ông bầu của thần đồng cũng chơi trò khai gian... sụt tuổi?

Riêng về chữ cửu và chữ đại thì có lẽ là dị bản.


Đa số các sách Việt đều in là "Đại hạn" nhƣng các sách/website Tàu lại ghi "Cửu hạn". Dầu cả hai đều mang
nghĩa "Hạn hán lớn" Nhƣng chữ "Cửu" hay hơn chữ "Đại". "Đại hạn" là hạn lớn nói chung nhƣng có thể chừng
một hai năm nay. Còn "Cửu" (nhƣ cửu ngƣỡng, trƣờng cửu,...) là lâu lắm rồi, là maximum. Cho nên Cửu hạn thì
nó hạn lâu rồi, hạn ... dữ lắm.

15-04-2007, 04:58 PM
LƢỢM LẶT:

Cho hỏi trên tay vặn vòi nƣớc nhà tắm hay nhà vệ sinh thƣờng có hai chữ "H" và "C" trên tay vặn nghĩa là gì?

TRẢ LỜI:

Khi bạn hỏi, tôi nghĩ rằng dù bạn vặn tay nắm bên nào thì vòi nƣớc của bạn cũng chỉ có ... nƣớc lạnh chảy ra
cho nên bạn mới hỏi nhƣ trên. Ở những nơi có trang bị nƣớc nóng và nƣớc lạnh thì thƣờng vòi bên trái (có chữ
H) có nƣớc nóng khoảng 50-55 độ C, và vòi bên phải (có chữ C) là nƣớc lạnh ở nhiệt độ bình thƣờng.
Chữ H là chữ Hot (nóng) tiếng Anh viết tắt.
Chữ C là chữ Cold (lạnh) tiếng Anh viết tắt

Nếu bạn mua vòi nƣớc của châu Âu thì có thể thấy chữ C và chữ F.
Chữ C là Chaud (nóng) và chữ F là Froid (lạnh).
Lời bàn (ra) của :
Nếu bên chữ H không có nƣớc, chỉ có nƣớc 1 bên chữ C thì chữ H là "Hết" và chữ C là "Còn"

NatPhung
18-04-2007, 03:09 PM
35. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)
“Trong Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, tác giả Nguyễn Lân đã giảng câu Nằm giá khóc măng nhƣ sau:
“Theo một truyện trong Nhị thập tứ hiếu, một ngƣời con có hiếu đi kiếm măng cho mẹ, không thấy măng, nằm
trên tuyết khóc, măng thƣơng tình (!) mọc lên cho anh lấy”. Nếu tôi nhớ không nhầm thì nắm giá và khóc măng
là hai tích khác nhau. Xin nhờ giải đáp giúp.

AN CHI : Vâng, ông đã nhớ không nhầm. Đó là hai tích khác nhau đã đƣợc tác giả Nguyễn Lân gộp lại làm một.
Anh nằm giá là Vƣơng Tƣờng đời Tấn. Mồ côi mẹ phải sống với dì ghẻ độc ác, Vƣơng Tƣờng vẫn một lòng hiếu
thảo. Có lần đang mùa đông nƣớc đóng băng mà dì ghẻ thèm ăn cá tƣơi. Vƣơng Tƣờng phải cởi trần mà nằm
trên giá để chờ bắt cá. Tự nhiên thấy băng nứt đôi rồi từ dƣới khe nứt có hai con cá chép nhảy lên. Vƣơng Tƣờng
bắt đem về cho dì ghẻ ăn và nhờ đó mà đã cảm hóa đƣợc mụ này. Còn anh khóc măng lại là Mạnh Tông đời
Tam quốc, mồ côi cha và chí hiếu với mẹ. Đang mùa hiếm măng mà mẹ bệnh lại thèm ăn măng. Không biết làm
cách nào, Mạnh Tông đành ra ngồi ở bụi tre to sau vƣờn mà khóc. Bỗng chốc có mấy mụt măng từ dƣới đất mọc
lên. Mạnh Tông xắn măng đem về làm thức ăn cho mẹ. Nhờ thế mà mẹ khỏi bệnh.

Vậy nằm giá và khóc măng là hai chuyện của hai anh chứ không phải của một anh và “nằm giá khóc măng” phải
đƣợc viết có dấu phẩy sau vế trƣớc thành “nằm giá, khóc măng” chứ không phải “liền mạch” nhƣ Nguyễn Lân đã
viết!

Lời bàn (ra) của goldfish:

Còn anh khóc măng lại là Mạnh Tông đời Tam quốc, mồ côi cha và chí hiếu với mẹ. Đang mùa hiếm măng mà
mẹ bệnh lại thèm ăn măng. Không biết làm cách nào, Mạnh Tông đành ra ngồi ở bụi tre to sau vƣờn mà khóc.
Bỗng chốc có mấy mụt măng từ dƣới đất mọc lên. Mạnh Tông xắn măng đem về làm thức ăn cho mẹ. Nhờ thế
mà mẹ khỏi bệnh.Măng tre từ lâu đã đƣợc dùng làm thức ăn và làm thuốc (xem
http://www2.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2006/4/25/146558.tno)
(http://www2.thanhnien.com.vn/Suckhoe/2006/4/25/146558.tno%29). Tuy nhiên trong măng có chất độc HCN
nên: “Để loại bỏ HCN trong măng, cần luộc và ngâm kỹ. Trong 100 g măng tƣơi chƣa luộc có 32-38 mg HCN. Ở
măng đã luộc kỹ (đổ nƣớc), lƣợng chất này còn 2,7 mg, ở măng tƣơi ngâm chua là 2,2 mg, ở nƣớc luộc măng là
10 mg” (xem http://www.amthucvietnam.com/health/19_05_2003-2.asp)
(http://www.amthucvietnam.com/health/19_05_2003-2.asp%29).

Các hiếu tử ngày nay nghĩ sao?

Lời bàn (ra) của :

Truyện nói là măng "thần" chắc không có độc.

Truyện cũng nói mẹ của Mạnh Tông bệnh nên thèm ăn măng. Có điều không rõ bà bị bệnh gì mà thèm ăn
măng. Chắc không phải ốm nghén, vì sau khi ăn măng thì "hết bệnh". Cho nên có lẽ bà ăn măng để trị bệnh gì
đó.

Cũng không biết bà "ăn" kiểu nào. Hầm, luộc, hay ... tán thành than làm cao đơn hoàn tán. Bởi vì trong tiếng
Tàu thì ngƣời ta nói là "ăn" thuốc, chứ không nói "uống" thuốc nhƣ ngƣời Việt. Phải có thầy lang nào ra tay chẩn
đoán nhƣ Bác Sĩ Lê Văn Sơn chẩn đoán nhân vật Tam quốc (http://vnexpress.net/Vietnam/Suc-
khoe/2003/01/3B9C4095/) thì may ra mới biết.

NatPhung
18-04-2007, 03:19 PM
36. (KTNN 102, ngày 15-02-1993)
Tại đám cƣới ngƣời ta hay trang trí hai con vật Long và Phụng và bảo là tƣợng trƣng cho sự hòa hợp vợ chồng
(?). Tại sao thế đƣợc, khi mà hai con vật hoàn toàn khác giống với nhau. Ở đâu đó, có ngƣời nói : con trống là
Loan, con mái là Phụng. Vậy Loan-Phụng đúng hay Long-Phụng đúng ?

AN CHI : Phụng hoàng là một giống chim huyền thoại mà theo mô tả thì thuộc loại gà (gallinacé), đƣợc Đổng
Tác Tân đồng nhất với con công. Phụng là con trống, hoàng là con mái. Còn loan chỉ là một giống chim đƣợc mô
tả là giống nhƣ phụng hoàng mà thôi. Vậy loan không phải là con trống và phụng không phải là con mái (vì nó
là cặp trống) trong cặp loan-phụng.

Trong Hán ngữ, hai tiếng loan phụng đƣợc dùng để chỉ các nghĩa mà Từ hải đã cho nhƣ sau :
1. để chỉ những ngƣời trung nghĩa (dĩ dụ thiện loại)
2. để chỉ ngƣời tài giỏi xuất sắc (dĩ dụ anh tuấn chi nhân)
3. để chỉ vợ chồng (dĩ dụ kháng lệ)
Do nghĩa 3 mà có các thành ngữ nhƣ: loan phụng hoà minh (loan phụng cùng hót) để chỉ vợ chồng hòa hợp,
loan tiên phụng giản (tờ loan thẻ phụng) để chỉ giấy tờ hôn sự của cô dâu chú rể. Tuy nhiên, nghĩa 3 chỉ là
nghĩa ẩn dụ mà thôi vì loan không phải là con mái của con phụng. Vì con loan không phải là con phụng mái nên
trong đám cƣới ngƣời ta không thể trang trí con loan con phụng cho thành cặp đôi đƣợc.

Ngƣợc lại, trong đám cƣới ngƣời ta trang trí con long (rồng) và con phụng vì đây là hai con vật trong hàng tứ
linh tƣợng trƣng cho sự cao sang và điềm cát tƣờng. Tên và hình của chúng thƣờng đi chung với nhau. Vì thế
mà có các thành ngữ nhƣ: long bàn phụng dật (rồng nằm phụng núp) để chỉ ngƣời có tài mà chƣa gặp thời, long
dƣợc phụng minh (rồng nhảy phụng hót) để chỉ tài ba phát tiết ra ngoài, long chƣơng phụng tƣ (vẻ rồng dáng
phụng) để chỉ sự cao nhã, hào phóng, long phụng trình tƣờng ( rồng phụng mang điều lành đến) để chỉ vận số
cực hảo, hoặc long đầu phụng vĩ (đầu rồng đuôi phụng) để chỉ sự tốt đẹp tự thủy chí chung. Vậy hình con long
con phụng trang trí trong đám cƣới chính là tƣợng trƣng cho sự cao sang vốn là ƣớc muốn chính đáng của mọi
ngƣời, nhất là tƣợng trƣng cho ý long đầu phụng vĩ vốn là một lời chúc bằng hoa lá tƣơi đẹp (dùng để kết thành
hình long phụng) cho đôi tân lang và tân giai nhân đƣợc mãi mãi hạnh phúc từ phút tân hôn đến lúc đầu bạc
răng long.

goldfish
19-04-2007, 04:03 PM
Bác Natphung ghi:

Sau đây là 4 câu trong bài Thần đồng thi (nguồn: vnthuquan):

久旱逢甘雨,他鄉遇故知;
cửu hạn phùng cam vũ, tha hƣơng ngộ cố tri;
洞房花燭夜,金榜掛名時。
đỗng phòng hoa chúc dạ, kim bảng quải danh thì.

Từ điển Thiều Chửu : 洞: đỗng, động.


Goldfish dịch (cúm gà):

Nắng quá dài – cực say đại vũ


Xa thôn làng - ngƣời cũ gặp nhau
Suốt đêm hoa chúc ngọt ngào
Bảng vàng kia đã gắn vào một tên
-----------
Xin bổ sung (theo TuDienHanVietThieuChuu – EBook):
洞 đỗng (9n) 1: Cái động (hang sâu). 2: Lỗ hổng, cái gì đục thủng đều gọi là đỗng. 3: Suốt. Nhƣ đỗng giám 洞鑒
soi suốt.
(Goldfish dịch theo nghĩa thứ 3: Suốt)

Lời bàn ra của :


Hơ hơ: Đâu có phải là "đỗng dạ" đâu mà bác lửng lơ "suốt đêm". Hay là bác không thích cái chuyện khắp phòng
"suốt" từ tƣờng này qua tƣờng kia vì nó phàm tục quá, nó chật chội quá?
"Thơ viết đừng xong, thuyền chớ đỗ" Mà lỡ viết xong rồi thì đành phải sửa bản gốc lại:
"Đỗng dạ phòng hoa chúc". Nghe cũng không tệ, có điều không biết có ai "hỉu" không.

NatPhung
20-04-2007, 04:44 PM
Bác Natphung ghi:
Goldfish dịch (cúm gà):

Nắng quá dài – cực say đại vũ


Xa thôn làng - ngƣời cũ gặp nhau
Suốt đêm hoa chúc ngọt ngào
Bảng vàng kia đã gắn vào một tên
-----------
Xin bổ sung (theo TuDienHanVietThieuChuu – EBook):
洞 đỗng (9n) 1: Cái động (hang sâu). 2: Lỗ hổng, cái gì đục thủng đều gọi là đỗng. 3: Suốt. Nhƣ đỗng giám 洞鑒
soi suốt.
(Goldfish dịch theo nghĩa thứ 3: Suốt)

Lời bàn ra của :


Hơ hơ: Đâu có phải là "đỗng dạ" đâu mà bác lửng lơ "suốt đêm". Hay là bác không thích cái chuyện khắp phòng
"suốt" từ tƣờng này qua tƣờng kia vì nó phàm tục quá, nó chật chội quá?
"Thơ viết đừng xong, thuyền chớ đỗ" Mà lỡ viết xong rồi thì đành phải sửa bản gốc lại:
"Đỗng dạ phòng hoa chúc". Nghe cũng không tệ, có điều không biết có ai "hỉu" không.

Ghi chú của Natphung:

Tƣơng truyền đời nhà Trần có một lão sinh họ Văn tên Nạt, tính tình hợm hĩnh nên ngƣời đƣơng thời không mấy
ƣa thích mà gọi là Văn Nhạt lão sinh. Do cảm thán sau khi đọc bài Tứ Hỉ Thi của thần đồng Uông Chu mà viết
một bài Cảm Thán Thi trong đó có bốn câu :

Đại vũ xong rồi nắng cực lại


Làng thôn đây đó còn chờ mong
Đỗng dạ hay không hoa chúc rõ
Ai tai một mạng kim ngƣ tong!

(Trích trong Lĩnh Nam tà quái truyện)

Thấy có phần tƣơng đồng với hai bài trên của bác Goldfish và Bác , nên Natphung xin mạn phép chép ra đây.

NatPhung
20-04-2007, 04:51 PM
37. (KTNN 102, Xuân Nhâm Thân)
Tại sao lại nói “giao thừa”? Có phải đó là do “giao thời” nói trại ra hay không?

AN CHI : Trong bài “Nên hay không nên loại bỏ chữ Hán ra khỏi ngôn ngữ Việt”, Dã Lan Nguyễn Đức Dụ có cho
rằng giao thừa là do giao thời mà ra (Xem Sông Hƣơng, số 5, tháng 9-10, 1992, tr. 86). Đây là một sự nhầm
lẫn. Giao thừa là tiếng Hán đích thực (ở đây là đọc theo âm Hán Việt), đã đƣợc Hán Việt từ điển của Đào Duy
Anh giảng nhƣ sau: “Cũ giao lại, mới tiếp lấy – Lúc năm cũ qua, năm mới đến”. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn
Quốc Hùng cũng giảng giao thừa nhƣ sau: “Tiếp nối nhau. Chỉ thời gian năm cũ hết, năm mới bắt đầu”. Vậy
trong giao thừa, thì thừa có nghĩa là tiếp nối, tiếp nhận chứ không phải do thời nói trại ra.
Hai tiếng giao thừa có hàm ý tống cựu nghênh tân (đƣa cũ tiếp mới) vì dân gian tin rằng mỗi năm đều có một
ông hành khiển coi việc trần gian; cứ hết năm, đúng lúc giao thừa, thì ông tiền nhiệm bàn giao cho ông kế
nhiệm. Vì vậy mà có cúng giao thừa để tiễn ông cũ và đón tiếp ông mới. Chính là xuất phát từ quan niệm này
mà Nguyễn Công Trứ đã làm hai câu đối Tết quen thuộc :

Chiều ba mƣơi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa:
Sáng mồng một rƣợu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

NatPhung
20-04-2007, 04:57 PM
38. (KTNN 102, Xuân Nhâm Thân)
Tại sao ngƣời ta thƣờng nói ghép “tết nhất”? Có phải “nhất” có nghĩa là một hay không ?

AN CHI : Hai tiếng tết nhất chỉ dùng để nói về tết Nguyên đán chứ không chỉ các tết khác trong năm (nhƣ Đoan
ngọ, Trung thu v.v…). Nhất là đầu tiên; nó là một thành tố ghép vào sau từ Tết để láy nghĩa của từ này theo
kiểu hai từ cùng nghĩa hoặc gần nghĩa đi chung với nhau. Tết ở đây là tết Nguyên đán nói tắt, mà Nguyên đán là
buổi sáng đầu tiên (của năm âm lịch). Đồng thời, những ngày tết cũng là những ngày đầu tiên trong năm mới.
Cái nét nghĩa “đầu tiên” rõ ràng là một nét nghĩa chung cho cả tết lẫn nhất. Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng
tết nhất là lối nói trại của tiết nhật (= ngày tết). Ta khó mà giải thích đƣợc vì sao mà tiếng thứ hai lại phải
chuyển từ thanh 6 (dấu nặng) sang thanh 5 (dấu sắc), nghĩa là từ nhật thành nhất. Hơn nữa, tiết nhật là một
cấu trúc chính-phụ của tiếng Hán trong khi ngƣời nói hiện nay vẫn còn cảm nhận đƣợc rằng tết nhất là một cấu
trúc đẳng lập của tiếng Việt trong đó tết và nhất là đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau.

Lời bàn (ra) của :


"tiết nhật là một cấu trúc chính-phụ của tiếng Hán trong khi ngƣời nói hiện nay vẫn còn cảm nhận đƣợc rằng tết
nhất là một cấu trúc đẳng lập của tiếng Việt trong đó tết và nhất là đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với nhau." Nhất
là đầu tiên, là "tiền đâu", là đồng nghĩa với Tết, cho nên chẳng lạ khi ngƣời ta lợi dụng ngày Tết để thi hành thủ
tục đầu tiên, hay đòi hỏi thủ tục đầu tiên.

Con nít thích Tết không phải chỉ vì đƣợc ăn ngon mặc đẹp trong ba ngày Tết mà chủ yếu vì đƣợc lì-xì. Mặc đẹp
ăn ngon thì trong năm nhiều dịp lắm nhƣng xin tiền thì hay bị bố mẹ mắng. Vậy mà ngày Tết ngày nhất thì
chẳng những đƣợc bố mẹ lì-xì mà cả hàng xóm cho tới mấy "cô chú lạ hoắc" trong cơ quan của bố mẹ cũng tói
tận nhà để lì xì. Tết là nhất.

Ngƣời lớn thích Tết vì Tết thì đƣợc quyền lấy lì xì, lấy quà cáp trên mức tình cảm mà không bị mang tội tham
nhũng hay cửa quyền. Ngày thƣờng thì ngƣời trao lẫn ngƣời nhận rất ngại ngùng mà mở miệng, không biết bắt
đầu từ đâu. Nhƣng Tết thì khác. Tiếng Việt có hàng lô hàng lốc các câu xã giao để "breaking ice", tha hồ mà nói.
Nói tiếng Việt chƣa "đã" thì lôi cả tiếng Tàu "Cống hỉ fá chòi" với tiếng Anh "Hép-bi niêu dìa" vào để cho cả chủ
lẫn khách đều thấy mình "trí thức" hơn, có "năng lực công tác" cao hơn. Tết là nhất.

Tết là nhất vậy thì ngày nào là nhị, là tam, là tứ, là ... hạng chót? Chắc là mấy ngày hậu Tết. Khi mà nhìn thấy
tiền dành dụm cả năm bay đi mất, thêm một đống nợ chƣa biết làm sao trả, một đống "bills" của thẻ tín dụng
(credit card) gửi về nhƣ cánh bƣớm vƣờn xuân thì chắc chắn là hết tết hết nhất rồi. Ngao ngán nhìn đống nợ
bỗng thấy "ba (ngày) Xuân dọn lại một ngày ... phiền ghê".

Nhìn lại thấy cái lọ cắm hoa mai nằm trơ vơ trên bàn vì bà trời đã dẹp mấy cành mai "ny-lon" rồi. Bỗng cám
cảnh chị Hồ:

"Cột nhổ đi rồi lỗ bỏ không".

goldfish
20-04-2007, 10:29 PM
Theo bác thì ông Thủ Khoa Nghĩa đã thêm mỗi câu 2 chữ “cho mạch văn mạnh mẽ, ý tứ tuôn trào hơn”:
Cửu niên đại hạn phùng cam vũ;
Thiên lý tha hƣơng ngộ cố tri;
Hòa thƣợng động phòng hoa chúc dạ;
Thiếu niên kim bảng quải danh thì.
Ngƣợc lại, ông đồ xứ Nghệ nào đó cũng thêm mỗi câu 2 chữ cho Tứ Khoái thành Tứ Bất Khoái:

Diêm điền đại hạn phùng cam vũ.


Đào trái tha hƣơng ngộ cố tri.
Thái giám động phòng hoa chúc dạ.
Phế nhân kim bảng quải danh đề.

(Diêm điền: ruộng muối; Đào trái: trốn nợ)

Goldfish tôi thấy mang ngƣời chẳng may bị tàn phế ra đùa cợt thì không phải chút nào. Vã lại, vƣợt qua số
phận, đƣợc ghi tên bảng vàng thì… khoái càng thêm khoái. Phải không các bác?
Goldfish tôi vốn liều, muốn thay 2 chữ “Phế nhân” nhƣng nghĩ mãi vẫn chƣa ra. Chịu!

Lời bàn (vô) của :


Cái ý "tứ bất khoái" này nó không thống nhất ở cái chỗ ai bị "bất khoái". Là chủ ngữ trong câu hay là ngƣời
ngoài.

- Rõ ràng "diêm điền" đại hạn bị mắc mƣa thì cái ruộng nó chẳng "khoái", cũng chẳng "bất khoái". Chỉ có chủ
ruộng muối "bất khoái" thôi.

- Đào trái gặp ngƣời quen thì chƣa chắc là chủ nợ. Dẫu là chủ nợ thì đây là đất lạ quê ngƣời, chủ nợ cũng chẳng
làm gì đƣợc mình, chẳng khoái lắm sao. Đã có gan đào trái, chẳng lẽ không có mặt dầy nói ngang một lần nữa.
Không phải chủ nợ thì có khi còn đƣợc giúp đỡ là đàng khác, chẳng khoái lắm sao.

- Thái giám động phòng thì "khoái" hay "bất khoái" thì còn tùy hoàn cảnh. Nếu nhƣ thái giám còn "phong lƣu"
(phiên trại âm của chữ feelings) thì có lẽ bất khoái thật, nhƣng nếu nhƣ đã mất hết "phong lƣu" với "phiêu-linh",
thì còn không mau nắm đầu con tiện phụ mà quát cho một trận: "Cái ngữ nhà mày mà cũng muốn làm bà trời
của lão công công này sao" cho nó chạy "đỗng phòng đỗng dạ" luôn chẳng khoái lắm sao. Mà ngƣời rình xem
ngoài cửa TVE để đọc cũng ... khoái., vì nó "khoai không chịu nổi", cũng chẳng khoái lắm sao.

- Kim bảng đề danh thì ngƣời đƣợc đề danh phải khoái chứ. Chỉ có ngƣời không muốn đề danh nhƣ "phạm nhân"
trong sổ bìa đen của Interpoll mà bị đề danh tận kim bảng thì mới không khoái, nhƣng ngƣời ngoài xem bảng lại
khoái. Còn nhƣ các thí sinh "văn võ song toàn"mà trƣợt võ chuối hết để cho một "nữ nhân" quần thoa giả danh
chiếm kim bảng thì vị anh thƣ đó vẫn khoái nhƣ thƣờng. Chỉ có mấy ngƣời ngoài xem bảng là "bất khoái" thôi.
Còn mấy vị "công-công" có rãnh mà ra xem bản tìm cơ hội kiếm bạc thì "bất khoái chi nhi bất bất khoái", cũng
nhƣ cái diêm điền thôi.

Thế mới biết ông đồ chẳng bằng ông nghè.

Ông nghè Huân đến lúc bị chém đầu ở chợ Phú Kiết, Định Tƣờng vẫn còn kịp ngâm hết câu:

Thắng bại doanh thâu Trời khiến chịu.


Phản thần đ.m. đứa cƣời ông

Cũng chỉ hai chữ "đ. m." buông đúng lúc, đúng chỗ khiến cho cả đám bồi thần đứng xem với quan thầy đang
"khoái" bỗng thành "bất khoái".

Xem đến đây, các bác và tôi cũng chẳng khoái lắm sao.

NatPhung
22-04-2007, 04:01 PM
Thƣa hai bác và Goldfish,

Hôm qua Natphung đọc bài của bác Goldfish về vụ tứ bất khoái, Natphung hơi bị cồng phu (confused), hôm nay
đọc thêm lời bàn vô của bác Natphung lại càng thêm tẩu hỏa nhập ma. Vì Natphung nhớ mang máng cái vụ tứ
khoái nó khác hẳn những gì hai bác đang bàn luận, tứ khoái nó cao siêu dữ lắm chứ đâu có nhƣ vụ trốn nợ gặp
ruộng muối hay công công có tên trên bảng vàng.

Natphung hỗm rày bị Tổ Hùng quở (*) vì tội ăn nói bằng chữ quốc ngữ không xong, lâu lâu cứ phải chêm thêm
tiếng Phú Lang Sa hay tiếng Cờ Huê hoặc chữ Hán (ra cái điều Hán rộng) mới tỏ đƣợc hết ý của mình (nhƣ cồng
phu, tẩu hỏa nhập ma), nên không còn tự tin nữa, Natphung tôi bèn trở lại mấy kỳ trƣớc của mục chuyện Đông
chuyện Tây (câu 28) Natphung thấy rõ ràng anh hai An Chi có nghiên cứu nhƣ sau:
AN CHI: Tứ khoái là quan niệm của ngƣời Việt Nam gồm có: ăn, ngủ, đ. và ị. Đây là bốn cái thú có tính chất
sinh lý. Còn tứ hỉ là một quan niệm của ngƣời Trung Hoa, có nghĩa là bốn điều mừng, bốn điều tốt lành.Đọc
xong câu trên Natphung không những không hết hoang mang mà lại càng thêm lo lắng.

Hoang mang là vì: hỉ thì có khoái hay không và ngƣợc lại khoái thì có hỉ không? Hình nhƣ là hỉ thì chƣa chắc đã
khoái nhƣng khoái thì chắc chắn có hỉ.

Lo lắng là vì hình nhƣ và Goldfish cũng bị Tổ Hùng rầy la dữ lắm nên quính quáng đến nỗi lẫn lộn từ ta sang
Tầu, âu đó cũng là tội đa mang, hai chân rƣỡi mà đòi đứng tới ba thuyền. Không biết giờ này hai bác có còn bốn
cái thú tính sinh (viết ngắn gọn từ:"cái thú có tính chất sinh lý" cho nó hợp với thời đại) nhƣ anh hai đã nghiên
cứu hay không?

Lo lắng lắm thay.

(*) http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=264598&mpage=1&key=�

Lời bàn vòng vòng của :

Anh hai An Chi thì hay rạch ròi chuyện từ nguyên, nhƣng đâu đó cũng có chua thêm là thƣờng ngƣời ta (Việt)
hay dùng lẫn lộn tứ hỉ và tứ khoái. Mặt khác, diễn nôm của hỉ là mừng, hoặc khoái một chút, nhƣng diễn Hán()
của khoái lại là hỉ. Cho nên bác goldfish và có nôm na lung tung khoái hỉ-khoái, khoái hỉ thì cũng "thế gian sự
thƣờng" (**). Chắc Tổ cũng ngậm ngùi một chút rồi bỏ qua.

Cái chuyện đa mang ba thuyền, ba góc, cũng tại ham chơi với chị Hồ nên cứ mãi thừa-thiếu, thiếu thừa (***).
Nói tới cái chuyện Tây tàu lẫn lộn, mới nhớ cái chuyện Tây lấy vợ Việt. Đêm động phòng, làm xong một cặp đệ
tam hỉ (Nôm) xong xuôi cho nó đủ "song hỉ" thì nghe cô dâu mới bảo chú rễ (Tây) "Ngủ hỉ". Chú rễ hoảng hồn
nhƣng cũng ráng chìu cô vợ mới. Ai dè đâu tới mờ sáng mới xong chỉ tiêu lại nghe cô dâu thỏ thẻ "Ngủ hỉ". Chú
rể bèn kêu "Trời". Từ đó các cô dâu đƣợc gọi là bà trời.

Còn bốn cái thú tính sinh mà bác hỏi "hết hay còn" thì phải hỏi lại ngƣời giữ tay hòm chìa khóa mới biết.

(**) http://www.aihuucongchanh.com/luomlat.html
(***) Chành ra ba góc da còn thiếu. Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa. (Hồ Xuân Hƣơng)
goldfish
22-04-2007, 09:42 PM
Goldfish tôi khoái (lại khoái với hỉ!) cái sự vụ hai bác và Natphung thêm “hoa lá” cho cái “chân phƣơng” sao y
bản chính. Do vậy mà Goldfish tôi lội vào cái mục CĐCT này mà lơ lững con cá vàng cho thêm phần “lấy dài làm
vui”:

Chuyện đàng Đông kẻ đong ngƣời đếm


Chuyện đàng Tây tay lại chuyền tay
Luận bàn (ra), lƣợm lặt (thêm) đôi bài
Khi ghi (chú), khi dịch (cúm gà) lấy dai làm vùi

NatPhung
23-04-2007, 10:11 AM
39. (KTNN 102, Xuân Nhâm Thân)
"Ngũ hành sinh khắc" là gì?

AN CHI: Ngũ hành là năm yếu tố nguyên thủy: kim (kim loại), mộc (gỗ), thủy (nƣớc), hỏa (lửa), thổ (đất). Ngũ
hành sinh khắc là năm yếu tố nguyên thủy sinh ra nhau (sinh) và triệt tiêu lẫn nhau (khắc) lần lƣợt nhƣ sau:

thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ;
thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ.

Đây là một quan niệm duy vật thô sơ bắt nguồn từ những điều quan sát thực tế chính xác. Chẳng hạn lòng đất
chứa quặng kim loại (thổ sinh kim); có nƣớc thì cây cối mới tốt (thủy sinh mộc); đốt gỗ thì ra lửa (mộc sinh
hỏa), v.v…

Hoặc tƣới nƣớc vào lửa thì lửa tắt (thủy khắc hỏa); dùng lửa nung chì thì chì sẽ chảy (hỏa khắc kim); dùng rìu
chặt gỗ thì gỗ sẽ đứt (kim khắc mộc), v.v…

Từ sự quan sát quá trình sinh khắc này, ở thời cổ đại, ngƣời Trung Hoa đã quan niệm rằng ngũ hành là những
yếu tố nguyên thủy cấu tạo nên vạn vật.

NatPhung
23-04-2007, 10:20 AM
40. (KTNN 102, Xuân Nhâm Thân)
Ngày tết ngƣời ta thƣờng nói: “ngũ phúc lâm môn”. Câu này nghĩa là gì và ngũ phúc là những phúc nào? Hình
nhƣ có hai cách hiểu khác nhau? Vậy cách nào đúng hơn?

AN CHI: Ngũ phúc lâm môn là năm phúc đến cửa, nghĩa là đến nhà. Trong tranh vẽ, ngƣời Trung Hoa thƣờng
tƣợng trƣng ngũ phúc bằng hình năm con dơi. Ngƣời Việt Nam thì cho rằng ngũ phúc là: phú (giàu), quí (sang),
thọ (sống lâu), khang (mạnh khỏe), ninh (bình an). Quan niệm này đã đƣợc ghi nhận trong Hán Việt từ điển của
Đào Duy Anh. Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng, Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên và Từ điển
tiếng Việt 1992. Nhƣng chính ngƣời Trung Hoa thì lại dựa vào thiên “Hồng Phạm” trong Kinh thƣ mà quan niệm
rằng ngũ phúc là: thọ (sống lâu), phú (giàu), khang ninh (mạnh khỏe bình an), du hảo đức (đức tốt lâu dài),
khảo chung mệnh (chết vì già, chứ không chết vì tai nạn hoặc chết non).

Trong thiên "Hồng phạm", ngũ phúc đối với lục cực (sáu điều dữ, tức không lành): hung đoản chiết (chết nạn
hoặc chết non), tật (bệnh tật), ƣu (có chuyện phải lo), bần (nghèo), ác (làm điều ác), nịch (đam mê – vì ghi
bằng chữ 弱 nên phần nhiều ngƣời ta phiên là nhƣợc và giảng là yếu đuối hoặc nhu nhƣợc. Thật ra, ở đây phải
đọc thành nịch là say mê, chìm đắm). Đối chiếu kỹ thì thấy du hảo đức đối với ác còn khảo chung mệnh thì đối
với hung đoản chiết.

Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S.
Couvreur và Mathews‟ Chinese-English Dictionary đã giảng ngũ phúc đúng với quan niệm của ngƣời Trung Hoa,
giống nhƣ đã giảng trong Từ nguyên và Từ hải là hai bộ từ điển có uy tín. Còn Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức
(chủ biên) và Lê Ngọc Trụ (hiệu đính) thì ghi nhận cả hai cách hiểu nhƣng lại không nói rõ cách nào là của ai.

Vì xuất xứ của câu ngũ phúc lâm môn là ở Trung Hoa cho nên cách hiểu của ngƣời Trung Hoa mới là cách hiểu
đúng đắn nguyên thủy. Còn lối hiểu của ngƣời Việt Nam chỉ là ta làm theo cách của ta mà thôi.
24-04-2007, 09:04 PM
Dịch hai chữ Văn Miếu ra tiếng Tây
11:10:46 02/12/2005

http://www.tiasang.com.vn/uploads/temp_image/2005/12/2/Dich%20chu%20van%20mieu%20ra%20tieng%2
0Tay.jpg

Nếu muốn trang bị một tri thức tối thiếu về Văn Miếu- Quốc Tử Giám cái tên đã gắn liền với những chứng tích
lịch sử văn hóa và giáo dục truyền thống của Việt Nam thời trung đại, thì có lẽ điều đầu tiên ta cần biết là ý
nghĩa của tên gọi này. Có gì đâu: Văn là văn chƣơng, văn học; Miếu là nơi thờ cúng, đền thờ

VậyVăn miếu nghĩa là miếu thờ văn chƣơng (hay văn học)! Cứ luận thế đƣơng nhiên sẽ dẫn ta đến việc dịch hai
chữ Văn miếu sang tiếng Tây là The Temple of Literature (Anh) và le Temple de la Littérature (Pháp), y chang
cách dịch trong tấm biển đồng lƣợc giới về Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội hiện chôn ngay trƣớc cổng khu di
tích, cũng nhƣ trong nhiều sách vở tài liệu giới thiệu cho du khách nƣớc ngoài về khu di tích lịch sử văn hóa
nàyCách dịch trên thật đơn giản, dễ hiểu, dễ giải thích. Chỉ có điều là sai!Sai thế nào? Trƣớc hết xin điểm dịch
một số tƣ liệu sách vở đáng tin cậy của Trung Quốc, dẫn dụng các mục từ liên quan đến hai chữ Văn miếu. Để
giản tiện, xin lƣợc đi phần phiên âm Hán Việt.

Hán ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ biên, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1997) thu thập 11 nghĩa của chữ
Miếu, trong đó nghĩa đầu tiên cũng là nghĩa mà chúng ta đang bàn tới: “Cái nhà thời xƣa dùng để thờ cúng thần
vị tổ tiên” (tập thƣợng, tr. 1982). “Văn miếu: Miếu thờ Khổng tử. Triều Đƣờng phong Khổng tử làm Văn Tuyên
Vƣơng, gọi miếu thờ ông là Văn Tuyên Vƣơng miếu. Từ đời Nguyên – Minh về sau gọi tắt là Văn miếu” (tập
trung, tr. 4034).

Hán - Anh đại từ điển (Chinese – English Dictionary) (Ngô Quang Hoa chủ biên, Thƣợng Hải Giao thông Đại học
xuất bản xã, 1999, tập I, tr. 1771) cắt nghĩa chữ miếu bằng tiếng Trung Quốc là “Nơi khi xƣa dùng để thờ cúng
thần vị tổ tông, hoặc thần phật, danh nhân lịch sử”; và dịch ra tiếng Anh là “temple; shrine; joss house”. Ngay
tại mục từ này cũng giải nghĩa: “Khổng miếu: a temple to Confucius” (Khổng miếu: miếu thờ Khổng tử).

Từ nguyên (Thƣơng vụ ấn thƣ quán, Bắc Kinh, 1998, tr. 737) ghi: “Văn miếu: miếu thờ Khổng tử. Đời Đƣờng,
niên hiệu Khai Nguyên, năm thứ hai mƣơi bảy [739] phong Khổng tử làm Văn Tuyên Vƣơng, gọi Khổng miếu là
Văn Tuyên Vƣơng miếu. [...] Từ đời Nguyên – Minh về sau thƣờng gọi là Văn miếu”.

Từ hải (Hạ Chính Nông chủ biên, Thƣợng Hải từ thƣ xuất bản xã, 1989, tr. 1732) ghi: “Văn miếu: Tên gọi khác
của Khổng miếu. Thời Đƣờng Huyền Tông, năm Khai Nguyên thứ hai mƣơi bảy (Công Nguyên 739) phong Khổng
tử làm Văn Tuyên Vƣơng, nhân đó gọi Khổng miếu là Văn Tuyên Vƣơng miếu, từ đời Minh về sau gọi Khổng
miếu là Văn miếu để đối ứng với Vũ miếu (miếu thờ Quan Vũ, Nhạc Phi)” (hết trích). Ta biết rằng thời Minh –
Thanh gọi miếu thờ Quan Vũ là Vũ miếu (hai chữ Vũ viết mặt chữ Hán khác nhau, Vũ trong Quan Vũ nghĩa là cái
lông, Vũ trong Vũ miếu nghĩa là võ nghệ), đến thời Dân Quốc phối thờ Quan Vũ và Nhạc Phi chung một miếu,
vẫn gọi là Vũ miếu.
Nhân đây thiết tƣởng cũng nên giãi bày thêm đôi điều sở đắc, một về “chữ” Confucius, một về “nghĩa” của chữ
văn.

Thứ nhất là chữ Tây Confucius, chữ này vốn xuất phát từ âm đọc ba chữ Hán “Khổng phu tử” (Thầy Khổng), âm
tiếng phổ thông hiện đại ngày nay đọc là /Kongfuzi/ ghi theo lối pinyin (cách chú âm chữ Hán bằng mẫu tự
Latin, đƣợc chính thức sử dụng từ năm 1958 tại Trung Quốc, ở đây không ghi thanh điệu), ta đọc na ná nhƣ
“k‟ủng-phu-chử” trong tiếng Việt (với âm /k‟/ bật hơi). Ngƣời phƣơng Tây do không thể có hệ thống ngữ âm
tƣơng ứng tuyệt đối để biểu đạt ba âm tiết ấy, nên họ đã “Tây hóa” nó qua cách ghi “Con – fu - cius” (nhƣ trong
Anh ngữ), nghĩa là Khổng tử. Rồi từ đó, căn cứ theo các phƣơng thức tạo từ mới, một loạt từ phái sinh đã xuất
hiện: Confucianism (Nho giáo, Khổng học, Khổng giáo, đạo Khổng, đạo Nho); Confucian hoặc Confucianist (Nho
gia, nhà Nho, ngƣời theo đạo Khổng; thuộc về đạo Khổng/Nho); Neo-confucianism: tân Khổng giáo, tân Nho
giáo. Tiếng Pháp cũng có những từ tƣơng ứng: Confucius, Confucianisme, Confucianiste, Néoconfucianisme.

Thứ hai là hàm nghĩa của chữ Văn trong Văn Tuyên Vƣơng. Khổng tử đƣợc triều Đƣờng phong là Văn Tuyên
Vƣơng = Ngƣời có tƣớc Vƣơng, có công tuyên truyền cái văn. Vậy Văn có phải là Literature và Littérature nhƣ
cách dịch tên gọi Văn miếu đang dùng ở ta? Xin thƣa: không! Chữ Văn này có nội hàm rất rộng, bắt nguồn từ
một ý trong sách Luận ngữ, thiên Tử hãn: “Khổng tử bị ngƣời đất Khuông làm cho sợ hãi. Ngài nói: Văn vƣơng
đã mất, cái “văn” này chẳng phải ở trong ta hay sao? Nếu trời định làm mất cái “văn” ấy thì kẻ chết sau này
không đƣợc dự vào cái “văn” ấy. Nếu trời chƣa định làm mất nó thì ngƣời Khuông phỏng có làm gì nổi ta?”. Chữ
“văn” trong đoạn trên trỏ toàn bộ “lễ nhạc giáo hóa, điển chƣơng chế độ”(Hán ngữ đại từ điển, đã dẫn, tập
trung, tr. 3832), tức tất thảy những hiến chƣơng pháp độ đƣợc sử dụng để cai trị xã hội, vậy thì nội hàm của
chữ Văn này rộng hơn hẳn so với các từ Literature và Littérature trong tiếng Anh và tiếng Pháp vốn chỉ mang
những nghĩa hẹp hơn: văn chƣơng, văn học, văn giới, tƣ liệu (tham khảo), ấn phẩm, nhạc tập, học vấn...
(Literature và Littérature đều bắt nguồn từ litera tiếng Latin, nghĩa gốc là văn tự – xem Webster‟s New
Dictionary, Promotional Sales Books, USA, 1994, tr. 228). Sau khi Chu công Đán mất, Khổng tử đƣợc coi là
ngƣời truyền bá cái Văn ấy, nên ông đƣợc Đƣờng Huyền Tông phong làm “Văn Tuyên Vƣơng”. Điều này cũng
minh chứng rằng giả nhƣ theo lối “trực dịch” (word by word, mot à mot) mà dịch Văn miếu thành The Temple of
Literature và le Temple de la Littérature thì vô hình trung đã thu hẹp nội hàm vốn rất rộng của khái niệm Văn
nhƣ vừa nói. Ngay tại Đại Bái đƣờng trong Văn miếu Hà Nội hiện vẫn còn treo bức hoành phi đề ba chữ “Phúc tƣ
văn” (cái “văn” này phúc thay!).

Đến đây có thể thấy:

1. Miếu là nơi/nhà thờ cúng thần vị tổ tông, hoặc thần phật, hay danh nhân lịch sử. Khổng tử là một “thánh
nhân” (theo lối gọi của nhà Nho truyền thống), một danh nhân lịch sử, một nhân vật tối quan trọng đối với văn
hóa truyền thống Trung Hoa, thậm chí cả với các nƣớc khu vực “đồng văn”, vì vậy ông hoàn toàn xứng đáng
đƣợc đƣa vào thờ phụng trong miếu nhằm biểu chƣơng cái đạo của “thánh nhân”.

2. Năm Khai Nguyên thứ hai mƣơi bảy đời Đƣờng Minh Hoàng (739), Khổng tử đƣợc phong là Văn Tuyên Vƣơng,
nên miếu thờ ông cũng gọi là Văn Tuyên Vƣơng miếu. Đến khoảng thời Nguyên - Minh, vừa để gọi tắt, vừa để
đối trọng với Vũ miếu (Văn - Vũ), nên Văn Tuyên Vƣơng miếu đƣợc gọi tắt là Văn miếu.

Nhƣ vậy, hai chữ Văn miếu ở dạng đầy đủ phải là Văn Tuyên Vƣơng miếu (Miếu thờ ông tƣớc Vƣơng, có công
tuyên truyền cái “văn” – tức Khổng tử), đây là những tên gọi khác của Khổng miếu (miếu thờ Khổng tử). Nếu
buộc phải dịch tên gọi Văn miếu thì thiết tƣởng nên dùng chữ Anh The Temple of Confucius, hoặc “Confucius
temple” (Hán - Anh đại từ điển, đã dẫn, tr. 2671, in nhầm là Confucious temple), hay tiếng Pháp là Temple de
Confucius, giống nhƣ cách hiểu và dịch hai chữ Khổng miếu. Hiện ở Đài Loan cũng dùng tên gọi Khổng miếu,
hẳn là để tránh việc hiểu nhầm khái niệm (Văn) nhƣ ở ta.

Văn miếu Hà Nội là một sản phẩm văn hóa của Việt Nam. Đã là một sản phẩm văn hóa của dân tộc thì trộm
nghĩ, ta nên giữ tên gọi Văn miếu (Van mieu), không nhất thiết cứ hễ thấy bằng tiếng Việt là nhăm nhe dịch
sang tiếng này tiếng nọ, hoặc giả chỉ nên đóng mở ngoặc đơn mà cắt nghĩa bằng ngoại văn ở lần đầu xuất hiện
khái niệm mà thôi, còn ông Tây bà đầm nào có nhã hứng tìm tòi thêm thì khắc tự mày mò. Kinh nghiệm cho
thấy, nếu không giữ tên gọi Ao dai, mà cứ hăm hở dịch thành Vietnamese (long) dress hay gì gì đi nữa, thì cái
áo dài truyền thống của các bà các chị nhà ta hẳn đến bây giờ vẫn còn nằm ngoài vùng hiểu biết của tứ hải
huynh đệ.

TƢƠNG QUÂN

Giảng viên Bộ môn Hán Nôm,


Khoa Văn học,
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
ĐH Quốc gia Hà Nội

http://www.tiasang.com.vn/news?id=100

NatPhung
28-04-2007, 06:54 AM
Trong sách Shen Mich Hin (Liang Shy c.48. F.4) có đoạn:
“Hòn đá xà vân (hay một mẩu đá xà vân) trông giống nhƣ viên ngọc trai, nhƣng không phải là ngọc trai. Con gà
con trông giống nhƣ con phụng, nhƣng không phải là con phụng”.

Dans le Shen Mich Hin (Liang Shy c.48. F.4), on lit:


“La serpentine (ou un morceau de serpentine) est semblable à une perle, mais ce n‟est pas une perle. Un poulet
est semblable à un Phœnix, mais ce n‟est pas un Phœnix.”

Lời nói đầu:

Phụng là tên của một con chim nổi tiếng cả ngàn năm nay trong đời sống văn học nghệ thuật và thực sự ảnh
hƣởng sâu rộng vào phong tục, tập quán Á châu.
Nó có thật không? Là một con vật hoang đƣờng? Hay đó chỉ là con chim trĩ (稚 - zhi), còn gọi là dã kê (野雞 - zye
ji, gà rừng) của Việt Nam đã đƣợc ngƣời Trung Quốc và Nhật Bản thêu dệt?
Phóng viên P. Jabouille đã viết một bài khảo cứu thực nghiệm độc đáo về huyền thoại con chim phụng của Trung
Quốc và con trĩ quí hiếm, có thật của Việt Nam.

Bài khảo cứu này đƣợc đăng trong tạp chí Đô Thành Hiếu Cổ Xã (Bulletin des Amis du Vieux Huế, tam cá nguyệt
10-12, năm 1929). Dƣới đây là bản dịch nguyên văn của bài khảo cứu.

Chim phụng hoang đƣờng của Trung Quốc và chim trĩ đốm tròn của An Nam (Le Phœnix Fabuleux de la Chine et
le Faisan Ocellé d‟Annam¹)

(Rheinardia Ocellata – VERREAUX)


par M.P. JABOUILLE, M.B.O.U.
Correspondant du Muséum.
Ngƣời dịch: Phạm Văn Bân

Trong thực tế, chim trĩ có đốm tròn An-nam, mà ngƣời ta thƣờng gọi dƣới tên Argus (gà rừng), là một giống
riêng biệt: giống Rheinardia mà khu vực phân tán trải dài theo sƣờn núi phía Đông của dãy Trƣờng Sơn, từ Nha
Trang cho đến Vinh.

Trong các năm gần đây, mặc dù chim trĩ là đối tƣợng để các cộng tác viên của chƣơng trình khảo cứu Delacour
quan sát và sƣu tầm liên tục nhƣng hãy còn khá kỳ bí trên nhiều điểm do có cùng các khó khăn khi ngƣời ta thử
tìm đến nơi cƣ trú của chim trĩ, cũng nhƣ do sự khôn ngoan tột bực của nó để tránh né tầm săn bắt của các thợ
săn giỏi tiên liệu nhất và kinh nghiệm nhất.

Trong hơn 200 mẫu thu đƣợc, còn sống hoặc đã chết, từ chƣơng trình khảo cứu Delacour, không có con nào bị
súng hoặc tên bắn cả, tất cả đều bị bẫy bởi ngƣời Kha-leus và ngƣời Mọi của vùng núi mà chúng tôi đã đề cập.
Nói tổng quát, bẫy đƣợc đặt ở bìa các khoảng rừng trống, để các con trống trong đó nhảy múa dẫn dụ con mái,
một lối nhảy mà chúng tôi chỉ có thể có đƣờng nét rất mơ hồ trong khi quan sát các con bị bắt từ hơn ba năm
qua. Các con này này đẻ trứng và, chỉ có một lần duy nhất, nở một chim con chỉ sống đƣợc vài tuần lễ.

1 Cƣớc chú của ngƣời dịch:


Vào thời đó, ngƣời Pháp gọi miền Trung Việt Nam là An-nam, còn miền Bắc Việt Nam là xứ bảo hộ và miền Nam
Việt Nam là xứ thuộc địa. Liên bang Đông Dƣơng thuộc Pháp (Fédération de l‟Indochine français), có năm bang
do Pháp chia ra để trị: miền Bắc Việt Nam (le Tonkin, hay Đàng Ngoài), miền Trung Việt Nam (l‟Annam), Laos,
Cambodge và miền Nam Việt Nam (la Cochinchine, hay đàng trong). Faisan Ocellé: trĩ đốm tròn, còn gọi là trĩ
sao. Theo Nguyễn Nhƣ Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn Hoá Thông tin, 1999, pp. 1704-1705:

Trĩ đỏ: trĩ quí hiếm, có ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, bộ lông
nhiều màu sắc đẹp, đầu và trƣớc cổ xanh lục, những phần còn lại màu nâu hung đỏ, nâu vàng với các chấm
đen, đuôi dài nhỏ, mắt nâu đỏ, mỏ và chân màu sừng, sống ở vùng đồi núi thấp nhiều cây bụi nhỏ, ăn ngũ cốc,
hạt cỏ dại và côn trùng.

Trĩ sao: trĩ quý hiếm, có ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thiên-Huế, Gia Lai, Lâm Đồng và Vƣờn quốc gia Bạch Mã,
bộ lông nâu tối có các chấm trắng, nâu hung và đen, đuôi dài, mắt nâu, mỏ hồng, chân nâu phớt hồng, không
có cựa, làm tổ ngay trên mặt đất trong rừng ẩm, đẻ hai trứng vàng sẫm phớt hồng có chấm li ti đỏ tía.

Chúng tôi cũng mở rộng đề tài về giống gà này trong nhiều tác phẩm hoặc bài viết 2 ,cũng nhƣ trƣớc khi thông
qua đề tài của bài viết này, chúng tôi chỉ muốn nói lên các trƣờng hợp mà chim trĩ đƣợc khám phá và khẳng
định.3

Giữa các năm 1850 và 1856, J. Verreaux là nhà phụ tá thiên nhiên học của Viện Bảo Tàng Paris, rất ngạc nhiên
trƣớc phúc trình về các khác biệt của vài cọng lông đuôi – không rõ xuất xứ - của chim trĩ Mã Lai (Argus de
Malaysie – Argusianus Argus) và các lông đƣợc tìm thấy trong bộ sƣu tập của Vƣờn Thảo Mộc (Jardin des
Plantes).4 Tin chắc rằng các lông này thuộc về một giống mà các nhà điểu học chƣa biết đến, ông đề nghị đặt
tên là “chim trĩ có đốm tròn” (Argus Ocellatus), đƣợc nhiều nhà bác học chấp thuận ngay, nhƣ Ch. Bonaparte,
G.R. Gray, v.v…

Mãi cho đến năm 1871, các khác biệt này mới đƣợc D. G. Elliot 5 mô tả chi tiết; trong tập chuyên khảo về giống
gà vào năm 1872, trong đó cung cấp một bản khắc màu đƣợc tái lập theo đúng hình thể tự nhiên của một trong
các lông đuôi của chim trĩ đốm tròn.

Hành động này giúp bớt kích động chống ông từ một số nhà thiên nhiên học qua một cuộc vận động dữ tợn
cùng các lời phê bình chua chát: ngƣời thì cáo buộc rằng ông lấy lông của con công mà bảo là lông của giống
chim chƣa đƣợc biết đến, ngƣời thì diễu cợt rằng ông muốn áp đặt tên cho một con chim mà ngƣời ta chỉ mới
biết một ít chi tiết, v.v...

Chắc chắn trong niềm tin của mình, D. G. Elliot5 đợi đến năm 1882 mới thuyết phục các ngƣời chống đối qua
bằng chứng thực tế của các khám phá của ông, và cũng để chính ông hiểu biết về xuất xứ thật sự của chim trĩ
đốm tròn.

Thực vậy, vào năm đó, Viện Bảo Tàng Paris nhận đƣợc hai mẫu toàn vẹn của con chim đang tranh cãi, và cả hai
đều có cùng một xuất xứ: miền Trung An-nam.

2 Recherches ornithologiques, par DELACOUR et JABOUILLE, 1925, p. 12, 2 pls


Recherches ornithologiques, id – 1927, page 10.
L' « Oiseau », 1924. Nº 10, 2 pls.
L' « Oiseau », 1927. Nºs 10 et 11, pl. en couleur du poussin et de l'œuf.
Ibis, l925, page 221.
Ibis, 1928, p. 31.

3 N. Arch, Mus , Pari s,1884, p. 255

4 Nhiều du khách đã thực sự thấy trong tay của ngƣời An-nam các cọng lông mà họ không thể báo cáo thuộc
giống chim nào cả. Đó cũng là điều chúng tôi tìm thấy trong T‟oung Pao, 1904, nº 5, p.553, chuyến du hành ở
An-nam vào năm 1819-20 của Capitaine Rey, khi ông này đến viếng Ngũ Hành Sơn, gần Đà Nẵng. "Giữa các nét
tuyệt đẹp của thế giới loài chim của xứ Đàng Trong, tôi tin rằng có một giống chim mà các nhà điểu học chƣa
biết đến. Tôi đã thấy một cọng lông đơn lẻ... dƣờng nhƣ giống chim này rất hiếm... nó sống ở vùng núi Phú Yên
không thể léo hánh đến đƣợc và và ở những chỗ hiểm trở nhất. Dân Đàng Trong gọi nó là Kim-try hoặc chim
thần. Nó lớn cỡ con bồ câu, có mỏđỏ, đầu đen, cổ trắng, cánh màu vàng, bụng và đuôi màu xám tro. Điểm phi
thƣờng của chim là cái đuôi có vài cọng lông dài hơn tám bộ. Cọng lông mà tôi thấy, mặc dù đã bị cắt bớt, vẫn
còn dài hơn năm bộ. Dân Đàng Trong nghĩ rằng đó là cách hóa trang để bắt ma quỷ." Mặc dù chi tiết có vài sai
lầm, nhƣng rõ ràng con chim nói ở đây là con Rheinardte của An-nam, không thể nghi ngờ gì cả.

5Ann. Mag. Nat. Hist. 1871. VIII, p. 119

Mẫu thứ nhất đƣợc nhà thiên nhiên học Maingonnat mua với giá 2,000 fr. từ Thiếu Tá Rheinardt, tùy viên Tòa
Công Sứ Huế. Mẫu kia do Ông Le Myre de Villiers, lúc đó là Thống Đốc Đàng Trong, nhận đƣợc từ Chính phủ An-
nam và gửi đến Viện Bảo Tàng sau một chút.

Đƣợc trình bày vào ngày 12-6-1882 tại Hiệp Hội Thú Vật Pháp, mẫu thứ nhất lần lƣợt đƣợc đặt tên là Argus
Rheinardi, rồi Rheinardia Ocelata, Rhenardius Ocellatus, cuối cùng Rheinardtius Ocellatus: nguyên tắc ƣu tiên và
tôn trọng chính tả khiến ngày nay chim trĩ đốm mang tên là "Rheinardia Ocellata" (J. Verreaux).

Chim trĩ đốm tròn đƣợc mô tả lần đầu tiên một cách trọn vẹn trong tờ báo "Khoa Học Đại Chúng" (Science pour
tous) ngày 8-7-1882, và vào tháng 9-1882, tờ "Thiên Nhiên" (La Nature) tạo hình bằng gỗ.

Hai mẫu của Viện Bảo Tàng là hai con chim trống và đều xuất phát từ vùng núi phía Tây thành phố Huế. Dr.
Philipp, cũng là tùy viên Toà Công Sứ, nhanh chóng gửi các tin tức khá chi tiết về con chim này mà phần lớn là
chính xác mà sau này, chúng ta có thể kiểm chứng lâu dài.

Nhờ ông mà chúng ta biết rằng mẫu mà Thiếu Tá Rheinhardt gửi, nhận từ linh mục Renauld, giám đốc nông
trƣờng Ba-Truc (cách 20 cây số về phía Tây Huế), do các ngƣời Mọi trong vùng mang đến; chim đƣợc làm sống
lại nhƣng bị thƣơng.

Sau khi chim chết, vị linh mục làm da cho nó, và lá thƣ gửi kèm theo bộ da ghi: "Đây là con chim trống. Thịt
màu sẫm, rất ngon giống nhƣ thịt gà lôi. Đấy thực sự là món ăn ngon cho bữa cơm tối.”

Sau đó, cũng vị linh mục này tìm ra một trong các giống chim Đông dƣơng (Indochine) hấp dẫn nhất, đó là con
cu đất hay Carpoccoccyx Renauldi, và giống nhƣ con chim trĩ đốm tròn, dƣờng nhƣ nó muốn tự tạo một thú vui
ranh mãnh bằng cách chạy vuột khỏi ánh mắt mắt của kẻ tò mò và sƣu tầm, mặc dù chỗ ở của nó (ở đèo Phú
Gia và Hải Vân) có vẻ nhƣ muốn giao nộp nó trƣớc sự soi mói của vô số du khách đi ngang qua.

Các khám phá của chƣơng trình khảo cứu Pavie, của Dr Harmand, của Hầu tƣớc Barthélémy dƣờng nhƣ hồi phục
các cuộc nghiên cứu về lịch sử thiên nhiên, sau một khoảng thời gian dài ngủ yên và rất hiếm hoi có các nhà
sƣu tập quan tâm đến hệ động vật này; chỉ các năm gần đây nguồn tài nguyên mới của Đông Dƣơng đã lôi kéo
sự quan tâm trở lại.

Đó cũng là lý do chƣơng trình khảo cứu Delacour đƣợc thành lập nhanh chóng với sự hỗ trợ của Chính quyền
Đông Duơng và một trong các mục đích chánh của nó là tái khảo cứu con Chim Trĩ Đốm Tròn mà ở Âu châu
ngƣời ta chỉ biết qua hai bộ da do Viện Bảo Tàng Paris thu đƣợc vào năm 1882 và sau đó không còn nghe nói
đến.

Chúng ta có thể nói rằng kết quả của đợt vận động lần đầu tiên đã ra ngoài các tiên liệu lạc quan nhất khi biết
rằng chỉ trong hai tháng, các ngƣời Kha-leus đã kiếm cho chúng ta gần 60 con chim này; nhƣng rủi ro là sự
không hiểu biết của chúng ta về bệnh bạch hầu đã không cho phép chúng ta nuôi dƣỡng đƣợc con nào còn sống
cho đến khi tới Pháp (Paris), các con còn lại chết tám ngày sau khi đến bờ Marseille.

Thực ra, nhiều Thảo cầm viên Âu châu và vài ngƣời chơi chim tài từ có nuôi chim Trĩ đốm tròn An-nam và nếu
một cặp đẻ trứng trong khi bị nuôi nhốt ở Huế thì nhiều cặp ở Âu châu cũng đã đẻ trứng.

Trong bốn chiến dịch của chƣơng trình khảo cứu Delacour, ngƣời ta nhận thấy nơi ở của giống chim này bắt
buộc chỉởĐông Dƣơng mà thôi, ngƣời An-nam cũng nói nhƣ vậy, bởi vì chúng ta có thể xác nhận chỉ đặc biệt
sƣờn núi mé Lào của dãy Trƣờng Sơn mới có thể cho cơ hội gặp chim trĩ.

Trƣớc hết, không có gì đáng ngạc nhiên khi tôi thấy một trong các nhà điểu học nổi tiếng ngƣời Nhật, Ông U.
Hachisuka vừa đăng trong tạp chí Transactions Meiji Japan, số XXIII, 1925, tr. 1-13, một bài viết chứa nhiều tài
liệu về con chim Phụng nổi tiếng của Trung Quốc, một con chim hoang đƣờng trong các huyền thoại cổ điển, mà
trong thực tế chẳng qua chỉ là con chim Trĩ Đốm Tròn của An-nam. Thể theo lời yêu cầu của tôi, Ông U.
Hachisuka vui lòng giao cho tôi bài nghiên cứu của ông, cho phép tôi đăng trong tập san Đô Thành Hiếu Cổ Xã
(Bulletin des Amis du Vieux Huế) để bài này không bị lãng quên.

Do đó, tôi xin phép đăng ở đây một bản dịch khá chặt chẽ và khá sát với bài nghiên cứu có tựa đề:

Nhận diện con chim Phụng của Trung quốc

Hai con chim hoang đƣờng thƣờng đƣợc nói đến trong các tác phẩm cổ điển của Trung Quốc và Nhật Bản, đƣợc
gọi tên ở Trung quốc là Phụng Hoàng và Loan 6 và ở Nhật Bản với tên Hô-O và Ran (Luan).

Con thứ nhất trong hai con đƣợc gọi là "Phoenix."7 trong tiếng Anh.
Do có sự tƣơng đồng trong mô tả và tái lập hình ảnh của hai con chim này, nhiều ngƣời, nhất là ở Nhật Bản,
nghĩ rằng chúng là một giống, và phần lớn nghê sĩ trình bày chúng đã trao cho chúng các tên quen thuộc trong
vùng của họ nhƣ Gà rừng, Công, và các loại trĩ.

6 Cƣớc chú của ngƣời dịch: chim trống gọi là phụng (hay phƣợng 鳳 feng, thuộc bộ điểu 鳥) còn chim mái gọi là
hoàng (凰 huang, thuộc bộ kỉ几: cái ghế) và loan ( 鸞 luan), một loại chim phụng.

7 Cƣớc chú của ngƣời dịch: Trích The New Lexicon Webster's Dictionary of the English Language, p. 755: Phụng
(thần thoại Ai cập) là một giống chim có bộ lông rực rỡ, đƣợc tế thần Mặt Trời, tái sinh từ tro của đống củi hỏa
táng mà nó tự làm cho nó khi mỗi khoảng thời gian sinh sống từ 500 hay 600 năm đã mãn. (Phoenix (Egypt .
mythol.) a bird of gorgeous plumage, sacred to the sun, reborn from the ashes of the funeral pyre which it
made for itself when each life span of 500 or 600 years was over).

Một tin tƣởng đƣợc chấp nhận chung là “các con chim này chỉ xuất hiện khi quốc gia đƣợc yên trị”, các nhà điểu
học Viễn Đông nghĩ rằng không cần phải khẳng định chính xác, xem đó nhƣ các truyện huyền thoại thuần túy.

Mặc dù ở Trung quốc và Nhật Bản hai giống chim này đƣợc viết chữ giống nhau nhƣng lại đọc khác nhau; tuy
nhiên, cách phát âm tiếng Nhật hiện đại đƣợc phần lớn giới có thẩm quyền về ngôn ngữ xem là đồng nhất với
tiếng Trung quốc lúc sơ khai.

Tác giả của những dòng chữ này có ý định trình bày vấn đề theo quan điểm của ngƣời nhật, mặc dù sự hiểu biết
về giống chim này có nguồn gốc từ Trung quốc.

Hô (朊 Peng bằng) là chữ xƣa nhất tƣơng ứng với nghĩa của chữ "chim"; sau đó ít lâu chữ Hô (鳳 Feng, Phụng)
đƣợc sáng tạo nhƣng hai chữ này đƣợc dùng y nhƣ nhau trong cùng một nghĩa.

Một thành ngữ xƣa nói rằng "khi chim Phụng (鳳 ) bay thì một bầy chim khác bay theo, đếm tới cả ngàn con."
Theo sách Thuyết Văn (說文Shuo Wen), chữ Hô (朊 Peng bằng) có nghĩa là "bạn đồng hành," và ngƣời ta hãy
còn dùng nghĩa này trong cả hai nƣớc, mặc dù nghĩa nguyên thủy đã biến mất.

Vào thời kỳ trƣớc khi chữ Hô (鳳 Feng, Phụng) trở nên thông dụng, một chữ Hô thứ ba xuất hiện và đƣợc dùng
với cùng một nghĩa nhƣ chữ Hô (鳳 Feng, Phụng). Nếu tra tự điển Từ Nguyên (辭源 Ci Yuan, nguồn gốc của văn
chƣơng, chữ nghĩa), chúng ta thấy các tin tức sau đây:

“Cầm (loài chim) là động vật có lông vũ, thú là động vật có lông mao, rùa là động vật có mu, cá là động vật có
vảy và ngƣời là động vật trụi lủi.” 8

Nhƣ vậy chữ trùng (蟲 ) đƣợc dùng trong nghĩa tổng quát là "động vật," mặc dù ngày xƣa chữ trùng (蟲 chong)
hay (虫chong, sâu bọ) có nghĩa khác với ngày nay.

Nếu chúng ta thêm chữ “cánh” bên cạnh chữ trùng (sâu bọ) thì thành chữ Phụng (Fù – Feng鳳 ) nghĩa là "chim."
9

Chữ này đã đƣợc dùng từ thời nhà Hán (漢); trƣớc thời kỳ này chữ Phụng (鳳)đƣợc dùng một cách tổng quát để
chỉ nghĩa “chim”.

8 Cƣớc chú của ngƣời dịch: Cổ nhân dùng chữ trùng (蟲) để gọi tất cảđộng vật, thí dụ vũ trùng (羽蟲) là loài
chim mao, mao trùng (毛蟲) là loài thú, v.v…

9 Cƣớc chú của ngƣời dịch: Tác giả đã nhầm lẫn ở đoạn này vì trong chữ Hán lẫn chữ Nhật đều viết nhƣ nhau:
chữ chữ phụng (鳳 feng, thuộc bộđiểu 鳥) còn chim mái gọi là hoàng (凰 huang, thuộc bộ kỉ几: cái ghế); cả hai
không liên quan gì đến chữ cánh chim (viết là sí 翅 chi (hay yi dực).

Hô (鳳 Feng) diễn tả cùng một nghĩa với Hô-O (鳳凰 Feng Huang, Phụng Hoàng), và, cho đến thế kỷ thứ nhất, O
(凰 Huang) đƣợc viết đơn giản là O (皇 Huang), nhƣng sau đó ngƣời ta thêm vào chữ "cánh," để chỉ rõ vấn đề là
chữ chim. 10

Một chữ khác là chữ Yến có cùng nghĩa với hai chữ Phụng Hoàng; tên Yến xuất phát từ huyền thoại sau: "Tất cả
loài chim đều cúi đầu trƣớc chim Yến. Có 360 vũ trùng và Yến trở thành chủ của tất cả; và mọi giống chim tuân
theo nó”.

Điều này giải thích cho chúng ta rằng đôi khi chúng ta thấy câu: "Một con chim mà các con chim khác cúi đầu
trƣớc nó”.

Trên đây giải thích chữ Hô (鳳 Feng) và Hô (鵬 peng, chim bằng, giống chim to nhất) có cùng một nghĩa, nhƣng
sách Trang Tử (莊子 zhuang zi) có trƣớc sách Thuyết Văn 500 năm lại có một câu chuyện rất phổ biến ở Trung
quốc và Nhật Bản về chủ đề Hô nhƣ sau:

“Ngày xƣa có một con cá khổng lồ dài hàng ngàn hải lí, sống ở biển Bắc và ngƣời ta kêu là con Côn (Kun). Con
cá này biến thành "chim," ngƣời ta kêu là chim bằng (鵬 peng)”.

Phần lớn lịch sử của con chim quái vật này có dấu vết của biển vì nguồn gốc của nó là cá. Nghĩa của chữ Bằng
(鵬 ) dần dần thay đổi và ở Trung quốc và Nhật thực sự chỉ có nghĩa là “một động vật siêu nhiên”.

Chữ Kun cũng bị thay đổi hoàn toàn và ngày nay, trong tiếng Nhật hiện đại, có nghĩa là “cá nhỏ”, giống nhƣ
tiếng Nhật Zako (雜魚za yu tạp ngƣ).

Còn tên Hô-O, các đoạn trích dƣới đây chứng tỏ rằng vấn đề hiện hữu của giống chim này là có thực và không
phải do trí tƣởng tuợng:

- Trong sách I Lin: “Có 10 chim Phụng con trong tổ với mẹ chúng”.
- Trong sách Pao P‟O Tzu (thế kỷ thứ tƣ): “Ngày xƣa, khi nƣớc nào bình yên, chim Hô luôn luôn làm tổ ở nƣớc
đó và Hoàng Đế Hạ Hậu (夏后 Xia Hou) là ngƣời đầu tiên ăn trứng chim Hô. Sau đó chim Phụng biến mất." Điều
này chứng minh chim Phụng đƣợc xem là có sinh sản.
- Trong sách Shai Hai Ching: "Cƣ dân Hsuan-Yuan ăn trứng của chim Phụng và uống nƣớc cam lồ (甘露gan lu).
- Trong sách Chu-Tzu: "Có ngƣời làm một lồng chim cút cho con Hô-O, nhƣng cánh của nó quá lớn và nó không
thể chui vào lồng đƣợc”.
- Trong sách Tung Ming Chi: "Một quan đại thần tâu với vua, "Hạ thần đi du lịch hƣớng Đông và bắt đƣợc một
con Hô con có chín màu trong một khu rừng rộng cả ngàn lí”.

Nếu xét chữ Loan (Ran), dật sử cũng cho chúng ta dữ kiện chim Loan có thật.

10 Xem cƣớc chú số 9 ở trên.

- Trong sách Erh Ya I: "Ngày xƣa, Hoàng đế Chi Piu có một con Loan làm thú vui. Hoàng đế muốn nghe chim
hót nhƣng không đƣợc thỏa mãn. Hoàng hậu nói với ông: “Tôi luôn nghe nói rằng chim chỉ hót khi nó thấy một
con khác cùng giống. Tại sao không đặt nó trƣ971c gƣơng để phản ảnh hình bóng nó?”
Hoàng đế nghe theo lời khuyên; nhƣng con Loan khi thấy bóng nó, buông ra tiếng kêu đầy áo não, đập cánh và
chết.
“Có ba con chim ngũ sắc, ở Diêu Sơn, con thứ nhất gọi là chim Hoàng (凰鳥 huang niao hoàng điểu), thứ hai
chim Loan (鸞鳥 luan niao loan điểu), và thứ ba chim Phụng (鳳鳥 feng niao phụng điểu)”.

Chúng ta thấy rằng hai trong ba con chim, chim Hoàng và chim Phụng trùng nhau; các đoạn trích dƣới đây cho
thấy một bên là chim Phụng và Hoàng và bên kia là chim Loan.

- Chim Loan kết bạn với chim Phụng (Li-Po).


- Chim Loan xếp ngay sau chim Phụng (Jui Yunghua 瑞應畫 rui ying hua Thụy ứng họa)

Có hai hay ba chim bí ẩn chỉ đƣợc nói đến trong các tác phẩm xƣa và ngƣời ta không tìm thấy, theo nhƣ tôi biết,
trong các thi phẩm. Trich văn:

- Con Yo-Tzu là chim Phụng con.


- Con Yuan-Chu đƣợc mô tả trong sách Chau Pen Chi (周本記 zhou ben ji Châu Bản Ký) nhƣ là một giống chim
Phụng. (Ghi chú của Linta).
- Chim phụng con gọi là Yo-Tzu. (Ghi chú của Chin Ching, bởi Chang Hua).

Từ mô tả ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng Yo-Tzu là chim Phụng con mà bộ lông cần có ba năm để hoàn
chỉnh. Trong sách Châu Bản Ký, Yuan Chu đƣợc xem là tiếng đồng nghĩa với Phụng.

Tôi tin rằng phải nêu ra mô tả trên vì tôi không tìm thấy một khác biệt nào giữa hai con chim. Cả ba đều gọi là
Phụng, nhƣng thực tế chúng có nghĩa riêng:
1) Con thứ nhất là con gà nƣớc.
2) Con thứ hai, một giống chim ở dƣới nƣớc, giống nhƣ con ngỗng.
3) Con thứ ba là con hải âu.

Chim loan cũng có hàng tá tiếng đồng nghĩa; tôi có thể bảo đảm bằng với con số tá: loan điểu thụy điểu x thú
đan phụng vũ tƣờng hóa x dực ẩn chú thổ phù chu tƣớc chu ô thanh phụng (鸞鳥瑞鳥 x 趣丹鳳羽翔化 x 隱
x土符朱雀朱烏青鳳)¹¹. Nhƣ vậy, con chim hiện hữu nào có thể dùng để nhận diện làm căn bản trong các tin tức
trên?

11 Cƣớc chú của ngƣời dịch: có hai chữ Hán không đọc đƣợc và một chữ Hán không lấy ra từ NJ Star đƣợc nên
đánh dấu X.

Xem tiếp phần 2

NatPhung
28-04-2007, 06:59 AM
Tiếp phần 1

Tóm lƣợc:

1) Đó là giống chim sống trên đất và để khá nhiều trứng.


2) Nó phải có nhiều năm để có bộ lông hoàn chỉnh.
3) Thấy rõ ràng giống trống, mái.

Trong sách Shen Mich Hin (Liang Shy c. 48. F. 4), có đoạn:

“Hòn đá xà vân (hay một mẩu đá xà vân) trông giống nhƣ viên ngọc trai, nhƣng không phải là ngọc trai. Con gà
con trông giống con phụng, nhƣng không phải con phụng”.

Ít ra điều này chứng tỏ rằng con chim đƣợc khảo cứu có nét giống với con gà trống nuôi của chúng ta.

Về phần tôi, tôi tin rằng trong thực tế, chim Phụng là con chim Trĩ Đốm Tròn (Rheinardia Ocellata) trong khi
chim Loan là con chim trĩ Faisan Argus (Argusianus) bởi các lý do sau đây:

Trong các mô tả xƣa về chim Phụng Hoàng, cũng nhƣ chim Loan, giống chim này có đầu gà trống, cổ rắn, cằm
én, lƣng rùa và đuôi cá. Nó có năm màu và chiều cao vào khoảng sáu bộ. Xem xét riêng mỗi một chi tiết này và
chúng ta thấy thật sự có con chim trĩ đốm tròn:

1) Đầu gà trống: hình dạng cái đầu của Trĩ Đốm Tròn hiển nhiên rất giống đầu gà trống.
2) Cổ rắn: Không chỉ cái cổ đẩy tới trƣớc,đứng thẳng nhƣ con rắn mà chim trĩ còn có da gần trụi lủi.
3) Cằm én: điểm này còn lờ mờ khó hiểu.
4) Lƣng rùa: Lƣng chim Trĩ Đốm tròn An-nam có dáng không đều giữa các chấm và lằn gạch ngang. Ở cánh bên
trong, các điểm xếp đều hơn và giống hình lục giác. Ở cánh bên ngoài, các điểm đƣợc nối bằng đƣờng thẳng và
thực sự trông nhƣ một cái mu rùa. Vài sách xƣa so sánh lƣng chim Phụng giống với da cọp hơn là với mu rùa, và
Darwin (Descent Of Man Vol. II, p. 141) cũng so sánh tƣơng tự khi viết về bộ cánh của chim trĩ:

“Bộ lông mang các dấu gạch sẫm nghiêng một cách đẹp mắt và các dãy đốm chấm nhƣ một tổng hợp màu sa
của cọp và beo”.

5) Đuôi cá: Đuôi của hai con chim, nhất là của chim Trĩ Đốm Tròn giống nhƣ đuôi con cá khi nó ở vị trí bánh lái,
dẹp ở hai bên.
6) Ngũ sắc: Ở đây có sự khó khăn để phân biệt các màu nêu ra trong các tác phẩm cổ điển, trừ khi màu đƣợc so
sánh với vật đƣợc biết rõ, nhƣ đậu khấu, biển, máu v.v… Hậu quả là không thể đào sâu điểm này nếu không có
các cuộc sƣu tầm lâu dài.
7) Chiều cao sáu bộ12: Tôi biết rằng trong nhiều vùng của Trung quốc, bề dài của bộ nhỏ hơn nhiều so với bề
dài mà ngƣời ta dùng ngày nay, ngay cả trong cùng một vùng. Không thể nói rằng các đo lƣờng này có áp dụng
cho chim hay không, hơn thế nữa, chúng ta không biết có phải chim đƣợc đo từ đầu xuống chân đặt trên mặt
đất hay không, hay từ đầu đến đuôi khi chim đậu trên cành.

Sự kiện là ngƣời Trung quốc rất vô tâm khi sử dụng con số: họ có khuynh hƣớng phóng đại và ƣa đánh số tròn.
Thí dụ: "Một con gà con chín màu trong một khu rừng rộng ngàn lí, - “một con Phụng ngũ sắc”.

Sự phiên dịch hay nhất cho các câu tƣơng tự chỉ đơn giản là “bộ lông biến đổi” hay “có nhiều màu sắc”. Đó là
các đặc điểm về hình dáng.

Bây giờ chúng ta xem xét tiếng kêu của chim. Tôi chƣa bao giờ có cơ hội nghe tiếng kêu của chim trĩ Argus,
cũng nhƣ Trĩ Đốm Tròn, nhƣng trong sách "Chim để săn ở Ấn Độ, Miến Điện, và Tích Lan" (Les Oiseaux de
Chasse de l‟Inde, de Birmanie, et de Ceylan) của Hume, Marshall, trang 101, chúng tôi thấy đoạn sau đây:

“Tiếng kêu do con trống phát ra có thể ghi: How-How, đƣợc nó lặp lại từ 10 đến 12 lần, kêu vang từng chặp khi
nó đứng riêng lẻ trong rừng trống, một con bắt đầu kêu và các con khác ở gần đó đáp ứng”.

Tiếng súng bắn vào bầy khỉ đi ngang qua không ngăn đƣợc nó hót. Tiếng kêu của con mái khác hẳn; phát ra
nhƣ How-Owoo, How-Owoo, âm cuối kéo rất dài, và tiếng kêu lặp lại từ 10 đến 12 lần, nhƣng càng lúc càng
nhanh cho đến tiếng kêu cuối thì trở nên một dây Owoo. Tiếng kêu của con trống và mái nghe rất xa, nhất là
tiếng con trống, có thể nhận biết từ xa hơn một dặm.13

Đoạn văn này báo cáo về chim trĩ: Theo Ông M. Beebe, tiếng kêu của chim trĩ đồng nhất với chim Trĩ đốm tròn
(Rheinardia Ocellata). Theo tôi, sự quan sát này khiến tôi nghĩ rằng chữ Feng chỉ con trống, còn Huang chỉ con
mái. Có xảy ra việc lặp lại đơn giản của tiếng kêu của chim trĩ. Ngƣời ta tìm thấy thí dụ của sự bắt chƣớc nhịp
nhàng tiếng kêu trong nhiều vùng khác nhau. Vì vậy tôi ngờ rằng cách đặt tên địa phƣơng của chim trĩ đốm tròn
ở Đàng Ngoài và bán đảo Mã Lai, và chim trĩ ở Mã Lai, Sumatra và Bornéo cũng chỉ đơn giản là sự lặp lại tiếng
kêu của các chim này.

Trong tập chuyên khảo về chim trĩ (Monographie des Faisans, Vol. IV, p. 118), M. Beebe lƣu ý nhƣ sau:
“Đối với lỗ tai của ngƣời Mã Lai, chim trĩ trống gọi là Kuan và Kuang; đối với ngƣời hoang dã Sakai là Wwak, đối
với ngƣời Xiêm là Kyek, còn dân địa phƣơng Sumatra phiên dịch tiếng kêu ra Kœweau hay Kuaow. Tất cả đã trở
nên tên dùng để gọi giống chim này tại mỗi một vùng, tất cả đều có nguồn gốc tƣợng thanh”.

12 Cƣớc chú của ngƣời dịch: bộ: đơn vị đo lƣờng, dài 0.33 mét.
13 Cƣớc chú của ngƣời dịch: dặm: đơn vị đo lƣờng, dài 1,482 mét.

Thực tế, nếu chim Phụng Trung quốc và chim Trĩ Đốm Tròn cùng một giống thì làm sao giải thích đặc điểm
hoang đƣờng của chim Phụng và tất cả huyền thoại liên quan?

Hầu nhƣ không thể nào giết một con chim trĩ bằng súng săn đƣợc. Chim Trĩ đốm tròn còn khó bắt hơn, điều này
chứng minh cho sự kiện rằng chỉ có bốn Viện Bảo Tàng trên toàn thế giới có vài mẫu con chim này.

Trong tập chuyên khảo về chim trĩ (Monographie des Faisans, Vol. IV) M. Beebe lƣu ý:
“Các điều bí ẩn nhất của chim trĩ nằm ngay trong nhóm chim này. Chúng tôi sống gần đó, chúng tôi nghe tiếng
kêu của chúng, chúng tôi tìm thấy chỗ chúng nhảy múa, và, sau nhiều tuần lễ tìm kiếm, chúng tôi không thể
ngay cả thoáng thấy một con nào cả. Từng đêm qua, tiếng kêu của chúng quanh tôi khoảng vài trăm thuớc,
cộng hƣởng nhƣ tiếng chim trĩ, nhƣng với âm thanh điếc tai không sao lẫn lộn. Chúng tôi không thể không hồi
tƣởng đến vài con chim Phụng tƣởng tƣợng của Trung quốc.
Sắc thái bí ẩn của giống chim này, kết hợp với đặc điểm của nó, đủ để giải thích huyền thoại chung quanh nó.
Các tác phẩm cổ điển Trung quốc viện dẫn nhiều lần khác nhau một con Phụng trắng và một con Loan trắng mà
các nhà thiên nhiên học hiện đại không bao giờ nói là chim trĩ đốm tròn hay chim trĩ bị chứng bạch tạng.
Thƣờng thấy chứng bạch tạng trong các con chim làm con thịt để săn. Nhƣ vậy cũng rất có thể tìm ra mẫu trong
các chim Trĩ Đốm Tròn hoặc chim Trĩ. Ở Trung quốc, sự khám phá duy nhất về con chim trĩ bạch tạng đƣợc xem
nhƣ một điềm tốt: nó báo hiệu một giai đoạn thái bình, hay sự ra đời của một thánh nhân mới, hay một biến cố
quan trọng; cũng tìm thấy cùng một niềm tin đó ở Nhật Bản. Ngƣời ta ghi nhận các kết quả tốt đẹp đó qua sự
kiện dâng chim trĩ trắng lên các Hoàng Đế Ten-Chi, Temmu và Shotoku.

Nhƣng sự hiện diện của chứng bạch tạng trong chim trĩ thì hiếm hoi ở Trung quốc và Nhật Bản hơn là ở Anh
quốc nơi mà tôi đã tự quan sát hơn nửa tá mẫu ở chợ Cambridge vào mùa vừa qua, còn ở Viễn Đông ngƣời ta
hiếm khi gặp một mẫu trong nhiều năm.

Một bức tranh Trung quốc xƣa biểu lộ chim Phụng đã khơi dậy vài cuộc thảo luận, bởi vì nó cho thấy một sự
tƣơng tự phần nào với con Công. Giáo sƣ Giles, trong “Adversaria Sinica” (1905) viết: “Chim Phụng và chim
Loan đƣợc vẽ hình trong Tu Shu Chi Ch‟eng và tôi đƣợc nhà điểu học thông thái Giáo Sƣ A. Newton cho phép để
nói rằng theo Ông, con thứ nhất chỉ là công trình của vài nghệ sĩ đã thấy con công, và đặc biệt nó là giống công
ở Ấn Độ. Trong cùng nghĩa đó, Giáo Sƣ Newton nghĩ rằng con Loan có nguồn gốc là chim trĩ ở Bornéo và
Malacca”.

Nhƣ vậy có thể hai con chim hoang đƣờng này của Trung quốc đơn giản là sự nhận thức về “hai con chim này”.
Nhƣ tôi đã nói, tôi chia sẻ ý kiến với Giáo Sƣ Newton về chim trĩ, nhƣng tôi có lý do khiến tôi tách khỏi Ông khi
Ông nhận diện chim Phụng và con Công. Đây là những lý do:
Chữ Khổng (孔kong, còn đọc là Công), nghĩa đen là "cái lỗ" và giải thích bởi hình dáng cái đuôi của nó nhƣ mang
con mắt. Hoặc, chữ này không xuất hiện trong bất cứ tên xƣa nào của chim Phụng. Mặt khác, nhiều tiếng ghép
ở Trung quốc và Nhật bản có chứa chữ “Phụng”.
1) Con vịt đầu Phụng (鳳頭鴨子feng tou ya zi phụng đầu áp tử) hay con vịt có mồng, trong đó cái mồng rơi về
phía sau nhƣ trƣờng hợp chim trĩ Rheinardte, khác với mồng thẳng đứng của con công.
2) Cây cọ có đuôi Phụng: phụng vĩ tiêu: Cycas revoluta.
3) Cá vàng đuôi Phụng: 鳳尾金魚 feng wei jin yu phụng vĩ kim ngƣ.

Không có từ ngữ nào có thể áp dụng cho con Công mà cái mồng và đuôi không có liên hệ nào với các vật này.
Giáo sƣ Giles kể lại lịch sử của nữ thần có con chim Phụng làm bạn đồng hành (Si Wang Mu 四王母 Tây Vƣơng
Mẫu). Ông nghĩ rằng nữ thần này tƣơng đƣơng với nữ thần La Mã Junon, ngƣời luôn luôn có con công đi theo.
Nhƣng tôi tìm ra một huyền thoại xƣa và một bức tranh của nữ thần với con công: 孔雀明王 (kong que ming
wang, Khổng Tƣớc minh vƣơng) hay 孔雀王母菩薩 (kong que wang mu pu sa Khổng Tƣớc Vƣơng Mẫu Bồ Tát)
trong các văn bản Nhật, và là chỗ mà ngƣời ta minh họa con công Ấn Độ.

Nữ thần mang tên tiếng Phạn là Ma Vu La hay Ma Do La, Mayura (con công); tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có vài
nữ thần giống nhƣ nữ thần Junon trong truyện huyền thoại, rất có thể đó là nữ thần Công mà lịch sử của nó
xuất phát từ Ấn Độ, truyền đến Nhật bản ngang qua Trung Quốc.

Giáo sƣ Rapson, một nhà Phạn học trác tuyệt, viết cho tôi rằng nhiều vị thần Ấn Độ có liên quan đến con công,
nhƣng khó nói rằng có một trong các nữ thần có liên quan đến nữ thần Junon: vì vậy tôi không thể xác nhận
điều gì về đề tài này.
Nhƣng tôi hy vọng đã cung cấp đủ các lý do để thuyết phục đọc giả rằng con chim Trĩ Đốm Tròn (Rheinardia
Ocellata) có toàn quyền để yêu cầu là cùng một giống với con chim Phụng của Trung quốc.

Để chấm dứt, tôi nghĩ rằng do sai lầm mà tên của chim Phụng đƣợc dùng để chỉ các con chim hoang đƣờng của
Trung quốc, bởi vì ngƣời ta không tìm ra dấu vết của huyền thoại phục sinh từ đống tro tàn, giống nhƣ trƣờng
hợp con chim Phụng Ai cập.

Vì thế tôi nghĩ là đáng tiếc khi ngƣời ta không dùng từ ngữ Hò-Ow, một từ ngữ nhắc đến tiếng kêu của con chim
nhiều hơn bất cứ cái tên nào khác của nó.

*
**

Không nhất thiết phải là nhà thiên nhiên học để ngạc nhiên về phần lớn các thảo luận của nhà thông thái Nhật
bản. Chúng ta không có gì để thêm vào các lý luận mà ông đã khéo léo rút tỉa từ văn chƣơng, ngôn ngữ Trung
quốc và Nhật Bản, cùng các đặc điểm của con chim.

Tuy vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng ông đã không rút tỉa hết phần mà ngƣời ta có thể nhận đƣợc từ lịch sử
của An-nam, một quá khứ mà ông U. Hachisuka ít ra cũng chắc chắn biết các nét lớn của nó, và đặc biệt hơn,
trong mối liên quan của nó với ngƣời đồng hƣơng của ông.

Thực ra, trên quan điểm mà chúng ta quan tâm, hoàn toàn đáng lƣu ý rằng phần đất An-nam - nơi chim trĩ đốm
tròn ở - đã nhiều lần bị chiếm đóng hoặc lui tới trọn vẹn hoặc một phần bởi ngƣời Trung quốc và ngƣời Nhật từ
thế kỷ thứ III trƣớc Tây lịch cho đến thế kỷ thứ XVI và XVII.

Bình Định (Tỉnh Qui Nhơn) nằm về phía Bắc Tỉnh Nha Trang, là biên giới phía Nam của vùng mà ngƣời ta tìm
thấy chim trĩ đốm tròn. Từ năm 1282 đến 1284, đã thấy có quân đội Trung quốc-Mông Cổ ở Bình Định và vào
thế kỷ thứ XV hạm đội Mông Cổ bị chặn đứng ở đây trƣớc khi quay về Java.

Vào thế kỷ thứ III trƣớc Tây lịch, tỉnh Quảng Nam (Faïfo), lúc đó gọi là “Tƣợng Quận”, có một thủ phủ của ngƣời
Trung quốc ở vùng Trà Kiệu. Ngƣời Trung quốc chiếm đóng vùng này trong nhiều thế kỷ sau đó, và trong thế kỷ
thứ III, dƣới đời nhà Hán, huyện Tƣợng Lâm vẫn còn hiện hữu.

Năm 351 sau Tây lịch, ngƣời Trung quốc xua đuổi ngƣời kế vị họ là ngƣời Chàm, rồi họ lại xuất hiện vào năm
446, năm 605, sau mỗi một lần chinh phạt này là sự chiếm đóng lâu dài hay ngắn ngủi.

Điều đáng lƣu ý là đúng ngay tại phần núi non của vùng này, cũng nhƣ vùng Thừa Thiên và Quảng Nam, ngƣời
ta thƣờng thấy chim trĩđốm tròn nhất, một giống chim đƣợc dùng làm đồ trang điểm cho vũ công hay diễn viên
của sân khấu An-nam.

Tỉnh Thừa Thiên (Huế) bị chiếm đóng năm 214 trƣớc Tây lịch và tạo thành huyện Si-Kiuan, tức là một trong
năm huyện của Tƣợng Quận. Ngƣời Trung quốc tái xuất hiện tại đây vào đầu thế kỷ thứ IX.

Tỉnh Quảng Trị, nơi chim trĩ đốm tròn gặp nhau cách tỉnh khoảng 30 cây số, hoàn toàn bị Trung quốc chiếm
đóng trong một thời gian dài. Dƣới triều Hán, nó là một phần của huyện Nhật Nam, từ năm 605 đến 617, dƣới
triều Tùy, nó tạo thành huyện Lâm Ấp, dƣới triều Đƣờng, nó trở thành châu Kiên.

Về phía Bắc Quảng Trị, dƣới triều Hán, Quảng Bình (Đồng Hới) thuộc về huyện Nhật Nam, năm 605 trở thành
quận Tị Cảnh (Pi-Yin) và từ năm 627 đến 647, là châu Nam Canh (Nan-Ying).

Dƣới triều Hán, Hà Tỉnh sáp nhập vào quận Cửu Châu và tới năm 264 nhập vào Cửu Đức. Dƣới triều Tùy, nó là
trung tâm quận của Nhật Nam. Năm 627, dƣới triều Đƣờng, nó tách khỏi châu Hoan để trở thành phủ Dƣơng
Lua.

Cuối cùng, Nghệ An, giới hạn phía Bắc của địa bàn phân tán chim trĩ đốm tròn, và châu Đức dƣới triều Lƣơng;
năm 598 gọi là châu Hoan, tách khỏi quận Nhật Nam dƣới triều Tùy (năm 607), cuối cùng là châu Nam Đức năm
622 đầu triều Đƣờng.

Về phía ngƣời Nhật, chúng ta tìm thấy dấu vết hiện diện của họ ở An-nam ngay từ các thế kỷ đầu của lịch sử. Là
thƣơng gia và hàng hải dũng cảm, họ tạo thành các đoàn di dân, hãng buôn mà sau cùng phồn thịnh nhất là ở
Hội An, chỉ biến mất vào thế kỷ thứ XVII khi Hoàng đế Nhật ra sắc chỉ năm 1636 cấm dân ra ngoại quốc và ra
lịnh cho những ngƣời ở ngoại quốc trở về Nhật. Faifo giữ gìn lâu dài sự tích của nhóm di dân: một cây cầu và
các ngôi mộ là các chứng tích duy nhất còn tồn tại đến ngày nay.

Chúng ta cũng không quên nhắc lại, nhƣ quan Nguyễn Hữu Bài, Chủ Tịch Hội Đồng Nội Các An-nam, đã lƣu ý tôi
rằng các sách sử của triều đình viết về phẩm vật triều cống hàng năm của vua An-nam dâng cho hoàng đế
Trung quốc có cho thấy rằng thuộc về nghi lễ là chim trĩ Rheinardtes nhƣng quí hơn lại là chim Rheinardtes
trắng (bạch tạng).

Ngƣợc thời gian, các cống phẩm này đã bắt đầu từ các thế kỷ đầu tiên của Tây lịch. Vì vậy bây giờ ngƣời ta
chứng minh đƣợc làm thế nào mà ngƣời Trung quốc và Nhật Bản tiến triển song song ở nƣớc họ - qua con
đƣờng của các ngƣời kể truyện và văn gia - lịch sử của chim trĩ đốm tròn ngay lập tức đứng giữa các huyền
thoại về các con vật hoang đƣờng, phi thƣờng, nhƣ phong tục của các nƣớc này đã cho chúng ta biết bao thí dụ.

Sự hiếm hoi chim trĩ xảy ra ngay trong những vùng nó ở, sự cực kỳ khó khăn không chỉ kiếm đƣợc nó mà còn
nhận biết nó, tất cả điều này gia tăng đặc điểm kỳ lạ, phi thƣờng đi kèm với nó cũng nhƣ trong các huyền thoại
và tiểu thuyết nghệ thuật, tƣợng, tranh, bích họa, v.v…

Đối với ai kém tiên liệu, các điểm tƣơng đồng giữa chim Trĩ Đốm Tròn và chim phụng đã đƣợc trình bày rõ
ràng.14

Còn về các khác biệt, tôi tin rằng dễ giải thích do sự kiện là chắc chắn có sự lẫn lộn trong tâm trí của các nghệ sĩ
giữa chim Trĩ Đốm Tròn và con Công đối với vài đặc điểm phụ còn lại.

14 Cƣớc chú của ngƣời dịch: locution: sauter aux yeux: rõ ràng, hiển nhiên.

Do đó, đuôi của chim Phụng thƣờng đƣợc trình bày ở phía chót đuôi có mang một con mắt tƣơng tự phần cuối
của con công, trong lúc trong thực tế, đuôi của chim Phụng chỉ có các đốm tròn và tận cùng bằng điểm nhọn.

Chim Phụng cũng thấy với các màu sống động, xanh, xanh lá cây và đỏ làm nhớ lại màu của con con Công,
nhƣng trong tổng thể thì màu của chim Trĩ Đốm Tròn là một màu nâu đẹp, điểm màu vàng nhạt.

Nhƣng sự lẫn lộn này rất dễ hiểu do sự kiện là trong tất cả vùng gặp chim trĩ, ngƣời ta cũng tìm thấy con Công
và con này lại phổ biến và dễ thấy hơn là chim trĩ.

Cuối cùng tôi xin thêm rằng thƣờng thì thợ săn chỉ mang về các lông đuôi của con thú săn đƣợc nhƣ một chiến
tích và điều này còn là một nguyên nhân của sai lầm hay lẫn lộn rất dễ hiểu.

Ghi chú của :

Mặc dù tác giả đã nghiên cứu khá công phu, nhƣng có lẽ thật ra ngƣời Trung Quốc ngày xƣa cũng không lẫn lộn
con phụng (phƣợng) trong tứ linh và con trĩ kê, một loại chim hiếm của phƣơng nam. Ai từng đọc qua bộ Phong
Thần chắc cũng biết bộ ba hồ ly tinh (nhập Đắc Kỷ làm mẫu nghi thiên hạ đội mão Cửu Phụng), Cửu Đầu Trĩ và
Thạch Tỳ bà do bà Nữ Oa sai xuống phá vua Trụ để trả thù cái tội làm thơ ghẹo bà.

Cái chuyện này bác Natphung chắc rành hơn...

28-04-2007, 09:26 AM
Có một giai thoại văn học về Thủ Khoa Huân, tức ông Nguyễn Hữu Huân ở Long An liên quan đến bài Tứ Hỉ Thi
này. Chuyện kể ông là ngƣời dùng chữ rất tiết kiệm, luôn tìm cách cắt bớt chữ để câu văn súc tích hơn nên nổi
tiếng về tài giản lƣợc các bài thơ mà vẫn giữ nguyên ý.

Một hôm có ngƣời đem bài Tứ hỉ thi ra nhờ ông cắt bớt chữ. Tuy nhiên, ông bảo bài thơ này không thể cắt bớt,
ngƣợc lại mỗicâu phải thêm hai chữ cho mạch văn mạnh mẽ, ý tứ tuôn trào hơn. Trƣớc sự ngạc nhiên của mọi
ngƣời ông ngâm nga.

Cửu niên đại hạn phùng cam vũ;


Thiên lý tha hƣơng ngộ cố tri;
Hòa thƣợng động phòng hoa chúc dạ;
Thiếu niên kim bảng quải danh thì.
Trong post của câu 28, có nhầm lẫn một chi tiết đáng tiếc. Thật ra thì giai thoại này là nói về ông Thủ Khoa
Nghĩa, tức ông Bùi Hữu Nghĩa, chớ không phải về ông Thủ Khoa Huân.

Nay xin đính chính và sửa lại post trên cho đúng.
Nói bậy không chỉ bị cƣời, mà còn sợ các em nhỏ nó tin theo ông anh Mọt già thì thiệt là tai hại.

Chớ để nửa đêm mà bà thủ khoa Nghĩa (http://www.thuvien-


ebook.com/forums/showthread.php?p=30223#post30223) lại "kích cổ đăng quan" thì hết ngủ luôn.

Thành thật cáo lỗi.

NatPhung
01-05-2007, 04:23 PM
41. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
Tại sao ngƣời Trung Quốc ngày xƣa lại dùng hai tiếng “tu mi” (râu mày, thƣờng nói là mày râu) để chỉ đàn ông?
Không lẽ đàn bà không có lông mày?

AN CHI: Về câu hỏi này, Từ Thời Đống đã giải đáp trong Yên tự lâu bút ký nhƣ sau:

“Ngƣời xƣa gọi đàn ông là tu mi. Ta vẫn thƣờng hỏi bạn bè: “Râu là thứ chỉ riêng đàn ông mới có, còn (lông)
mày thì đàn bà cũng có; tại sao lại gọi đàn ông là tu mi kia chứ?”

(Tất cả) đều không trả lời đƣợc. (Ta) xét sách Thích danh nói: “Phấn vẽ lông mày là để thay thế; cạo bỏ lông
mày đi, lấy phấn vẽ thay vào chỗ lông mày đã cạo. Nhờ thế mà biết rằng ngày xƣa đàn bà đều cạo bỏ lông
mày; vậy tuy có (lông mày) mà cũng nhƣ không. Tiếng đó chuyên dùng để chỉ đàn ông là vì thế”.

NatPhung
01-05-2007, 04:30 PM
42. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
Tại sao ngƣời Việt Nam lại gọi ngƣời Trung Hoa là “Tàu”?

AN CHI: Đã có nhiều ngƣời liên hệ tên gọi này với từ tàu trong tàu bè. Xin chép Huình-Tịnh Paulus Của làm dẫn
chứng: “Ngƣời An Nam thấy tàu bè khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nƣớc Tàu, ngƣời Tàu” (Đại Nam quấc
âm tự vị, t.II, Saigon, 1896, tr.346). Có nhiều tìm tòi hơn là ý kiến của Vƣơng Duy Trinh cho rằng Tàu là biến
thể ngữ âm của Tào, là tiếng mà từ đời Tam Quốc, ngƣời Việt đã dùng để gọi nƣớc Ngụy của Tào Tháo (Xem
Thanh Hóa quan phòng, Nguyễn Duy Tiếu phiên diễn, Sài Gòn, 1973, tr.97). Nhƣng nƣớc ta, lúc bấy giờ là quận
Giao Chỉ và một phần quận Cửu Chân – chúng tôi cho là chỉ một phần thôi – lại thuộc về Đông Ngô chứ không
thuộc về Bắc Ngụy (chính vì thế mà bấy giờ ngƣời Việt đã gọi ngƣời Trung Hoa là ngƣời Ngô nhƣ vẫn còn thấy
trong mấy tiếng thằng Ngô con đĩ) cho nên cách giải thích của Vƣơng Duy Trinh xem ra vẫn chƣa thỏa đáng. Vả
lại, tại sao ngƣời ta không gọi thẳng bằng tên nƣớc là Ngụy mà phải dùng họ Tào để gọi?

Chúng tôi cho rằng Tàu là âm cổ Hán Việt của từ ghi bằng 曹 mà âm Hán Việt hiện đại là tào, có nghĩa là “quan”.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, nói chung quan cai trị là ngƣời Trung Hoa cho nên dân chúng đã quan niệm rằng ngƣời
Trung Hoa là tàu, nghĩa là quan. Nếu cho rằng đây là một nếp nghĩ vô lý thì xin nhớ lại chuyện đã xảy ra hồi
tháng 8, tháng 9 năm 1945 tại Sài Gòn: dân Việt Nam đã đánh bất cứ ngƣời Pháp nào mà họ gặp ngoài đƣờng
vì hễ là ngƣời Pháp thì đều là”thực dân”. Do quan niệm trên mà về sau tất cả mọi ngƣời Trung Hoa dù không
làm quan – đây là tuyệt đại đa số - cũng đƣợc "vinh dự" gọi là Tàu.

Ghi chú của :

Lâu lâu "đánh trống qua cửa nhà sấm" bắt giò An Chi một cái. Nếu cho rằng ngƣời Việt "quan niệm rằng ngƣời
Trung Hoa là tàu, nghĩa là quan", thì cái quan niệm này phải có từ thời còn nhiều ngƣời Trung Hoa làm quan tại
Việt Nam. Vậy thì ta phải tìm đƣợc các dấu tích này trong văn chƣơng cổ, tối thiểu là văn chƣơng bình dân, hay
truyền khẩu nhƣ ca dao-tục ngữ. Tuy nhiên văn chƣơng bình dân Việt Nam cho đến cuối thời kỳ bắc thuộc vẫn
không tìm thấy chữ nƣớc tàu, ngƣời tàu, hay giặc tàu trong bất kỳ thể loại nào.

Từ ngƣời Tàu chỉ xuất hiện và bắt đầu đƣợc dùng rộng rãi khi có những đợt sóng ngƣời Minh Hƣơng chạy loạn
tràn sang Việt Nam. Họ đến từng đoàn đông đúc trên những chiếc "tàu lớn" nên gây sự chú ý của ngƣời Việt.
Nên biết rằng cho đến thế kỷ 19, kỹ thuật đóng tàu của ngƣời Việt vẫn chỉ ở mức ghe, thuyền đánh cá nhỏ chớ
không phát triển kỹ thuật đóng tàu lớn đi biển. Trong khi đó ngƣời Trung Hoa đã phát triển các đại chiến
thuyền, lâu thuyền từ thời xƣa và cực thịnh trong thời Tống. Vì thế, các đoàn "tàu" của ngƣời Trung Hoa lũ lƣợt
chạy loạn tấp vào Việt Nam là một cảnh tƣợng ngoạn mục và ấn tƣợng cho ngƣời Việt thời bấy giờ. Vì vậy mới
xuất hiện danh từ ngƣời "tàu". Sau này phái sinh các cụm từ khác - thƣờng là trong cách nói không tôn trọng -
"giặc tàu", "nƣớc Tàu".

Cho nên quan niệm “Ngƣời An Nam thấy tàu bè khách qua lại nhiều, lấy đó mà gọi là nƣớc Tàu, ngƣời Tàu” là
đúng, và đã nghe vài giáo sƣ ngƣời Hoa xác nhận điều này.

Tƣơng tự, trong giai đoạn 1975 đến 1980, có những đợt sóng ngƣời Việt vƣợt biên bằng đƣờng thủy lên đến
hàng triệu ngƣời. Thế giới đã chú ý đến hiện tƣợng đó và gọi chung những ngƣời Việt vƣợt biên là "boat people".
Sau này từ "boat people" thành 1 thứ tiếng lóng đƣợc dùng để chỉ đa số ngƣời Việt ở nƣớc ngoài, dù họ đi đƣờng
bộ hay... máy bay ra nƣớc ngoài du học. "Boat people" có phải là ngƣời "tàu" không? Ngƣời Việt hải ngoại
thƣờng dùng chữ "thuyền nhân Việt Nam" để phân biệt mình với "tàu nhân Trung quốc". Cách nào đó, ngƣời
Việt hải ngoại đã gián tiếp công nhận mình là "ngƣời ... thuyền".

Ghi chú số 2 của :

Nếu An Chi lý luận đúng thì cách gọi ngƣời Hoa là "Tàu" là một từ xƣng hô vinh dự. Điều này trái hẳn với thực
tế. Ngƣời Hoa sinh sống tại Việt Nam không ai muốn bị gọi là "ba tàu" vì đó là cách gọi khinh dễ. Nó nhắc họ
nhớ đến một quá khứ không vinh quang của cha ông. Đồng thời, họ cảm thấy bị tách rời và phân biệt ngay giữa
đất nƣớc họ sinh sống và góp phần xây dựng. Họ cũng không muốn bị gọi là Hoa "kiều" vì họ là cƣ dân và công
dân của Việt Nam.

NatPhung
07-05-2007, 05:36 AM
43. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
Trong bài “Đêm giao thừa 1993” của Trịnh Công Sơn (Kiến thức ngày nay số 101, trang 22-23) có hai tiếng sát
na (“cái sát na nhỏ bé của thời gian”). Xin cho biết sát na là gì?

AN CHI: Sát na là một khoảng thời gian cực ngắn. Đây là một danh từ mà ngƣời Trung Hoa đã phiên âm từ tiếng
Sanskrit (cũng gọi là tiếng Bắc Phạn) kṣaṇa trong kinh Phật. Họ đã ghi kết quả phiên âm đó bằng hai chữ Hán
mà ngƣời Việt Nam đọc theo âm Hán Việt thành sát na.
NatPhung
07-05-2007, 05:45 AM
44. (KTTN 103, ngày 01-3-1993)
Xin cho biết lịch sử cây thánh giá của ngƣời theo đạo Thiên chúa.

AN CHI: Thánh giá vốn là một thập tự giá (trở xuống xin gọi tắt là thập giá) nghĩa là một cái giá hình chữ thập
(†). Đó là biểu tƣợng của đức tin Ki Tô giáo vì chính Chúa Jesus đã chịu nhục hình trên một cây thập giá.

Tuy nhiên ngay từ trƣớc Công nguyên, chữ thập đã là biểu tƣợng có tính chất tôn giáo của nhiều dân tộc khác
nhau thời cổ đại rồi. Chữ thập đều, cũng gọi là chữ thập Hy Lạp, là biểu tƣợng của thần Amu nơi ngƣời Chaldée
và ngƣời Babylone. Chữ thập có quai (croix ansée) rất thƣờng thấy nơi ngƣời Ai Cập và đƣợc xem là tƣợng trƣng
cho sự bất tử. Chữ thập ngoặc đã có mặt ở Ấn Độ từ hàng ngàn năm trƣớc Công nguyên. Chữ thập ngoặc có
nhánh chĩa về bên phải, gọi là svastika, tƣợng trƣng cho thần Ganeśa và điềm lành còn chữ thập ngoặc có
nhánh chĩa về bên trái, gọi là sauvastika, thì tƣợng trƣng cho nữ thần Kali và điềm dữ. Nơi nhiều dân tộc khác
nhau, từ ngƣời Ba Tƣ đến ngƣời Phénicie, từ ngƣời Etrusque đến ngƣời La Mã, từ ngƣời xứ Gaule đến ngƣời xứ
nay là nƣớc Anh, ngay cả thổ dân Da đỏ của Mexico và Trung Mỹ, ngƣời ta đều thấy sự có mặt của chữ thập.

Riêng việc hành hình bằng cách trói hoặc đóng đinh tội nhân vào một cây thập giá thì nhiều nhà nghiên cứu đã
cho là thuộc về “sáng kiến” của ngƣời Phénicie. Sau đó, nhiều dân tộc thời cổ đại cũng đã áp dụng kiểu hành
hình này. Tiền thân của cây thập giá chỉ là một cái trụ đứng, nơi đó ngƣời ta trói tội nhân vào khi mà chung
quanh không có một thân cây nào để tận dụng. Ngƣời ta cũng có thể dùng cái trụ đó đâm xuyên tội nhân từ hậu
môn lên rồi cứ thế mà bêu cho đến khi tội nhân chết. Về sau, ngƣời ta đã gác thêm một thanh ngang vào cái trụ
đứng và thế là cây thập giá với tính cách là một phƣơng tiện hành hình đã chính thức ra đời. Đức Chúa Jesus đã
chịu nhục hình trên một cây thập giá nhƣ thế.

Thoạt đầu chỉ là dấu hiệu của sự ô nhục, theo dòng thời gian, cùng với sự phát triển của Ki Tô giáo, cây thập giá
đã trở nên biểu tƣợng của tình thƣơng Thiên Chúa và đức hy sinh cho sự nghiệp cứu rỗi nhân loại. Trong tiếng
Việt, nó đƣợc gọi là cây thánh giá.

Ghi chú của Natphung:

* Các bạn có thể tham khảo thêm về lich sử của chữ svastika ở đây
(http://vietsciences.free.fr/lichsu/swastika.htm) của tác giả Phạm Việt Hƣng

*và ... chữ Vạn của Phật giáo có thể có 2 chiều quay trái ngƣợc nhau, mỗi chiều có một ý nghĩa riêng, nhƣng
đều thiêng liêng...
xem http://vietsciences.free.fr/lichsu/swastika2.htm

goldfish
07-05-2007, 08:56 AM
Thánh giá vốn là một thập tự giá (trở xuống xin gọi tắt là thập giá) nghĩa là một cái giá hình chữ thập (†).

Có ngƣời còn gọi là cây thập ác

Ngƣời ta cũng có thể dùng cái trụ đó đâm xuyên tội nhân từ hậu môn lên rồi cứ thế mà bêu cho đến khi tội nhân
chết

Nếu nhƣ tôi nhớ không lầm thì trong quyển Nhịp cầu trên sông Drina của Ivo-Andritch có tả cách hành hành dã
man này

NatPhung
07-05-2007, 10:06 AM
Có ngƣời còn gọi là cây thập ác

Nếu nhƣ tôi nhớ không lầm thì trong quyển Nhịp cầu trên sông Drina của Ivo-Andritch có tả cách hành hành dã
man này

Golfish không lầm (Nhƣng đúng hơn là "Cầu sông Drina" do Nguyễn Hiến Lê dịch). Nhƣ trong truyện đó thì nghệ
thuật tới mức thƣợng thừa là làm sao đâm cây cọc xuyên từ hậu môn trổ lên vai mà không chạm phải cơ quan
nội tạng, tránh xuất huyết nội. Mục đích là kéo dài thời gian nhục hình.
NatPhung
09-05-2007, 03:24 PM
45. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
Thỉnh thoảng tôi đƣợc thấy trong tranh vẽ của Trung Quốc hình một ông già có chòm râu bạc phơ dài đến rún,
lại có một cái trán sói vĩ đại nổi lên trên đầu nhƣ hình dáng một quả trứng to quá khổ. Thí dụ, trên bìa 1 của Mỹ
thuật thời nay số 28 (Xuân Quý Dậu) có in một bức tranh nhƣ thế và chú thích ở trang 3 là tranh “Thần Phúc
Lộc”. Có phải đó là Thái Thƣợng Lão Quân không? Và cái trán quả trứng to quá khổ của ông ấy có ý nghĩa gì?

AN CHI: Thái Thƣợng Lão Quân là tôn hiệu dành cho Lão Tử, ngƣời đƣợc phái Đạo giáo xem là tông sƣ. Còn ông
lão mà bạn thấy trong tranh Trung Hoa và trên bìa 1 của tạp chí Mỹ Thuật thời nay số 28 không phải là Lão Tử
mà cũng không phải là “Thần Phúc Lộc”. Đó là Nam Cực Lão Nhân nhƣ đã đƣợc khẳng định bằng chính mấy chữ
Hán trong tranh in nơi bìa 1 của tạp chí đó: Nam Cực Lão Nhân ứng thọ đồ, nghĩa là “tranh Ông Già Nam Cực đi
ban thọ”. Ông ta chính là Ông Thọ. Và Ông Thọ chính là hóa thân của Nam Cực Lão Nhân tinh.

Nam Cực Lão Nhân tinh, tức là sao Nam Cực Lão Nhân, hiện nay chỉ gọi tắt là Lão Nhân tinh, tức sao Ông Già.
Sao Ông Già là sao Canopus trong chòm sao Argo, sáng hàng thứ hai sau sao Thiên Lang, tức sao Sirius, trên
bầu trời Nam bán cầu. Tuy sáng thua sao Thiên Lang nhƣng vì sao Ông Già là ngôi sao sáng nhất ở phía cực
Nam của bầu trời nhìn từ mặt đất (Thiên Lang: 16°36‟N, còn Ông Già: 52°40‟N) nên ngƣời Trung Hoa ngày xƣa
đã gọi nó là Nam Cực tinh, tức sao Nam Cực. Ở địa bàn nguyên thủy của ngƣời Trung Hoa thời cổ đại là lƣu vực
sông Hoàng Hà (thuộc Bắc bán cầu) thì rất khó mà nhìn thấy đƣợc nó. Phải sống rất lâu mới nhìn thấy nó nhiều
lần trong đời. Vì vậy ngƣời Trung Hoa mới lấy sao Nam Cực làm tƣợng trƣng cho tuổi thọ mà gọi nó là Thọ tinh
tức sao Thọ. Tƣợng trƣng hóa nhƣ thế xem ra vẫn chƣa thỏa lòng, ngƣời ta lại tiếp tục nhân cách hóa thành
Nam Cực Lão Nhân (tinh) = (sao) Ông Già Nam Cực. Sau đó, còn bỏ cả hai tiếng Nam Cực vốn là tên nguyên
thủy mà chỉ giữ lại có hai tiếng Lão Nhân (tinh) = (sao) Ông Già.

Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh 1992) đã giảng hai tiếng Thọ tinh (shòu xing) nhƣ sau: “Chỉ sao Ông Già. Từ
xƣa đến nay dùng làm tƣợng trƣng cho sự trƣờng thọ, gọi là Thọ tinh. Nhân gian thƣờng vẽ thành hình dáng
một ông già, đầu dài mà nổi u lên. Cũng gọi là Ông Già sao Thọ”.

Nơi tranh bìa đã nói, đi trƣớc Nam Cực Lão Nhân, tức Ông Thọ, là ba chú tiên đồng khiêng một trái đào thọ to
bằng thân hình của ba chú gộp lại và ở hậu cảnh, cũng tƣợng trƣng cho tuổi thọ, còn có hình của ba con hạc.

Cái đầu nổi u lên của ông ta có ý nghĩa Đạo giáo sâu sắc. Đạo này cho rằng hành động tính dục có ba mục đích
là sự truyền giống, sự thỏa mãn tính dục và sự ngăn chận quá trình suy lão. Mục đích cuối cùng này lại chỉ là
“độc quyền” – vì là bí truyền – của một số đạo sƣ mà thôi. Những ngƣời này cho rằng tất cả mọi lần xuất tinh
đều rút ngắn đời ngƣời. Vì vậy nên phải cho tinh dịch quay trở về mà bồi bổ cho não để đạt đến trƣờng sinh.
Cho nên, trong việc giao hợp, khi phóng tinh thì không đƣợc để cho tinh xuất ra ngoài mà phải rút nó từ ngọc
hành trở vào để đƣa nó lên tận não. Chính do diệu pháp này mà các vị siêu đẳng thọ mới có cái đầu nổi u lên
nhƣ đã nói và đã thấy. Điển hình nhất chính là cái đầu của Ông Thọ.

Xin chớ cho đây là chuyện tếu. Ghi nhận quan niệm trên đây là hai đồng tác giả, một ngƣời Pháp và một ngƣời
Trung Quốc là Pierre Huard và Ming Wong đã viết về cái đầu của ông ta và về diệu pháp đó nhƣ sau: “Đích thị là
vì ông ta có thể đƣa lên đến tận óc của ông ta những chất tinh túy gây thụ thai của cơ thể mình và tích lũy
chúng tại đó bằng những phép thực hành tính dục rất đặc biệt nên ông ta đã đạt đƣợc sức khỏe và trƣờng thọ”
(La médecine chinoise, Paris, 1959, p.19).

Lời bàn ra của :

Cái này tiếng Việt có một tục ngữ khá ... dễ thƣơng là "khí tồn tại não".

Ai muốn luyện cái món Thái Âm bổ dƣơng thì download cái quyển "Healing Love Through the Tao: Cultivating
Female Sexual Energy" này (http://rapidshare.com/files/7871332/mantak_chia_-
_cultivating_female___ual._energy.pdf) về rồi vừa tra từ điển vừa ...luyện.

Lời khuyên cho những ai định luyện môn "thái âm bổ dƣơng" này. Coi chừng tập không đúng cách thì hậu quả
rất nguy hiểm. Nhẹ thì bị migrain (đau đầu đông) nhƣ ... . Nặng thì bị "tẩu hỏa nhập ma" nhƣ...
Thôi không nói nữa.

NatPhung
09-05-2007, 03:41 PM
46. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
Theo mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay số 101 thì “hoàng tức” là con dâu của vua. Xin cho
biết thêm “vƣơng phi” là gì?
AN CHI: Vƣơng phi là vợ của thái tử. Thí dụ nhƣ trong hoàng gia nƣớc Anh thì Diana là vƣơng phi của thái tử
Charles và là hoàng tức của nữ hoàng Elisabeth (*). Còn trong hoàng gia nƣớc Nhật, Masako Owada là vƣơng
phi của thái tử Naruhito và là hoàng tức của hoàng đế Akihito và hoàng hậu Michiko. Phi, theo nghĩa gốc là thiếp
(vợ lẽ) của vua. Nó còn có nghĩa là thê (vợ chính) của thái tử, của ngƣời có tƣớc vƣơng hoặc tƣớc hầu.

(*) Ghi chú của Natphung:

Đúng ra là Elizabeth II (Đệ nhị, để phân biệt với Elizabeth I). Nhũ danh của nữ hoàng Elizabeth II là Elizabeth
Alexandra Mary Windsor.

Trích dẫn ngang hông của :

Phi, theo nghĩa gốc là ... vợ lẽ của vua...còn là ...vợ chính của thái tử
Kinh khủng quá

NatPhung
12-05-2007, 03:15 PM
47. (KTTN 104, ngày 15-3-1993)
Có phải mấy tiếng “đôi tôi”, “tôi tôi” là do “thôi nôi” mà ra hay không?

AN CHI: Đây là một tục lệ gốc ở Trung Hoa xƣa, liên quan đến chữ 晬, đọc theo âm Hán Việt là tối, có nghĩa là
tròn năm (vị từ) hoặc đứa trẻ đầy một tuổi (danh từ). Khi đứa trẻ đúng một tuổi, ngƣời ta “trắc nghiệm” để dự
đoán sở thích và sở trƣờng của nó trong tƣơng lai. Tiếng Hán gọi việc này là “thí nhi” nghĩa là thử con. Ngƣời ta
bày lên mâm một số đồ vật vừa đồ chơi, đồ nghề, vừa học cụ, v.v… để xem đứa trẻ chọn thứ nào mà lấy căn cứ
vào món đồ này mà dự đoán tƣơng lai của nó. Cái mâm đó gọi là tối bàn (mâm đầy năm). Nó đƣợc bày biện để
thử con vào đúng dịp chu tối, nghĩa là dịp tròn trặn một năm tuổi của đứa trẻ (chu là giáp vòng).

Đôi tôi và tôi tôi bắt nguồn từ hai tiếng chu tối. Trong tiếng Việt, hai tiếng này dần dần đƣợc phát âm thành chu
tôi. Tối đƣợc phát âm thành tôi cũng y hệt nhƣ tín (tức) thành tin (tức), (cân) đái thành (cân) đai, tứ (= bốn)
thành tƣ, v.v… Nhƣng phần đông ngƣời bình dân Việt Nam thời xƣa chỉ biết nội dung và hình thức của lễ thí nhi
mà lại chẳng biết hai chữ chu tôi có nghĩa là gì. Dần dần họ phát âm trại đi thành tôi tôi. Ở đây, đã diễn ra một
sự đồng hóa ngữ âm (chu bị tôi đồng hóa) để làm thành một từ láy giả tạo. Nhƣng có những ngƣời không rõ
nguồn gốc của hai tiếng tôi tôi mà lại muốn giải thích nó theo ý riêng của mình. Họ đã dị hóa tiếng tôi thứ nhất
bằng cách hữu thanh hóa phụ âm đầu [t] của nó thành [đ] mà nói đôi tôi nhƣng cũng chẳng hề – vì không thể –
nói rõ đƣợc đôi có nghĩa là gì. Đây chẳng qua chỉ là sự tái giả tạo một hình thức giả tạo mà thôi.

Đến nhƣ thôi nôi, thì đây lại là một kiểu refonte (sự soạn lại) hoàn toàn, nhằm giải thích tôi tôi và đôi tôi về cả
ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. Với hình thức soạn lại này, ngƣời ta có ý muốn nói rằng đôi tôi và tôi tôi chẳng qua cũng
chỉ là những lối nói trại âm của thôi nôi và rằng đôi tôi = tôi tôi chẳng qua cũng chỉ là lễ đứa trẻ thôi nằm nôi.
Ngƣời ta đã quên rằng lễ thôi nôi ngày xƣa, dù có đƣợc gọi bằng cái tên mới này, thực chất vẫn cứ luôn luôn là
lễ thí nhi, rằng lễ này vẫn cứ phải đƣợc tiến hành đúng vào dịp chu tối, rằng phƣơng tiện trắc nghiệm vẫn cứ là
những vật dụng đƣợc bày biện trên cái tối bàn, nghĩa là cái mâm đầy năm.

Từ những điều trên đây, có thể suy ra rằng thôi nôi chỉ là một hình thức sinh sau đẻ muộn so với đôi tôi, tôi tôi,
chu tôi, chu tối mà thôi.

NatPhung
12-05-2007, 03:23 PM
48. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
Gà rán “hăm-bu-gơ” là món ăn nhƣ thế nào mà bài “Con gà trong ngôn ngữ dân gian” (Kiến thức ngày nay số
Xuân Quý Dậu) đã nhắc đến? “Hăm-bu-gơ” là gì?

AN CHI: Đó là tác giả nói theo lời … quảng cáo của “Nhà hàng gà rán hăm-bu-gơ” trên truyền hình! Còn món
hăm-bu-gơ chính cống, tiếng Anh nói ở Mỹ (American English) là hamburger [hæmbə:gə] thì lại là món
Hamburg steak, nghĩa là thịt miếng kiểu đặc biệt của Hamburg, một thành phố cảng nổi danh của nƣớc Đức.
Dân Mỹ xem ra không thích nói Hamburg steak nên đã gọi món này là hamburger. Đây là món thịt bò băm
nhuyễn làm thành miếng rồi nƣớng lên. Món này thƣờng đƣợc cặp vào bánh sandwich để ăn cho nên bây giờ
bánh sandwich có cặp miếng Hamburg steak cũng đƣợc gọi luôn là hamburger. Điều oái oăm là sau khi danh từ
này ra đời thì ngƣời Mỹ không thấy đƣợc cấu tạo của nó là hamburg + er mà lại thấy rằng hamburger = ham +
burger, vì trong tiếng Anh, ham có nghĩa là giăm-bông, là bắp đùi (của súc vật). Do đó burger đã đƣợc xem là
một hình vị và với “hình vị” này ngƣời ta còn tạo ra nào là fishburger (món burger cá), cheeseburger (món
burger pho-mát), v.v… Thậm chí còn có nhà sản xuất nhƣ hiệu Moore còn gọi món ăn đặc sản của mình là
Mooreburger nữa. Và bây giờ ngƣời ta còn có thêm các từ ngữ tân tạo McBurger, Kebab Burger và Kiwi Burger
nữa (Xem “Cả thế giới nhai bánh mì thịt McDonald‟s”, Kiến thức ngày nay, số 103, tr.94-8).

NatPhung
15-05-2007, 03:00 PM
49. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
Xin cho biết vắn tắt sự tích của ông Thần Tài.

AN CHI: Theo truyền thuyết thì thần tài chính là Triệu Công Minh, ngƣời đã sống vào thời nhà Tần. Ông đã lánh
đời mà dốc lòng tu tiên ở núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, đƣợc phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên soái,
coi việc xua ôn đuổi dịch, cứu bệnh trừ tai. Lại nữa, phàm ai bị oan ức đến cầu cứu nơi ông đều đƣợc ông giúp
làm cho sáng tỏ. Ngƣời buôn bán cúng ông để cầu tài cầu lộc cũng đƣợc ông giúp cho nhƣ ý muốn. Ngƣời ta
thƣờng vẽ ông thành hình một ngƣời mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, mình cỡi trên lƣng một con cọp đen. Ngƣời
ta cũng thƣờng hay vẽ hình ông trên ảnh đăng (một loại đèn cù) và còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hoặc
Triệu Công Nguyên Soái.

Ghi chú của :


Rất nhiều ngƣời hay lẫn lộn tƣợng ông địa, ông thần tài, phật Di-lặc, ông trụ trời... với nhau.

NatPhung
15-05-2007, 03:19 PM
50. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
Tại sao lại gọi là “La Hán”? Có tất cả 16 vị hay 18 vị? Xin cho biết tên mỗi vị.

AN CHI: Về hai tiếng La Hán, sau đây là lời giảng của hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi:
“Vào chùa Việt Nam, chúng ta thƣờng thấy tƣợng mƣời tám vị đứng gần nhau, mặt mũi trông sắc sảo dữ tợn.
Đó là tƣợng mƣời tám vị La Hán, vốn là những tên tƣớng cƣớp, về sau gặp đƣợc duyên may, đƣợc giác ngộ quy
y theo Phật và chứng quả A La Hán (…) Chùa Tây Phƣơng (tỉnh Hà Tây) có tƣợng 18 vị La Hán rất độc đáo. Đây
là tích mƣời tám La Hán theo một huyền thoại của Trung Quốc, bởi vì truyện mƣời tám tên cƣớp tu thành La
Hán xảy ra ở Trung Hoa. (Ba chỗ in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh – AC). Còn ở Ấn Độ, không thấy nói đến
tích này” (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 432).

Thực ra, các vị La Hán không những không phải là ngƣời Trung Hoa mà họ cũng chẳng phải vốn là những tƣớng
cƣớp, mặt mũi của họ cũng không dữ tợn mà lại nhân hậu và trông rất khắc khổ.

La Hán là dạng tắt của ba tiếng A La Hán mà ngƣời Trung Hoa đã dùng để phiên âm tính từ tiếng Sanskrit
arhant (Hình thái ở cấp tuyệt đối là arhattama), mà nghĩa gốc là đáng tôn kính, đƣợc dùng để chỉ những bậc tu
hành đắc đạo dƣới hàng Bồ Tát. Tiếng Anh và tiếng Pháp thƣờng phiên thành arhat. Ngƣời ta cho rằng La Hán là
các vị đệ tử của Phật tuy đã đắc đạo nhƣng vẫn sống ở trần gian để tế độ chúng sinh. Hai tác giả Thích Minh
Châu và Minh Chi viết rằng chuyện mƣời tám vị La Hán xuất xứ từ một huyền thoại Trung Hoa “còn ở Ấn Độ,
không thấy nói đến tích này”. Thực ra các vị đều mang tên bằng tiếng Sanskrit là một phƣơng ngữ cổ đến mấy
nghìn năm của Ấn Độ. Tên của các vị đã đƣợc chép trong Pháp trụ ký của Nan Đề Mật Đạt La nhƣ sau :

1. Tân Độ La Bạt La Đọa


2. Già Nặc Già Phạt Sa
3. Già Nặc Bạt Ly Đọa Ám
4. Tô Tần Đà
5. Nặc Cự Na
6. Bạt Đà La
7. Già Lý Già
8. Phạt Đồ La Phất Đa La
9. Tuất Bát Già
10. Bán Thác Già
11. La Hồ La
12. Na Già Tê
13. Nhân Kiệt Đà
14. Phạt Na Ba Tƣ
15. A Thị Đa
16. Chú Đồ Bán Thác Già

Danh sách trên đây là tên các vị La Hán mà ngƣời Trung Hoa đã phiên âm từ tiếng Sanskrit. Tất cả là 16 vị.

Sở dĩ có ý kiến cho rằng tất cả có 18 vị La Hán là vì vào thời Tống, ngƣời thích vẽ chuyện đã thêm vào hai tên
Khánh Hữu và Tân Đầu Lô mà không biết rằng Tân Đầu Lô chỉ là một dạng phiên âm hơi khác của Tân Độ La
(Bạt La Đọa) còn Khánh Hữu chỉ là dịch nghĩa của Nan Đề Mật Đa La. Khánh = mừng là dịch nghĩa của Nandi
(Nan Đề = ngƣời đƣợc vui mừng) còn Hữu = bạn là dịch nghĩa của Mitra (Mật Đà La = bạn). Mà Nandi-mitra
(Nan Đề Mật Đà La) tức Khánh Hữu chỉ là tác giả của Pháp trụ ký đã nói ở trên chứ không phải là một vị La Hán
trong danh sách đang xét. Vậy tất cả chỉ có 16 vị mà thôi.

Ghi chú của goldfish:

Tại sao lại gọi là “La Hán”? Có tất cả 16 vị hay 18 vị? Xin cho biết tên mỗi vị.
Các bạn có thể tìm hiểu thêm qua các bài:

- “Tôi Viết Thập Bát La Hán (http://www.quangduc.com/coban/154thapbatlahan.html)” của Lâm Thế Mẫn, Thích
Ðạo Luận dịch
- “Sự Tích Thập Bát La Hán (http://www.thuvienhoasen.org/thapbatlahan-phuocson.htm)” của Thích Phƣớc Sơn.

Lời bàn ra của :

Dù thoát thai từ Phật giáo Ấn độ thì Phật giáo Việt Nam, Phật Giáo Trung Quốc, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo
Triều Tiên, Phật giáo ở Tibet, v.v... đã biến tƣớng và khác nhau nhƣ Thiên Chúa Giáo, Chính Thống Giáo, Tin
Lành Luther, Anh giáo, Mặc Môn, và ... Hồi giáo.

Cho dù nguyên ủy Phật giáo Ấn độ chỉ có 16 vị La Hán "gốc" nhƣng Trung quốc và Việt Nam vẫn biết đến "Thập
Bát La Hán" chớ không ai nói "Thập Lục La Hán". Theo quan điểm Phật Học trong ba ngàn thế giới đã có hàng hà
sa số Phật thì tại sao con số La Hán chỉ dừng lại ở 16 hay 18 hay 1.250 vị? Thật ra ở đây là chuyện ông nói gà,
bà nói vịt. Chuyện 16 vị La Hán khổ hạnh của Ấn độ, và chuyện 18 tên cƣớp quy y thành quả La Hán là những vị
La Hán khác nhau. Vì cũng là La Hán nên mới có chuyện mang tên La Hán Ấn Độ ra làm chứng minh nhân dân
cho La Hán Trung Quốc. Cũng vì cái chuyện này nên mới có 2 ông La Hán thiếu chứng minh nhân dân phải xài
tạm giấy tờ giả của hai ông khác. Nghĩ cho cùng thì nguyên xấp CMND Ấn độ của 16 ông La Hán Việt-Hoa cũng
là của giả tuốt tuồn tuột...

NatPhung
19-05-2007, 03:16 PM
51. (KTTN 105, ngày 01-4-1993)
Tại sao ngƣời ta lại ghép tên con chim (có cánh, đẻ trứng) với tên con chuột (có vú, đẻ con) thành tiếng đôi
“chim chuột” để chỉ chuyện trai gái ve vãn, tán tỉnh nhau?

AN CHI: Hai con vật hữu quan, một con thuộc lớp chim, một con thuộc lớp có vú, tất nhiên không thể "tình tự"
với nhau đƣợc. Đó là xét về sinh vật học. Còn xét về từ nguyên thì chim chuột cũng không phải là một tổ hợp
đƣợc tạo ra theo qui tắc cấu tạo từ ghép đẳng lập của tiếng Việt. Nó chỉ là kết quả của một sự dịch nghĩa từ các
thành tố của một địa danh Trung Hoa: Điểu Thử Đồng Huyệt (= Chim Chuột Cùng Hang), cũng gọi tắt là Điểu
Thử (= Chim Chuột).

Đó là tên một ngọn núi trong dãy Tần Lĩnh, nằm ở phía Tây huyện Vị Nguyên, huyện Lan Châu, tỉnh Cam Túc.
Núi này có tên nhƣ thế là vì dân chúng ở địa phƣơng đã quan sát đƣợc hiện tƣợng chim chuột ở cùng một hang.
Giống chim đó có tên là đồ hoặc mộc nhi chu còn giống chuột đó có tên là đột hoặc ngột nhi thử. Sách Cam Túc
ghi chép: “Đất Lƣơng Châu có con ngột nhi thử, giống nhƣ con chuột, có con chim tên là mộc nhi chu, giống nhƣ
con sẻ, thƣờng cùng con ngột nhi thử ở chung một hang. Đó chính là (chim) đồ (chuột) đột nhƣng chỉ là tên xƣa
tên nay khác nhau mà thôi”. Vậy con mộc nhi chu, tức con chim đồ, chỉ là kẻ sống nhờ ở hang của con ngột nhi
thử, tức con chuột đột. Giữa chúng không thể có quan hệ “tình cảm” hoặc “tính dục” đựợc.

Nhƣng cháu mƣời hai đời của Khổng Tử là Khổng An Quốc, khi chú giải Kinh thƣ, đã giảng bốn tiếng Điểu Thử
Đồng Huyệt nhƣ sau: “Chim (và) chuột cùng nhau làm (con) trống (con) mái (Chúng tôi nhấn mạnh – AC) cùng
chung hang sống ở núi này, (vì vậy) mới có tên núi là Chim Chuột”. Từ xƣa, đã có nhiều ngƣời cực lực bác bỏ
cách giải thích này của họ Khổng, chẳng hạn nhƣ Đỗ Ngạn Đạt và Trƣơng Án đều quả quyết rằng đó không phải
là chuyện đực cái hoặc trống mái giữa chim và chuột.

Tuy nhiên nhà nho Việt Nam thì lại tin tƣởng ở nhà chú giải họ Khổng. Khổng Tử là Đức Thánh thì Khổng An
Quốc cháu ngài cũng phải là một quyền uy. Bậc quyền uy này đã giảng rằng “điểu thử đồng huyệt” là chuyện
trống mái giữa chim và chuột thì việc nhà nho Việt Nam dịch hai tiếng điểu thử thành chim chuột để chỉ chuyện
tán tỉnh, ve vãn giữa trai và gái cũng là điều rất tự nhiên.

Bàn "loạn" của Natphung :


Hỡi ơi, 12 đời rồi mà cũng vẫn còn là COCC.
Cảm khái của :

Rất tự nhiên.
Rất tự nhiên.
Khổng An Quốc
Dù chuyện ngày xƣa,
Dù ở bên Tàu,
12 đời nhƣng vẫn là họ Khổng.
Nên vẫn "tự hào dòng giống thế gia".
Nên mọi điều ngài "ấy" ra,
Dù chim, dù chuột,
Sẽ là kinh, là điển.

Ở Việt Nam ta,


Xƣa nay cũng thế.
Từ Triệu, Đinh, Lê, Lý, Trần
Đến Trịnh, Nguyễn, đến ... ngày nay.
Cho dù đã đổi sang họ mít (Smith) họ xoài (François)
Vẫn tin tƣởng,
Ông tổ tít tùng tằng,
Ngày xƣa mang họ Lạc.
Nên vẫn tự hào dòng dõi Hồng Bàng.
Nên mọi điều phán ra,
Là Rồng, là Tiên,
Là nhƣ đinh đóng cột.

Rồng còn lấy đƣợc tiên (*)


Thì chim với chuột.
Là chuyện rất tự nhiên.
Rất tự nhiên.
Rất ... tự nhiên.

(*) Không hiểu ngày xƣa Lạc Long Quân "ve" Âu Cơ thế nào ấy nhỉ?

Ghi chú của goldfish:

Chúng ta thƣờng quen hiểu hai tiếng:

chim chuột để chỉ chuyện tán tỉnh, ve vãn giữa trai và gáiNhƣng:

"Ở trong chùa, chữ chim chuột dùng để chỉ cho những ngƣời tu không ra tu, đời không ra đời, thứ chi cũng
thích, cũng không từ bỏ; gặp khi bất lợi thì bên nào cũng chối chạy, gặp lúc tốt đẹp thì bên nào cũng muốn dự
phần. Giống nhƣ con dơi, khi ngƣời ta muốn bắt những loài biết bay nhƣ chim thì nó nói nó thuộc loài chuột chứ
không phải loài chim, dù nó biết bay. Nhƣng khi ngƣời ta bắt chuột thì nó chối, nói rằng nó không phải giống
chuột mà thuộc loài chim biết bay!"

(Trích nguyên văn bài Pháp Sƣ Tí Hon


(http://72.14.235.104/search?q=cache:xUX1OXcDtsMJ:dactrung.net/truyen/noidung.aspx%3FBaiID%3DRETiS
W9MwXyCEraZqZVYkQ%253D %253D+chim+chu%E1%BB%99t&hl=vi&ct=clnk&cd=7&gl=vn&client=firefox-
a%29) của Vĩnh Hảo.
Các bạn cũng có thể tham khảo thêm bài Qui Sơn Cảnh Cách (http://www.thuvienhoasen.org/quisoncanhsach-
08.htm) của Thiền Sƣ Linh Hựu.

Ghi chú số 2 của goldfish:

Ngƣời xƣa, ngoài sự hiểu lầm mối quan hệ giữa chim và chuột:

Trích:
có quan hệ “tình cảm” hoặc “tính dục” mà còn hiểu lầm mối quan hệ giữa con tò vò và con nhện hoặc giữa con
tò vò và con sâu có tên minh linh:

Tò vò mà nuôi con nhện


Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào
(Ca dao)

Minh linh 螟蛉 một thứ sâu ăn hại rau. Những con tò vò thƣờng bắt để ở trong tổ để làm lƣơng ăn cho con, tục
lầm cho nó nuôi để làm con nó, vì thế nên ngƣời sau gọi con nuôi là minh linh.
(Tự Điển Hán Việt Thiều Chửu)

Ghi chú của :


Có khi vì hiểu lầm nhƣ vậy nên ngƣời ta mới bắt chƣớc mà đem trứng vịt cho gà ấp chăng? Đến khi vịt con nở ra
chạy xuống nƣớc chơi đùa thì mẹ gà cục tác tỉ ti trên bờ.

Sƣu tầm của goldfish:

Thêm một sự hiểu lầm về con tò vò và con sâu :

Tôi nhớ có lần đọc một cuốn sách về tiểu sử ông Đạo Dừa (Nguyễn Thành Nam, kỷ sƣ Hoá học Pháp), tác giả
cho rằng, theo lời ông Đạo Dừa kể lại, đại khái nhƣ thế nầy:

Một hôm ông Đạo Dừa, lúc chƣa đắc đạo, thấy những con sâu (hay con nhện tôi không nhớ rõ) trƣớc đây đƣợc
con tò vò đặt vào trong tổ rồi lấp kín tổ lại, nay những con sâu đó hoá thành những con tò vò con, phá tổ bay ra
(!). Nhờ trông thấy sự biến hoá nhƣ vậy mà ông Đạo Dừa đắc đạo!

Có thể ông Đạo Dừa đã lầm về một hiện tƣợng trong tự nhiên, nhƣng nếu chuyện trên là đúng sự thật thì nhờ
hiểu lầm mà đắc đạo thì, nhƣ trong trƣờng hợp này, hiểu lầm lại hoá ra hay! Phải không bác ?

Nghe sƣu tầm của goldfish, Natphung và đồng thanh: "NGỘ"!

NatPhung
19-05-2007, 03:30 PM
52. (KTTN 106, ngày 15-4-1993)
Mục Chuyện Đông chuyện Tây trên Kiến thức ngày nay số 95 đã không giải đáp dứt khoát thành ngữ “mƣời hai
bến nƣớc” mà chỉ mới xác định cách giảng của Huình-Tịnh Paulus Của “hợp lý hơn” cách hiểu do ông Triệu Văn
Cẩn nêu lên. Ngoài cách hiểu mà ông Triệu Văn Cẩn đã nêu, còn có thể hiểu “mƣời hai bến nƣớc” là 12 nghề
nghiệp trong xã hội ta ngày xƣa: sĩ, nông, công, thƣơng, nho, y, lý, bốc, ngƣ, tiều, canh, mục hoặc là 12 tuổi
tính theo thập nhị chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, v.v…

AN CHI: Trên Kiến thức ngày nay số 95, chúng tôi có nói rằng đây là chuyện do từ nguyên dân gian gây ra
nhƣng vì vấn đề hơi phức tạp nên chúng tôi có hẹn đến một dịp khác sẽ trình bày rõ. Nay xin nói vắn tắt nhƣ
sau. Hai danh từ bến và thuyền vẫn đƣợc dùng theo ẩn dụ để chỉ ngƣời con gái và ngƣời con trai trong quan hệ
đính ƣớc, hẹn hò. Từ cách dùng này, đi xa thêm một bƣớc, bến lại đƣợc dùng để chỉ số phận của cá nhân,
thƣờng là phụ nữ, trong quan hệ nhân duyên.

Chữ nhân ở đây viết là 姻 và nhân duyên đƣợc Mathews‟ Chinese-English Dictionary giảng là “the fate or
influence which brings lovers together” nghĩa là “số phận hoặc ảnh hƣởng gắn bó (hai) ngƣời yêu với nhau”. Bến
nƣớc trong thành ngữ mƣời hai bến nƣớc chính là thứ nhân duyên này.

Nhƣng trong tiếng Hán lại còn có một thứ nhân duyên khác, với chữ nhân viết là 因. Đây là nhân duyên của nhà
Phật mà cũng quyển từ điển trên đã giảng nhƣ sau: “the cause which produces effects in the future life” nghĩa là
cái nhân tạo ra những cái quả trong kiếp sau”. Theo điển lý nhà Phật thì có tất cả mƣời hai nhân duyên, tiếng
Hán gọi là thập nhị nhân duyên.

Do cách hiểu theo từ nguyên dân gian – mà vì khuôn khổ có hạn, chúng tôi không thể nói kỹ tại đây – nên
ngƣời ta mới đánh tráo thứ nhân duyên của thần Ái tình vào chỗ thứ nhân duyên của nhà Phật mà diễn nôm
thập nhị nhân duyên thành muời hai bến nƣớc. Hóa cho nên chỉ có hai bến nhƣ Huình-Tịnh Paulus Của đã nói
“hoặc gặp bến trong, hoặc mắc bến đục (…) may thì nhờ, rủi thì chịu” đó mà thôi. Từ điển gia của chúng ta đã
không thấy đƣợc hiện tƣợng từ nguyên dân gian nên mới viết rằng “tiếng nói mƣời hai bến nƣớc là nói cho vần”.
Nhƣng ông vẫn rất đúng ở chỗ ông không thừa nhận rằng ở đây hai tiếng mƣời hai có ý nghĩa xác thực nhƣ khi
chúng đƣợc phân bố cho những ngôn cảnh bình thƣờng khác.

Để cho rõ hơn, chúng tôi xin đƣợc nhắc đến lý thuyết hữu quan của nhà từ nguyên học tiên phong hiện đại
ngƣời Pháp là Pierre Guiraud trong cuốn Les locutions françaises (Paris, 1973). Đó là chƣơng V mang tiêu đề
“Accidents linguistiques” (Các sự cố ngôn ngữ) trong đó tác giả đã bàn đến những sự đan chéo hình thức
(croisements des formes) và những sự lan truyền ý nghĩa (contaminations de sens) giữa các thành ngữ và từ
ngữ với nhau. Phàm đối với những thành ngữ hóc búa kiểu mƣời hai bến nƣớc mà khi nghiên cứu lại không xét
đến các hiện tƣợng trên đây thì khó lòng tìm ra sự thật. Ở đây, nhân duyên của thần Ái tình đã lây nghĩa cho
nhân duyên của nhà Phật nên mới tạo ra lối nói oái oăm đó.

Mƣời hai thành phần đã kể ra chỉ là kết quả của một sự liệt kê trùng lặp cốt tìm cho đủ con số vì nho cũng là sĩ
mà canh cũng là nông. Hiểu theo nghĩa rộng, nho, y, lý, bốc, cũng lại là sĩ cả. Mƣời hai địa chi cũng không liên
quan gì đến thành ngữ đang xét.

NatPhung
23-05-2007, 04:05 PM
53. (KTTN 106, ngày 15-4-1993)
Xin góp ý cho mục Chuyện Đông chuyện Tây ở Kiến thức ngày nay số 98 nhƣ sau: Tiếng Pháp Ouïes de poissons
và tiếng Anh the gills of a fish là khứu giác của cá. Trừ tác giả Chuyện Đông chuyện Tây, không có ai nói tai con
cá là mang của nó cả.

AN CHI: Ouïes de poissons và the gills of a fish chính là mang cá. Riêng tiếng Pháp ouïe thì có nghĩa gốc là thính
giác chứ không phải là “khứu giác”. Vẫn biết trừ chúng tôi ra không ai nói tai là mang cá nhƣng xin đƣợc thƣa
thêm nhƣ sau. Con “cá vức bốn tai” trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa mà chúng tôi đã dẫn chính là con cá mà
Hán ngữ gọi là tứ tai lô, nghĩa là “cá lô bốn mang”. Ba tiếng tứ tai lô đã đƣợc Từ hải giảng nhƣ sau: “Môt loại cá
lô, dài khoảng bốn, năm tấc (tấc Tàu - AC), miệng rộng đầu to, hai cái mang bành rộng ra, để lộ những đƣờng
vân đỏ tía, tựa nhƣ là có bốn mang (tứ tai) cho nên gọi là cá lô bốn mang (tứ tai lô), tục gọi là cá bốn mang (tứ
tai ngƣ)”. Từ hải còn dẫn thêm Chính tự thông nhƣ sau: “Cá lô ở mọi nơi đều (chỉ có) hai mang, riêng (cá lô)
Tùng Giang thì (có) bốn mang”. Trong giới động vật, có một nhóm gọi là nhóm bốn mang, tiếng Pháp là
tétrabranche, thì tiếng Hán gọi tứ tai loại. Từ những điều trên đây suy ra, cá vức bốn tai chính là cá vức bốn
mang. Không thể nào khác thế đƣợc.

Vậy, dù chỉ một mình chúng tôi nói, thì tai ở đây vẫn cứ là mang đó thôi!

bán cái:

Chuyện "mang díu ù tai"(*) thì phải hỏi kim ngƣ goldfish vậy.

(*) "mang - gills - ouïes - tai"

NatPhung
26-05-2007, 05:08 PM
54. (KTTN 106, ngày 15-4-1993)
Chuyện Đông chuyện tây trên Kiến thức ngày này số 98 có câu giải đáp về câu: “Dán bùa l. mèo. Xin có đôi lời
góp ý nhƣ sau. Cái đầu hồi nhà, miền Bắc gọi là vỉ ruồi, miền Trung gọi là khu bị, miền Nam có nơi gọi là khu đĩ.
Chƣa nghe ai gọi đó là cái l. mèo. Câu “Dán bùa l. mèo” bắt nguồn từ một truyện cổ kể rằng họ hàng nhà chuột
họp đại hội bàn cách tiêu diệt giống mèo là kẻ thù truyền kiếp của chúng. Một con chuột già bày cách đi tìm một
phù thủy cao tay xin một lá bùa triệt sản để dán vào bộ phận sinh dục của con mèo cái cho mèo tịt đẻ. Bùa đem
về rồi nhƣng chẳng có con chuột nào dám xung phong đi làm cái nhiệm vụ hết sức vinh quang mà nguy hiểm đó
nên rốt cuộc họa diệt chủng vẩn còn lơ lửng trên đầu. Vì thế câu “Dán bùa l. mèo” mới chỉ việc làm không đến
nơi đến chốn. Còn về việc dám bùa trong nhà thì ngƣời dán là chủ nhà và chỗ dán là cây đòn dông chứ không
phải là cái đầu hồi.

AN CHI: Vẫn có ngƣời gọi đó là cái l. mèo! Chẳng hạn Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ trong Việt Nam tự điển đã ghi
và đã giảng nhƣ sau: “l. mèo Đầu hồi. Góc giụm hình tam giác nơi hai mái nhà giáp nhau”.

Chính cái dáng “góc giụm hình tam giác” đã gợi ý cho ngƣời bình dân gọi nó là cái l. đấy. Ngƣời miền Bắc gọi
đầu hồi là đầu hồi, còn vỉ ruồi (= đầu hồi) là một hiện tƣợng lâm thời thuộc về lời nói chứ không phải là một đơn
vị từ vựng cố định. Vỉ ruồi theo nghĩa đen xuất hiện trong phong trào vệ sinh yêu nƣớc tại chiến khu Việt Bắc và
một số vùng tự do khác thời kháng chiến chống Pháp. Ngƣời ta đan những vỉ nhỏ bằng tre, cỡ bàn tay và
thƣờng là hình tam giác để đập ruồi nên mới gọi là vỉ ruồi. Một ít ngƣời đã dùng lối ẩn dụ mà gọi cái đầu hồi nhà
là vỉ ruồi nhƣng đây tuyệt nhiên không hề là một cách gọi phổ biến. Đến nhƣ khu bị và khu đĩ thì đây lại là hai
lối nói trại của thu kỉ (X., chẳng hạn, sđd của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ hoặc Đại Nam quấc âm tự vị của
Huình-Tịnh Paulus Của) mà lối nói trại này suy cho đến cùng cũng là do ảnh hƣởng gián tiếp của l. trong l. mèo
(các từ khu, đít, trôn đều có thể dùng theo uyển ngữ để chỉ cái l.)

“Chuyện cổ” mà ông đã kể lại để giải thích sự ra đời của câu “dán bùa l. mèo” không phải là xuất xứ đích thực
của thành ngữ này. Đó là lối giải thích mà ngữ học gọi là từ nguyên dân gian. Phàm khi ngƣời ta chƣa hiểu đƣợc
xuất xứ đích thực của một hiện tƣợng từ vựng thì ngƣời ta đặt ra một câu chuyện có liên quan đến nghĩa của
từng yếu tố cấu thành nó để giải thích nguồn gốc của nó. Câu chuyện thƣờng rất thú vị nhƣng nó lại chẳng liên
quan gì đến nguồn gốc đích thực của đơn vị từ vựng đang xét cả.

Về vấn đề ngƣời dán bùa và chỗ dán bùa mà ông đã nêu, để trả lời, chúng tôi xin trích dẫn Đào Duy Anh trong
Việt Nam văn hóa sử cƣơng nhƣ sau: “Cách thức và những phong tục về sự làm nhà thực là bách quang thập
sắc; từ nhà nghèo đến nhà giàu, từ miền này sang miền khác, nhất là xứ Bắc so với xứ Trung và xứ Nam, ta
thấy khác nhau rất nhiều”. (Nxb Bốn Phƣơng, Sài Gòn, không ghi năm, tr. 179). Vậy không thể lấy những điều
do ông nêu lên mà làm tiêu chuẩn để đánh giá đúng sai đƣợc.

goldfish
26-05-2007, 07:59 PM
Để hiểu rõ hơn câu “Dán bùa l. mèo”, các bạn có thể đọc thêm bài Khu Đĩ Và L. Mèo của Nguyễn Hoàng Văn
(http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1824)

Hay tại đây:

http://www.thuvien-ebook.com/forums/showthread.php?p=27742#post27742

http://www.thuvien-ebook.com/forums/showpost.php?p=27672&postcount=20

NatPhung
01-06-2007, 10:47 AM
55. (KTTN 107, ngày 01-5-1993)
Tôi có thể tạm hiểu tiếng văn dùng làm chữ lót trong tên của phái nam đại khái là “nho nhã, thanh tao”. Nhƣng
tiếng thị dùng làm chữ lót trong tên của nhiều ngƣời thuộc phái nữ thì xin chịu.

AN CHI: Về vấn đề này, Lê Trung Hoa có cho biết nhƣ sau: “Chúng tôi đọc thấy một điểm đáng chú ý trong cuốn
Les langages (sic) de l‟humanité của Michel Malherbe (…): có lẽ tên đệm Văn có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập ben
(con trai) và tên đệm Thị cũng có từ tiếng Ả Rập binti (con gái) do các thƣơng nhân Ả Rập vào buôn bán ở bờ
biển Việt Nam. Tuy tác giả không nêu cứ liệu, chúng tôi thấy có khả năng đúng, vì: về ngữ âm ben cho ra văn,
binti cho ra thị là có thể chấp nhận; - Việt Nam chịu ảnh hƣởng “họ” của ngƣời Trung Hoa. Nhƣng ngƣời Trung
Hoa trƣớc đây và hiện nay không dùng từ đệm văn và thị phổ biến nhƣ ngƣời Việt Nam (Họ và tên ngƣời Việt
Nam, Hà Nội, 1992, tr.62, chth.1).

Theo chúng tôi thì nói ben có thể cho ra văn còn binti có thể cho ra thị chẳng khác nào nói rằng tiếng Pháp petit
đã cho ra tiếng Việt bé tí còn colosse thì đã cho ra khổng lồ, chẳng khác nào nói tiếng Ý ciao đã cho ra tiếng Việt
chào còn tiếng Tây Ban Nha niño thì đã cho ra nhỏ nhí.

Thật ra thị là một từ Việt gốc Hán, chữ Hán viết là 氏. Đây là tiếng dùng để chỉ phụ nữ. Nghĩa này của nó đƣợc
Từ nguyên và Từ hải ghi là “phụ nhân xƣng thị” (đàn bà gọi là thị) còn Vƣơng Vân Ngũ đại từ điển thì ghi là “phụ
nhân” (đàn bà) và Mathews‟ Chinese English Dictionary thì ghi “a female” (ngƣời thuộc giới tính nữ). Từ nguyên
còn cho biết rõ thêm rằng ngày nay thị cũng là một từ mà phụ nữ dùng để tự xƣng (Kim dịch vi phụ nhân tự
xƣng chi từ). Trong tiếng Việt, nó còn có một công dụng mà Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhƣ sau: “Từ dùng
để chỉ ngƣời phụ nữ ở ngôi thứ ba với ý coi khinh”. Vậy rõ ràng thị có nghĩa là đàn bà.

Nhƣng do đâu mà nó trở nên tiêng lót, tức tên đệm của phụ nữ? Tất nhiên là từ công dụng của nó trong tiếng
Hán mà ra, sau một quá trình chuyển biến ngữ nghĩa. Công dụng này đã đƣợc Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc
Kinh, 1992) chỉ ra nhƣ sau: “Đặt sau họ của ngƣời phụ nữ đã có chồng, thƣờng thêm họ chồng vào trƣớc họ cha
để xƣng hô” (Phóng tại dĩ hôn phụ nữ đích tính hậu, thông thƣờng tại phụ tính tiền gia phu tính, tác vi xƣng hô).
Thí dụ: Triệu Vƣơng thị là ngƣời đàn bà mà họ cha là Vƣơng còn họ chồng là Triệu.

Ngƣời Việt Nam ngày xƣa đã không làm y hệt theo cách trên đây của ngƣời Trung Hoa mà chỉ đặt thị sau họ cha
rồi liền theo đó là tên riêng của đƣơng sự theo kiểu cấu trúc “X thị Y”, hiểu là ngƣời đàn bà họ X tên Y. Cấu trúc
này giống nhƣ cấu trúc có yếu tố công (= ông) mà dân Nam bộ đã dùng để gọi nhà yêu nƣớc Trƣơng Định một
cách tôn kính: Trƣơng Công Định, có nghĩa là ông (đƣợc tôn kính) họ Trƣơng tên Định. Hoặc nhƣ chính của
ngƣời Trung Hoa khi họ khắc trên mộ chí của Trƣơng Khiên mấy chữ Trƣơng Công Khiên (chi mộ), có nghĩa là
(mộ của) ông (đƣợc tôn kính) họ Trƣơng tên Khiên. Vậy cứ nhƣ đã phân tích, Nguyễn thị A là ngƣời đàn bà họ
Nguyễn tên A, Trần thị B là ngƣời đàn bà họ Trần tên B, còn Phạm thị C là ngƣời đàn bà họ Phạm tên C, v.v…

Cách hiểu nguyên thủy này đã phai mờ dần theo thời gian, làm cho về sau ngƣời ta tƣởng rằng thị chỉ là yếu tố
có tính chất “trang trí” cho tên của phái nữ mà thôi. Chính vì không còn hiểu đƣợc công dụng ban đầu của thị
nữa nên ngƣời ta mới dùng nó làm tiếng lót, nghĩa là tên đệm, cho các bé gái khi chúng vừa mới lọt lòng mẹ.
Ngƣời ta đã làm nhƣ thế mà không ngờ rằng ngày xửa ngày xƣa, các cụ bà của chúng chỉ đƣợc dùng tiếng thị để
chỉ định sau khi họ đã trƣởng thành, và rằng thị chỉ đƣợc dùng chủ yếu là trong lời nói, đặc biệt là trong ngôn
ngữ hành chính, chứ không phải là cho việc đặt tên.

Ý nghĩa và xuất xứ của thị theo chúng tôi đại khái là nhƣ thế. Chứ tiếng binti của các chú lái buôn ngƣời Ả Rập
thì chẳng có liên quan gì với nó cả.

Thắc mắc của Natphung:

... Les langages (sic) de l‟humanité ...


Không biết An Chi để từ (sic) ở đây với ngụ ý gì?

:
Chắc ổng thích chữ langues (f.) cho nó tao nhã hơn chữ langages (m.).

goldfish
01-06-2007, 08:21 PM
Về việc dùng chữ Thị làm chữ lót cho phái nữ có ngƣời giải thích nhƣ thế này:

“Chữ Thị vốn có nghĩa là họ và ngƣời Trung quốc không dùng nó để đặt tên cho ngƣời phái nữ.

Trong ngôn ngữ Trung quốc, ngƣời ta gọi ngƣời vợ bằng họ của chồng kèm theo hai chữ phu nhơn. Nhƣng vì tục
đa thê nên một ngƣời đàn ông có thể có nhiều vợ. Một ông họ Trần có thể cƣới ba bà vợ, một ngƣời họ Vƣơng,
một ngƣời họ Lê, một ngƣời họ Phạm. Tất cả các bà này đều đƣợc gọi là Trần phu nhơn. Khi muốn phân biệt các
bà phu nhơn đó với nhau, ngƣời Trung quốc lại dùng họ của mỗi bà kèm theo chữ Thị, thành ra Vƣơng Thị phu
nhơn, Lê Thị phu nhơn, Phạm Thị phu nhơn.

Có lẽ ngƣời Việt Nam chúng ta trƣớc đây cũng bắt đầu dùng chữ Thị y nhƣ ngƣời Trung quốc, nhƣng sau đó vì
chữ Thị thƣờng đƣợc dùng cho phụ nữ nên ngƣời Việt Nam lại lấy nó làm biểu hiệu cho phái nữ và cuối cùng
dùng nó làm chữ lót cho con gái mình.”

(Nguồn: http://72.14.235.104/search?q=cache:QF-
2gVLLlsoJ:dactrung.net/forum/topic.asp%3FTOPIC_ID%3D5925+%22th%E1%BB%8B%22%2Bch
%E1%BB%AF+l%C3%B3t&hl=vi&ct=clnk&cd=1&gl=vn&client=firefox-a)

NatPhung
02-06-2007, 01:17 AM
:
Chắc ổng thích chữ langues (f.) cho nó tao nhã hơn chữ langages (m.).

Hừ. Đọc qua biết ngay là một tay nịnh đầm có hạng.

Natphung nghĩ khi để từ (sic) là muốn ám chỉ một sai sót hay một điều gì đó không chính xác, mà Natphung tìm
mãi chƣa ra.

02-06-2007, 05:59 AM
Hừ. Đọc qua biết ngay là một tay nịnh đầm có hạng.

Natphung nghĩ khi để từ (sic) là muốn ám chỉ một sai sót hay một điều gì đó không chính xác, mà Natphung tìm
mãi chƣa ra.

Có thể An Chi nghĩ dùng chữ langage trong cụm từ langages d'humanité là sai, dù Natphung, và nhiều ngƣời
chấp nhận cách dùng "nôm na" này. Dùng langage thì khá dung tục vì chữ này thƣờng chỉ dùng trong trƣờng
hợp informalité, ngôn ngữ bình dân, hay trong thuật ngữ kỹ thuật.

langage Noun, masculine


(http://javascript%3Cb%3E%3C/b%3E:%20void%20CreateWindow%28%27/dictionary/lexcats/noun.html%27,
%20%27grammar%27%29)
(a) (mainly Ling) informal, technical language, person's (use of) language; le ~ des animaux animal language;
~ enfantin baby talk; children's language; ~ populaire substandard speech, (Ling) popular speech
(b) (Comput) language; écrit en ~ Java written in Java; routine en ~ Java Java-language routine, Java routine,
routine written in Java;~ de haut niveau, ~ évolué high-level language; ~ de bas niveau low-level language; ~
machine machine codeTrong khi đó, chữ langue là từ dùng trong ngôn ngữ văn chƣơng, ngôn ngữ bác học, cùng
"rơ" với ... ngôn ngữ An Chi. Lại nữa, bản thân chữ langue đã mang nghĩa "way of speaking a language" rồi. Chả
trách ông "khuyên" một chữ "(sic)" sau chữ "langage".

langue Noun, feminine


(http://javascript%3Cb%3E%3C/b%3E:%20void%20CreateWindow%28%27/dictionary/lexcats/noun.html%27,
%20%27grammar%27%29)
(a) tongue(b) coup de ~ lick; donner un coup de ~ à qn to lick sb
(c) (in other expressions) tongue; (fig) délier la ~ à qn to loosen sb's tongue; se mordre la ~ to bite one's
tongue; (fig) je m'en mordais la ~ I was kicking myself for having said anything; tenir sa ~ to keep quiet (about
it); tiens ta ~! keep it to yourself!, don't let on!; il ne sait pas tenir sa ~, il a la ~ trop longue he can't keep his
mouth shut, he can't keep things to himself; avoir la ~ dans sa poche to keep quiet about things, keep things to
oneself; tirer la ~ to stick one's tongue out (à qn, at sb); (Infml) to be thirsty (neutral), be gagging for a drink
(quite Slang); (Infml) to be strapped for cash, be a bit strapped (Infml); (fig) avoir la ~ bien pendue to have
the gift of the gab; (fig) donner sa ~ au chat to give in, give up; (fig) t'as perdu ta ~? has the cat got your
tongue?
(d) (Cookery) tongue; ~ de boeuf ox tongue
(e) language, tongue (literary); ~ étrangère foreign language; ~ maternelle native language, (Ling) mother
tongue; ~s vivantes modern languages; étudiant de ~s vivantes modern linguist (term used at some
universities), modern language(s) student; de ~ française French-speaking country, French language
newspaper; (fig) parler la ~ de bois to speak in clichés;
(Ling) ~ cible, ~ d'arrivée target language; ~ diplomatique language of diplomacy; (Ling) ~ mère parent
language; ~ morte dead language; ~ d'oc southern French, (Ling) langue d'oc; ~ officielle official language; ~
d'oïl northern French, (Ling) langue d'oïl; (Ling) ~ source, ~ de départ source language; ~ de travail working
language
(f) (way of speaking) language; ~ parlée/écrite spoken/written language; la ~ journalistique journalistic
language, journalese; ~ scientifique scientific jargon; ~ verte slang
(g) strip of land

Tuy nhiên, Natphung có thể bắt giò anh hai An Chi điểm này. Bản thân Michel Malherbe là dân kỹ thuật. Khi
Michel Malherbe viết Les langages de l‟humanité , ông ngụ ý nói về hơn 3.000 kiểu ngôn ngữ, tức là các thứ
tiếng nói, tín hiệu, phƣơng thức communication, kể cả thuật ngữ tôn giáo, ngôn ngữ của ngƣời điếc, và cả ...
tiếng chửi thề trên thế giới, chứ không riêng về các ngôn ngữ văn chƣơng mà thôi. Cho nên ông hoàn toàn chính
xác khi dùng chữ langages cho tựa quyển bách khoa toàn thƣ của mình.

Michel Malherbe est polytechnicien (http://www.bouquins.tm.fr/livre.asp?code=2-221-05947-6). Grand


voyageur et passionné de vulgarisation, il a publié plusieurs ouvrages sur les langues et les religions.

http://www.laffont.fr/images/livre/langagehumanite.jpg

Đọc thử lời giới thiệu của Robert Laffont cho quyển Les langages de l‟humanité
Trong khỏang gần 500 trang trong phần Dẫn Nhập, Michele Malherbe đã mổ xẻ nhiều khía cạnh ngôn ngữ nhƣ
cách phát âm, văn phạm, văn ngôn, từ nguyên, ngôn ngữ của ngƣời điếc, thuật ngữ máy tính. Ông đã lê gót
khắp nơi trên thế giới nghiên cứu đối chiếu các thứ tiếng Anh, Hoa, Swahili, Zerma, v.v... đến các thổ âm trong
phƣơng ngữ Ấn-Âu, sự giao thoa của ngôn ngữ Breton và Kikuyu... Phần còn lại chọn ra 171 ngôn ngữ phổ biến
và các vốn từ cơ bản hàng ngày nhƣ: số đếm, ngày tháng, thực phẩm, áo quần, đồ dùng, cơ thể con ngƣời, thú
dữ,... Tóm lại, những điều thiết yếu khi tới một nơi xa lạ...
http://www.guilde.net/fr/news/img/michel_malherbe.JPG

Tác giả nổi tiếng Michele Malherbe của tác phẩm "Les Langages de l'humanité" (Robert Laffont)
(http://images.google.com/imgres?imgurl=http://www.guilde.net/fr/news/img/michel_malherbe.JPG&imgrefurl
=http://www.guilde.net/fr/assemblee.htm&h=263&w=350&sz=31&hl=en&start=5&um=1&tbnid=mU7ytSo9NZ
p3XM:&tbnh=90&tbnw=120&prev=/images%3Fq%3D%2522Michel%2BMalherbe%2522%26svnum%3
D10%26um%3D1%26hl%3Den%26client%3Dfirefox-a%26rls%3Dorg.mozilla:en-US:official%26sa%3DG)

NatPhung
04-06-2007, 01:29 PM
56. (KTTN 107, ngày 01-5-1993)
Có phải Hằng Nga (vợ của Hậu Nghệ trong thần thoại Trung Hoa) còn có tên là Thƣờng Nga hay không? Tại sao?

AN CHI: Vâng, Hằng Nga còn có tên là Thƣờng Nga. Trƣớc đời Hán Văn Đế (179-156 tr. CN), ngƣời ta vẫn gọi
nàng tiên đã ăn cắp thuốc trƣờng sinh này là Hằng Nga. Nhƣng từ đời Văn Đế nhà Hán thì do kỵ húy mà nàng
đã đƣợc cải gọi là Thƣờng Nga vì tiếng thứ nhất trong tên của nàng lại trùng với tên húy của Văn Đế. Tên húy
của ông vua này chả là Hằng. Chữ viết tuy khác nhau nhƣng cách phát âm lại là một, cho nên ngƣời ta đã phải
tìm cách thay tiếng Hằng trong tên của nàng bằng một tiếng khác. Ngƣời ta đã chọn cho tiếng hằng một từ
đồng nghĩa là thƣờng vì tiếng sau có chung với tiếng trƣớc một nét nghĩa là “diễn ra hoặc tồn tại lâu dài trong
thời gian”. Cứ theo nhƣ từ nguyên, Hằng Nga hay Thƣờng Nga đều có nghĩa là sắc đẹp vĩnh cửu hoặc ngƣời đẹp
trƣờng tồn (nga là ngƣời con gái đẹp hoặc sắc đẹp của ngƣời con gái).

Chính vì những lẽ trên mà Hằng Nga còn có tên là Thƣờng Nga. Trong tiếng Hán phổ thông hiện nay (tiếng Bắc
Kinh) Thƣờng Nga có xu hƣớng thông dụng hơn Hằng Nga chính cũng là do tục kỵ húy ngày xƣa mà ra.

Lƣợm lặt của :


Có ngƣời đọc câu hỏi "Có phải Hằng Nga (vợ của Hậu Nghệ.." rồi hỏi: "Ủa? Vậy ra Hậu Nghệ là chú Cuội hả?

NatPhung
07-06-2007, 03:25 PM
57. (KTTN 108, ngày 30-4 & 01-5-1993)
Xin gởi lời giải đáp câu hỏi về hai tiếng cù là (Kiến thức ngày nay số 99, mục Chuyện Đông chuyện Tây) nhƣ
sau. Kẹo chocolat nhập từ Pháp khoảng thập niên 1920 – 30. Ngƣời biết đọc tiếng Pháp phát âm là sô-cô-la còn
giới bình dân thì đọc trại ra là súc-cù-là. Đa số ngƣời sinh sống tại Sài Gòn - Chợ Lớn thƣờng gọi màu nâu là
màu sô-cô-la hay súc-cù-là. Bấy giờ, hiệu Nhị Thiên Đƣờng có bào chế loại dầu gió ở dạng sáp mềm có màu
súc-cù-là. Loại dầu này ban đầu đƣợc gọi là dầu súc-cù-là, về sau gọi gọn là dầu cù là. Khoảng đầu thập niên
60, dầu cù là Mac Phsu đƣợc nhập từ Miến Điện, tuy chẳng có màu cù là nhƣng cũng đƣợc gọi là dầu cù là. Ngôn
ngữ là thế!

AN CHI: Ngƣời Nam bộ chƣa bao giờ phiên âm chocolat thành “súc-cù-là”. Đây là dạng phiên âm của ngƣời miền
Bắc. Là ngƣời sanh ra và lớn lên tại Sài Gòn – Chợ Lớn, từ cha sanh mẹ đẻ, chúng tôi chƣa hề nghe dân ở đây
gọi chocolat bằng ba cái âm đó. Vì thế họ cũng không hề gọi màu chocolat là màu “súc-cù-là”.
Học giả Vƣơng Hồng Sển, ngƣời thông thạo về cổ tích và sinh hoạt của đất Sài Gòn và đất Nam Bộ, đã nghe
ngƣời bình dân Nam Bộ gọi chocolat là sô-cu-la từ hồi còn bé. Xin chép hiến ông lời của học giả này nhƣ sau:
“Thuở nhỏ tôi có đƣợc nghe đám con nít ở chợ Sóc Trăng hát nhƣ sau: “Ac-tap-lách Sô-cu-la Canh-ti-na Bồn-
Kèn (…). Về sau khi lên học trƣờng Sài Gòn, tôi mới đƣợc nếm mùi tấm tablette de chocolat bán tại góc đƣờng
Catinat và Bonard gần Bồn-Kèn tôi mới thấy rõ có lẽ câu này thuở ấy là do một món quà sang trọng hiếm có
(món chocolat – AC) đƣợc đem về xứ quê, chợ Sóc Trăng yêu mến của tôi, nhƣng bởi phát âm không rành nên
nghe trại bẹ nhƣ vậy chăng? (Sài Gòn năm xƣa, Thành Phố Hồ Chí Minh, 1991, tr.106). Thế là dân “xứ quê Sóc
Trăng” đã gọi chocolat thành “sô-cu-la” từ ngót 80 năm nay và nói chung dân Nam Bộ chƣa bao giờ gọi chocolat
là “súc-cù-là” cả.

Dầu cù là Mac Phsu cũng không nhập vào Sài Gòn hồi thập kỷ 60 nhƣ ông nói mà trƣớc đó rất lâu. Tổng đại lý
của dầu cù là Mac Phsu tại Sài Gòn trƣớc đây nằm trên đƣờng Frère Louis (nay là Nguyễn Trãi, quận Một), gần
nhà thờ Huyện Sĩ, cách cổng xe lửa (nay đã bỏ) chỉ có mấy căn phố. Phía sau lƣng nó nay là đƣờng Phạm Ngũ
Lão, ngó qua chợ Thái Bình. Nhƣng trƣớc khi dầu cù là Mac Phsu có tổng đại lý tại Sài Gòn thì dân miền tây Nam
Bộ đã biết đến nó từ lâu, vì cuối thế kỷ XIX ngƣời Cù Là (= Miến Điện) đã đến buôn bán tại đó. Họ đã thành lập
xóm gọi là xóm Cù Là, thuộc làng Vĩnh Hòa Hiệp, cách chợ Rạch Giá khoảng 13 cây số. Xóm Cù Là này nay hãy
còn tên (X. Sơn Nam, Việc khẩn hoang vùng Rạch Giá, Tập san Sử Địa, số 19-20, Sài Gòn, 1970, tr.178).

Vậy xin vui lòng tách ba tiếng “súc-cù-là” ra khỏi từ nguyên của danh từ dầu cù là.

Grenad
09-06-2007, 03:02 AM
chữ (sic) này mang nghĩa là "nguyên văn", tức là ngƣời viết chỉ lấy nguyên văn câu nói, hay từ ngữ của một
ngƣời khác để dẫn chứng, không phải từ tự đặt.

09-06-2007, 11:31 AM
chữ (sic) này mang nghĩa là "nguyên văn", tức là ngƣời viết chỉ lấy nguyên văn câu nói, hay từ ngữ của một
ngƣời khác để dẫn chứng, không phải từ tự đặt.

(sic) là "sai nhƣng chỉ ghi lại theo nguyên văn".


Câu hỏi của Natphung là tại sao An Chi lại ghi (sic) sau chữ "langage". Nói cách khác tại sao dùng langage là
sai.

NatPhung
17-06-2007, 10:37 AM
58. (KTTN 109, ngày 15-5-1993)
Theo tôi, ông trả lời về khái niệm “La Hán” (Kiến thức ngày nay 105) nhƣ thế rất đúng nhƣng tên gọi từng vị thì
khác. Theo tƣ liệu của Vụ bảo tồn bảo tàng thì tên của 16 vị La Hán là : 1. Tuyết Sơn, 2. Di Lặc, 3. Thƣơng Na
Hòa Tu, 4. Phú Na Dạ Sa, 5. A Nan Vƣơng, 6. Ba Tu Mật, 7. Phật Đà Nan Đề, 8. Phúc Đa Mật Đa, 9. Hiếp Tôn
Giả, 10. Mã Minh Ba La, 11. Già Bi Ma La, 12. Long Thụ Tôn Giả, 13. La Hầu La Đà, 14. Tăng Già Nan Đề, 15.
Cƣu Ma La Đa, 16. Đồ Da Đà. Đây là 16 vị La Hán ở chùa Tây Phƣơng. Vậy 16 vị này là ai so với 16 vị trong
“Pháp trụ ký” của Nan Đề Mật Đà La?

AN CHI: Nếu đúng nhƣ ông đã nêu thì tƣ liệu của Vụ bảo tồn bảo tàng hoàn toàn sai. Tuyết Sơn, tức Himalaya,
chỉ là một địa danh liên quan đến sự tích Thích Ca. Di Lặc là tên đức Phật vị lai hiện còn ở trên tầng trời Đâu
Suất (theo Phật giáo đại thặng, ngài là một vị Bồ Tát. Còn lại là tên các vị trong 28 vị tổ sƣ (nhị thập bát tổ) của
đạo Phật.

A Nan Vƣơng - Tổ thứ 2


Thƣơng Na Hoà Tu - Tổ thứ 3
Ba Tu Mật - Tổ thứ 7
Phật Đà Nan Đề - Tổ thứ 8
Phúc Ma Mật Đa (chính là Phục Ma Mật Đa) - Tổ thứ 9
Hiếp Tôn Giả - Tổ thứ 10
Phúc Na Dạ Sa - Tổ thứ 11
Mã Minh - Tổ thứ 12
Già Bi La Ma (tức Ca Tỳ Ma La)- Tổ thứ 13
Long Thụ Tôn Giả - Tổ thứ 14
La Hầu La Đà - Tổ thứ 16
Tăng Già Nan Đề - Tổ thứ 17
Cƣu Ma La Đa - Tổ thứ 19
Đồ Da Đà (tức Xà Da Đa) - Tổ thứ 20

Dân gian có thể nhầm lẫn mà cho rằng các vị La Hán tuy đã đắc đạo nhƣng vẫn còn sống ở cõi trần để tế độ
chúng sinh (đây thực ra là đặc điểm của các vị Bồ Tát) chứ cơ quan chức năng nhƣ Vụ bảo tồn bảo tàng thì
không thể biến 14/28 vị tổ sƣ của đạo Phật thành các vị La Hán, vì điển tích Phật học đã có ghi rõ danh sách
riêng biệt của nhị thập bát tổ và thập lục La Hán.

Danh sách 16 vị La Hán mà chúng tôi đƣa ra hoàn toàn thống nhất với danh sách của Đoàn Trung Còn trong
Phật học từ điển, có khác là khác ở hình thức phiên âm mà thôi, thí dụ: KTNN Tân Độ La Bạt La Đọa = PHTĐ
Tân-đô-la-bạt-ra-đọa-xà, KTNN Già Nặc Già Phạt Sa = PHTĐ Ca-nặc-ca-phạt-sa, KTNN Nhân Kiệt Đà = PHTĐ
Nhơn-yết-đà, v.v… Đó là tên của 16 vị La Hán đã đƣợc đức Phật phái đi truyền bá đạo Phật ở nƣớc ngoài, làm
thành danh sách quen thuộc trong kinh điển xƣa nay. Còn số lƣợng các vị La Hán thì rất nhiều vì tƣơng truyền
rằng có đến 1250 đệ tử của Phật đã đắc quả A La Hán.

Cơ quan chức năng mà sai đến nhƣ thế thì văn hóa nƣớc nhà còn ra làm sao!

NatPhung
17-06-2007, 10:54 AM
59. (KTTN 109, ngày 15-5-1993)
Trên Kiến thức ngày nay số Xuân Quý Dậu (tr.26), Huệ Thiên đã cho rằng hai tiếng gà đồng trong thành ngữ
mèo mả gà đồng là con gà hoang chứ không phải con ếch. Những năm học trung học trƣớc giải phóng, thầy dậy
Quốc văn có giải thích cho chúng tôi thành ngữ trên nhƣ sau: “Nghĩa đen: Đến mùa động dục, họ hàng nhà mèo
tìm nơi thanh vắng để làm tình, chẳng hạn nhƣ nơi gò mả hoang vắng. Còn họ nhà ếch (gà đồng) bắt từng cặp
với nhau ngoài đồng ruộng khi những cơn mƣa đầu mùa trút xuống. Nghĩa bóng: ở đây chỉ bọn thanh niên lêu
lổng có tình cảm lăng nhăng bậy bạ”. Vậy gà đồng trong thành ngữ nói trên là con ếch hay con gà hoang nhƣ
Huệ Thiên đã nói?

AN CHI: Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ cũng giảng nhƣ thầy của ông. Nhƣng đó là một cách
giảng không đúng. Từ điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập đã đúng khi giảng rằng thành ngữ đang xét
đồng nghĩa với mèo đàng, chó điếm, dùng để chỉ “những kẻ điếm đàng, du thủ du thực". Đây cũng là cách giảng
của Đào Duy Anh trong Từ điển truyện Kiều mà chính ông cũng đã trích dẫn trong thƣ: “Mèo ở mả, gà ở đồng,
không ở nhà, chỉ những hạng ngƣời không có căn cứ, vô lại, ví nhƣ những kẻ trốn chúa lộn chồng”. Nguyễn
Thạch Giang cũng giảng: “Mèo hoang sống kiếm cái ăn nơi nghĩa địa, gà hoang sống ở đồng nội, ví nhƣ hạng
ngƣời vô lại, không có sở cứ nhất định (Truyện Kiều, Hà Nội, 1972, tr.438, câu 1731). Còn sau đây là lời của
Nguyễn Quảng Tuân: “Giảng “gà đồng” là con ếch thì chẳng có nghĩa gì. Mèo mả gà đồng ở đây đƣợc đặt đối
nhau: mèo ở mả, gà ở đồng. Mèo ở mả là mèo hoang, sống ở tha ma. Gà ở đồng là gà hoang sống ở đồng nội.
Ngƣời ta ví hạng vô lại, không có chỗ ở nhất định với loại mèo hoang sống lang thang ngoài nghĩa địa và với loài
gà hoang sống lang thang ở ngoài đồng nội. Gà đồng đâu có phải chữ nói lóng mà giảng là con ếch!” (Chữ nghĩa
Truyện Kiều, Hà Nội, 1990, tr.58)

Trên đây là cách hiểu của các nhà từ điển và nhà chú giải. Bây giờ đặt thành ngữ đang xét vào câu Kiều thứ
1731 và ngôn cảnh cụ thể của đoạn Kiều 1728-1737 là lời mắng mỏ của Hoạn bà thì thấy lời mắng mỏ này
chẳng có liên quan gì đến chuyện “trên Bộc trong dâu”, nghĩa là đến chuyện quan hệ nam nữ lăng nhăng cả.
Hoạn bà chỉ mắng kiều là hạng đàn bà con gái bỏ nhà đi hoang mà thôi.

Vậy gà đồng trong thành ngữ đang xét khác với gà đồng là con ếch, dịch từ tiếng Hán điền kê, và đƣơng nhiên
là chẳng có liên quan gì đến chuyện ếch bắt cặp khi những cơn mƣa đầu mùa trút xuống cả.

Ghi chú của :

Có mấy điểm mà anh Hai An Chi đã "quên" không xét đến:


1. "Mèo mả, gà đồng" là thành ngữ Việt Nam, chớ không phải mƣợn từ thành ngữ Trung Hoa.
2. Gà đồng là một từ dân gian rất đặt biệt để chỉ con ếch, cũng nhƣ "tôm bay" để chỉ châu chấu, "thịt Tam
Tạng" chỉ đậu hủ, "vạt giƣờng" chỉ măng khô già, "gạch thẻ" chỉ đậu hủ cứng (pha nhiều bột, ít đậu nành), "kẽm
gai" chỉ rau muống già, v.v...
3. Mèo ở mả là mèo hoang. Còn gà hoang là gà rừng chớ không phải gà đồng.
4. Cặp danh từ kép đẳng lập điền-kê trong tiếng Hán (và tiếng Nhật nữa) vẫn là con ếch (*). Điền-kê-du là con
bìm bịp. Điền kê với cấu trúc quan hệ chính phụ (điền bổ túc nghĩa cho kê) chỉ con gà ở ruộng, ăn thóc rụng thì
mập béo hơn con gà nuôi ở nhà. Nghĩa là gà quý để biếu quan trên, khách quý và không có liên quan gì đến việc
lăng nhăng nam nữ.
5. Ai dám đảm bảo Đào Văn Tập, Đào Duy Anh và Nguyễn Quảng Tuân không bao giờ giải thích sai? Chính An
Chi cũng đã nhiều lần vạch ra các sai sót của mấy vị này. Chính Đào Duy Anh trong Từ điển Hán Việt của ông,
ông cũng đã giảng ở trang 273, mục từ điền rằng "điền kê 田鷄 Gà đồng = con ếch". Đa số các từ điển Hán Việt
đều giải thích điền kê là con ếch (**)
6. Dù có hiểu là "gà đi hoang" hay "ếch bắt từng cặp ngoài đồng" cũng đều ám chỉ chuyện sex, chuyện trên bộc
trong dâu cả.

(*) Ếch có tên gọi là, điền kê, thanh oa, thanh kê, toa ngựa, cáp ngƣ, thạch kê, thủy kê.( Dƣợc điển đông y
online (http://thaythuoccuaban.com/vithuoc/ech.htm) )
(**) Ví dụ nhƣ Từ Điển Hán Việt Hiện Đại do Nguyễn Kim Thản chủ biên
田鷄 /tiánjī/ (Động) 1. gà đồng; 2. ếch nhái.

NatPhung
22-06-2007, 05:11 PM
60. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Tại sao tiếng Pháp đã có Japon để chỉ nƣớc Nhật Bản mà còn lại có tên là Nippon? Hai tên này có gì khác nhau?

AN CHI: Tiếng Pháp Japon cùng với tiếng Anh Japan, là phiên âm theo tiếng Hán giọng Bắc Kinh rì ben (âm Hán
Việt là Nhật Bản) của hai chữ 日本. Còn Nippon là phiên âm thẳng từ tiếng Nhật; chữ Nhật, viết theo lối Romaji
(La mã tự) cũng là Nippon. Đây là tên mà chính ngƣời Nhật dùng để gọi nƣớc mình. Trong tiếng Pháp, chỉ có
dạng phiên âm thứ nhất mới là thông dụng mà thôi. Ngƣời Mỹ cũng thâu nhận địa danh Nippon, do đó mà có
tính từ Nipponese rồi danh từ Nipponese, nói tắt là Nip.

NatPhung
22-06-2007, 05:15 PM
61. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Ren, rua là hai tiếng rất quen thuộc trong nữ công. Có phải ren là do tiếng Pháp dentelle còn rua là do tiếng
Pháp ajour mà ra không?

AN CHI: Rua thì đúng là do tiếng Pháp jour (hoặc ajour) mà ra, nhƣng ren thì chẳng có liên quan gì đến dentelle
cả vì nó lại do tiếng Bồ Đào Nha renda mà ra. Tiếng Bồ đã vào Việt Nam trƣớc cả tiếng Pháp nhƣng chỉ đem đến
cho tiếng Việt có vài từ ít ỏi nhƣ:
- xà bông < sabāo (Pháp: savon),
- (dây) cót (dây thiều) < corda (Pháp: ressort hoặc spiral),
- (thêu) ren < renda (Pháp: dentelle),
- câu rút (cây thánh giá) < cruz (Pháp: croix).

NatPhung
27-06-2007, 05:17 PM
62. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Tại sao bộ đồ tắm hai mảnh lại đƣợc gọi là bikini? Nếu bi là hai thì kini là gì?

AN CHI: Ở đây, bi không có nghĩa là hai mà chỉ là một âm tiết vô nghĩa trong địa danh Bikini, tên một hòn đảo
nhỏ trong quần đảo Marshall ở Thái Bình Dƣơng, nơi đã trở thành bãi thử vũ khí hạt nhân của Mỹ từ năm 1946.
Những vụ thử này đã từng gây chấn động mạnh trong dƣ luận nên nhắc đến Bikini là nhắc đến những vụ gây
chấn động nhƣ thế. Khi bộ đồ tắm hai mảnh cực nhỏ của phái đẹp ra đời thì nó cũng gây chấn động không kém
gì những vụ Bikini vì với nó, lần đầu tiên, các tòa thiên nhiên của tạo hóa, trong đó có nhiều tòa tuyệt tác, đã
đƣợc phô bày nơi công cộng (bãi biển, hồ bơi) một cách gần nhƣ trọn vẹn đến mức mãn nhãn, ngoại trừ mấy
trọng điểm đƣợc che phủ một cách quá thiếu thốn. Do sự so sánh có tính chất ẩn dụ này mà bộ đồ tắm hai
mảnh cực nhỏ đã đƣợc gọi là bikini.

Ngƣời ta còn chơi chữ bằng cách ngầm hiểu bi là hai để tạo thành danh từ chỉ “bộ đồ tắm” một mảnh của phái
nữ (chỉ “gồm có” cái slip lẻ loi) là monokini (mono = một). Nhƣng xin nhớ rằng đây chỉ là tên “bộ đồ tắm” một
mảnh của phái đẹp chứ cái slip của nam giới nơi bãi biển hoặc hồ bơi thì lại chẳng đƣợc vinh dự mang tên đó
mặc dù các đấng mày râu chẳng bao giờ mặc … soutien!

Bàn loạn của Natphung:

Dù các đấng mày râu chẳng bao giờ mặc soutien (sic) theo lời anh hai An chi, nên chẳng có cái vinh dự đƣợc ké
với monokini. Thế nên các đấng mày râu bèn bỏ quách cái vƣớng víu đi, từ đó mới có danh từ "tắm tiên
(http://vietnamnet.vn/psks/phongsu/2004/08/232742/)". Vậy là các tiên ông ở Trƣờng An tha hồ mà tự hào vì
đã sáng chế ra từ tắm tiên khi tắm ở sông Hồng với zerokini. (Thật ra ở nhiều nơi trên thế giới, tắm nude không
phải là điều mới mẻ, nhƣng nó không có tên gọi gì đặc biệt).

(sic) Bọn tây mũi lõ mắt xanh sẽ chẳng bao giờ hiểu soutien (http://vdict.com/soutien,5,0.html) là cái nhƣ nhƣ
anh hai An Chi hiểu. Muốn tụi nó hiểu là cái "xú chiêng" thì phải gọi là soutien-gorge (http://vdict.com/soutien-
gorge,5,0.html).

Bàn vào của :

Tuy vậy nhiều công ty sản xuất đồ tắm chẳng những không muốn bỏ bớt mà lại còn thêm vào để tăng doanh số
cho nên mới ra đời một từ mới "trikini". Miếng thứ ba là gì? để làm gì? Thƣa có nhiều kiểu giải thích (*) nhƣng
cách mà khoái là miếng vải băng mắt để che nắng khi tắm nắng trong bộ "ki-ni". Nhƣ vậy thì kẻ "phô" lẫn
ngƣời "ngắm" không phải lén lén lút lút "đôi khi trộm nhìn nhau".

(*) trikini còn là:


1. kiểu đồ tắm cho phụ nữ có bầu;
2. đồ tắm cho bé gái
3. thƣơng hiệu một loại đồ tắm Trikini (dù có một mảnh)

vdkhoi
29-06-2007, 01:49 PM
Theo tôi nghĩ chẳng có cái nào, con nào là vật tổ, biểu tƣợng Việt Nam chính thức cả. Đừng ngồi mà suy diễn,
ngƣời Việt mình hay có tật thấy ngƣời khác có gì thì suy diễn mình cũng phải có....
5. (KTNN 58, ngày 15-11-1992)
Có ngƣời nói rằng ngƣời Pháp lấy con gà trống làm vật tổ cho dân tộc mình. Xin cho biết tại sao?

AN CHI: Trƣớc hết, xin cải chính rằng con gà trống không phải là vật tổ (totem) của dân tộc Pháp.Thứ đến,
ngƣời ta cũng không nói con gà trống mà phải nói đầy đủ là con gà trống Gô-loa (con gaulois). Và con gà trống
Gô-loa là một biểu tƣợng (emblème) - chứ không phải "vật tổ" - của dân tộc Pháp. Vật tổ và biểu tƣợng là hai
khái niệm khác nhau. Việc lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tƣợng có bao hàm một sự chơi chữ ý nhị ở trong đó.
Tổ tiên của ngƣời Pháp là ngƣời Gô-loa(Gauiois). Ngƣời Gô-loa, tiếng La Tinh gọi là Gallus. Danh từ Gallus trong
tiếng La Tinh lại có một từ đồng âm tuyệt đối là gallus, có nghĩa là con gà trống. Thế là cái vỏ ngữ âm gallus của
tiếng La Tinh vừa biểu hiện khái niệm "ngƣời Gô-loa" lại vừa biểu hiện khái niệm con gà trống". Vậy cứ theo
ngôn ngữ này, ngƣời ta có thể chơi chữ bằng đẳng thức:

Ngƣời Gô-loa (Gallus) = con gà trống (gallus).

Đó là lý do tại sao ngƣời Pháp lại lấy con gà trống Gô-loa làm biểu tƣợng của dân tộc mình. Nếu ta biết rằng
tiếng Pháp hiện đại là do tiếng La Tinh thông tục (latin populaire) mà ra thì ta cũng sẽ không lấy làm lạ tại sao
ngƣời Pháp lại căn cứ vào tiếng La Tinh để chọn biểu tƣợng cho dân tộc mình nhƣ thế.
Ghi chú của :
Ngày nay có mấy ai biết vật tổ của nƣớc mình là gì? biểu tƣợng của nƣớc mình là gì?
Ngay cả Việt Nam, thử hỏi từ học sinh cấp hai đến ... cấp bốn, cả những vị có văn bằng Tiến Sĩ, Luật Sƣ,... câu
hỏi trên, có lẽ chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời ... cƣời ra nƣớc mắt.

Theo ý các bạn :

Vật tổ của Việt Nam là:


1. Con Rồng.
2. Con Rồng và ... bà Tiên.
3. Thần Kim Quy.
3. Chim bằng (đại bàng) vật tổ của Âu Việt.
4. Thuồng luồng (cá sấu) vật tổ của Lạc Việt.
5. Ý kiến khác.

Biểu tƣợng của Việt Nam là:


1. Cây tre.
2. Cây lúa.
3. Trống đồng.
4. Hoa sen.
5. Bản đồ Việt Nam hình chữ S.
6. Quốc kỳ.
7. Ý kiến khác.

NatPhung
02-07-2007, 12:16 PM
63. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Từ “mafia” do đâu mà có? Nó có ý nghĩa gì?

AN CHI: Mafia cũng viết là Maffia, là tiếng Ý. Theo Dominique và Michèlle Frémy, trong Quid 1986, thì từ này có
thể có một trong ba nguồn gốc sau đây:

1. Do tiếng Ả Rập mu‟afah, có nghĩa là sự che chở cho những ngƣời yếu kém.
2. Do phƣơng ngữ Toscan maffia có nghĩa là sự khốn khổ.
3. Năm 1800, vua xứ Napoli là Ferdinand IV, lƣu vong ở đảo Sicilia, đã lập ra một đội cảnh sát ngầm để có thể
ngăn chặn một sự đổ bộ bất ngờ của quân đội Pháp. Ngƣời ta cho rằng ông đã lấy những chữ đầu của năm tiếng
trong khẩu lệnh hồi 1282 mà đặt tên cho tổ chức này. Câu đó là Morte Alla Francia; Italia Anela có nghĩa là nƣớc
Pháp phải chết, nƣớc Ý muốn nhƣ thế. (Trong trận đánh ở Sicilia năm 1282, quân Ý đã giết chết đến 8.000 quân
Pháp). Ráp 5 chữ đầu đó lại thì sẽ có từ MAFIA.

Nhƣng dù thuộc gốc nào thì danh từ Mafia ngày nay cũng không còn đƣợc hiểu theo nghĩa xƣa của nó nữa. Ngày
nay Mafia là con bạch tuộc khổng lổ và ghê gớm kiểm soát từ sản xuất nông nghiệp cho đến mua bán bất động
sản, cờ bạc, buôn bán vũ khí, buôn bán ma túy, v.v… trên đảo Sicilia của nƣớc Ý. Là chân rết của nó hoặc tƣơng
tự nhƣ nó, còn có các tổ chức nhƣ N‟dranghetta ở Calabria (Ý), Camorra ở Napoli (Ý) và Cosa Nostra ở Mỹ.

NatPhung
02-07-2007, 12:17 PM
64. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Xin cho biết xuất xứ của mấy tiếng mã tà (lính cảnh sát thời trƣớc).

AN CHI: Mã tà là do phiên âm từ tiếng Mã Lai manta-mata có nghĩa là cảnh sát. Hình thức gốc ban đầu là ma tà,
theo ghi nhận của Huình-Tịnh Paulus Của trong Đại Nam quốc âm tự vị. Về sau, ma đã đƣợc phát âm thành mã.
Xin nhớ rằng tiếng Việt, nhất là địa phƣơng Nam Bộ, có nhiều từ gốc Mã Lai. Thêm một ví dụ: xà ích, ngƣời đánh
xe ngựa, là do tiếng Mã Lai saïs.

NatPhung
09-07-2007, 01:22 PM
65. (KTTN 110, ngày 01-6-1993)
Xin cho biết sự tích “kết cỏ ngậm vành”.

AN CHI: Thành ngữ tiếng Việt kết cỏ ngậm vành là dịch từ tiếng Hán kết thảo hàm hoàn, bắt nguồn từ hai sự
tích riêng biệt. Ngụy Vũ Tử đời nhà Tấn rất yêu quí ngƣời vợ lẽ nên khi hấp hối thì dặn con trai là Ngụy Khỏa hãy
chôn ngƣời vợ lẽ với mình. Ngụy Khỏa không đành lòng nên sau khi cha chết thì cho vợ lẽ của cha đi lấy chồng
khác. Về sau, Khỏa đi đánh giặc, sắp thua tƣớng nhà Tần là Đỗ Hồi thì bỗng dƣng thấy Hồi bị vƣớng cỏ mà ngã.
Nhờ thế, Ngụy Khỏa bắt đƣợc Đỗ Hồi. Đêm về, Khỏa nằm mộng thấy có một ông già đến nói: “Cảm vì ông đã
không chôn sống con gái tôi nên tôi đã kết cỏ làm vƣớng chân giặc để cứu ông”. Đó là chuyện kết cỏ.

Sau đây là chuyện ngậm vành: Đời nhà Hán có Dƣơng Bảo mới lên chín tuổi đi chơi ở phía Bắc núi Hoa Âm, thấy
một con chim sẻ vàng bị chim cắt cắn gần chết. Bảo đem về nuôi gần một trăm ngày chim mới khỏe lại rồi bay
đi. Đêm ấy có đồng tử áo vàng miệng ngậm bốn chiếc vòng ngọc đến bái tạ mà nói: "Ta là sứ giả của Tây Vƣơng
Mẫu, trƣớc đã nhờ ngƣời cứu vớt nên nay đến đền ơn ngƣời đây. Cầu cho con cháu ngƣời sau này cũng sẽ vinh
hiển”. Ngƣời ta kể rằng quả nhiên về sau con của Bảo là Chấn, cháu là Bỉnh, chắt là Tứ và chít là Bƣu đều đƣợc
vinh hiển.

Thành ngữ kết cỏ ngậm vành về sau thƣờng đƣợc dùng nhƣ một lời nguyền đền ơn đáp nghĩa trọng hậu.

NatPhung
09-07-2007, 01:31 PM
66. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Tại sao Phi-líp-pin (Philippines) là một nƣớc Đông Nam Á mà lại có một tên rất Tây? Ngƣời Phi-líp-pin nói tiếng
gì?

AN CHI: Nguyên Phi-líp-pin là thuộc địa của Tây Ban Nha từ năm 1565, dƣới triều vua Phi-líp đệ nhị. Để đánh
dấu rằng đây là đất đai họ đã chiếm đƣợc dƣới triều của Phi-líp (đệ nhị), tiếng Tây Ban Nha là Felipe, ngƣời Tây
Ban Nha đã gọi đó là Islas Filipinas, nói tắt thành Filipinas. Đây là số nhiều của Filipina, giống cái của Filipino,
nghĩa là thuộc về Felipe. Islas Filipinas là các hòn đảo của Phi-líp, ngƣời Pháp dịch thành Iles philippines, rồi nói
tắt thành Philippines.

Ngƣời Phi-líp-pin nói tiếng Tagal (cũng gọi là Tagalog) là thứ tiếng đƣợc chọn làm ngôn ngữ quốc gia. Đây là
một ngôn ngữ thuộc họ Mã Lai – Đa đảo (malayo-polynésien). Giành đƣợc độc lập năm 1946 từ tay Mỹ (Tây Ban
Nha đã nhƣợng đảo quốc này cho Mỹ từ năm 1898), ngƣời Phi-líp-pin vẫn dựa theo tiếng Tây Ban Nha là
Filipinas mà gọi tên nƣớc mình là Pilipinas (tiếng Tagal không có âm f nên đã thay thế âm này bằng p).

Lời bàn của :

Ở Việt Nam có nhiều địa danh tƣởng là tiếng Tây, nhƣng thực ra lại là ... tiếng Việt 100 phần trăm.

Thí dụ nhƣ địa danh Faifo (Phai-pho) ở Thuận Hải. Các bạn ở khoa Địa Lý - Địa Chất có kể cho nghe sự tích này.
Ngày xƣa, khi "ông Tây căng dây thép họa địa đồ nƣớc Nam" luôn có thầy thông, thầy ký An Nam đi theo để ghi
chép. Khi đến vùng nọ, từ trên cao nhìn xuống thấy lô nhô rất nhiều tảng đá vôi trắng xóa, trông giống nhƣ phố
xá nhấp nhô của một thành phố dƣới thung lũng, quan Tây mới hỏi : "Phai pho?" (Phải phố [không]?) Thầy ký
không biết vùng này, tƣởng quan trên muốn đặt tên cho vùng đất là "Phai-pho" bèn chua nguyên âm vào bản
đồ. Từ đó có tên "Tây" Phai-pho.

Tên ngƣời cũng có chuyện tƣơng tự, nhƣ chuyện Đại Cathay (anh Đại ở xóm Cathay), bị hiểu lộn thành đại-ca
Thay (đại-ca tên Thay). Chuyện này thì tiếng Tây lại bị hiểu lầm là tiếng Việt.

NatPhung
16-07-2007, 03:31 PM
67. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Từ điển Pháp Việt của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1981) đã giảng Cauris là “ốc tiền (vỏ ốc xƣa dùng làm
tiền ở châu Phi) còn Từ điển Anh Việt cũng của Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1975) thì giảng Cowrie là: 1.
Ốc tiền, 2. Tiền vỏ ốc (ở Nam Phi và Nam Á)”. Không thấy nói đến Trung Quốc. Vậy Trung Quốc xƣa có dùng vỏ
ốc làm tiền hay không?

AN CHI: Ngƣời Trung Hoa thời xƣa vẫn có dùng vỏ ốc để làm tiền (dụng bối xác tác hóa tệ). Sò, ốc tiếng Hán
gọi là bối, chữ Hán viết là 貝.

Các nhà khảo cổ học về Trung Hoa đã thống kê đƣợc trên 100 loại sò, ốc từng đƣợc dùng làm tiền nhƣng chính
con ốc tiền mới là phổ biến và thông dụng hơn hết. Con ốc này, tiếng Hán gọi là mã não bối. Vì nó đƣợc dùng
làm tiền nên ngƣời ta gọi nó là hóa bối (ốc tiền). Do công dụng đặc biệt này mà ngƣời ta còn gọi nó là bửu bối
(ốc quý). Lối nói này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay và đƣợc dùng theo phép ẩn dụ để chỉ vật quý hiếm, vật
hàm chứa phép lạ hoặc điều mầu nhiệm. Tiếng Pháp gọi ốc tiền là cauris, tiếng Anh là cowrie hoặc cowry, tiếng
Nhật gọi là tử an bối (koyasugai); tên khoa học là Cypreae moneta. Bản thân chữ bối 貝 khi nó còn ở giai đoạn
thực sự tƣợng hình, chính là hình một con ốc thò râu (xúc tu) ra khỏi vỏ. Hai nét làm thành chữ bát 八 ở phía
dƣới của chữ bối chính là hai cái râu đó. Quách Mạt Nhƣợc còn khẳng định dứt khoát rằng chữ bối đích thị là
tƣợng hình con ốc tiền nữa (X. Nô lệ chế thời đại, Bắc Kinh, 1973, tr. 280).

Chính vì con “bối” đã từng đƣợc dùng làm tiền cho nên trong chữ Hán, những chữ ghi lại các khái niệm có liên
quan đến tiền đều thuộc bộ bối, nhƣ bần (nghèo), tiện (hèn), quý (sang), trữ (chứa), tham (ham tiền), mãi
(mua), mại (bán), đổ (đánh bạc), v.v…

Vì nhu cầu trao đổi càng ngày càng phát triển mà ốc tiền lại càng ngày càng khó tìm nên về sau ngƣời ta phải
nung ốc bằng gốm (đào bối), gọt ốc bằng xƣơng (cốt bối), mài ốc bằng đá (thạch bối) thậm chí bằng ngọc (dao
bối) mà làm tiền để đáp ứng nhu cầu đó. Cuối cùng ngƣời ta đã đúc ốc bằng đồng (đồng bối). Việc này đánh dấu
sự ra đời của tiền bằng kim loại trong lịch sử tiền tệ Trung Hoa. Tiền đồng bắt đầu có từ đời Chu nhƣng thời đó
vỏ ốc vẫn còn tiếp tục đƣợc dùng để làm tiền. Chỉ đến đời Tần Thủy Hoàng thì việc này mới bị cấm hẳn.

Ghi chú của :

Giải tự (etymology) của chữ bối vốn là hình con ốc tiền. Chữ viết đầu tiên là hình vẽ hai mảnh vỏ sò (ốc) phát
triển dần giản lƣợc đến cách viết của chữ bối ngày nay. Xem thêm hình minh họa, từ vựng và thí dụ kèm theo
dƣới đây.

http://i6.photobucket.com/albums/y236/vincentvunguyen/beiMedium.jpg

NatPhung
16-07-2007, 03:36 PM
68. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Ngƣời ta nói rằng con cù là một loại rồng có thể chui dƣới đất mà ngủ hàng trăm năm, mỗi lần nó thức dậy,
chuyển mình thì trời long đất lở, sập nhà đổ cửa. Do đó mới có câu cù dậy, đúng không?

AN CHI: Quả thật mỗi lần cù dậy là một lần dông to gió lớn, có thể gây ra đổ cửa sập nhà. Nhƣng cù dậy chỉ là
một cách diễn đạt theo quan niệm và ngôn ngữ dân gian để chỉ hiện tƣợng thời tiết nói trên mà thôi. Sự thật thì
chẳng có con cù nào đã dậy sau một giấc ngủ hàng trăm năm cả. Cũng nhƣ khi ngƣời ta nói gấu ăn trăng là
ngƣời ta muốn chỉ hiện tƣợng nguyệt thực, nghĩa là hiện tƣợng mặt trăng bị tối một phần hoặc toàn phần trong
một lúc vì đi vào vùng tối của trái đất. Chứ sự thật thì chẳng có chú gấu nào đã lấy mặt trăng làm đồ nhắm mà
nhậu với ba xị đế cả. Hoặc nữa, khi ngƣời ta nói rồng hút nƣớc thì cũng chẳng có con rồng nào bị cơn khát hành
hạ. Đó chẳng qua là cột nƣớc hoặc cột hơi nƣớc chuyển động thành cơn xoáy do gió gây ra mà thôi.

NatPhung
30-07-2007, 01:12 PM
69. (KTTN 111, ngày 15-6-1993)
Hình nhƣ theo xu hƣớng gần đây, có ngƣời trong giới nghiên cứu lại cho rằng con voi đã từng sinh sống ở lƣu
vực sông Hoàng Hà của Trung Hoa. Điều lạ lùng này có thể nào đúng hay không?

AN CHI: Không phải là có ngƣời, mà là có nhiều ngƣời thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, đã khẳng định
điều đó bằng những cứ liệu chắc chắn.

Về khảo cổ học, ngƣời ta đã nhiều lần đào đƣợc xƣơng voi ở lƣu vực sông Hoàng Hà. Điều này chứng tỏ rằng
con voi đã từng sinh sống tại đây. Giáp cốt học (nghiên cứu nội dung những lời bói khắc trên yếm rùa hoặc
xƣơng thú thuộc đời nhà Thƣơng, đào đƣợc ở An Dƣơng, Hà Nam) cũng góp phần khẳng định điều này. Thí dụ
trong một lời bói, ngƣời ta đã đọc đƣợc câu: “Đêm nay phải săn cho đƣợc một con voi”. Nếu giống voi đã không
sinh sống tại đó thì ngƣời đời Thƣơng lấy gì mà săn? Vật hậu học (phénologie) cũng góp phần của nó vào sự
khẳng định trên đây. Ngƣời ta đã chứng minh rằng đời Thƣơng (tk XVI đến tk XI tr.CN) khí hậu tỉnh Hà Nam
thích hợp với các động vật nhiệt đới và á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình hàng năm tại đây lúc bấy giờ cao hơn
ngày nay 2°C còn mức chênh lệch của nhiệt độ trung bình trong tháng Giêng dƣơng lịch là 3° đến 5°C. Bấy giờ
cây tre đã mọc ở Hà Nam và con trâu cũng đã từng sống tại đó. Vậy không phải là lạ nếu bấy giờ ở đó có … voi.
Về văn tự học, chữ Hán 爲 mà hiện nay đọc theo âm Hán-Việt là vi và có nghĩa là làm, chữ Hán đó ở trong giáp
cốt văn đời Thƣơng lại chính là hình một con voi. (Chữ này ngày nay chỉ còn đƣợc dùng theo lối giả tá, nghĩa là
mƣợn âm và tự dạng của chữ sẵn có để ghi một từ có nghĩa khác). Ta không nên tƣởng tƣợng rằng con vật đã
làm “hình mẫu” cho cái chữ giáp cốt kia là con (hoặc những con) vật đƣợc tiến cống từ phƣơng Nam nhiệt đới xa
xôi mà nên bình tâm thừa nhận rằng đó phải là những con vật đã từng sinh sống tại nơi đã đào đƣợc xƣơng của
chúng. Tất cả những cứ liệu tóm tắt trên đây đều góp phần khẳng định rằng điều lạ lùng mà ông thắc mắc chính
lại là chuyện có thật. Duy có điều là do khí hậu đã thay đổi cho nên ngày nay con voi không còn sống đƣợc ở Hà
Nam – thuộc lƣu vực sông Hoàng Hà – nữa mà thôi.
NatPhung
30-07-2007, 01:16 PM
70. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Con lợn của Epicure nghĩa là gì? Và chữ Epicure là tên của ai?

AN CHI: Epicure là một triết gia ngƣời Hy Lạp, sinh tại Samos (có thuyết nói là tại Athènes) năm 341 tr. CN.
Cha ông, Néaclès, là một nhà giáo. Nối nghiệp cha, năm 311 ông mở trƣờng dạy học ở Mytilène(*), trên đảo
Lesbos. Năm 310, ông dời đến Lampsaque. Năm 306, ông đến Athènes. Tại đây ông đã tậu một khu vƣờn để mở
trƣờng. Do đó mà trƣờng phái của Epicure đã đƣợc gọi là trƣờng phái Vƣờn tƣợc (tiếng Pháp: école du Jardin).
Ông mất năm 270, thọ 71 tuổi. Epicure đã từng viết đến 300 chuyên luận nhƣng tất cả đều đã thất truyền,
ngoại trừ một vài bức thƣ và một số câu trích dẫn.

Con lợn của Epicure – dịch từ tiếng Pháp pourceau d‟Epicure – là một danh ngữ dùng để chỉ đồ đệ của chủ nghĩa
khoái lạc, nói nôm na là kẻ đam mê tửu sắc. Sở dĩ có lối nói này là vì ngƣời đời, khởi đầu là ngƣời đồng thời với
Epicure, đã cho rằng ông rao giảng sự tận hƣởng niềm vui xác thịt và những khoái cảm do giác quan đem lại. Có
kẻ nhƣ Timocrate còn nói vu rằng Epicure đã mửa một ngày hai lần vì ăn uống quá no say, lại còn kể rằng ông
đã tiêu xài cả một kho báu cho mỗi bữa ăn.

Thực tế thì lại khác hẳn. Ngày nay các nhà nghiên cứu đã đánh giá đúng con ngƣời và tƣ tƣởng của Epicure.
Jean Brun chẳng hạn, nhấn mạnh rằng một ngƣời đã biết hài lòng với chỉ bánh mì và nƣớc lã, đã viết thƣ bảo
môn đệ gửi đến cho mình một hũ nhỏ pho-mát để “chè chén”, đã sống đạm bạc đến mức gần nhƣ khổ hạnh thì
làm sao có thể rao giảng chủ nghĩa khoái lạc đƣợc (X. L‟épicurisme, Paris, 1974, p. 27). Còn chính Epicure thì đã
nói về học thuyết của mình nhƣ sau: “Khi chúng tôi nói rằng niềm khoái lạc là điều thiện tối thƣợng, chúng tôi
không nghĩ đến những sự thỏa thuê của những kẻ trụy lạc, cũng không phải những sự thỏa thuê liên quan đến
sự thụ hƣởng vật chất nhƣ một vài ngƣời đã nói vì họ không đồng ý với học thuyết của chúng tôi hoặc vì họ hiểu
sai nó. Niềm khoái lạc mà chúng tôi nói đây liên quan đến sự bất tồn tại của nạn đau đớn thể xác và nỗi xáo
động tâm hồn” (Dẫn theo J. Brun, sđd, tr. 94).

Nói về vai trò của Epicure, J. Brun viết: “Đó là một con ngƣời đã từng chiêm nghiệm sâu sắc về sự suy đồi và về
các dạng khác nhau của chứng cuồng loạn tập thể (…) Ông muốn chỉ rõ cho con ngƣời rằng vì họ là những kẻ
tác tạo ra sự sụp đổ của bản thân cho nên họ phải có khả năng trở thành những ngƣời làm chủ vận mệnh của
chính mình” (Sđd, tr. 95).

Cá nhân chúng tôi thì lại rất tâm đắc với câu sau đây của Epicure: “Tôi hởi lòng hởi dạ vì khoái cảm xác thịt khi
tôi tự nuôi sống mình bằng bánh mì và nƣớc lã” (Dẫn theo J. Brun, sđd, tr. 95).

(*) Ghi chú của Natphung: Có nơi viết là Mythilène.

NatPhung
31-07-2007, 04:36 PM
71. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Ông Tôn Thất Thuyết, chống Pháp, đã chạy qua Tàu và chết ở bên ấy. Ngƣời Tàu có viếng ông một đôi câu đối.
Xin cho biết hai câu đối ấy.

AN CHI: Phong Châu đã ghi về đôi câu đối đó nhƣ sau:

“Thù Tây bất cộng đái thiên, vạn cổ anh hồn quy Tƣợng Quận;
Hộ giá biệt tầm tỉnh địa, thiên niên tàn cốt táng Long Châu”.

Dịch:

Thù Tây không đội trời chung, muôn thuở anh hồn về quận Tƣợng;
Giúp chúa riêng tìm cõi thác, ngàn năm xƣơng nát gởi Long Châu”.

Có quyển viết là phƣơng danh quy Tƣợng quận và tàn cốt ký Long Châu. (Câu đối Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr.
93).

Chúng tôi cho rằng chữ thứ 11 của câu sau có lẽ phải là ký (đối với quy ở câu trƣớc), do lấy ở thành ngữ sinh ký
tử quy (sống gởi thác về). Còn ở câu trƣớc thì chúng tôi cho rằng anh hồn hợp và hay hơn là phƣơng danh.

NatPhung
31-07-2007, 04:38 PM
72. (KTTN 112, ngày 01-7-1993)
Trong một số tài liệu xƣa về Công giáo bằng tiếng Việt có hai tiếng vít vồ. Vậy vít vồ là gì và đâu là nguồn gốc
của nó?

AN CHI: Vít-vồ có nghĩa là giám mục. Đây là một từ phiên âm. Thanh Lãng đã cho rằng dạng phiên âm này bắt
nguồn từ tiếng Ý cùng nghĩa là véscovo. Còn chúng tôi thì cho rằng nó bắt nguồn ở một từ cùng nghĩa trong
tiếng Bồ Đào Nha là bispo. Xin nói thêm rằng tiếng Ý véscovo, tiếng Bồ Đào Nha bispo và tiếng Pháp évêque
đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh episcopus.

NatPhung
31-07-2007, 04:44 PM
73. (KTTN 113, 7-1993)
Do tích gì mà ngƣời Anh lại gọi chú rể (bridegroom) là ngƣời giữ ngựa (groom) của cô dâu (bride)? Có chuyện gì
na ná chuyện anh hoàng tế (rể của vua) đƣợc gọi là phò mã chăng?

AN CHI: Ở đây không có chuyện gì na ná chuyện đó vì bridegroom xét theo từ nguyên vốn không phải là chú giữ
ngựa của cô dâu. Hình thái cổ đại của nó là brydguma. Bryd là cô dâu còn guma là ngƣời đàn ông, ngƣời anh
hùng. Vậy brudguma là bậc tu mi của nàng dâu, là đấng anh hùng của nàng. Hình thái cổ đại này đã diễn tiến
một cách tự nhiên sang hình thái trung đại tảo kỳ là brudgume, rồi mạt kỳ là bridegome. Đến đây thì bắt đầu có
xảy ra sự cố: gome dần dần không còn đƣợc ngƣời Anh sử dụng nhƣ một hình vị độc lập nữa. Cuối cùng, ngoại
trừ ở bridegome, nó đã không còn đƣợc phân bố trong cấu trúc từ pháp hoặc cú pháp nào khác. Vì không còn
biết đến nó nữa nên ngay cả trong bridegome ngƣời Anh cũng không cảm nhận đƣợc rằng nó là một thành tố có
nghĩa. Trong ý thức của họ, đó chỉ là bridegrome bị nói sai đi vì grome (= ngƣời giữ ngựa) mới có nghĩa chứ còn
gome thì không. Và họ đã phục hồi dạng bridegrome theo kiểu từ nguyên dân gian (folk etymology) đó mà
không hề ngờ rằng đây chỉ là một hình thái tiếm lập (intrusive). Do grome trở thành groom – y nhƣ lome
(khung cửi) thành loom, blome (hoa) trở thành bloom, brome (cây chổi) trở thành broom, v.v… nên bridegrome
đã trở thành bridegroom nhƣ đang biết hiện nay.

Vậy cứ theo hình thái hiện đại mà phân tích thì bridegroom quả là anh chàng giữ ngựa của cô dâu, nhƣng xét
theo từ nguyên thì đó chỉ có thể là ngƣời anh hùng của nàng mà thôi.

conandoyle1986
02-08-2007, 10:24 AM
Tình cờ tôi đƣợc đọc cách đây ít lâu một bài viết về An Chi/Huệ Thiên/Võ Thiện Hoa, đƣợc biết học giả này có
một cuộc đời thật thăng trầm. Hôm nay lại đƣợc đọc những bài viết của chính An Chi do Vnn post lên Tve. Tôi
thấy rất xúc động và cảm kích vì cuộc sống đem đến cho mình những điều bất ngờ nhƣ vậy. Cảm ơn Vnn rất
nhiều vì những điều bác/ chú (xin lỗi vì conan không biết xƣng hô thế nào cho phải đạo) đã làm cho bạn đọc Tve
nói chung.

NatPhung
10-08-2007, 04:43 PM
74. (KTTN 113, 7-1993)
Tiếng Hán có lối nói lái nhƣ tiếng Việt hay không (thí dụ nói lái “đông tây” thành “đây tông”)? Và ngƣời Trung
Hoa có chơi chữ bằng lối nói lái hay không?

AN CHI: Trong bài “Nói lái trong tiếng Việt” (Ngôn ngữ, số 3, 1971, tr.34-40 và 63), Lữ Huy Nguyên đã khẳng
định rằng “tiếng Hán không có khả năng nói lái”. Đây là một điều sai lầm vì cấu trúc của âm tiết trong tiếng
Hán, nhất là tiếng Hán cổ, đã cho nó một tiềm năng nói lái rất dồi dào. Chính tiềm năng này đã tạo ra cho âm
vận học cổ điển Trung Hoa lối phiên thiết rất hữu hiệu để ghi âm chữ Hán trong các tự thƣ và vận thƣ. Phiên
thiết chính là dữ kiện để nói lái. Không đi sâu vào những nguyên tắc ghi phiên thiết và đọc phiên thiết, chúng tôi
chỉ xin nói rằng, nói chung, ngƣời ta chỉ cần nói lái hai tiếng (ghi bằng hai chữ) dùng để phiên thiết rồi lấy tiếng
thứ nhất đã lái đƣợc: âm của tiếng này chính là âm của chữ đã đƣợc phiên thiết. Thí dụ chữ nhân 人 đƣợc phiên
thiết thành nhƣ lân (Quảng vận, Đƣờng vận) hoặc nhi lân (Tập vận, Vận hội, Chính vận). Nói lái thì nhƣ lân
thành nhân lƣ, nhi lân thành nhân li. Nhân (tiếng thứ nhất đã lái đƣợc) chính là âm của chữ đang xét.

Ngƣời Trung Hoa cũng có chơi chữ bằng lối nói lái mà họ gọi là phiên ngữ. Một số nhà nghiên cứu của họ cũng
đã có lƣu tâm đến hiện tƣợng này, chẳng hạn Cố Viêm Vũ trong thiên Âm luận hoặc Lƣu Phiến Toại trong Lục
triều Đƣờng đại phiên ngữ khảo, v.v…

Để dẫn chứng về lối chơi chữ này, xin nêu lên trƣờng hợp của vua Tống Minh Đế (465-472) thời Nam Bắc Triều
(420-589). Tƣơng truyền rằng đây là một ông vua tính hay ghét ngƣời. Vì ghét Viên Xán mà tên cũ là Viên Mẫn
nên ông ta đã nói lái tên của ông này thành vẫn môn. Ý muốn nói ông này vấp cửa mà té ngã (vẫn là rơi từ trên
xuống, môn là cửa). Xin chú ý là ở thời đó, viên đƣợc đọc gần nhƣ vƣơn, mẫn gần nhƣ mỡn, vẫn gần nhƣ vỡn và
môn thì đọc gần nhƣ mƣơn. Vậy Vƣơn Mỡn (nay là Viên Mẫn) nói lái thì thành vỡn mƣơn (nay là vẫn môn). Ông
vua khó chịu đó cũng đã nói lái tên cũ của Lƣu Thuyên là Lƣu Thầm thành lâm thừu. Ý muốn nói rằng Lƣu
Thuyên rơi vào tình trạng bị thù ghét. Cũng xin chú ý rằng chữ thù (trong thù nghịch) đọc theo đúng âm Hán
Việt chính thống hiện đại phải là thừu.

Vậy rõ ràng là tiếng Hán cũng có khả năng nói lái và ngƣời Trung Hoa cũng có lối chơi chữ bằng nói lái.

NatPhung
10-08-2007, 04:55 PM
75. (KTTN 113, 7-1993)
Nƣớc “cam lồ” là nƣớc gì?

AN CHI: Cam lồ là âm xƣa của cam lộ (Ss. lõa lồ ~ lõa lộ, lăng loàn ~ lăng loạn, mồ (mả) ~ mộ, v.v…). Theo
nghĩa đen thì cam là ngọt còn lộ là sƣơng. Ngƣời ta thƣờng cứ theo nghĩa đen mà giảng rằng cam lộ là một thứ
“sƣơng ngọt làm mát dịu lòng ngƣời”. Nhƣng lộ không chỉ có nghĩa là sƣơng mà còn có nghĩa là thứ rƣợu thơm
ngon (Từ hải: tửu vi phƣơng hƣơng giả chi xƣng) nhƣ trong mai quế lộ, tƣờng vi lộ, v.v… Vậy cam lộ ở đây là
một thứ rƣợu ngon ngọt.

Hai tiếng cam lộ đã đƣợc ngƣời Trung Hoa dùng để dịch tiếng Sanskrit amŗta mà nghĩa gốc là bất tử (a = phi,
bất + mŗta = chết). Amŗta là hình thức tỉnh lƣợc của amŗta-rasa có nghĩa là trƣờng sinh tửu, bất tử lộ (amŗta =
bất tử + rasa = thức uống). Trong huyền thoại Ấn Độ, amŗta là một thứ rƣợu có quyền năng kỳ bí đƣợc tạo ra
khi các vị thần hoặc các con quỉ đánh cho biển sữa dậy lên. Tiếng Anh và tiếng Pháp phiên âm thành amrita.
VẬy cam lộ, dịch từ tiếng Sanskrit amŗta, có nghĩa là rƣợu trƣờng sinh. Ngƣời Trung Hoa cũng còn phiên âm từ
Sanskrit này thành a mật lý đa.

Đoàn Trung Còn đã viết về cam lộ nhƣ sau: “Cũng dịch là Bất-tử tửu (Thuốc rƣợu uống chẳng chết), Trƣờng
sanh tửu (Thuốc rƣợu uống vào sống mãi), Thiên tửu (Thuốc rƣợu của chƣ Thiên). Ấy là thứ thuốc nƣớc ngon
ngọt, thơm tho, linh diệu, để làm đồ uống của chƣ Tiên, chƣ Thần: Cam lộ là chất thuốc Tiên, thuốc Phật, ngon
ngọt và linh diệu hơn các thuốc phàm, hễ rƣới lên mình ai thì ngƣời ấy dứt hết bệnh tật, dầu sắp chết cũng đƣợc
sống lại.” (Phật học từ-điển, q. I, tr. 312-3).

Amŗta thƣờng đƣợc so sánh với chất ambrosia (tiếng Pháp: ambroisie) là thức ăn của các vị thần trong huyền
thoại Hy Lạp. Ai ăn đƣợc nó thì sẽ đƣợc trẻ, đẹp vĩnh viễn; các nữ thần còn dùng nó làm mỹ phẩm. Thần Zeus
cũng dùng nó để xức những lọn tóc quăn của mình nữa. Chú ý: ambrosia là danh từ phái sinh từ ambrotos có
cấu tạo hệt nhƣ amŗta, nghĩa là: a = (phi, bất) + mbrotos (nay brotos = chết).

NatPhung
23-08-2007, 04:35 PM
76. (KTTN 113, 7-1993)
Tại sao biểu tƣợng SEA Games XVII 1993 tổ chức tại Singapore lại là con sƣ tử?

AN CHI: Vì SEA Games lần này đƣợc tổ chức tại Singapore mà Singapore có nghĩa là Thành phố Sƣ tử.
Singapore (tiếng Anh) và Singapour (tiếng Pháp) là phiên âm từ tiếng Mã Lai Singapura, vẫn đƣợc xem là bắt
nguồn từ tiếng Sanskrit Simhapura, trong đó Simha là sƣ tử, pura là thành phố (trong tiếng Mã Lai hiện nay
singa là sƣ tử còn thành phố thì lại là puri).

Tuy nhiên, có ngƣời đã đƣa một nguyên từ khác cho nguồn gốc của Singapura. Marc Reinhorn, trong
Dictionnaire laotien-français (t.I, Paris, 1970, p.607, art. Siŋk‟ápo) đã cho rằng đó là tiếng Sanskrit Śrngapura
nghĩa là Thành phố Mũi đất. Tiếng Sanskrit śrnga có nghĩa là sừng, mũi nhọn, đỉnh, mũi đất, v.v… Kiến giải này
không phải là không có lý vì Śrngapura có cấu tạo và ý nghĩa giống nhƣ tên Thành phố Mũi đất của Nam Phi mà
tiếng Afrikaans (tiếng Hà Lan nói ở quốc gia Nam Phi và là một trong những ngôn ngữ chính thức của nƣớc này)
là Kaapstad còn tiếng Anh là Cape Town (Kaap = cape = mũi đất; stad = town = thành phố).

NatPhung
23-08-2007, 04:43 PM
77. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Trong bài “Đôi điều thu lƣợm quanh Hán tự” (Văn nghệ, số 43, 1992), Nguyễn Dậu có nói rằng Nguyễn Du đã
dùng nhầm mấy tiếng lầu xanh và thanh lâu “khiến cho mấy chục triệu ngƣời Việt đều nghĩ rằng lầu xanh là nơi
ổ chứa ca kỹ (gái điếm)”. Ông nói rằng ở Trung Quốc, ngƣời ta không hề coi thanh lâu là ổ điếm mà lại hiểu đó
là “nhà cao lầu của những ngƣời phú quí”. Vậy có đúng là Nguyễn Du đã nhầm hay không? Tác giả còn nói rằng
do đọc sai mà “tất cả các nhà nho Việt Nam từ cổ đến giờ đều gọi hai cái hột của giống đực là dịch hoàn” nhƣng
“cả tỷ ngƣời Trung Hoa đều gọi là cao hoàn”. Có thật đúng nhƣ thế không?

AN CHI: Về hai tiếng thanh lâu, Từ hải đã giảng nhƣ sau:

1. Lầu Hƣng Quang của Vũ đế, bên trên sơn xanh, ngƣời đời gọi là thanh lâu (Vũ Đế Hƣng Quang lâu, thƣợng thi
thanh tất, thế nhân vị chi thanh lâu).
2. Chỉ lầu gác của nhà hào phú (Vị hào gia chi lâu).
3. Chỉ lầu của ngƣời đẹp ở (Vị mỹ nhân sở cƣ chi lâu)
4. Chỉ nơi hành nghề của gái điếm (Vị kỹ viện dã)

Vậy Nguyễn Du đã không nhầm vì cái nghĩa do Nguyễn Dậu nêu lên chỉ là một trong bốn nghĩa của hai tiếng
thanh lâu mà thôi.

Còn chuyện "hai cái hột của giống đực” thì lại hoàn toàn đúng nhƣ Nguyễn Dậu đã nêu. Đó là trƣớng hợp “tác
đánh tộ, ngộ đánh quá” vì tự dạng của chữ dịch 睪 và chữ cao 睾 rất giống nhau: chúng chỉ khác nhau ở nét
phẩy ' phía trên bên trái của chữ 睾 mà thôi. Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển của Thiều
Chửu, Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng đều phiên âm đúng chữ đang xét là cao và đều giảng cao
hoàn là “ngoại thận = hòn dái” (Đào Duy Anh), “hòn dái” (Nguyễn Quốc Hùng), “hạt dái” (Thiểu Chửu).

Trớ trêu là ngày nay hầu nhƣ không ai nói cao hoàn mà chỉ nói dịch hoàn. Hai tiếng này đã đƣợc Từ điển tiếng
Việt do Văn Tân chủ biên giảng là “hai hòn dái của đàn ông và của một số động vật giống đực”. Còn Từ điển
tiếng Việt 1992 thì ghi: “dịch hoàn, d.x. tinh hoàn” mà tinh hoàn thì đƣợc giảng là “cơ quan sinh ra tế bào sinh
dục đực”. Rõ ràng là dùng từ sai đấy, nhƣng chẳng biết có ai muốn sửa lại cho đúng hay không.

25-08-2007, 07:46 AM
Tại sao không gọi la bàn là kim chỉ bắc?

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/07/3B9F8ACC/15.jpg
La bàn. Ảnh: Stanleylondon.

Nếu đặt ở bất cứ đâu, chiếc kim la bàn cũng quay về hƣớng bắc. Thế nhƣng ngƣời Việt lại gọi nó là kim chỉ nam.
Khi nói về một vấn đề quan trọng có ý nghĩa chiến lƣợc lâu dài, chúng ta thƣờng dùng từ kim chỉ nam, chẳng
hạn: "Lời nguyện ƣớc thiết tha của ngƣời cha lúc nào cũng nhƣ kim chỉ nam để anh vƣợt qua mọi gian khổ". Lối
nói hình tƣợng này đƣợc xây dựng từ một vật dụng khá quen thuộc trong đời sống, đó là la bàn.
La bàn là một dụng cụ gồm kim nam châm có hai cực bắc - nam quay tự do quanh một trục. Do ảnh hƣởng của
từ trƣờng trái đất mà dù đặt ở bất cứ đâu song song với trái đất, chiếc kim từ tính kia cũng quay về hƣớng bắc,
từ hƣớng bắc sẽ tìm ra hƣớng nam, sau đó là đông và tây. La bàn thƣờng có hai kim trái chiều và để phân biệt,
ngƣời ta thƣờng sơn bằng hai màu khác nhau.
Với chức năng nhƣ vậy, la bàn là dụng cụ định hƣớng không thể thiếu cho những ngƣời đi rừng, đi biển hay đi
vào vùng xa lạ hoang vắng dễ lạc đƣờng. Ngƣời châu Âu trƣớc kia hay dùng la bàn một kim, chỉ hƣớng Bắc (có
lẽ do các thủy thủ, ngƣ dân thƣờng có hành trình về Bắc Cực). Nhƣng tại sao ngƣời Việt Nam lại gọi nó là kim
chỉ nam mà không phải kim chỉ bắc?
La bàn đƣợc ngƣời Trung Quốc phát minh từ thế kỷ 1. Theo giáo sƣ Nguyễn Thạch Giang, các triều đại phong
kiến Trung Quốc đã tận dụng triệt để tính năng này của la bàn. Các đoàn quân từ thời nhà Tần cho đến sau này
vẫn có thói quen bành trƣớng lãnh thổ bằng các cuộc hành trình bình định về phƣơng Nam. Mỗi đạo quân đều có
một la bàn thô sơ với chiếc kim chỉ nam sơn đỏ chói. Vậy là các tƣớng sĩ nhất tề phi ngựa nhằm hƣớng nam
thẳng tiến. Bất luận thế nào, cuộc chinh phục cũng chỉ nhìn về một phía đó thôi. Đây có lẽ là cơ sở chính làm
nên ngữ nghĩa hàm ẩn cho cụm từ "kim chỉ nam" trong tiếng Việt.
(Theo Khoa Học & Đời Sống)
Về khái niệm kim chỉ nam
Ngƣời gửi: Nguyễn Nghĩa
Trƣớc khi xuất hiện la bàn (hoặc địa bàn), ngƣời Trung Quốc đã từng có phƣơng tiện giúp nhận biết phƣơng
hƣớng có tên gọi chỉ nam xa. Nó là một cỗ xe có nhiều bánh xe răng cƣa nối với hai trục bánh xe, làm cho một
hình ngƣời trên xe lúc nào cũng chìa cánh tay về hƣớng Nam.

Sách "Kim Bản Kim Chú" chép rằng "Sứ Việt Thƣờng tới cống hiến bạch trĩ một con, hắc trĩ hai con, ngà voi một
chiếc. Sứ giả quên mất đƣờng về, Chu Công bèn ban cho bông hoa tấm, biểu xa 5 cỗ điểu chữ bằng tƣ nam (chỉ
nam xa). Khiến sứ giả cỡi xe đi về phƣơng nam. Nối theo miền biển Phù Nam Lâm Ấp đúng một năm mới tới
nƣớc đó, sai quan Đại Phu đƣa về. Lại cỡi xe tƣ nam đi ngƣợc lại hƣớng do xe chỉ, đầy một năm tới nƣớc Chu.
Trục xe và đầu trục xe điều chế bằng sắt, khi về tới nƣớc Chu, sắt đều mòn cả."
Về sau, khi xuất hiện la bàn, do ảnh hƣởng của thói quen lâu năm với chỉ nam xa, nó cũng đƣợc gọi là kim chỉ
nam.

Ý kiến của bạn? (http://vnexpress.net/ContactUs/?d=WebMaster@vnexpress.net)

NatPhung
01-09-2007, 04:08 PM
78. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Trong câu :

Dù xây chín bậc phù đồ


Không bằng làm phúc cứu cho một ngƣời

Thì “chín bậc” có phải là “cửu phẩm” không và “phù đồ” là gì?

AN CHI: Phù Đồ (cũng nhƣ Phật Đà, Phật Đồ) vốn là hình thức phiên âm bằng tiếng Hán (đọc theo âm Hán Việt)
của tiếng Sanskrit buddha, có nghĩa là Phật. Dần dần nó bị dùng sai đi vì đƣợc xem là đồng nghĩa với từ tháp,
dạng tắt của tháp bà, phiên âm từ tiếng Sanskrit stupa.

Sau khi phù đồ đƣợc dùng theo nghĩa của tháp thì nó lại có thêm nghĩa phái sinh là cái chóp lộng (tán đỉnh) vì
chóp lộng có hình dạng của một cái tháp tí hon. Thiên “Nghi vệ” trong Kim sử đã dùng danh từ phù đồ theo
nghĩa này để ghi chép việc qui định cách thức và cấp bậc cho việc sử dụng các loại chóp lộng: kim phù đồ (chóp
lộng bằng vàng), kim độ ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc mạ vàng), ngân phù đồ (chóp lộng bằng bạc), chu
phù đồ (chóp lộng màu son) và thanh phù đồ (chóp lộng màu xanh).

Trong liên lục bát đã nêu, phù đồ chính là cái tháp, nghĩa là một công trình kiến trúc đƣợc xây lên để chôn xá lợi
(tro xƣơng) của đức Phật, của các bậc cao tăng, đại đức. Chín bậc không phải là cửu phẩm (chín phẩm trật của
các quan) mà là cửu trùng (= chín tầng).

NatPhung
01-09-2007, 04:14 PM
79. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Với bà Hồ Xuân Hƣơng thì nƣơng long có nghĩa là “ngực thiếu nữ”:

Yếm đào trễ xuống dƣới nƣơng long.

Nhƣng với một nhà thơ miền Nam cận đại có hai câu lục bát tả bốn cái khoái của con ngƣời thì nƣơng long lại là
“cái hậu môn”:

Cơm Phiến Mẫu, chiếu Trần Đoàn


Ngửa nghiêng loan phụng, nhẹ nhàng nƣơng long.

Xin cho biết nghĩa nào đúng, nghĩa nào sai.

AN CHI: Ta thấy về cái khoái thứ nhất, tác giả không nhắc đến miệng mà nói “cơm Phiến Mẫu”; về cái khoái thứ
hai, ông không nhắc đến hai con mắt mà nói “chiếu Trần Đoàn”; về cái khoái thứ ba, ông không nhắc đến cái …
gì của nữ và của nam mà nói “ngửa nghiêng loan phụng”. Vậy về cái khoái thứ tƣ, lẽ nào ông lại phải nhắc đến
“cửa sau”?

Nƣơng long có nghĩa là ngực – không chỉ là ngực thiếu nữ - từ đó nó có một nghĩa rộng là khoang bụng, là dạ
rồi từ nghĩa rộng này nó mới có nghĩa bóng là lòng dạ nhƣ đã giảng trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-
Tịnh Paulus Của hoặc Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ.

Trong liên thơ lục bát trên đây, nƣơng long đã đƣợc dùng theo nghĩa rộng (khoang bụng, dạ). Khi ngƣời ta đi
chảy là ngƣời ta bị tháo dạ. Khi ngƣời ta ăn không tiêu là ngƣời ta bị cứng dạ (A. de Rhodes ghi trong Từ Điển
Việt-Bồ-La: “Cứng dạ. Không tiêu, đầy cứng bụng”).

Còn khi ngƣời ta đi một cách bình thƣờng, không quá chặt quá khó vì bị táo bón, cũng không … té re vì bị Tào
Tháo rƣợt, thì ngƣời ta cảm thấy nhẹ bụng, êm dạ, nghĩa là nhẹ nhàng nƣơng long. Vậy nƣơng long không có
nghĩa là hậu môn.
NatPhung
27-09-2007, 10:49 AM
80. (KTTN 114, ngày 15-7-1993)
Xin cho biết “mặc cảm Ê-đíp” là gì. Có phải Ê-đíp là nhân vật huyền thoại đã giết cha để lấy mẹ hay không?

AN CHI: Oedipe (Ê-đíp) là một nhân vật huyền thoại Hy Lạp, đã giết cha là Laios, vua thành Thèbes (Xin phân
biệt với Thèbes ở Ai Cập) – mà không biết đó là cha mình – rồi lấy mẹ là Jocaste – mà cũng không biết đó là mẹ
mình – và đã có có với mẹ hai con trai là Etéocle và Polynice, hai con gái là Antigone và Ismène. Khi biết ra sự
việc, Jocaste đã treo cổ tự tử còn Oedipe thì móc mắt để tự trừng phạt về tội giết cha và tội loạn luân với mẹ.
Do tích này mà tiếng Pháp có danh từ oedipisme có nghĩa là tự móc mắt.

Mƣợn tên và tích của Oedipe từ huyền thoại trên, ông tổ của phân tâm học là Sigmund Freud đã tạo ra thuật
ngữ mặc cảm Oedipe (tiếng Pháp: complexe d‟Oedipe) mà ông giải thích nhƣ sau: “Trong khi mà nó hãy còn
hoàn toàn trẻ thơ, đứa con trai bắt đầu cảm thấy một sự trìu mến đặc biệt đối với ngƣời mẹ: nó xem mẹ nhƣ là
vật sở hữu riêng của nó, thấy nơi ngƣời cha một đối thủ tranh giành với nó quyền làm chủ vật sở hữu đó; giống
nhƣ đứa con gái thấy nơi ngƣời mẹ một kẻ quấy rối những quan hệ quyến luyến của nó với ngƣời cha và chiếm
một vị trí mà nó, đứa con gái, muốn đƣợc quyền độc chiếm (…) Thái độ đó (…) chúng tôi đặt cho cái tên là mặc
cảm Oedipe” (Introduction à là psychanalyse, trad. fr. Paris, 1966, pp. 190-191).

Khi phân tích về chứng sợ (phobie) của đứa bé trai 5 tuổi mà mọi biểu hiện đã đƣợc cha nó tƣờng thuật một
cách chu đáo cho ông, Freud đã viết nhƣ sau: “Khi ngƣời ta làm dịu đi sự sợ hãi mà thằng bé cảm thấy trƣớc
ngƣời cha (…) nó đã bày tỏ cho biết nó thấy nơi ngƣời cha một đối thủ tranh giành với nó những sự ƣu đãi của
ngƣời mẹ mà những thôi thúc tính dục đầu tiên của nó đƣợc hƣớng tới một cách mơ hồ. Thế là nó đang lâm vào
tình cảnh điển hình của đứa bé trai, tình cảnh mà chúng tôi gọi tên là mặc cảm Oedipe (…)” Totem et tabou,
trad. fr., Paris, 1965, p. 149).

Tóm lại, mặc cảm Oedipe là hiện tƣợng mà Petit Larousse illustré 1992 đã định nghĩa nhƣ sau: "Toàn bộ những
tình cảm yêu thƣơng và thù nghịch mà mỗi đứa bé cảm thấy đối với cặp cha mẹ ( sự quyến luyến tính dục với
ngƣời sinh thành khác giới tính và sự ganh ghét với ngƣời sinh thành cùng giới tính bị xem nhƣ là một địch
thủ)".

NatPhung
27-09-2007, 10:57 AM
81. (KTTN 115, ngày 01-8-1993)
Ngƣời ta thƣờng nói bọn ăn chơi ngang tàng là “lục lăng cửu trối”. Vậy “lục lăng cửu trối” vốn có nghĩa gì và tại
sao lại nói nhƣ thế?

AN CHI: Viết đúng chính tả thì đó là lục lăng củ trối. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của giảng
lục lăng là “đứa ngang tàng không biết phép” còn củ trối là “cái rễ lớn ở dƣới sâu. Nguyên củ cái lâu nằm ở sâu,
khó bấng khó đào”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ giảng lục lăng củ trối là “hạng trẻ cứng
đầu khó dậy, khó điều khiển”.

Lục lăng là do nói trại từ Lục Lâm mà ra. Hai tiếng Lục Lâm vốn là tên một ngọn núi ở phía Đông Bắc huyện
Đƣơng Dƣơng, miền Kinh Châu, nằm trong dãy núi Đại Hồng, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc) ngày nay. Núi này
nguyên là nơi tụ tập của những ngƣời nổi dậy chống lại chính quyền Vƣơng Mãng vào cuối đời Tây Hán. Sử
Trung Quốc ngày nay gọi đó là cuộc khởi nghĩa Lục Lâm những nhà nƣớc phong kiến Trung Hoa ngày xƣa thì coi
đó là giặc cho nên đã dùng hai tiếng lục lâm để chỉ những ngƣời chống chính quyền hoặc những tên bạo tặc
cƣớp phá tài sản của dân lành. Nghĩa này đã đƣợc Mathews‟ Chinese-English Dictionary ghi nhận là: “a bandit”
(tên ăn cƣớp). Trong phƣơng ngữ Nam Bộ, do không biết rõ xuất xứ nên nhiều ngƣời đã nói trại hai tiếng lục
lâm thành lục lăng và hiểu là “đứa ngang tàng không biết phép” nhƣ đã dẫn ở bên trên.

Sau khi lục lâm bị nói trại thành lục lăng và đƣợc dùng theo nghĩa vừa nói thì nó còn đƣợc ghép với củ trối để
tạo nên thành ngữ lục lăng củ trối. Ở đây, hai tiếng củ trối không còn có cái nghĩa mà Huình-Tịnh Paulus Của đã
giảng nữa. Nó đã đƣợc dùng để chỉ kẻ khó bảo, khó dạy, khó làm cho thay đổi, lay chuyển, ví nhƣ củ trối là rễ
cái cứng chắc và ăn sâu xuống đất nên rất khó lay chuyển để bứng để nhổ vậy.

Theo cách hiểu đã trình bày thì lục lăng là kết quả nói trại của lục lâm, đƣợc ghép với củ trối để tạo nên thành
ngữ lục lăng củ trối. Nhƣng cũng có thể có một cách hiểu khác. Theo cách hiểu này thì đó là kết quả của lối nói
trại thành ngữ tiếng Hán lục lâm thảo khấu: lục lâm thành lục lăng còn thảo khấu (giặc cỏ) thành củ trối.

NatPhung
27-09-2007, 11:05 AM
82. (KTTN 115, ngày 01-8-1993)
Tại sao lại gọi là "đồng bóng"? Có phải “đồng” là do “tiên đồng ngọc nữ” hay không? Nhƣng nếu thế thì “bóng”
là do đâu?

AN CHI: Đào Duy Anh đã giảng từ đồng trong đồng bóng nhƣ sau: “Ngƣời đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự
xƣng là đồng tử của thần tiên nên ngƣời ta thƣờng gọi là ông đồng” (Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội, 1974,
tr.136). Đây chỉ là một lối giảng có tính chất suy diễn chủ quan vì đồng là một từ cổ có nghĩa là cái kiếng, cái
gƣơng. Thật vậy, A. de Rhodes đã ghi nhƣ sau: “Đồng, cái đồng: Gƣơng, kiếng. Gƣơng. Cùng một nghĩa. Soi
đồng: Nhìn vào gƣơng để làm phù chú. Làm đồng làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gƣơng để làm phù chú. Thầy
đồng: Thầy phù thủy sử dụng gƣơng, chiếu kính” (Từ điển Việt-Bồ-La, Nxb Khoa học xã hội, 1991).

Cứ theo những điều trên đây, thì các ông đồng bà đồng đã đƣợc gọi bằng tên của chính cái đồ vật mà họ sử
dụng để hành nghề. Đặc điểm của nghề đồng bóng còn đƣợc phản ánh trong thành ngữ ngồi đồng chiếu kính
mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị.

Khi đồng đã là cái gƣơng, cái kiếng thì bóng tất nhiên là hình ảnh của cảnh và vật phản chiếu ở trong kiếng,
trong gƣơng. Cũng chính A. de Rhodes đã giúp cho chúng ta khẳng định điều này. Ông đã ghi: “Soi gƣơng: Nhìn
trong gƣơng. Soi đồng: Cùng một nghĩa; cũng là phù phép mà ngƣời lƣơng dân ngây thơ nghĩ rằng mình có thể
nhờ tấm gƣơng để biết sự dữ nào bởi đâu sinh ra cho mình, nghĩa là bởi ma quỷ dối trá bằng những hình ảnh
khác nhau trong tấm gƣơng”. “Những hình ảnh khác nhau trong tấm gƣơng” chính là những cái bóng.

Vậy đồng bóng là gƣơng và hình ảnh của cảnh vật phản chiếu trong gƣơng. Đó là nghĩa gốc. Còn nghĩa trong
ông đồng bà đồng, lên đồng, đồng cô bóng cậu, v.v… là nghĩa phái sinh.

NatPhung
01-10-2007, 02:29 AM
83. (KTTN 115, ngày 01-8-1993)
Tại sao lại gọi nƣớc Nhật là Phù Tang?

AN CHI: Phù Tang nguyên là tên một loại cây mà Thuyết văn giải tự của Hứa Thận giảng là “cây huyền thoại”,
(là) “nơi mặt trời mọc vậy”. Sách Thập châu ký cũng giảng: “(Cây) phù tang ở trong biển Biếc (Bích Hải), cây
mọc cao đến mấy ngàn trƣợng, tán xòe ra đến hơn ngàn trƣợng, hai thân chung một cội, cùng nƣơng tựa nhau,
(là) nơi mặt trời mọc vậy”. Vì tên của nuớc Nhật Bản có nghĩa là “gốc ở mặt trời” nên thời xƣa ngƣời ta đã đồng
nhất hóa nó với xứ sở của loại cây huyền thoại trên đây mà gọi nó là nuớc Phù Tang. Hán Việt tân từ điển của
Nguyễn Quốc Hùng giảng hai tiếng này nhƣ sau: “Tên một loại cây thiêng, tƣơng truyền mọc ở xứ mặt trời.
Nuớc Nhật Bản ở phƣơng Đông, hƣớng mặt trời, nên cũng gọi là Phù-Tang”.

Trong Hán ngữ hiện đại, ngƣời ta còn dùng hai tiếng Phù tang để chỉ một loài cây có thật mà tên thông dụng là
mộc cẩn hoặc chu cẩn. Đó là cây dâm bụt mà ngƣời Nam bộ gọi trại đi thành cây bông bụp, tên khoa học là
Hibiscus rosa-sinensis.

NatPhung
01-10-2007, 02:36 AM
84. (KTTN 115, ngày 01-8-1993)
Xin cho biết xuất xứ của tên gọi thành phố Đà Lạt. Có phải là do một câu bằng tiếng La Tinh mà ra? Đó là câu
gì?

AN CHI: Câu đó là Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem nghĩa là “(nó) cho những ngƣời này niềm vui thích, những
ngƣời khác sự khỏe khoắn”. Nhiều ngƣời cho rằng địa danh Đà Lạt bắt nguồn từ câu này: ráp những chữ cái đầu
– mà chúng tôi cố ý viết hoa – của năm từ trong câu đó lại thì sẽ có dạng tiếng Pháp của địa danh đang xét:
DALAT.

Sự thật thì Đà Lạt là tiếng của ngƣời thiểu số sở tại và có nghĩa là “suối Lạt”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức
và Lê Ngọc Trụ ghi: “Đà Lạt: nƣớc của bộ lạc ngƣời Lạch (tức Lạt – AC)”. Tô Đình Nghĩa cũng nói rõ nhƣ sau:
“Địa danh Đà Lạt hiện nay, trong các văn bản cũ ghi là Dalat, nguyên gốc là Đạlat hoặc Đalat, trong đó Đạ có
nghĩa là nƣớc, Lat là tên gọi của một tiểu nhóm thuộc dân Kơho. Theo ý kiến của nhiều ngƣời dân tộc thì trƣớc
kia Đà Lạt là nơi cƣ trú của ngƣời Lát và vùng này có nhiều hồ nƣớc, thác nƣớc. Tên gọi Đà Lạt bắt nguồn từ
đấy. Hiện nay, cách Đà Lạt khoảng 5km có xã Lát gồm nhiều đồng bào Kơho cƣ trú” (Nguồn gốc và ý nghĩa các
yết tố Đắc, Ya, Krông …trong một số địa danh ở Tây Nguyên, Khoa học xã hội, số 3, 1990, tr.88).

Việc Đà Lạt vốn là nơi cƣ trú của ngƣời Lạt là một sự thật đã đƣợc Yersin ghi nhận trong nhật ký của ông. Vấn
đề còn lại chỉ là xác định xem suối Lạt là con suối nào hiện nay mà thôi. Cunhac, một ngƣời Pháp đã góp phần
tạo dựng Đà Lạt đã nói nhƣ sau: “Ở tại chỗ của cái hồ nƣớc trƣớc đó, con suối nhỏ của bộ lạc ngƣời Lat đã chảy
qua. Ngƣời ta đã gọi suối này là “Đa-lat” (…) và không hiểu vì lý do gì mà ngƣời ta đã thay thế bằng danh xƣng
Việt Nam là Cam Ly” (Dẫn theo Hãn Nguyên, Lịch sử phát triển Đà Lạt, Tập san Sử Địa số 23-24, 1971, tr.272).

Vậy Đà Lạt, tức suối Lạt, chính là suối Cam Ly, hiện nay. Tên của nó đã đƣợc dùng để chỉ vùng mà nó chảy qua
và sau rốt lại đƣợc dùng để gọi tên thành phố đƣợc xây dựng trên vùng đó: thành phố Đà Lạt ngày nay.

Câu tiếng La Tinh trên đây chỉ là kết quả của một sự chơi chữ bằng cách chiết tự những chữ cái trong tên Đà Lạt
viết theo chữ Pháp.

NatPhung
01-10-2007, 02:47 AM
85. (KTTN 116, ngày 15-8-1993)
Xin giải thích về mấy tiếng “Đức mẹ đồng trinh”: đã là mẹ, sao lại còn “đồng trinh”?

AN CHI: Về việc bà Maria mang thai chúa Jesus, Kinh Thánh đã chép nhƣ sau: “Vả, sự giáng sanh của Đức chúa
Jésus-Christ đã xảy ra nhƣ vầy: Khi Ma-ri, mẹ Ngài đã hứa gả cho Giô-sép, song chƣa ăn ở cùng nhau (Chúng
tôi nhấn mạnh – AC), thì ngƣời đã chịu thai bởi Đức Thánh Linh. Giô-sép, chồng ngƣời, là ngƣời có nghĩa, chẳng
muốn cho ngƣời mang xấu, bèn toan đem để nhẹm. Song đang ngẫm nghĩ về việc ấy, thì Thiên sứ của Chúa
hiện đến cùng Giô-sép trong giấc chiêm bao mà phán rằng: Hỡi Giô-sép, con cháu Đa-vít, ngƣơi chớ ngại lấy
Ma-ri làm vợ, vì con mà ngƣời chịu thai đó là bởi Đức Thánh Linh. Ngƣơi sẽ sanh một trai, ngƣơi khá đặt tên là
Jésus, vì chính con trai ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội (…) Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y nhƣ lời Thiên sứ
của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; song le không hề ăn ở với (nghĩa là không hề ăn nằm với nhau – AC)
cho đến khi ngƣời sanh một trai, thì đặt tên là Jésus” (Ma-thi-ơ, 1:18-25 – Chúng tôi dùng bản của Thánh Kinh
Hội tại Việt Nam, Sài Gòn, 1975).

Cứ theo nhƣ sự tích trên đây thì bà Maria đã có thai Chúa Jésus mà không hề có quan hệ xác thịt với ông
Joseph. Việc thụ thai chỉ là do phép của Đức Thánh Thần mà thôi. Vậy, cho đến khi hạ sanh Chúa Jésus, bà vẫn
còn đồng trinh. Bà đƣợc gọi là Đức Mẹ Đồng Trinh chính là vì thế.

NatPhung
01-10-2007, 03:08 AM
86. (KTTN 116, ngày 15-8-1993)
Nhiều học giả trƣớc đây vẫn phân tích chữ hồ 胡 gồm có cổ 古 và nguyệt 月 nghe rất hay. Nay lại có ngƣời lại
cho rằng nó gồm có cổ 古 và nhục 肉 nghe đã lạ mà lại không thanh nhã. Xin cho biết cách phân tích nào đúng?

AN CHI:

Chữ hồ 胡 là một hình thanh tự mà thanh phù là chữ cổ 古 còn nghĩa phù là chữ nhục 肉 đã đƣợc viết thành 月
trong 248/253 chữ thuộc bộ nhục mà Từ Hải đã ghi nhận. Tỉ lệ này trong Khang Hy tự điển là 654/680 vì bộ tự
điển này đã thu thập rất nhiều chữ kể cả các kỳ tự (chữ hiếm thấy). Chữ thứ hai, thuộc bộ nhục 肉 mà Khang Hy
tự điển đã ghi nhận là chữ 月. Chữ này đƣợc giảng nhƣ sau: “Theo Chính tự thông, chữ nhục 肉 khi đứng làm
biên bàng vốn viết là 肉, thạch kinh (sách kinh điển khắc trên đá) sửa làm 月. Hai nét trong dính liền từ trái sang
phải, khác với chữ nguyệt 月. Nay thƣờng viết 月 để phân biệt” (Chính tự thông: Nhục tự biên bàng chi văn bổn
tác 肉. Thạch kinh cải tác 月. Trung nhị hoạch liên tả hữu, dữ nhật nguyệt chi nguyệt月 dị. Kim tục tác月 dĩ biệt
chi). Nói thế nhƣng chính Khang Hy tự điển cũng viết chữ nhục biên bàng thành 月 trong 654 chữ đã nói, y hệt
nhƣ chữ nguyệt biên bàng 月, hoàn toàn không phân biệt tự hình. Từ nguyên, Từ hải, đều làm nhƣ thế. Đây là
hiện tƣợng đồng hình dị tự (cùng hình khác chữ).

Tên tạp chí Văn nghệ, số 10-1962, Nguyễn Đức Bính có bài “Ngƣời Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Huơng”. Trên Kiến
thức ngày nay số 54 (Xuân Tân Mùi) cũng có bài “Vƣờn hoa nàng Cổ Nguyệt” trong đó tác giả nói đến tòa Cổ
Nguyệt Đƣờng của Hồ Xuân Hƣơng. Nếu đây chỉ là chuyện chơi chữ thì đó là quyền của tác giả. Nhƣng nếu cả
quyết rằng về mặt cấu tạo văn tự, chữ hồ 胡 gồm có chữ cổ 古 và chữ nguyệt 月 thì lại là hoàn toàn sai. Không
có bất cứ một tự thƣ quen thuộc nào của Trung Hoa đã cho rằng ở trong 胡 thì 月 lại là chữ nguyệt. Tất cả đều
phân tích và khẳng định rằng đó là chữ nhục.

NatPhung
01-10-2007, 06:43 AM
87. (KTTN 117, ngày 15-8 & 02-09-1993)
Nga my vốn đƣợc dịch là mày ngài, tại sao Nguyễn Du viết mày ngài để tả Từ Hải mà nhiều học giả lại giảng
rằng đó là ngọa my tàm, nghĩa là “mày tằm nằm” chứ không phải là nga my?
AN CHI: Các học giả và các nhà nghiên cứu đó giảng nhƣ thế là vì họ cho rằng nga my là lông mày dài, cong và
đẹp, không thích hợp với tƣớng mạo của con nhà võ nhƣ Từ Hải, nhƣng nhất là vì họ đã hiểu sai nghĩa của ba
tiếng ngọa tàm my.

Đào Duy Anh giảng rằng mày ngài là “lông mày rậm, tƣớng mạo của ngƣời trƣợng phu. Có lẽ theo câu “my
nhƣợc ngọa tàm” của sách tƣớng, có nghĩa là “lông mày giống nhƣ con tằm nằm” (Từ điển Truyện Kiều, Hà Nội,
1974, tr. 236-237). Nguyễn Thạch Giang chú thích nhƣ sau: “Mày ngài do các chữ ngọa tàm my: lông mày to
đậm cong nhƣ con tằm, là tƣớng ngƣời anh hùng” (Nguyễn Du, Truyện Kiều, Hà Nội, 1972, tr.450, c.2167).
Nguyễn Vinh Phúc viết: “Tất nhiên mày của Từ Hải không thể nào lại mảnh dẻ, cong, dài nhƣ nga my của các cô
gái đẹp đƣợc. Và do đó mày ngài của Từ Hải phải hiểu là ngọa tàm my là mày nhƣ con tằm, chứ không phải nga
my” (Quanh đôi lông mày, Ngôn ngữ, số 2, 1970, tr. 60). Còn Kiều Thu Hoạch thì viết: “ Trong Truyện Kiều có
hai chỗ nói về Từ Hải mà cũng dùng chữ mày ngài. Nhƣng chớ lầm! Đây là cái mày ngài “sâu róm” chớ không
phải cái mày ngài của nàng Trang Khƣơng (…) đó là tác giả muốn nói mày tằm, mày tằm nằm” (Góp bàn về một
bản Kiều mới, Tạp chí Văn học, số 2 (146), 1974, tr. 68).

Tiếc rằng các tác giả trên đây vì chỉ hiểu từ ngữ theo lối dịch từng tiếng một (ngọa = nằm, tàm = tằm, my =
mày) nên đã giảng sai hình ảnh ngƣời Trung Hoa muốn gửi gắm trong 3 tiếng ngọa tàm my. Ở đây, hai tiếng
ngọa tàm không hề có nghĩa là “(con) tằm nằm”, mà lại là lối nói của tƣớng thuật, đƣợc Từ nguyên giảng nhƣ
sau: “Nhà tƣớng thuật gọi nếp nhăn dƣới vành mắt là ngọa tàm. Lại nữa, lông mày cong mà đƣờng nét thanh
đẹp cũng đƣợc gọi là ngọa tàm my” (Tƣớng thuật gia dĩ nhãn khuông hạ văn vi ngọa tàm. Hựu my loan nhi đái
tú giả dịch xƣng ngọa tàm my). Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ đã giảng đúng hai tiếng ngọa
tàm là “lằn xếp dƣới mí mắt”, kèm theo ví dụ trích từ Truyện Trinh thử:

To đầu vú, cả dái tai,


Dày nơi ngƣ vĩ, cao nơi ngọa tàm.

Nếu đối dịch từng tiếng một thì ngƣ vĩ sẽ là “đuôi cá”. Nhƣng đây cũng lại là một lối nói của tƣớng thuật mà Từ
nguyên giảng nhƣ sau: “Nhà tƣớng thuật gọi nếp nhăn ở khóe mắt là ngƣ vĩ” (Tƣớng thuật gia dĩ nhãn giác chi
văn vi ngƣ vĩ). Xem thế đủ thấy lối đối dịch từng tiếng một nhiều khi tai hại biết chứng nào. Vậy ngọa tàm my
không hề có nghĩa là “mày tằm nằm” mà lại là lông mày cong và có đƣờng nét thanh đẹp. Vƣơng Vân Ngũ đại từ
điển cũng giảng nhƣ thế, rằng đó là “lông mày cong mà đẹp” (my loan nhi tú – X. ở chữ 7370).

Các tác giả trên đây muốn gạt bỏ hai tiếng nga my nhƣng ngọa tàm my lại đồng nghĩa với nga my vì cả hai cấu
trúc có chung một nét nghĩa là “cong và đẹp”. Vậy mày ngài vẫn là nga my và đây chính là cái nét nho nhã duy
nhất trong tƣớng mạo của Từ Hải râu hùm hàm én, đƣờng đƣờng một đấng anh hào, vai năm tấc rộng thân
mƣời thƣớc cao.

NatPhung
01-10-2007, 07:25 AM
88. (KTTN 117, ngày 15-8 & 02-09-1993)
Có ngƣời nói “Dân dĩ thực vi Thiên” (Dân lấy ăn làm trời). Theo tôi câu này chƣa hề thấy ở sách báo. Đƣợc biết
sách xƣa chỉ có ghi “Dân dĩ thực vi tiên”; vậy câu nói kia đúng hay sai?

AN CHI: “Dân dĩ thực vi Thiên” là một câu kinh điển. Chẳng hạn nhƣ Hán thƣ có viết: “Vƣơng giả dĩ dân vi thiên,
dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là “Vua chúa (thì) lấy dân làm trời (còn) dân (thì) lấy cái ăn làm trời”. Do đó mà có
cụm từ dân thiên (ông trời của dân) để chỉ cái ăn của ngƣời dân. Mathews‟ Chinese-English Dictionary dịch dân
thiên là “food” (thức ăn) còn Dân dĩ thực vi thiên là “the masses regard sufficient food as their heaven” dân
chúng xem cái ăn đầy đủ nhƣ là ông trời của họ).

Ở phƣờng Đakao, quận Một, Thành phố Hồ Chí Minh, ngay góc đƣờng Đinh Tiên Hoàng - Trần Quang Khải, có
một tiệm ăn của ngƣời Tàu lấy hiệu là Dân Thiên 民天 . Chắc ông chủ cũng lấy ý từ câu đó! Tuy nhiên, không
biết ông có muốn chơi chữ mà ngầm hiểu rằng tiệm ăn của ông ta là “trời của dân” hay không.

goldfish
01-10-2007, 09:50 AM
Trên post 116 chúng ta rất khó phân biệt đƣợc chữ nguyệt và chữ nhục vì đều đƣợc ghi là 月. Chữ hồ 胡 gồm
chữ cổ và chữ nguyệt hay chữ nhục ta cũng khó phân biệt đƣợc.
Khác với chữ nguyệt, hai nét bên trong của chữ nhục không “chạm” vào nét góc vuông bên phải.
Các bạn có thể xem chữ Hồ tai http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D_H%E1%BB%93

NatPhung
01-10-2007, 03:01 PM
Trên post 116 chúng ta rất khó phân biệt đƣợc chữ nguyệt và chữ nhục vì đều đƣợc ghi là 月. Chữ hồ 胡 gồm
chữ cổ và chữ nguyệt hay chữ nhục ta cũng khó phân biệt đƣợc.
Khác với chữ nguyệt, hai nét bên trong của chữ nhục không “chạm” vào nét góc vuông bên phải.
Các bạn có thể xem chữ Hồ tai http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D_H%E1%BB%93

Đa tạ bác Goldfish đã giúp các bạn đọc "thấy" đƣợc chữ nhục với hai nét ngang không chạm đến nét dọc bên
phải. Theo Natphung thì có lẽ trên thực tế khi ngƣời ta viết thì có thể phân biệt rõ ràng, nhƣng khi in ấn hay các
bài viết trên mạng thì hai chữ nguyệt và nhục đều giống nhau nhƣ chính anh hai An Chi cũng nói rõ: "Nói thế
nhƣng chính Khang Hy tự điển cũng viết chữ nhục biên bàng thành 月 trong 654 chữ đã nói, y hệt nhƣ chữ
nguyệt biên bàng 月, hoàn toàn không phân biệt tự hình. Từ nguyên, Từ hải, đều làm nhƣ thế. Đây là hiện tƣợng
đồng hình dị tự (cùng hình khác chữ)."

Cho nên không lấy gì làm lạ khi Natphung kiếm nát nƣớc cũng không tìm đâu ra font chữ nào có chữ nhục nhƣ
trong hình của bác Goldfish cả.

goldfish
01-10-2007, 05:58 PM
Trƣớc đây tôi vẫn tƣởng rằng chữ hồ gồm chữ cổ và chữ nguyệt, đến khi đọc bài của bác An Chi tôi mới giật
mình. Tra từ điển thì chẳng thể nào phân biệt đƣợc chữ nguyệt hay chữ nhục vì đều “in” là 月.

Tôi tán đồng ý kiến của bác Natphung rằng “có lẽ trên thực tế khi ngƣời ta viết thì có thể phân biệt rõ ràng” nhƣ
hình chữ hồ tôi đã nêu. Chữ này tôi cũng mới gặp lần đầu!

NatPhung
03-10-2007, 08:34 AM
89. (KTTN 117, ngày 15-8 & 02-09-1993)
Có một mối tình Xuân Hƣơng – Chiêu Hổ trong thực tế hay không? Hay chỉ có văn thơ cợt nhả với nhau mà thôi?

AN CHI: Quả là ngƣời đời có truyền tụng về một mối tình Xuân Hƣơng – Chiêu Hổ. Chả thế mà Phong Châu lại
chép: “Ông Chiêu Hổ đi làm quan lâu ngày, Xuân Hƣơng nhớ chỗ nhân tình cũ, mới viết giấy hỏi thăm …” (Câu
đối Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 25). Nhƣng đó chỉ là giai thoại mà thôi.

Trong thực tế thì mối tình không có đã đành mà chuyện văn thơ cợt nhả cũng không có nốt. Điều khẳng định
nghiêm túc này là căn cứ vào lời kể của Siêu Văn, một ngƣời thuộc dòng họ Nguyễn Đình, là dòng họ mà có đời
và có ngƣời đã từng kết thâm giao với cả Hồ Xuân Hƣơng lẫn Phạm Đình Hổ: “Hồ Xuân Hƣơng hơn Phạm Đình
Hổ ngót hai chục tuổi, nên không thể có sự luyến ái, họa thơ giữa hai ngƣời đó đƣợc. Và trong đám cƣới của
cháu nội bà Đốc trấn là Nguyễn Đình Vũ lấy con gái Phạm Đình Hổ là cô Phạm Đình Huy, nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng
là ngƣời quen biết cả hai họ nên đã đứng lên làm chủ hôn, theoi tục lệ thời đó”. (Về mối quan hệ giữa Hồ Xuân
Hƣơng và Phạm Đình Hổ, Tạp chí Văn học, số 5, 1991, tr. 71). Và ở một đoạn khác: “Nữ sĩ Hồ Xuân Hƣơng lúc
đó đã ngoài bảy mƣơi tuổi, đƣợc mời làm chủ hôn, trải giƣờng chiếu cho cô dâu lấy khƣớc”.

Làm sao có thể quan niệm đƣợc rằng ngƣời tình cũ của Phạm Đình Hổ, hơn ông ngót 20 tuổi, giờ đây đã ngoài
bảy mƣơi, lại đƣợc mời trải giƣờng chiếu cho con gái ông đƣợc khƣớc? Làm sao có thể quan niệm đƣợc rằng một
bà lão đã có thời “chành ra ba góc da còn thiếu” mà lại đƣợc mời trải chiếu cho con gái tơ của ngƣời khác đƣợc
khƣớc trƣớc khi về nhà chồng? Cho nên những câu thơ tục tĩu xƣa nay vẫn truyền tụng là của bà chắc chắn
không phải do bà là tác giả. Siêu Văn cũng nói rõ: “Theo cụ Nguyễn Gia Thái (1858-1935) ngƣời đƣợc đọc Xuân
Hƣơng thi tập do chính tay nữ sĩ chép tặng gia đình ta, thì không có những bài thơ tục tĩu mà ngày nay ngƣời ta
gán ghép cho nữ sĩ”.

Đến nhƣ ông Chiêu Hổ, ngƣời mà theo truyền tụng là đã có nhiều câu đối Nôm, lắt léo, tài ba, thì chính ông lại
tỏ ra xem thƣờng chữ Nôm và tự nhận là mình kém cỏi về thứ chữ này. Sau đây là lời tự thuật của ông: “Có
ngƣời đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không
muốn nghe. Ta đã học vỡ đƣợc ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta lại không biết hết”. (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy
bút, bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, TPHCM, 1989, tr.10). Trong khi đó thì: “Ta khi mới lên chín tuổi,
đã học Hán thƣ, (…). Các sách cổ, thơ cổ ta thƣờng xem lắm, không lúc nào rời tay” (Sđd, tr. 10-11). Khi đã cao
niên, nhắc lại chuyện thuở ấu thời, Phạm Đình Hổ vẫn còn sẵn sàng gộp “những sách truyện Nôm” vào chung
với “những trò thanh sắc” và “nghề cờ bạc”. Một ngƣời cả đời vẫn coi thƣờng văn Nôm chữ Nôm đến nhƣ thế
làm sao có thể là tác giả của những “văn bản” Nôm đã đƣợc truyền tụng?

Ghi chú của :


Xem đến đây bỗng tội nghiệp cho bác Bút Tre. Vài trăm năm nữa chắc bao nhiêu thơ mo cau, tàu dừa gì cũng
gán cho là thơ bút tre...
NatPhung
03-10-2007, 08:43 AM
90. (KTTN 122, ngày 01-11-1993)

Một mai ai đứng bên kinh,


Ai phò giá triệu, ai rinh quan tài?
Bên kinh đã có con trai,
Giá triệu con gái, quan tài nàng dâu.

Bài này vẫn nghe hát ru em nhƣ vậy, có đúng nguyên văn của ngƣời xƣa hay không? “Kinh” có nghĩa gì khác
hơn con sông đào? Sao lại rinh quan tài? Cả bài có ý nghĩa gì?

AN CHI: Nguyên văn hai câu đầu là:

Một mai ai đứng minh tinh


Ai phò giá triệu, ai nghinh quanh tài?

Minh tinh, trong Nam còn gọi là tấm triệu, là dải lụa dài ghi tên họ, tuổi tác, chức tƣớc, ngày từ trần, v.v… của
ngƣời chết, treo trên một cái giàn nhỏ có đòn khiêng, thƣờng gọi là cái giá triệu, để khiêng đi trƣớc quan tài khi
đƣa đám tang. Vậy đứng minh tinh là có tên trên tấm minh tinh, nghĩa là đã chết. Nghinh (nghênh) là đón rƣớc.
Nghinh quan tài là bƣng cái bát hƣơng đi thụt lùi phía trƣớc quan tài để dẫn đƣờng. Còn phò giá triệu là chống
gậy tang đi bên cái giá triệu để hộ tống. Nghinh quan tài và phò giá triệu thƣờng là bổn phận của con trai
trƣởng (hoặc con trai) và của cháu đích tôn (hoặc cháu nội trai). Vậy “đứng bên kinh” và “rinh quan tài” chỉ là
tam sao thất bản mà ra.
Theo chúng tôi, bài này vốn chỉ có hai câu đầu và đây là lời nói của ngƣời vợ không sanh nở nói với chồng: Thiếp
đã không có con, nếu chàng không nghe lời khuyên của thiếp mà cƣới vợ lẽ (để kiếm một vài mụn con) thì mai
kia, khi chàng về với ông bà, ai sẽ là ngƣời nghinh quan tài, ai sẽ là ngƣời phò giá triệu cho chàng đây? Tiếng ai
trong câu thứ nhất là đại từ phiếm chỉ, có nghĩa của đại từ nhân xƣng ngôi thứ hai (vợ nói với chồng), còn hai
tiếng ai trong câu thứ hai mới thực sự là đại từ nghi vấn. Câu thứ nhất nêu giả thiết cho sự việc xảy ra ở câu thứ
hai. Sau khi hai câu đầu bị tam sao thất bản rồi thì chúng mới đƣợc nối bằng hai câu sau, có thể là do lối hò đối
đáp mà ra. Vì hai câu đầu đã bị truyền miệng sai nên hai câu sau cũng không thể chặt chẽ và rành mạch về mặt
ý nghĩa đƣợc, nhất là câu “bên kinh đã có con trai”.

NatPhung
03-10-2007, 08:52 AM
91. (KTTN 122, ngày 01-11-1993)
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, có một số nơi thờ cúng gọi là Chùa Ông, Chùa Bà. Nghe nói Chùa Ông thờ Quan
Công còn Chùa Bà thì thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Vậy Thiên Hậu Thánh Mẫu là ai?

AN CHI: Chùa Ông mà ngƣời Quảng Đông gọi là Quán Tây miễu (Quan Đế miếu) thì thờ Quan Công, còn Chùa
Bà mà họ gọi là Phò miễu (Bà miếu) thì thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Tuy nhiên, theo lời học giả Vƣơng Hồng
Sển cũng có nơi gọi là Phò miễu (= miếu Bà) nhƣng không thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu, mà lại thờ bà Chúa
Thai sanh, coi về sinh đẻ. (X. Sài Gòn năm xƣa, TPHCM, 1991, tr. 199).

Tƣơng truyền bà Thiên Hậu là ngƣời huyện Bồ Điền, tỉnh Phƣớc Kiến bên Trung Quốc. Bà sinh vào đời Tống, là
con gái thứ sáu của Lâm Nguyện. Mới lọt lòng, bà đã phát hào quang rực rỡ và tỏa huơng thơm kỳ lạ. Ngay khi
bà hãy còn nhỏ, anh bà đi buôn đƣờng biển, gặp gió to sóng cả nguy hiểm đến tính mạng, bà nhắm mắt định
thần mà biết đƣợc rồi xuất thần đi cứu anh thoát nạn. Lúc lớn lên, bà có thể cỡi chiếu bay trên biển hoặc đằng
vân mà đi ra các đảo xa. Sau khi thăng, bà thƣờng khoác áo bào màu đỏ bay lƣợn trên biển. Tƣơng truyền bà
đã thăng vào năm tròn hai mƣơi tuổi. Vào các đời Tống, Nguyên, Minh bà đều có nhiều lần hiển hiện rất là linh
thiêng. Ngƣời đi biển thƣờng thờ bà và khấn bà để đƣợc độ cho thuận buồm xuôi gió. Theo Từ nguyên thì bà
đƣợc phong là Thiên Phi vào đời Vĩnh Lạc nhà Minh, sau lại đƣợc phong Thiên Hậu, đƣợc lập đền thờ tại kinh đô.
Còn Từ hải thì lại chép rằng bà đƣợc phong Thiên Phi, sau gia phong Thiên Hậu vào đời Khang Hy nhà Thanh.

Học giả Vƣơng Hồng Sển lại chép rằng bà húy là Mi Châu, ngƣời Bồ Dƣơng, sinh nhằm ngày 23 tháng 3 năm
Giáp Thân (1044) đời Tống Nhân Tông, là con của ông Lâm Tích Khánh. Tám tuổi biết đọc. Mƣời một tuổi tu
Phật. Mƣời ba tuổi thọ lãnh thiên thơ: thần Võ Y xuống cho một bộ Nguyên vi bí quyết. Ngoài ra, bà còn tìm
đƣợc dƣới giếng cạn một xấp cổ thƣ khác. Bà coi theo đó mà luyện tập rồi đắc đạo. Đƣợc phong Thiên Hâụ
Thánh Mẫu năm Canh Dần niên hiệu Đại Quan đời Tống tức năm 1110 (X.sđd, tr. 201-203).

Có thể là trong lời kể của nhiều ngƣời khác sẽ còn có những chỗ dị đồng khác nữa. Đây không phải là chuyện lạ:
khi mà cuộc đời của một nhân vật đã đi vào truyền thuyết, nó có thể có những dị bản.
NatPhung
03-10-2007, 08:55 AM
92. (KTTN 122, ngày 01-11-1993)
Hai tiếng “truy tiến” chỉ xuất hiện trên báo chí hai lần trong dịp hai Đại lão Hòa thƣợng liễu đạo. Tại sao không
dùng truy điệu mà lại dùng truy tiến?

AN CHI: Truy điệu không có màu sắc tôn giáo, còn truy tiến là một lối nói riêng bên Phật giáo. Nó đồng nghĩa
với truy phƣớc và đƣợc Từ hải giảng nhƣ sau: “Vì ngƣời chết mà làm công đức để cho ngƣời đó đƣợc phƣớc gọi
là truy phƣớc, cũng gọi là truy tiến” (Vị tử giả tác công đức sử kỳ hoạch phúc viết truy phúc, dịch vân truy tiến).
Vì truy tiến có hàm ý cầu phƣớc còn truy điệu thì không nên bên Phật giáo mới dùng truy tiến mà không dùng
truy điệu.

Ghi chú của :


Ôi còn truy phƣớc với truy tiến mãi thì bao giờ mới thoát khỏi tham sân si.

NatPhung
03-10-2007, 12:03 PM
Về câu 87 (KTNN 117), anh hai An Chi luận bàn về cái lông mày. Theo anh hai, thì lông mày Từ Hải "cong và
đẹp" nhƣ lông mày của một mỹ nữ.

Để rộng đƣờng cho các bạn nào thích "lông mày tao chẻ làm tƣ", Natphung sƣu tầm trên Talawas bài viết sau
đây, mời các bạn cùng nhau chẻ.

Đôi điều thƣa lại cùng ông An Chi


Nguyễn Huệ Chi
16.5.2006

Tôi không ngờ bài viết ngắn của mình về “Nét ngài và mày ngài” trên mạng talawas [1] chỉ đơn giản nhằm phản
bác nhà nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa Đổng Văn Thành lại đƣợc nhiều ngƣời chú ý và trở thành “ba
vấn đề” đáng bàn bạc đối với ông Nguyễn Ngọc Đình, để thông qua lời chất chính của ông, ông An Chi đã phải
giải đáp liền trong 2 số Kiến thức ngày nay 565 và 566 (tháng 4 & 5-2006). Âu đấy cũng là một điều may, giúp
bạn đọc có dịp đi sâu hơn vào tài năng dùng chữ bậc thầy của nhà thơ trác việt Nguyễn Du. Dùng chữ bậc thầy
không có nghĩa là chữ nào trong Truyện Kiều ta cũng dễ dàng tìm đƣợc sự thống nhất về ngữ nghĩa một cách
sáng tỏ. Chính vì vậy, sau khi đọc ông An Chi, bên cạnh khá nhiều điều tâm đắc, tôi cũng xin mạn phép trao đổi
thêm “ba vấn đề” mà theo tôi, kiến giải của ông chƣa thật có sức thuyết phục.

1.

Trƣớc hết, tôi tán thành ông An Chi coi “nét ngài” và “mày ngài” là những thuật ngữ ƣớc lệ chỉ lông mày đẹp,
nhƣng dầu ƣớc lệ đi nữa thì theo thói quen của phép liên tƣởng trong ngôn ngữ, khi nhắc đến những chữ ấy,
ngƣời nghe rất dễ có ngay một sự so sánh giữa hai hình ảnh: lông mày = râu con ngài, hoặc lông mày = con
tằm. Phủ nhận việc đó không phải là chuyện cứ nói lý với nhau mà xong bởi nhìn cho đến tận gốc nguồn, những
từ tƣợng hình kiểu “râu trê”, “bụng cóc”, “răng bàn cuốc”, “mắt lƣơn”, “cổ ngỗng”, “lƣng ong”... chắc chắn bao
giờ cũng đƣợc tạo thành nhờ một ví von cụ thể nào đấy và lâu về sau nhiều ngƣời mặc nhiên chấp nhận rồi dần
dần mới ƣớc lệ hóa chúng, chứ không dƣng ai đem hai hình ảnh gắn với nhau để định nghĩa làm gì. Mấy chữ
“nga mi” hay “ngọa tàm mi” cũng trong trƣờng hợp đó. Khi xem xét từ tổ “mày ngài” của Truyện Kiều, vì đã có
những cách hiểu khác biệt qua bao nhiêu chú giải từ hơn 100 năm nay, tôi không thể cứ nói một cách mơ hồ
rằng đó chỉ là ƣớc lệ chỉ lông mày đẹp là đủ, mà phải tìm đến tận từ nguyên của nó. Và tìm đến từ nguyên thì
khó có thể phủ nhận đƣợc là “mày ngài” có cả hai xuất xứ là “ngọa tàm mi” và “nga mi”. Ông An Chi không tán
thành xuất xứ “ngọa tàm mi” mà chỉ tán thành xuất xứ “nga mi”, nhƣng chẳng phải câu thành ngữ Việt Nam
“mắt phƣợng mày ngài” hoặc “mắt phụng mày tằm” vốn có gốc gác từ “đan phƣợng nhãn, ngọa tàm mi” trong
Tam quốc diễn nghĩa đấy sao? Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết “Râu hùm, hàm én, mày ngài” tƣởng chừng
không liên quan gì đến “ngọa tàm mi” của truyện Tam quốc, kỳ thực nhà thơ đã cắt lấy hai ý (hàm én, râu hùm)
trong đoạn mô tả Trƣơng Phi: “Báo đầu, hoàn nhãn, yến hạm, hổ tu 豹 頭 環 眼 燕 頷 虎 鬚” (đầu báo, mắt tròn
nhƣ ngọc, hàm én, râu hùm) đem ghép với một ý (mày tằm) trong đoạn mô tả Quan Vũ “Diện nhƣ trùng tảo,
thần nhƣợc đồ chi, đan phƣợng nhãn, ngọa tàm mi面 如 重 棗 。脣 若 塗 脂。丹 鳳 眼 。臥 蠶 眉” (Mặt nhƣ táo
chín, môi tựa tô son, mắt phƣợng đỏ [2] , mày tằm nằm) của chính Tam quốc diễn nghĩa để viết nên câu thơ
của mình. Cũng có thể trong Kim Vân Kiều truyện, chính Thanh Tâm Tài Nhân đã lựa chọn giúp Nguyễn Du một
phần, vì Thanh Tâm Tài nhân tả Từ Hải nhƣ sau: “Bạch diện tú mi, hổ đầu yến hạm 白 面 秀 眉 虎 頭 燕” = mặt
trắng, mày thanh tú, đầu hổ, hàm én. Nhƣng khi tiếp thu, Nguyễn Du cải tạo lại, bỏ đi mấy chữ “bạch diện”
chắc theo ông là cốt cách thƣ sinh không hợp với Từ Hải, cũng bỏ đi “hổ đầu” để lấy lại chữ “hổ tu” của Tam
quốc diễn nghĩa thành “râu hùm”. Cũng theo khuynh hƣớng ấy, nhà thơ không thể lấy chữ “nga mi” thay cho “tú
mi”, bởi “tú mi” là lông mày thƣ sinh mà thay bằng “nga mi” là lông mày con gái đẹp thì cốt tƣớng Từ Hải còn
yếu hơn cả thƣ sinh. Vậy thì “mày ngài” chỉ còn một “ảnh xạ” là “ngọa tàm mi” của Tam quốc diễn nghĩa. Cho
nên nói gì thì nói, xét về từ nguyên, “mày ngài” ở đây trƣớc sau vẫn đích thực có xuất xứ từ “ngọa tàm mi” [3] .

Nhƣng “ngọa tàm mi” cụ thể là thế nào? Ông An Chi quả quyết “Ngọa tàm mi tuyệt đối (NHC nhấn mạnh) không
có nghĩa là “lông mày con tằm nằm”. Sở dĩ các nhà chú giải của ta cứ ngỡ và giảng nhƣ thế là vì họ chƣa tìm
hiểu cái cấu trúc đang xét cho đến tận ngọn nguồn” (Số 565, tr. 44). Và ông liền mở hai cuốn từ điển Từ nguyên
bộ cũ và Vƣơng Vân Ngũ đại từ điển ra để xác nhận rằng “ngọa tàm” chỉ có nghĩa là nếp nhăn ở dƣới vành mắt
theo các nhà tƣớng số; từ đấy ông đi đến kết luận: “vì ngọa tàm là một lối nói của tƣớng số nên ta phải hiểu nó
một cách “trọn gói” theo lời giảng của các nhà chuyên môn (nhà tƣớng số) chứ không thể dịch từng thành tố
của nó theo nghĩa đen thành “tằm nằm” đƣợc” (số 565, tr. 45). Có khác với ông An Chi, tôi đã tra cứu cả Từ hải
và Từ nguyên bộ cũ cũng nhƣ bộ mới nhƣng cuối cùng vẫn quyết dựa vào bộ mới, vì tôi quan niệm bộ mới - nhƣ
lời giới thiệu của ngành từ điển học Trung Quốc cách đây khoảng mƣơi năm - đã đƣợc hàng trăm chuyên gia đầu
ngành khắp nƣớc Trung Hoa tập trung công sức chỉnh sửa trong nhiều thập kỷ thì thế nào cũng hoàn hảo hơn bộ
cũ, sẽ khắc phục đƣợc những cái sai và thiếu của bộ cũ. Trong Từ nguyên bộ cũ, “ngọa tàm” quả chỉ có một
nghĩa nhƣ ông An Chi đã dẫn, trong khi ở Từ nguyên bộ mới (1998), “ngọa tàm” có hai nghĩa, mà nghĩa đầu tiên
là: “Nhƣ ngọa tàm hình đích mi mao 如 臥 蠶 形 的 眉 毛”; tạm dịch: “ngọa tàm là lông mày nhƣ hình con tằm
nằm”. Rồi phụ thêm vào nghĩa thứ nhất này bộ từ điển mới đƣa ra một nghĩa dẫn thân là “nếp nhăn dƣới mắt
theo cách gọi của các nhà tƣớng thuật”. Còn nghĩa thứ hai là một danh từ trong ngành thú y thì xa với vấn đề
của chúng ta nên khỏi bàn ở đây. Chứng tỏ Từ nguyên bộ mới đã bổ sung thêm đến hai nghĩa cho chữ “ngọa
tàm”, trong đó nghĩa thứ nhất, có tính chất từ nguyên (ngọn nguồn) của thuật ngữ, là hết sức quan trọng. Hơn
nữa, nói nghĩa từ nguyên không phải cái nghĩa ấy không đƣợc dùng trong sinh hoạt ngôn ngữ. Trái lại, chính nó
mới đƣợc sử dụng làm thi liệu văn chƣơng. Cũng chính Từ nguyên bộ mới sau khi nói đến nghĩa thứ nhất của
“ngọa tàm” (là mày tằm nằm), đã dẫn tiếp liền hai câu thơ và một câu văn để minh họa. Hai câu thơ trích từ bài
Dụ Thúc Kỳ thái Pha thi nhất liên.... thù dĩ tứ thập vận喻 叔 奇 采 坡 詩 一 聯 。 。 。 。酬 以 四 十 韻: “Sầu toán
ngọa tàm mi/Thống triệt phục tê não 愁 儹 臥 蠶 眉 / 痛 澈 伏 犀 腦”; tạm dịch: “Buồn đọng trên lông mày hình
con tằm nằm/Đau buốt đến tận óc sau vầng trán”. Còn câu văn thì trích từ tiểu thuyết Thủy hử, hồi 57, đoạn
miêu tả Từ Ninh: “Loan loan lƣỡng đạo ngọa tàm mi, phƣợng chú long tƣờng tử đệ 彎 彎 兩 道 臥 蠶 眉 。 鳳 翥 龍
翔 子 弟”; tạm dịch: “Cong cong hai đƣờng lông mày hình tằm nằm, vốn con nhà rồng bay phƣợng múa (học
hành lễ nghĩa)”.

Thế tƣởng cũng là rõ: “ngọa tàm” đúng hơn là “ngọa tàm mi” trƣớc khi là thuật ngữ của tƣớng số đã là thuật
ngữ của văn chƣơng, với cái nghĩa lông mày hình con tằm nằm. Thuật ngữ này đã đƣợc dùng theo nghĩa đen rất
lâu trong nhiều sách vở Trung Quốc mà Tam quốc diễn nghĩa có liên quan đến việc tiếp nhận của Truyện Kiều là
một dẫn chứng. Chính đó là lý do khiến tôi cứ phân vân, không dám quả quyết cho chữ “ngài” mà Nguyễn Du
dùng trong danh ngữ “mày ngài” để miêu tả cặp lông mày của Từ Hải cũng phải là một với chữ “ngài” đƣợc nhà
thơ dùng trong “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” tả Thúy Vân hoặc trong “Bên thì mấy ả mày ngài” tả
các nàng ca kỹ.

(Còn tiếp)

NatPhung
03-10-2007, 12:04 PM
(Tiếp)

2.

Vì thiên về cách hiểu “ngọa tàm mi” là nếp nhăn dƣới mắt theo tƣớng số học, ông An Chi đi đến bác bỏ tất cả
các nhà chú giải Truyện Kiều hơn một trăm năm qua. Ông nói: “Lời dẫn của Phạm Kim Chi (“Diện nhƣ mãn
nguyệt, mi nhƣợc [Phạm Kim Chi viết “nhƣ” - NHC] ngọa tàm”), ghi là lấy ở Tƣớng thƣ, thì chẳng qua chỉ là
chép lại lời dịch câu “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” sang tiếng Hán trong bản Kiều Oánh Mậu 1902 chứ
chẳng phải của sách “tƣớng thƣ tƣớng tịch” nào cả. Đến nhƣ hai tiếng tàm mi (mày tằm) mà Nguyễn Thạch
Giang đƣa ra trong Truyện Kiều (chú thích và khảo đính) năm 1973, chẳng qua chỉ là một sự dịch ngƣợc tùy
tiện. Dĩ nhiên là ai kia có thể gặp may mà thấy đƣợc hai chữ tàm mi ở một chỗ nào đó, nhƣng đây chỉ là một từ
tổ tự do nên chỉ thuộc về lời nói chứ đâu có phải một đơn vị cố định của ngôn ngữ” (số 565, tr. 44). Ông còn
viết thêm: “Vì không chịu tìm hiểu cho thấu đáo nên các nhà chú giải của ta mới giảng một cách ngộ nghĩnh
rằng ngọa tàm là “(con) tằm nằm”, rồi ngọa tàm mi là lông my (sic) nhƣ con tằm nằm (Bùi Kỷ & Trần Trọng
Kim), là “mày tằm nằm” (Nguyễn Thạch Giang), là “lông mày giống con tằm nằm” (Đào Duy Anh), v.v...” (số
565, tr. 45) (không hiểu sao ông bỏ qua Nguyễn Quảng Tuân, vì Nguyễn Quảng Tuân là ngƣời chú giải Truyện
Kiều muộn nhất cho đến nay (1996) [4] cũng giải thích “lông mày nhƣ con tằm nằm ngang, chỉ cái tƣớng phúc
hậu”?). Về phần tôi, tôi không dám võ đoán coi tất cả các nhà hiệu khảo áng văn kiệt tác của Nguyễn Du trong
suốt thế kỷ XX đều là những ngƣời làm ẩu. Nói nhƣ thế tôi cảm thấy bất nhẫn. Cho nên, trƣớc khi đi đến một lời
khẳng quyết các bậc Kiều học tiên khu nhƣ Phạm Kim Chi, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim đã dựa vào sách tƣớng số
xƣa để giảng giải điển “ngọa tàm mi”, tôi có tra cứu lại hẳn hoi. Tất nhiên, trong các thƣ viện mà tôi có thể tra
tìm không làm gì có sách tƣớng, nhƣng tôi đã nhờ mạng internet hỗ trợ giúp mình, và kết quả cũng không đến
nỗi nào. Dùng mấy chữ 古 相 書 (cổ tƣớng thƣ) truy cập trên mạng Google, hóa ra có rất nhiều tài liệu nói về
tƣớng mặt và tƣớng lông mày, song chỉ cần 2 tài liệu sau đây cũng đủ minh oan cho các nhà học giả:

a. Đông phƣơng hà lạc dự trắc võng 東 方 河 洛 預 測 网 của Lý Kế Trung 李 計 忠: phần nói về khí sắc con ngƣời
(Thƣơng nghiệp quan nhân thuật, thƣơng nghiệp quan nhân đích khí sắc) có đoạn viết: “Hữu đích nhân diện nhƣ
mãn nguyệt (NHC nhấn mạnh), thanh tú nhi thần thái xạ nhân, trình triêu hà chi sắc有 的 人 面 如 满 月。清 秀 而
神 采 射 人。呈 朝 霞 之 色”; tạm dịch: “Có ngƣời mặt nhƣ trăng tròn, thanh tú mà thần thái chấn động đến ngƣời
khác, bày ra cái vẻ [đẹp] của ráng sớm”.

b. Mi mao眉 毛 , tác giả khuyết danh [5] , có đoạn: “Mi nhƣ tân nguyệt, mi nhƣ xuân sơn, mi nhƣ ngọa tàm
(NHC nhấn mạnh), mi thanh mục tú 眉 如 新 月 。眉 如 春 山 。眉 如 臥 蠶 。眉 清 目 秀”; tạm dịch: “Lông mày nhƣ
trăng non, lông mày nhƣ núi mùa xuân, lông mày nhƣ tằm nằm, mày thanh mắt tú”.

Ngoài ra, lại có một tài liệu không thuộc về tƣớng thuật mà là tiểu thuyết võ hiệp gọi là Kiếm linh truyền thuyết
劍 靈 傳 說, in từng kỳ trên mạng Lan Hƣơng các, ngay ở kỳ đầu tiên ra ngày 6 tháng Năm năm 2005 đã có đoạn
miêu tả một chàng thiếu niên võ sĩ “diện nhƣ mãn nguyệt, mi nhƣ ngọa tàm (NHC nhấn mạnh), tuệ nhãn thùy
quang, cố miện hữu thần 面 如 满 月。眉 如 臥 蠶 。慧 眼 垂 光 。顧 盼 有 神”; tạm dịch: “mặt nhƣ trăng tròn, lông
mày nhƣ tằm nằm, mắt tuệ buông luồng sáng, ngoái nhìn nhƣ có thần”.

Ông An Chi thấy đấy, trong các tài liệu trên đã có đúng hai vế “Diện nhƣ mãn nguyệt” và “Mi nhƣ ngọa tàm”,
hoặc tách riêng hoặc đứng liền đầy đủ cả. Hẳn sẽ là khôi hài nếu cho rằng những tài liệu này cũng liên quan đến
bản Kiều của Kiều Oánh Mậu 1902, vì các cụm từ của chúng sao lại giống nhƣ lột câu văn trong sách tƣớng do
Phạm Kim Chi cũng nhƣ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim dẫn ra mà ông An Chi nói là “chép lại” Kiều Oánh Mậu? Vậy
phải chăng ta nên thừa nhận cho thật công bằng là cả mấy nhà nghiên cứu Truyện Kiều lớp đàn anh buổi đầu
thời văn xuôi quốc ngữ đã xuất phát từ “tƣớng thƣ tƣớng tịch” xƣa thật, có điều đến nay ta chƣa tìm thấy
nguyên gốc, ngoại trừ ít nhiều dấu vết trong sách tƣớng Trung Quốc hiện đại cũng nhƣ trong loại văn chƣơng võ
hiệp vốn có liên quan mật thiết với sách tƣớng cổ mà thôi.

Nhƣng có phải nhƣ ông An Chi nói: “ngọa tàm mi là một lối nói của khoa tƣớng số, nó chẳng có liên quan gì đến
con tằm cả, càng không phải là “con tằm nằm”” (số 565, tr. 45) hay không? Ở chỗ này tôi lại phải đi tìm thêm
sách tƣớng trên mạng internet. Đúng là với hai chữ “ngọa tàm”, hầu hết sách tƣớng Trung Quốc hiện nay đều
nhắm vào hai nếp nhăn phía dƣới hốc mắt. Nhƣng với ba chữ “ngọa tàm mi” thì tôi chƣa thấy sách tƣớng số nào
tách rời việc giải thích lông mày khỏi hình ảnh con tằm nằm. Lại xin dẫn ra một tài liệu khác để ông An Chi và
độc giả cùng xem: Ngọa tàm mi phối thƣợng đan phƣợng nhãn, vị cao quyền trọng trung nghĩa cái thế 臥 蠶 眉
配 上 丹 鳳 眼 。位 高 權 重 。忠 義 蓋 世do Tất Hƣu畢 休soạn, trên mạng Thuật số tạp đàm 術 數 雜 談. Trong tài
liệu này có đoạn viết: “Yếu thanh sở khán đáo hoàn chỉnh mỹ hảo đích “ngọa tàm mi” tịnh bất khốn nạn. Chỉ
yếu tử tế khán Quan Thánh đế đích thần tƣợng tiện tri kỳ dạng. Tha cụ hữu ngọa tàm mi, đan phƣợng nhãn.
“Ngọa tàm mi” tòng tự diện thƣợng khả liễu đáo kỳ mi tự nhất điều tàm trùng hoành tại nhãn chi thƣợng. Giá
chủng mi hữu lƣỡng hạng phân biệt: Hữu tá chỉnh điều mi thị trực tuyến đích. Tàm đích hình thái thị tĩnh chỉ
đích. Tuy toán thị hảo mi, độc vị thuyết đắc thị chính thức đích ngọa tàm mi. Chân chính đích ngọa tàm mi, mi
đích trung đoạn lƣợc trình loan khúc, vi vi hƣớng thƣợng dƣơng. Khí thế điều thuận, đới hữu động cảm, sắc hắc
hữu thái, Quan phu tử đích mi tựu xúc giá nhất loại. Thông minh duệ trí, cƣơng trực trọng nghĩa, phối thƣợng
đan phƣợng, doãn văn doãn vũ, tự phi phàm nhân liễu. 要 清 楚 看 到 完 整 美 好 的 「臥 蠶 眉」 並 不 困 難 。只 要
仔 細 看 關 聖 帝 的 神 像 便 知 其 詳 。他 具 有 臥 蠶 眉 。丹 鳳 眼 。「臥 蠶 眉」 從 字 面 上 可 了 到 其 眉 似 一 條 蠶
蟲 橫 在 眼 之 上 。這 種 眉 有 兩 項 分 別 。有 些 整 條 眉 是 直 線 的 。蠶 的 形 態 是 靜 止 的 。雖 算 是 好 眉 。獨 未
說 得 是 正 式 的 臥 蠶 眉 。真 正 的 臥 蠶 眉 。眉 的 中 段 略 呈 彎 曲 。微 微 向 上 揚 。氣 勢 調 順 。帶 有 動 感 。 色
黑 有 彩 。關 夫 子 的 眉 就 屬 這 一 類 。聰 明 睿 智 。剛 直 重 義 。配 上 丹 鳳 。允 文 允 武 。自 非 凡 人 了”; tạm
dịch: “Muốn xem thật rõ vẻ đẹp hoàn chỉnh của “ngọa tàm mi” tuyệt không phải khó. Chỉ cần nhìn kỹ tƣợng
Quan Thánh đế là biết. Ông vốn có mày tằm nằm, mắt phƣợng đỏ. “Ngọa tàm mi” theo mặt chữ có thể hiểu là
lông mày tựa nhƣ con tằm nằm ngang ở trên mắt. Kiểu lông mày này chia làm hai loại: Có những cặp lông mày
chỉ là một đƣờng thẳng. Tƣ thế con tằm ở đây là nằm im. Dẫu xét ra đó là tƣớng lông mày tốt, vẫn chƣa thể nói
đƣợc là “ngọa tàm mi” chính thức. Loại “ngọa tàm mi” chân chính thì ở đoạn giữa lông mày phải cong xuống
một tí, lại hơi hơi rƣớn lên phía trên. Khí thế nhuần nhị, động đậy tí chút khi xúc cảm. Sắc lông mày đen nhuốm
đôi nét vằn. Lông mày Quan Phu tử chính là loại này. Thông minh tài trí, cƣơng trực trọng nghĩa, phối hợp với
mắt phƣợng đỏ, vừa văn vừa võ, tự nó không phải là ngƣời bình thƣờng rồi”.

Một tài liệu nữa tôi mới tìm ra gần đây là Do nhân tƣớng học trắc tri phong thủy由 人 相 學 測 知 風 水 của Liễu
Vô Trai 了 無 齋 cũng giải thích “ngọa tàm mi” giống với Tất Hƣu (chỉ gói gọn trong loại “ngọa tàm mi” thứ hai,
một biểu trƣng đặc thù của lông mày Quan Vũ) nhƣng lại có kèm thêm hình vẽ:
http://i212.photobucket.com/albums/cc82/natphung/MayNgai.jpg
Hình vẽ này cho ta hình dung cụ thể hình dạng con tằm đang di động, không phải là con tằm nằm im nhƣ loại
“ngọa tàm mi” thứ nhất. Mặt khác, cũng qua hình vẽ, ta sẽ thấy cách quan niệm của thuật tƣớng số về lông
mày Quan Vũ không hẳn đã thống nhất trăm phần trăm với hội họa và điêu khắc cổ Trung Quốc - vốn là nghệ
thuật cách điệu nên ngƣời này ngƣời khác và thời này thời khác từng cách điệu cặp lông mày vị Quan Thánh đế
quân đến mức rất xếch, nhƣ trong các bức hình ông An Chi đã cung cấp nhằm chứng minh “ngọa tàm mi” không
phải là lông mày tằm nằm (số 566, tr. 44). Đặc biệt, cũng tài liệu của Liễu Vô Trai còn nói đến năm loại lông
mày khác mà một số loại nhƣ “tân nguyệt mi” (lông mày trăng non), “xuân sơn mi” (lông mày nhƣ ngọn núi
mùa xuân)... đều lấy hình dáng mặt trăng, ngọn núi để lý giải. Nhƣ vậy, tuy có nhằm tới mục tiêu đoán mệnh
vận con ngƣời qua tƣớng mày tƣớng mặt, sách tƣớng số vẫn không thể thoát ly hẳn cái nghĩa từ nguyên của từ
ngữ mà nó mƣợn dùng. Nói gộp một lời nhƣ ông An Chi nhằm loại bỏ hết thảy mọi hạt nhân hợp lý trong hàng
loạt chú giải của ngƣời đi trƣớc e chƣa phải là thể tất nhân tình.

3.

Cũng chính vì những điều đã nêu, trong bài viết trƣớc, sau khi đắn đo cân nhắc, tôi đã phải gạt vấn đề “mày
ngài” của Từ Hải sang một bên và tạm khoanh hai chữ “nga mi” vào cụm danh từ “nét ngài” chỉ lông mày Thúy
Vân và “mày ngài” chỉ các ả ca kỹ. Ông An Chi thì hiểu tất cả các chữ “mày ngài” trong Truyện Kiều đều là “nga
mi”. Một thuận lợi cho ông là Giáo sƣ Cao Xuân Hạo từng có bài viết “Nghĩa của „mày ngài‟ trong câu thơ „Râu
hùm hàm én mày ngài‟” trên tạp chí Ngôn ngữ từ 1982 [6] cũng có ý tƣởng gần nhƣ ông. Tuy nhiên, đọc bài
Cao xuân Hạo, tôi thấy giữa họ Cao và ông vẫn có chỗ khu biệt. Thứ nhất, ông An Chi trƣớc sau đều nói “nga
mi” chỉ là ƣớc lệ tả lông mày đẹp, còn Cao xuân Hạo cho rằng “nga mi” đích thực là râu con ngài: “ngài và tằm
là hai hình ảnh có giá trị mỹ học hoàn toàn khác nhau, gợi lên những ấn tƣợng và những liên tƣởng hoàn toàn
khác nhau, cho nên, nhất là khi đƣợc dùng nhƣ những ẩn dụ, ngài không thể dùng để chỉ con tằm hay ngƣợc lại,
cũng nhƣ sâu róm không thể dùng để chỉ con bƣớm hay ngƣợc lại” [7] . Ngƣời ta có thể hỏi ông An Chi: Nếu chỉ
thuần là ƣớc lệ tu từ, cớ sao không để cho “mày ngài” của Nguyễn Du có vị trí độc lập trong ngôn ngữ Việt Nam
mà còn buộc nó phải bắt nguồn từ “nga mi” Trung Quốc làm gì cho thêm rắc rối? Có phải một cách vô tình, ông
vẫn muốn tìm từ nguyên cho nó, và khi tìm từ nguyên thì ông lại lƣớng vƣớng vào “thói quen liên tƣởng” mà ai
cũng dễ có khi dùng loại từ này nhƣ trên tôi đã nói chăng (nếu không, sao lại “nga mi” mà không “ngọa tàm
mi”)? Về phần tôi, xem xét Truyện Kiều nhƣ một tác phẩm văn chƣơng cổ điển, với hệ thống thi pháp cổ trung
đại phƣơng Đông, tôi không thể cho phép mình chỉ dùng suy lý mà buộc phải “nói có sách mách có chứng”.
“Mày ngài”→“ngọa tàm mi” trong quan hệ tƣơng hỗ Truyện Kiều→Tam quốc diễn nghĩa là một chứng cứ khó
lòng bác bỏ, nên tuy rất muốn thừa nhận quan điểm thẩm mỹ mới mẻ của Nguyễn Du khiến nhà thơ “không
đồng nhất tƣớng mạo của Từ Hải với tƣớng mạo của một Quan Vân Trƣờng, vì ông sống ở một thời đại có đủ
điều kiện để chấp nhận và thƣởng thức một kiểu nhân vật không vẹn thuần nhƣ thế” [8] nói nhƣ Cao Xuân Hạo,
nhất là khi đọc đến đoạn ông Hạo bàn giải rất hay về bộ râu con ngài: “Ai đã từng xem kỹ đôi mày (hay nói cho
đúng hơn, đôi ăng ten) của con ngài, đều phải chú ý đến vẻ đẹp lạ lùng của nó. Ðó là bộ phận đẹp nhất trong
con vật vụng về, yếu ớt và chẳng lấy gì làm thanh tú này. Ðặc điểm nổi bật của nó là ở chỗ nó xếch lên, hơi
cong và khá dài so với “mặt” của nó, hai bên đƣờng sống chính có hai hàng tơ mảnh tỏa ra thành hình lá dƣơng
xỉ (hay phƣợng vĩ) hẹp và nhọn. Ví thử đôi “mày” này màu đen, trông nó sẽ có phần thô hơn, có chiều rộng hơn
lông mày trung bình của con ngƣời. Nhƣng màu trắng sữa và chất liệu mỏng manh, nhẹ nhàng của nó làm cho
nó trông rất thanh tú. Ðƣờng nét hơi cong của đôi mày ngài khiến cho nó có đƣợc một dáng dấp mềm mại,
hƣớng đi chếch lên của nó khiến cho nó có đƣợc một phong thái uy nghi. Nó chính là mẫu hình của một trong
những cách vẽ lông mày trong truyền thống hóa trang trên sân khấu cổ điển của ta, của Trung Quốc và của
Nhật Bản, dành cho một số nhân vật trẻ đẹp, hoặc thuộc phái nữ, hoặc thuộc phái nam, tuy mày của đàn ông
đƣơng nhiên phải vẽ to và đậm nét hơn của đàn bà, và cũng không phải không bao giờ có thể tìm thấy trên sân
khấu cổ điển một vai nữ có đôi mày cong nhƣng không xếch lắm, hay một vai nam, nhất là một vai võ, có đôi
mày xếch nhƣng không cong lắm, v.v.” [9] , tôi vẫn cứ phải... tỉnh táo dè chừng, không để mình bị “quyến rũ”
vô điều kiện. Thế còn với “nét ngài” và “mày ngài” dùng cho Thúy Vân, cho các nàng ca kỹ, vì sao tôi dễ dàng
đồng tình đấy là “nga mi” chứ không tán thành các ông Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Quảng Tuân đã quá nệ cổ
tin theo các cụ Phạm Kim Chi, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim? Bên cạnh sức thuyết phục của vẻ đẹp bộ râu con ngài
(đúng nhƣ Cao Xuân Hạo nói) [10] và sự trợ lực rất “nặng ký” của các ý kiến Nguyễn Đức Vân, Đào Duy Anh
[11] , chính sách tƣớng số cũng cho tôi biết “ngọa tàm mi” chỉ thích hợp với trạng mạo của phái nam mà không
thích hợp chút nào với phái nữ: “ Đãn “ngọa tàm mi” tắc tòng vị kiến cập. Nữ tính nhi cụ [hữu] giá chủng mi giả,
thù phi cát triệu. Cái thử chủng mi chỉ thích nghi ƣ nam tính. Nhân ám tàng sát khí, cƣơng dƣơng thậm thịnh 但
臥 蠶 眉 則 從 未 見 及 。女 性 而 具 [有] 這 種 眉 者 。殊 非 吉 兆 。蓋 此 種 眉 只 適 宜 於 男 性 。因 暗 藏 煞 氣 。剛 陽
甚 盛” (Tất Hƣu, tài liệu đã dẫn); tạm dịch: “Duy “mày tằm nằm” thì chƣa từng thấy [ở nữ giới]. Ngƣời mang nữ
tính mà có loại lông mày này thì tuyệt không phải là điềm tốt. Vì thế loại lông mày này chỉ thích hợp cho nam
tính, do chỗ nó ẩn giấu sát khí, cƣơng dƣơng rất thịnh”.

Giữa ông An Chi và Cao Xuân Hạo còn khác nhau ở một điểm thứ hai: trong khi ông An Chi đi vào trình bày
nhiều mặt của vấn đề thì ông Hạo lại gói gọn vấn đề chủ yếu ở góc độ cấu trúc ngôn ngữ. Ấn tƣợng về luận
điểm của ông trong tâm trí ngƣời đọc do đó có phần đậm nét hơn. Theo ông Hạo, trong cấu trúc tiếng Việt có
một loại tổ hợp danh ngữ gồm “hai từ đơn tiết ghép lại thành cặp, không có giới từ hay liên từ đứng giữa - đặc
biệt là khi từ đầu chỉ một bộ phận của cơ thể động vật và từ sau chỉ loài động vật có cái bộ phận ấy” [12] “đƣợc
dùng nhƣ những ẩn dụ để tả ngƣời” [13] thì bao giờ quan hệ giữa hai yếu tố cũng phải là quan hệ có ý nghĩa sở
hữu chứ không có ý nghĩa tỷ dụ (chẳng hạn nói “râu hùm” là muốn nói râu của con hùm chứ không phải muốn
nói râu nhƣ con hùm, hoặc nói “hàm én” là muốn nói hàm của con én chứ không phải muốn nói hàm nhƣ con
én...). Sau khi viện dẫn hàng chục trƣờng hợp hoàn toàn ăn khớp với quy tắc đó, nhà ngôn ngữ học đi đến một
biện luận then chốt: “Cách thuyết minh bác học về từ tổ mày ngài (theo quan hệ tỷ dụ: mày nhƣ hình con tằm -
NHC) tạo nên cái lệ ngoại duy nhất cho một quy tắc có tác dụng tuyệt đối trong một phạm vi bao gồm hơn hai
vạn trƣờng hợp, và có lẽ cũng là cái lệ ngoại duy nhất trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du, một nhà thơ vốn
chú tâm sử dụng tiếng Việt đúng nhƣ ngƣời Việt bình thƣờng vẫn hiểu, đến nỗi có khi sẵn sàng đi ngƣợc lại với
từ nguyên, và bao giờ cũng tôn trọng sự đối xứng giữa các thành tố song hành của câu thơ. Quả thật khó lòng
có thể tìm đƣợc một trƣờng hợp nào khác mà Nguyễn Du dùng một từ này thay cho một từ khác đến mức ngƣời
Việt chỉ có thể hiểu thành một ý khác hẳn ý của ông nhƣ vậy, và cũng thật khó lòng tìm đƣợc một câu thơ nào
khác của Nguyễn Du trong đó có hai hay ba cặp từ (hoặc cụm ba, cụm bốn từ) đối xứng với nhau chan chát về
nghĩa từ vựng nhƣ râu hùm, hàm én, mày ngài mà lại bị đặt vào những mối quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa
khác nhau đến nhƣ trong cách thuyết minh này” [14] . Nghĩa là Cao Xuân Hạo cho rằng trong Truyện Kiều, xét
về mặt cấu trúc, tổ hợp “mày ngài” chỉ có một nghĩa là râu của con bƣớm tằm, kể cả dùng cho Từ Hải cũng nhƣ
Thúy Vân. Về mặt lôgich mà nói, khó ai bác bẻ đƣợc ý kiến của ông. Dẫu sao, trong thực tiễn đời sống ngôn ngữ
hình nhƣ vẫn có những lệ ngoại. Chẳng nói đâu xa, trong câu “Mày tằm, mắt phụng, môi son” mà chúng tôi
từng trích từ Lục Vân Tiên ở bài viết lần trƣớc, thì “mày tằm” và “môi son” lại đúng là quan hệ tỷ dụ (mày nhƣ
con tằm, môi nhƣ thỏi son), chỉ có “mắt phụng” mới thuộc quan hệ sở hữu (mắt của chim phƣợng). Mà “mày
tằm mắt phụng” vốn là thành ngữ hết sức phổ biến ở Nam Bộ, không phải riêng một Nguyễn Đình Chiểu mới
dùng (ca dao: “Gái Mỹ Tho mày tằm mắt phụng/Giặc đến nhà chẳng vụng gƣơm đao”). Ngay nhƣ các cặp từ
“miệng hùm gan sứa”, “khẩu Phật tâm xà” trong thành ngữ Việt Nam nếu ta giải thích bằng quan hệ sở hữu e
chƣa chắc đã thích hợp bằng quan hệ tỷ dụ, vì nói “miệng của hùm, gan của sứa” ngƣời đọc sẽ khó thông hơn là
nói “miệng [dữ] nhƣ hùm, gan [mềm] nhƣ sứa”, nói “miệng của Phật, bụng dạ của rắn” sẽ khó thông hơn là nói
“miệng [hiền] nhƣ Phật mà bụng dạ [độc] nhƣ rắn”. Kể cả một cặp từ có hơi xa với những ví dụ đang bàn là cặp
“mẹ cú con tiên” đứng về mặt ngữ pháp cũng không thể lấy quan hệ sở hữu giải thích thay cho quan hệ tỷ dụ
đƣợc (mẹ xấu nhƣ cú, con đẹp nhƣ tiên). Vân vân...

Chốt lại, qua nhiều đợt bàn thảo lâu dài trên không ít báo chƣơng, câu hỏi chƣa có lời giải trọn vẹn vẫn cứ là:
“mày ngài” là “mày ngài” hay “mày tằm”? Buộc lòng, chúng ta đành phải tùy văn cảnh mà tìm lấy ngữ nghĩa
thích hợp chứ không thể nhất loạt áp dụng một kiểu cấu trúc nào đó hay một loại định kiến nào đó để rút ra đáp
số cuối cùng.

Hà Nội, 6-5-06

© 2006 talawas

[1]Xem talawas 27-3-2006


[2]Về mấy chữ “đan phƣợng nhãn” tôi rất tán đồng với ông An Chi hiểu “đan” là bổ ngữ cho “phƣợng” chứ không
phải bổ ngữ cho “nhãn”. Vì thế ở đây con mắt không phải có màu đỏ mà là mắt của loài chim đan phƣợng. Xin
đƣợc đính chính lại chỗ nhầm lẫn trong bài viết trên talawas của mình.
[3]Cần chú ý thêm: tại sao ngƣời Nam Bộ nói “mắt phụng mày tằm” mà không nói “mắt phụng mày ngài”? Phải
chăng “ngài” là bắt nguồn từ “nga” trong chữ Hán nhƣng Việt hóa triệt để hơn và sớm hơn “tằm” bắt nguồn từ
“tàm”? Cũng vậy “phƣợng” có gốc là “phụng” nhƣng đã đƣợc Việt hóa triệt để hơn “phụng”. Và trong quy luật
đồng bộ của ngôn ngữ vần vè tiếng Việt, đã phát âm Hán Việt ở danh từ này thì cũng phải phát âm Hán Việt ở
danh từ kia tƣơng ứng với nó và ngƣợc lại? Từ đây có thể suy đoán xa hơn: nghề trồng dâu nuôi tằm vốn không
có ở nƣớc ta mà du nhập từ Trung Quốc, cho nên buổi đầu ngƣời Việt lẫn lộn “tàm” = con tằm với “tàm nga” =
con ngài, và đã gọi tỉnh xƣng là “con ngài” để chỉ cả hai. Rất lâu về sau mới gọi phân biệt “ngài” và “tằm”. Nếu
đúng nhƣ thế thì “mày ngài” = “mày tằm” hiện còn bảo lƣu ở vùng Nghệ Tĩnh nhƣ Nguyễn Đức Vân nói là điều
dễ hiểu.
[4]Nguyễn Du toàn tập, tập II, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học, 1996; tr. 48.
[5]Tôi không dám chắc sách này là sách tƣớng nhƣng chắc chắn là sách tập hợp các thành ngữ xƣa nói về tƣớng
mạo.
[6]Tạp chí Ngôn ngữ, số 2-1982. Đăng lại trên mạng talawas 1-4-2006.
[7]Cao Xuân Hạo, Bđd.
[8]Cao Xuân Hạo, Bđd.
[9]Cao Xuân Hạo, Bđd.
[10]Xin nhắc lại, Từ hải và Từ nguyên bộ mới đều có cách lý giải “nga mi” thống nhất và rất chuẩn, hoàn toàn
không phải là ƣớc lệ: “Nga mi: tàm nga đích xúc tu, loan khúc nhi tế trƣờng, nhƣ nhân đích mi mao, cố dĩ tỉ dụ
nữ tử trƣờng nhi mỹ đích mi mao 蛾 眉 。蠶 蛾 的 觸 鬚。彎 曲 而 細 長 。如 人 的 眉 毛 。故 以 比 喻 女 子 長 而 美 的
眉 毛”; Tạm dịch: “Nga mi: sợi râu của con ngài tằm, cong cong mà dài mịn, giống nhƣ lông mày của ngƣời, cho
nên dùng để tỷ dụ lông mày dài và đẹp của phụ nữ”.
[11]Xin xem “Nét ngài” và “mày ngài”, Bđd.
[12]Cao Xuân Hạo, Bđd.
[13]Cao Xuân Hạo, Bđd.
[14]Cao Xuân Hạo, Bđd.
vBulletin® v3.7.0 Beta 3, Copyright ©2000-2008, Jelsoft Enterprises Ltd.

You might also like