You are on page 1of 29

Nguồn ảnh: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_3758.

htm

1. Mọt gạo

Tên khoa học: Sitophilus oryzae Linné

Họ: Curculionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Nhiều nguồn tài liệu đều xác nhận mọt gạo phân bố hầu khắp thế giới. Ở các nước nhiệt
đới và á nhiệt đới trong các sản phẩm ngũ cốc đều gặp mọt này. Ở nhiều nước, mức độ
phổ biến của mọt gạo còn rộng hơn mọt thóc rất nhiều. Có thể mọt gạo có nguồn gốc từ
Ấn Độ.

Đối với lương thực bảo quản trong kho ở nước ta, mọt gạo được xếp vào loại sâu hại
nguy hiểm số một. Bởi vì mọt gạo ăn hại tất cả các loại lương thực, mọt gạo sinh sản rất
nhanh, có khả năng thích nghi rộng với các điều kiện ngoại cảnh khác nhau, thời gian
sống dài hơn các loại mọt khác.

Ngoài lương thực, hầu hết các hàng từ thực vật như đậu đỗ, hạt có dầu, dược liệu, các loại
quả khô,… đều bị mọt gạo ăn hại.
Theo kết quả điều tra, ở tất cả các vùng ở nước ta đều thấy mọt gạo, tất cả các tháng trong
năm đều thấy có mọt này, và sự biến động về số lượng giữa các tháng trong năm không
đáng kể.

Mọt có vòi nhọn, khi ăn hại, nó dùng vòi đục một lỗ nhỏ, đẻ trứng vào vật bị hại, sâu non
phát triển trong đó, ăn hại làm cho sản phẩm chỉ còn lại một lớp vỏ mỏng, không còn giá
trị sử dụng nữa.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 3 – 4 mm, rộng 1,0 – 1,2 mm, toàn thân màu nâu xám đen,
trên đầu có vòi nhô dài ra. Râu hình đầu gối có 8 đốt. Trên mảnh ngực trước có những
đốm tròn nhỏ lõm vào. Trên cánh cứng có những đường dọc lõm cũng có những điểm
tròn. Trên lưng cánh cứng gần đầu và gốc cánh có 4 vòng gần tròn màu vàng nâu hay đỏ
nâu trông rất rõ. Ở dưới cánh cứng có màng phát triển.

Con đực có vòi ngắn và to hơn con cái, trên mặt lưng chấm lõm dài và rõ hơn con cái.
Ngoài ra trên vòi con cái không có chấm lõm ở đoạn cuối.

Trứng: Dài 0,45 – 0,70 mm, rộng 0,24 – 0,30 mm, hình bầu dục dài, một đầu có hình
nuốm phình ra. Lúc mới nở màu trắng sữa, dần dần biến thành màu vàng nhạt, đục.

Sâu non: Trưởng thành mình dài 2,5 – 3,0 mm, đầu nhỏ màu nâu nhạt, ngực và bụng màu
trắng, trên mình có nhiều đường vân ngang. Thân mập, ngắn, thường cong lại làm cho
mặt lưng thành hình bán nguyệt. Mặt bụng gần như bằng, có màu trắng đục.

Nhộng: Thân dài 3,5 – 4,0 mm, hình bầu dục, lúc mới hóa nhộng màu trắng sữa, sau
thành màu nâu nhạt.

Đặc tính sinh vật học

Mọt hoạt bát. Có tính giả chết, thích bò lên cao và phía ngoài các bao nông sản, bay được
khá tốt. Mọt có thể sinh sôi nảy nở trong kho và cả ngoài đồng. Khi đẻ trứng, dùng vòi có
hàm trên ở phía đầu vòi khoét một lỗ, sau đó đẻ trứng vào lỗ này và dùng ống đẻ trứng
tiết ra một chất nhầy bảo vệ trứng và bịt kín lỗ lại. Mỗi lần đẻ 1 quả, có khi 2 – 3 quả
(Provett, 1960). Thời gian để đẻ 1 quả trứng tùy thuộc vào độ cứng của nông sản, thường
mất khoảng 1/2 đến 2 giờ. Mỗi con mọt cái một ngày có thể đẻ được 3 – 10 trứng, mỗi
năm bình quân đẻ 380 trứng, nhiều nhất có thể để tới 576 trứng. Từ một đôi mọt đực và
mọt cái, nếu sống trong điều kiện thích hợp, theo tính toán trong một năm có thể sinh sôi,
nảy nở thêm 800.000 con khác.

Sâu non nở ra là bắt đầu ăn hại, đục sâu vào trong lòng hạt, làm cho hạt chỉ còn lại lớp vỏ
bên ngoài, không còn giá trị sử dụng nữa. Ở vùng nhiệt đới mỗi năm sinh 4 – 7 lứa. Ở
vùng ôn đới, khí hậu lạnh mỗi năm chỉ sinh 1 – 2 lứa. Thời kỳ trứng 3 – 16 ngày, sâu non
13 – 28 ngày, tiền nhộng 1 – 2 ngày, nhộng 4 – 12 ngày, trưởng thành 54 – 311 ngày. Sâu
non có 4 tuổi: tuổi 1 đến tuổi 3 từ 3 – 4 ngày, tuổi 4 từ 4 – 9 ngày.
Thời gian hoàn thành một thế hệ mọt gạo phụ thuộc rất chặt chẽ vào độ nhiệt, độ ẩm và
thức ăn. Theo kết quả nghiên cứu thì thấy: trong lương thực có thủy phần 14% và độ
nhiệt 200C thì thời gian hoàn thành một thế hệ mọt gạo khá dài, trong lúa mì 53 ngày,
trong thóc 60 ngày. Khi độ nhiệt tăng dần đến 280C thì thời gian hoàn thành một thế hệ
rút ngắn lại. Tăng độ nhiệt từ 28 lên 300C, thời gian hoàn thành một thế hệ gần như
không thay đổi: trong lúa mì là 38 ngày, trong thóc và ngô khoảng 40 – 41 ngày, còn
trong khoai sắn lát khô trên 50 ngày. Độ nhiệt tăng tới 320C tốc độ sinh sản giảm, thời
gian hoàn thành một thế hệ kéo dài: trong lúa mì, thóc và ngô tới 53 – 54 ngày, trong
khoai khô 71 ngày, và trong sắn khô 90 ngày. Ở 340C nói chung sự sinh sản khó khăn.

Thời gian hoàn thành một thế hệ phụ thuộc chặt chẽ vào thủy phần của hạt. Khi thủy
phần của hạt tăng thì thời gian hoàn thành một thế hệ mọt giảm. Sự phụ thuộc này không
theo dạng đường thẳng, mà theo dạng hàm số bậc hai. Khi trong lúa mì, ngô, thóc và sắn
lát có thủy phần 11,5% trứng mọt vẫn còn khả năng nở và trở thành mọt, nhưng thời gian
hoàn thành một thế hệ trên 70 ngày. Riêng trong khoai khô, với thủy phần này, mọt
không sinh sản được. Khi thủy phần của hạt tăng tới khoảng 14,3 % thời gian hoàn thành
một thế hệ rút ngắn dần, nhưng nói chung tốc độ chuyển hóa các giai đoạn ấu trùng thành
mọt vẫn còn chậm. Với thủy phần lương thực từ 15 % trở lên thì mọt nở khá nhanh.

Mọt gạo hoạt động mạnh nhất ở độ nhiệt 24 – 300C, trong đó thích hợp nhất là độ nhiệt
290C. Ở dưới 130C và trên 380C mọt sẽ ngừng hoạt động. Theo Cotton thời gian thực
hiện một thế hệ ở 27,20C chỉ mất 25 ngày, còn ở 170C mất tới 92 ngày. Độ ẩm tương đối
của không khí thích hợp nhất đối với sự phát triển của mọt gạo khoảng 90 – 100 %, độ
ẩm cần thiết của sự đẻ trứng thấp nhất khoảng 60 %. Mọt không thể sinh sản ở hạt có
thủy phần dưới 8 % và trên 40 %, thủy phần tối thiểu, cần thiết cho sự sinh sản là 10 %,
tốc độ sinh sản mạnh nhất là khi thủy phần của hạt từ 15 – 20 %, trong đó thích hợp nhất
khi thủy phần hạt là 17 %, quá 20 % thủy phần thì sự sinh sản chậm lại.

Theo tài liệu của Nhật Bản, gạo có thủy phần 17,6 %, nuôi sau 58 ngày ở các độ nhiệt
khác nhau, kết quả sinh sản như sau:

- Ở 300C, số mọt ban đầu 10, về cuối 49, tỉ lệ sinh sản tăng 390 %. Số sâu non tăng 1.130
%.

- Ở 200C, số mọt ban đầu 10, về cuối, tỉ lệ sinh sản tăng 110 %. Số sâu non tăng 380 %.

- Ờ 100C, số mọt ban đầu 10, về cuối 12, tỉ lệ sinh sản tăng 20 %. Số sâu non giả 30 %.

- Ở 00C, số mọt ban đầu 10, về cuối 7, giảm 30 %. Số sâu non giảm 70 %.

Mọt gạo có khả năng nhịn ăn, thời gian nhịn ăn phụ thuộc chủ yếu vào độ nhiệt, có thể từ
6 - 12 ngày. Khi độ nhiệt tăng thì thời gian nhịn ăn giảm. Thời gian nhịn ăn của mọt gạo
khi độ ẩm không khí 80 - 90 %, ở độ nhiệt 16 - 180C là 32 ngày, ở 20 - 250C là 19 ngày,
ở 26 - 270C là 6 - 8 ngày.
Mọt gạo trung bình sống khoảng 180 – 200 ngày. Thời gian sống của mọt gạo phụ thuộc
chủ yếu vào độ nhiệt và thủy phần của hạt. Bảng: Thời gian sống của mọt gạo các trong
thủy phần khác nhau của hạt ở độ nhiệt 25 – 270C Thời gian sống (ngày) Thủy phần của
hạt (%)
10 12 14 18
Ngắn nhất 18 32 36 38
Dài nhất 32 52 123 183
Trung bình 27 36 85 98

© Theo Vũ Quốc Trung, 1981


--------------------------------------------------------------------------------------------
Nguồn ảnh: http://www.zin.ru/Animalia/Coleoptera/images/loppushe.jpg

Mọt thóc Thái Lan

Tên khoa học: Lophocateres pusillus Klug

Họ: Lophocatelidae (Theo Trần Văn Mì, 2004)

Bộ: Coleoptera
Phân bố và tác hại

Mọt này có khắp thế giới. Ở các vùng trong nước ta đều có gặp mọt thóc Thái Lan. Mọt
có thể ăn hại nhiều loại sản phẩm khác nhau như: lạc, vừng, thầu dầu, các loại bột ngô,
mọt phát sinh chủ yếu trong các kho thóc.

Mọt thóc Thái Lan thuộc loại mọt ăn hại thời kỳ sau, nó không có khả năng ăn hại hạt
còn nguyên vẹn và khô ráo, trong kho thóc và kho dược liệu, nó thường ở góc kho, những
chổ ẩm tối và có nhiều tạp chất.

Đặc điểm hình thái:

Dạng trưởng thành: Thân dài 2,5 – 3,0 mm, rộng 1,2 – 1,5 mm, hình bầu dục bằng và dẹt,
màu nâu hồng, có lác đác lông nhỏ màu vàng nâu, không có ánh, trên cánh cứng có nhiều
chấm lõm; chấm lõm trên đầu vừa dầy, vừa to. Râu đầu hình dùi trống, ngắn, có 11 đốt.
Đốt 1 to và lớn, 3 đốt cuối cùng có dạng hình dùi trống. Ngực trước dẹt, gần giống hình
chữ nhật, có nhiều điểm nhỏ, hai góc mép ngực trước lồi về phía trước, hai bên ngực hơi
cong và có hai đường biên mỏng và hẹp. Mép sau ngực trước và cánh cứng khít với nhau
trông như nối tiếp nhau. Cánh cứng song song, mỗi cạnh có 7 đường sống tròn, giữa sống
trên đều có 2 hàng chấm lõm sâu và dày. Mép ngoài cánh cứng làm thành một biên mỏng
và hẹp.

Trứng: Hình bầu duc, dài 0,5 – 0,6 mm, màu trắng sữa, mờ đục.

Sâu non: Khi đẫy sức, mình dài 5,2 mm, rộng 1,1 mm. Thân dài và dẹt màu xám trắng,
đoạn trước và sau hơi thắt nhỏ lại, có một ít lông màu xám trắng và hơi sáng. Đầu đốt
cuối bụng màu vàng nâu, ngọn đốt cuối bụng có 2 đuôi lồi, phần nhọn hướng lên trên và
cong vào bên trong, giữa 2 đuôi lồi có một răng có cạnh.

Đầu tương đối to, gần giống hình vuông, trên ngực trước không có mảnh cứng và ở các
đốt ngực 2 và 3 không có mảnh nhỏ. Ngực sau và ngực giữa rộng hơn, không dài hơn
ngực trước, cạnh hơi cong.

Bụng hơi to, có 9 đốt, 2 cạnh ở các đốt đều hơi tròn, phần sau thu hẹp dần, 8 đốt trước
ngắn màu xám trắng, sáng, lồi lõm và không bằng phẳng, có nếp gấp ngang và trên đỉnh
có hàng gỗ nổi lên; 1 hàng ở khu bên không được rõ lắm. Đốt thứ 9 hơi hẹp hơn, trên
mảnh lưng có một mảnh hóa xương lớn màu nâu vàng, mảnh này lõm sâu vào rảnh của
đốt thứ 8, ở khoảng 1/3 phía trước có nếp gấp ngang, phần đỉnh có hốc rãnh rộng, phần
ngọn có một rãnh cạnh ở chính giữa, hai cạnh của răng đều có một đuôi lồi, phần nhọn
hướng lên trên và cong vào bên trong.

Mặt bụng thân bằng dẹt, màu sắc nhạt, có một số lông nhung. Chân ngắn, màu sắc nhạt,
mỏng và nhỏ.

Nhộng: Dài 2,2 – 2,8 mm, hình bầu dục, màu vàng nâu, đầu cong xuống.
Đặc tính sinh vật học

Hoạt động của mọt thóc Thái Lan chậm chạp, thường bám chặt trên mặt như bao bột mì,
vải, giấy. Có tính sống thành đàn, thường phá hại thóc, nhưng chỉ ăn hại được sau khi sâu
hại khác đã gây thiệt hại.

Qua theo dõi của chúng tôi ở các kho thóc thì mọt thóc Thái Lan thường xuất hiện đồng
thời với mọt râu dài và mọt răng cưa. Ở những vị trí trong kho khác nhau, mật độ mọt
thóc Thái Lan có khác nhau. Mọt thóc Thái Lan thường sống ở trên lớp mặt, nó không
sống ở phía sâu.

Mọt thóc Thái Lan không thể tăng thêm số lượng trong thóc có thủy phần 12 % trở
xuống, thóc có thủy phần 15 % và nhiều tạp chất rất thích hợp cho đời sống của chúng.

© Theo Vũ Quốc Trung, 1981


Nguồn ảnh: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_3004.htm

Mọt răng cưa

Tên khoa học: Oryzaephilus surinamensis Linné

Họ: Silvanidae

Bộ: Coleoptera
Phân bố và tác hại

Mọt này có khắp các nước trên thế giới, ở các vùng trong nước ta đều thấy mọt này. Nói
chung hầu hết các loại sản phẩm thực vật bảo quản trong kho đều bị hại: lương thực, hạt
giống, hạt có dầu, dược liệu,... Tính ăn hại của nó rất phức tạp, thích ăn những hạt đã nát,
sản phẩm đã bảo quản lâu ngày, bị biến chất. Mọt răng cưa thuộc loài phá hại nguy hiểm
trong các loài sâu hại thời kỳ sau.

Ðặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 2,5 - 3,5 mm, dài và dẹt, màu hồng nâu đục đến nâu thẫm,
có lông màu nhung màu trắng nhạt không dày lắm. Ðầu gần giống hình tam giác, về phía
đáy đầu hơi lõm vào, đoạn trước hẹp, trên mặt có vật lồi rất to, dạng hạt đặc biệt ở 2/3
của đoạn sau. Mắt màu đen, nhỏ. Râu hình chùy, có 11 đốt, 3 đốt cuối to và mập có dạng
hình que. Ngực trước gần giống hình trứng, ở giữa cao lên, có 3 đường dọc. Hai bên
ngực, ở mỗi bên mép có 6 gai lồi ra trông rất rõ và giống như răng cưa, đôi răng cưa đầu
và đôi răng cưa cuối trông rõ hơn 4 đôi ở giữa, trên mặt và đầu có vật lồi dạng hạt, có 3
đường sống dọc, lông nhung rõ ràng, sống giữa thẳng, 2 sống cạnh bên và sống giữa với
2 cạnh ngực trước cách xa như nhau. Sống có lông nhung dọc, giữa sống có lông nhung
ngang. Trên cánh cứng có 10 đường chạy dọc, có nhiều lông nhỏ màu vàng nâu.

Con đực ở đốt đùi mép trong có mọc một gai nhỏ.

Trứng: Dài 0,7 - 0,9 mm, hình bầu dục dài, màu trắng sữa, vỏ trứng bóng.

Sâu non: Khi đã lớn dài 3 - 4 mm. Thân hình ống tròn màu xám trắng. Ðầu hình bầu dục
dài, màu nâu nhạt. Ðầu và mặt lưng có màu ở khu hóa xương trên các đốt. Mặt bụng phía
lưng hơi song song, hai cạnh cũng gần như song song, 3 đốt đoạn trước hình chóp tròn,
đốt thứ 9 không có đuôi lồi. Ðầu dẹt, kiểu miệng trước. Râu tương đối dài, độ dài đầu râu
bằng độ dài của râu, râu có 3 đốt, đốt thứ 3 dài nhất, đốt 1 ngắn nhất, đầu râu tương đối
to. Nhìn chung toàn thân màu trắng sữa, ở trên các đốt ngực, ở mỗi bên có một mảnh
hình bán cầu hay gần giống hình bầu dục màu vàng nâu.

Nhộng: Dài 2,5 - 3 mm, lúc đầu màu sữa, đến khi thành thục có màu nâu nhạt, không có
lông. Hai bên sườn của các đốt bụng có 6 phụ vật nhô ra. Cuối bụng có 2 gai thịt nhỏ màu
nâu.

Ðặc tính sinh vật học

Mọt bò rất nhanh mặc dù có cánh, nhưng rất ít khi bay. Khi bay, có thể bay được cao, và
bay được xa. Nó thường bám chặt vào mặt, khe kẽ bao bì, vật dụng chứa đựng hàng hóa.
Mọt răng cưa chỉ phát triển mạnh, và phá hại nghiêm trọng các sản phẩm đã bị sâu hại
thời kỳ đầu ăn hại và làm vụn nát. Trong các kho lương thực bị mọt gạo và mọt đục thân
phá hại thường mật độ mọt răng cưa rất cao. Ðối với các sản phẩm chưa bị sâu hại thời
kỳ đầu làm vụn nát, nó chỉ phá hại được khi có thủy phần cao. Vì vậy khi vào kho kiểm
tra, thấy có mọt răng cưa, chứng tỏ phẩm chất hàng hóa đã giảm sút nghiêm trọng. Nói
chung, lương thực có thủy phần 12 % trở xuống, mọt răng cưa không thể phát triển được.

Mỗi năm sinh 2 - 5 lứa. Ở 200C thực hiện vòng đời mất 69 ngày; ở 250C cần 30 ngày; ở
300C cần 21 ngày; ở 350C cần 18 ngày. Mỗi con cái, một đời đẻ được 35 - 100 trứng,
bình quân 70 trứng, nhiều nhất là 285 trứng. Ở 300C, độ ẩm 70 %, mọt trưởng thành nở
ra được 5 - 6 ngày bắt đầu đẻ trứng. Trứng đẻ thành ổ, trong kẽ hoặc đẻ rải rác 3 - 4 quả.

Trên mặt trứng có phủ lớp nhựa dính, cho nên trứng mới đẻ dính vào nhau và dính vào
thức ăn đã vụn nát. Thời gian đẻ trứng khoảng hơn 2 tháng. Mỗi ngày đẻ 6 - 10 quả, cứ
như thế tiếp tục độ 3 - 4 tuần lễ, sau đó giảm dần xuống. Tỷ lệ trứng nở thường rất cao,
đạt khoảng 95 %. Do tốc độ phát triển cao, đẻ trứng nhiều, và tỷ lệ chết thấp, cho nên
quần thể tăng lên rất nhanh. Sức sống của mọt trung bình khoảng 6 tháng, dài nhất có thể
đến 1 năm rưỡi.

Mọt răng cưa có khả năng chịu lạnh tương đối khá, ở 00C, tất cả các giai đoạn phát triển
của mọt răng cưa có thẻ sống được 22 ngày, còn ở -50C chỉ sống được 13 ngày. Ngược
lại khả năng chịu đựng độ nhiệt cao tương đối kém, ở 500C, tất cả các giai đoạn phát
triển đều bị chết sau 40 phút. Ở 550C, tất cả các giai đoạn phát triển của mọt răng cưa chỉ
sống được 10 phút.

Mọt răng cưa thoát ẩm rất mạnh, những sản phẩm có mật độ mọt này cao thủy phần tăng
lên rất nhanh.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_865.htm

Mọt gạo thòi đuôi


Tên khoa học: Carpophilus dimidiatus Fabricius

Họ: Nitidulidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này phân bố khắp thế giới, ở nước ta khắp các vùng đều có. Nó ăn hại được nhiều
sản phẩm khác nhau như gạo, thóc , lúa mì ,bột mì, cao lương, các loại đậu, hạt có dầu,
quả khô, mía, bông,... Nói chung tính ăn hại của nó rất phức tạp. Nó thuộc loại phá hại
nghiêm trọng.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài: 2,5 - 3 mm, rộng 1,2 - 1,5 mm, màu nâu đậm, lưng tương
đối bằng phẳng. Trên lưng có nhiều điểm nhỏ và lông nhỏ màu vàng nâu. Đầu to và
rộng , mắt kép hình tròn màu đen. Râu hình dùi trống có 11 đốt, 3 đốt râu đầu hẹp, nhưng
phình to, màu đen nâu, các đốt khác bé nhỏ màu nâu đục. Lưng của mảnh ngực trước gần
giống hình chữ nhật. Cánh cứng màu nâu gần giống hình vuông, mỗi cánh cứng gần
giống hình chữ nhật. Hai cánh cứng khi khép lên lưng không phủ hết bụng còn thò ra 2
đốt.

Hai đầu cánh cứng xếp lại thành hình chữ bát. Bụng màu nâu đục có 5 đốt, đốt thứ nhất
và đối cuối cùng dài nhất, đối thứ 4 tương đối ngắn, đốt thứ 2 và thứ 3 ngắn nhất.

Trứng: Dài 0,84 mm, rộng 0,27 mm, hình bầu dục dài, màu trắng sữa.

Sâu non: Khi đã lớn dài từ 5 - 8 mm, lưng hơi cao lên, phía bụng tương đối ngắn và nhỏ.
Ngực và bụng 12 đốt màu trắng sữa có ánh, 3 đốt bụng và đốt ngực thứ nhất, đốt bụng
cuối cùng dài nhất, còn các đốt khác tương đối ngắn. Từ đốt bụng thứ nhất trở về cuối
cùng to mập và trông rất rõ, đốt cuối cùng nhọn và hẹp và có 2 phụ vật giống như gai
chĩa về sau.

Nhộng: Thân dài 3 mm, rộng 1,2 - 1,3 mm màu vàng nâu.

Đặc tính sinh vật học

Mỗi năm sinh 5 - 6 lứa, mỗi con cái thường đẻ được 80 trứng, nhiều nhất có thể đẻ tới
225 trứng và sống được 207 ngày, con đực sống được 168 ngày. Ở 25 - 280C thời kỳ
trứng mất 4 - 5 ngày, sâu non mất 40 - 47 ngày và lột xác 3 lần, nhộng mất 6 - 7 ngày.

Mọt ưa ánh sáng và thích bay bổng, thường sống tập trung và có tính giả chết. Gần tối,
mọt ở trong kho bay ra ngoài , thích ăn hại các quả chín và quả thối. Sâu non hoạt động
mạnh, thích sống ở trong lương thực ẩm ướt và vỡ nát, đã bảo quản lâu ngày và thường
đục chui vào trong hạt để ăn hại.

Mọt sinh sản rất nhanh, hóa nhộng trong đất, nếu không có đất cũng thể cũng hoàn thành
vòng đời ngay trong thức ăn. Hàm lượng nước trong thức ăn có ảnh hưởng trực tiếp và rõ
rệt đến đời sống của mọt. Mọt không thể sinh sản và phát triển trong lương thực có thủy
phần 10 %, những sản phẩm có thủy phần 17 - 33 % rất thích hợp với sự phát triển của
mọt. Trong điều kiện đó mọt đẻ nhiều, thực hiện vòng đời ngắn và thời gian sống kéo dài.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: Trần Văn Mì

Mọt râu dài

Tên khoa học: Cryptolestes minutus Olivier

Họ: Curculionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này có ở khắp nơi trên thế giới, các vùng ở nước ta đều có mọt này. Nó ăn hại lương
thực, nhất là lương thực bảo quản lâu ngày, đã bị ẩm ướt vỡ nát, mọt còn ăn hại dược liệu
và nhiều loại sản phẩm khác.

Đặc điểm hình thái


Dạng trưởng thành: Thân dài 2 mm, dài và dẹt, dài gấp 3,5 lần rộng, màu nâu sẫm có
nhiều lông nhỏ màu vàng trắng. Đầu gần giống hình tam giác. Râu con đực hình sợi dài
nhỏ có 11 đốt, râu con cái hình tràng hạt có 11 đốt. Độ dài của râu con đực bằng 2/3 độ
dài của thân, râu con cái dài bằng 1/2 độ dài của thân. Ngực trước thành hình thang, mép
ngực trước rộng hơn mép ngực sau, độ rộng của mép ngực sau bằng độ dài của ngực. Gốc
của mép ngực sau gần thành góc vuông. Hai bên ngực ở gần mép có 2 đường chạy thẳng,
nổi lên trông rất rõ. Độ dài của cánh cứng gấp 1,5 lần độ rộng, trên mỗi cánh cứng có 5 –
6 đường chạy dọc.

Trứng: Dài 0,4 – 0,5 mm, rộng 0,1 - 0,2 mm, hình bầu dục màu vàng sữa.

Sâu non: Khi đã lớn dài 3 mm, đầu dẹt, hình bán cầu màu hồng nâu, ở giữa đầu có đường
chỉ sọ hình chữ bát. Râu ngắn nhỏ, có 3 đốt, đốt thứ 2 dài nhất, đốt thứ 3 rất nhỏ. Thân
màu hồng nâu nhạt, các đốt gần đuôi màu tương đối đậm hơn và to mập hơn. Trên thân
có lác đác những lông nhỏ màu vàng trắng nhạt. Ở hai bên mỗi đốt đều mọc 2 lông màu
vàng trắng nhạt.

Nhộng: Dài 1,5 – 2 mm, rộng 0,8 – 1 mm, hình bầu dục đầu tròn và thon dần về phía
đuôi. Toàn thân màu vàng nâu, đầu màu nâu đen.

Đặc tính sinh vật học

Mỗi năm sinh 3 – 6 lứa, về mùa hạ mọt hoàn thành vòng đời trong khoảng 24 – 25 ngày.
Thủy phần của lương thực thích hợp nhất với mọt là 15 – 16 %.

Ở độ nhiệt 12 – 140C mọt không phát triển được. Ở 16 - 180C, thực hiện một vòng đời
mất 106 ngày, ở 20 – 230C mọt có thể thực hiện 4 lứa trong một năm.

Ở độ ẩm 80 – 85% và độ nhiệt 12 – 140C, mọt có thể nhịn ăn 70 ngày, còn ở 16 – 180C


nhịn được 62 ngày, và ở 25 – 270C chỉ nhịn được 20 ngày.

Ở 00C mọt có thể sống được 112 ngày, còn ở 50C chỉ sống được 32 ngày. Khi độ nhiệt
cao tới 500C tất cả giai đoạn phát triển của mọt chết sau 190 phút, ở 550C là 25 phút, còn
ở 600C chỉ cần sau 10 phút đã chết
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: Trần Văn Mì, 2004
Mọt thóc đỏ

Tên khoa học: Tribolium castaneum Hebst

Họ: Tenebrionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại:

Mọt thóc đỏ phân bố khắp thế giới, ở nước ta khắp các vùng đều thấy có mọt này. Nó có
khả năng ăn hại hơn 100 loại sản phẩm khác nhau như các loại bột, thóc, ngô, lúa mì, lạc,
da, dược liệu, quả khô,..

Chapman nhận xét vì miệng không thích nghi ăn những thức ăn lớn, cho nên nó thuộc
loại sâu hại thời kỳ sau, nó chỉ ăn hại được bột và các loại hạt đã vỡ nát. Lập luận này đã
bị đánh đổ bởi quan sát của Birch, ông đã quan sát và chứng minh là mọt thóc đỏ có thể
sinh sôi và phát triển ngay cả trong các hạt lúa mì còn nguyên vẹn, chỉ có điều là sự sinh
sôi, phát triển chậm hơn trong bột mì mà thôi. Thường mọt ăn hại phôi trước, sau đó ăn
sang các phần khác cuối cùng ăn hết,chỉ để lại một lớp vỏ.

Mọt thóc đỏ là một loại mọt gây thiệt hại rất lớn, nó phát triển số lượng một cách nhanh
chóng và bất thường. Khi ăn hại, mọt tiết ra một chất dịch thối, làm cho lương thực và
các sản phẩm khác có mùi hôi rất khó chịu, giống như mùi gián, làm giá trị thương phẩm
của sản phẩm giảm sút và mất vệ sinh.
Ở nước ta, bột mì bảo quản thường bị mọt thóc đỏ gây nên những tổn thất nghiêm trọng.
Mọt thóc đỏ là một trong những đối tượng phá hại nguy hiểm nhất ở nước ta.

Đặc điểm hình thái:

Dạng trưởng thành: Thân dài 3 – 3,75 mm, rộng 0,97 – 1,5 mm, hình bầu dục dài và dẹt.
Toàn thân có màu nâu ánh, đầu dẹt và rộng. Mắt kép màu đen, nhìn ở mặt dưới đầu thì
thấy khoảng cách của 2 mắt kép bằng đường kính của mắt kép. Râu hình chùy có 11 đốt,
3 đốt đầu phồng to lên. Ngực trước hình chữ nhật, góc của mép ngực trước hơi cong
xuống dưới, trên ngực trước có nhiều điểm nhỏ. Trên cánh cứng có 10 đường rãnh lõm
chạy dọc và trong đường rãnh lõm có nhiều điểm nhỏ xếp thành hàng.

Trứng: Dài 0,6 mm, rộng 0,4 mm, hình bầu dục, màu trắng sửa. Vỏ trứng thô và ráp.

Sâu non: Khi đẫy sức dài 5 – 7 mm, hình ống nhỏ và dài. Đầu màu hung nâu, thân màu
vàng nâu nhạt. Toàn thân có 12 đốt (3 đốt ngực 9đốt bụng), đốt bụng cuối cùng có 2 gai
lồi màu đen nâu, trên thân có lác đác những lông nhỏ màu vàng nâu. Ở các đốt thì nửa
đốt về trước màu nâu nhạt, nửa đốt về sau và đường phân chia đốt màu vàng trắng nhạt.
Có 2 mắt đơn màu đen, râu có 4 đốt (đốt 1 và đốt 2 ngắn, đốt 3 dài nhất, đốt 4 nhỏ nhất).

Nhộng: Dài 4 mm, rộng 1,3 mm, màu vàng trắng nhạt.

Đặc tính sinh vật học

Mỗi năm sinh 4 – 5 lứa, thời kỳ trứng 3 – 9 ngày, sâu non 25 – 80 ngày ( tuổi 1 từ 2 – 8
ngày, tuổi 2 từ 4 – 9 ngày, tuổi 3 từ 3 – 8 ngày, tuổi 4 từ 2 – 11 ngày, tuổi 5 từ 3 – 9 ngày,
tuổi 6 từ 3 – 11 ngày, tuổi 7 từ 4 – 8 ngày, tuổi 8 từ 4 – 16 ngày). Thời kỳ nhộng từ 4 –
14 ngày, hoàn thành một vòng đời mất từ 32 - 103 ngày. Sức sống của mọt của mọt
khoảng từ 104 - 374 ngày, con đực có thể sống tới 3 năm.

Con cái một lần đẻ từ 2 – 3 trứng, nhiều nhất có thể đẻ tới 18 trứng, một đời con cái trung
bình đẻ 327 trứng, nhiều nhất có thể đẻ tới 1000 trứng (tỉ lệ trứng nở được khoảng 90%).
Mọt thường đẻ trứng trên vỏ hạt, trên các rãnh của hạt, trong các khe kẽ bao bì.

Độ nhiệt phát dục thích hợp nhất vào khoảng 28 – 300C khi đó nó hoàn thành vòng đời
chỉ mất 27 – 35 ngày, dưới 180C không thích hợp với sự phát dục và trên 400C đã ngừng
phát dục, ở 250C thời kỳ trứng mất khoảng 6 – 7 ngày, sâu non mất 66 ngày, còn ở 300C
thời kỳ trứng chỉ mất 3 – 5 ngày, và sâu non mất 22 – 27 ngày.

Ở độ nhiệt 420C, tất cả các giai đoạn phát triển của mọt đều chết sau 114 giờ, ở 520C
chết sau 3 giờ, ở độ nhiệt này mọt chết sau 15 phút, trứng chết sau 30 phút, sâu non chết
sau 45 phút, còn nhộng chết sau 3 giờ.

Trong điều kiện nước ta, trung bình mỗi năm mọt sinh 7 - 8 lứa, về mùa hè mọt hoàn
thành vòng đời trung bình mất 28 - 30 ngày, còn mùa đông mất 35 - 40 ngày, có khi mất
tới 48 ngày.
Mọt thường có tính quần tụ và giả chết, leo bò rất nhanh và bay khỏe (Vũ Quốc Trung,
1981).

Trong điều kiện tự nhiên của phòng thí nghiệm (T=28,5oC, H=73,5%), kết quả khảo sát
chu kỳ sinh sinh trưởng của mọt thóc đỏ có vòng đời trung bình là 53,7 ngày, tỷ lệ vũ hoá
100%. Khả năng đẻ trứng cao, trung bình 1 ngày đẻ khoảng 5 trứng/1 thành trùng, trứng
được đẻ liên tục ở các ngày trong thời gian khảo sát (Trần Văn Mì, 2004).
Nguồn ảnh: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_3645.htm

Mọt đục thân nhỏ

Tên khoa học: Rhizopertha dominica Fabricius

Họ: Bostrichidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Theo tài liệu của nước ngoài, mọt này phân bố hầu khắp thế giới. Ở vùng nhiệt đới và á
nhiệt đới, mọt đục thân nhỏ gây tổn thất nghiêm trọng đối với nông sản bảo quản trong
kho. Có tài liệu nói rằng ở châu Đại Dương mọt này phá hại nghiêm trọng hơn cả mọt
thóc và mọt gạo.

Ở nước ta, mọt này thuộc một trong các loại phá hại nghiêm trọng nhất. Tất cả các vùng
nước ta đều có loại mọt này. Mọt đục thân nhỏ ăn hại thóc gạo, ngô, khoai, sắn lát, các
loại hạt, củ khô làm dược liệu, các loại đậu, ngoài ra nó còn làm hại các vật liệu làm bằng
tre, gỗ. Trong tự nhiên mọt đục thân nhỏ sinh sống trong nhiều loại cây gỗ. Dean đã phát
hiện triệu chứng mọt này phá hại trong lúa mì ở Mỹ.

Khi ăn hại, mọt chui vào trong ruột của vật bị hại, ăn sống ruột, chỉ còn để lại lớp vỏ bên
ngoài rất mỏng. Nếu nhìn thoáng qua, rất khó phát hiện sự phá hại của mọt đục thân nhỏ,
nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một lỗ nhỏ trên vật bị hại và dùng tay bóp mạnh, vật bị hại sẽ bị vỡ
nát vụn.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 2,3 – 3 mm, rộng 0,6 – 1 mm, thường chiều dài thân gấp 3
lần chiều rộng. Thân nhỏ, hình ống dài, màu nâu tối hoặc hồng nâu đục và bóng. Đầu to
hướng về phía trước, rụt vào ngực trước. Đỉnh đầu bóng nhẵn.

Râu hình lá lợp có 10 đốt, 3 đốt đầu phồng to và mỗi đốt gần thành hình tam giác. Các
đốt thân râu đều có lông thẳng, cuống râu đều có lông màu vàng, mọc dày, ngắn và rậm
rạp.

Mảnh lưng ngực trước lồi rất cao, gần khu đỉnh rộng nhất, góc trước, góc sau tù tròn, chỗ
tiếp cận góc sau có đường viền, trên mặt phủ lông thưa thớt, ngắn và rậm rạp, không rõ
ràng. Mọt nửa phần trước có một hàng răng hình tù tròn, cong thành hình cung, răng ở
gần mép trước rất lồi, hình thành một đường dạng răng tròn. Một nửa phần sau có hạt lấm
tấm thưa to và dẹt.

Cánh cứng nhỏ và dài hình ống tròn, đầu cánh cứng hơi quặp xuống cuối bụng. Hai mép
ngoài của hai cánh cứng chạy gần song song và hơi lượn cong về phía bụng. Trên cánh
cứng có nhiều điểm lõm nhỏ làm thành những đường dọc. Gốc cánh cứng rộng bằng chỗ
chính giữa gần ngực trước. Phiến bụng cuối cùng ở đoạn cuối tù tròn, mảnh ngực giữa
phủ đầy hạt lấm tấm. Bên ngoài của con cái, đực không phân biệt rõ ràng. Do đó việc xác
định con cái và con đực rất khó khăn.

Trứng: Dài 0,4 – 0,6 mm, rộng 0,1 – 0,2 mm, hình bầu dục dài, màu trắng có pha ít màu
nâu, ở giữa hơi cong, và một đầu lớn, đầu bé.

Sâu non: Khi đã lớn, dài khoảng 3 mm. Mình hơi cong, ngực không to lắm, đầu nhỏ hình
tam giác màu vàng nâu miệng màu đen nâu. Thân màu trắng sữa có 12 đốt, phần trước
tương đối to mập, phần bụng hơi nhỏ và phần sau thô, hơi cong về phía bụng. Toàn thân
có lác đác những lông nhỏ màu phớt nâu.

Râu đầu chỉ có 2 đốt, không có đốt gốc dẹt như của mọt tre. Lỗ thở rất nhỏ, hình vòng, lỗ
thở ngực hơi to hơn lỗ thở bụng.

Nhộng: Dài 2,5 - 3 mm, đầu của nhộng gần giống đầu của mọt. Đoạn cuối bụng bé nhỏ,
và có một đôi phụ vật hình tròn nhô ra. Phụ vật này của con cái chia làm 3 đốt thò ra
ngoài cơ thể, của con đực chia làm 2 đốt ở sát trên đốt cuối đoạn bụng. Đây là đặc điểm
chủ yếu để phân biệt giữa con cái và con đực.

Đặc tính sinh vật học

Mọt hầu như không thể phá hại thóc còn nguyên vẹn. Thậm chí không thể sinh sôi, nảy
nở trong hạt thóc có hàm lượng nước cao. Bởi vì hàm trên không khỏe, không đục, cắn
nổi vỏ trấu, chỉ chui vào chỗ hạt đã bị thương tổn. So với các mọt khác, mọt đục thân có
thể sống ở độ sâu lớn hơn (có thể tới 1 m) trong khối hạt, do vậy khi lấy mẫu để xác định
mật độ cần chú ý tới đặc điểm này.

Cũng như mọt gạo, mọt đục thân nhỏ có tính đục để ăn hại. Mọt đẻ trứng vào hạt, củ
nông sản, đồng thời tiết ra một chất nhầy để bảo vệ trứng. Sâu non mới nở rất nhanh nhẹn
và đục vào sảm phẩm ăn hại, cho tới khi hóa nhộng mới ngừng ăn hại, làm cho sản phẩm
chỉ còn lại lớp vỏ mỏng. Sâu non lột xác 3 lần, thời kỳ sâu non khoảng 28 - 71 ngày. Mọt
phần lớn đều nhộng vũ hóa ở trong hạt, lúc mới vũ hóa vì thân mềm nên phải đợi sau khi
thân hể cứng cáp sẽ dùng hàm trên cắn một lỗ ở hạt mà chui ra. Trong kho ngô, mọt
thường đẻ trứng trên mặt hạt ở phía có phôi.

V. F Ratanôp và X. A Zeltova, 1967 đã xác định được độ nhiệt 320C, thủy phần của hạt
14 - 15 % mọt đục thân nhỏ phát triển nhanh nhất.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: Trần Văn Mì

Mọt mắt nhỏ

Tên khoa học: Palorus ratzeburgi Wiss


Họ: Tenebrionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này có khắp thế giới, ở nước ta có loại mọt này. Nó ăn hại nhiều sản phẩm khác
nhau: hạt có vỏ, hạt có dầu, các loại bột, các loại đậu, gỗ. Nói chung nó có khả năng ăn
hại nhiều sản phẩm khác nhau, sâu non thích ăn các loại bột lương thực.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 2,5 – 3 mm, hình bầu dục dài và dẹt, màu hồng nâu có ánh.
Đầu rộng và dẹt. Mắt kép màu đen, hình tròn rất nhỏ. Râu hình chùy có 11 đốt. Ngực
trước gần giống hình vuông, hai góc của mép ngực trước lồi về phía trước, hai góc của
mép ngực sau gần giống góc vuông. Mép ngực trước hơi rộng hơn mép ngực sau. Trên
cánh cứng có 8 đường chạy dọc. Bụng có 5 đốt, đốt 1 dài nhất, đốt 2 và đốt cuối cùng
tương đối ngắn, đốt 3 và đốt 4 ngắn nhất.

Trứng: Dài 0,3 mm, rộng 0,15 mm, hình bầu dục, màu trắng sữa.

Sâu non: Khi đã lớn dài 5 mm. Đầu màu vàng nâu, ngắn và dẹt. Miệng màu đen nâu. Râu
có 3 đốt, đốt 2 lớn nhất, đốt cuối cùng nhỏ nhất. Toàn thân có 12 đốt màu vàng trắng
nhạt, có rải rác những lông nhỏ màu xám trắng. Đốt ngực 1 có độ rộng lớn hơn độ dài.
Đốt bụng cuối cùng phía lưng có từ 3 – 5 u thịt nhỏ lồi lên và có một đôi hình gai nhỏ
màu đen nâu, ở phía bụng có một đôi chân giả.

Nhộng: Dài 2,5 – 3 mm, rộng 1,5 – 2,0 mm, màu vàng nâu sẫm, đầu màu đen, trên thân
mình có lác đác những lông nhỏ màu vàng sáng.

Đặc tính sinh vật học

Mọt nở ra, dừng lại trong buồng nhộng 5 – 11 ngày. Ở 300C có thể giao phối được trong
1 tuần lễ. Giao phối xong 1 - 2 ngày bắt đầu đẻ trứng. Mỗi năm sinh 2 – 3 lứa. Thời kỳ
trứng 5 – 7 ngày, thời kỳ sâu non 26 – 100 ngày (tuổi 1 mất 2 – 4 ngày, tuổi 2 mất 3 – 8
ngày, tuổi 3 mất 3 – 11 ngày, tuổi 4 mất 4 – 41 ngày, tuổi 5 mất 5 – 11 ngày, tuổi 6 mất 7
– 24 ngày), thời kỳ nhộng 4 – 9 ngày.

Ở 300C mọt sống được 5 tháng, ở 29,5 – 30,50C, độ ẩm khoảng 80 % con cái đẻ được
170 trứng. Ở 240C độ ẩm 60 % thời kỳ trứng mất khoảng 7- 10 ngày trung bình 8 ngày, ở
270C là 4 – 6 ngày trung bình là 5,4 ngày. Ở 300C, độ ẩm 60 % sâu non có 6 – 8 tuổi. Số
ngày từ tuổi 1 đến tuổi 8 trung bình là 1,7; 7,5; 6,9; 6,0; 6,1; 6,2; 6,9 và 9,3 ngày. Số ngày
từ tuổi 1 đến tuổi 8 trung bình là 45,1 ngày, ở 300C thời kỳ nhộng là 4 – 7 ngày, bình
quân là 5,4 ngày.
Mọt họat động rất nhanh nhẹn, bay bò khỏe. Ở trong gạo, mọt thực hiện một vòng đời hết
khoảng 40 ngày, trong bột mì hết khoảng 62 ngày.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh:http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_3948.htm

Mọt thóc lớn

Tên khoa học: Tenebroides mauritanicus Linné

Họ: Trogossitidae (Theo Trần Văn Mì, 2004)

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này phân bố ở hầu khắp các nước trên thế giới. Ở nước ta khắp các vùng đều thấy
mọt thóc lớn, ở vùng đồng bằng có khí hậu nóng ẩm nên trong kho thường gặp với mật
độ cao quanh năm, ở các vùng núi có khí hậu lạnh có mật độ thấp hơn và có thời gian
vắng mặt.

Mọt thóc lớn thường sống ở dưới gầm kho. Nó phá hại các hạt còn nguyên vẹn, khi phá
hại, nó thường ăn hại phôi, là bộ phận chứa nhiều chất đạm và chất béo, do đó với hạt
giống nếu có mọt thóc lớn thì rất nguy hiểm. Một con sâu non có thể phá hại sức nẩy
mầm của 10.000 hạt. Mọt có thể cắn thủng bao bì, thùng gỗ để các sâu hại khác chui vào
phá hại. Khi không có thức ăn thực vật, có ăn thịt các loài sâu hại khác trong kho. Mọt
thóc lớn thuộc đối tượng nguy hiểm trong các loài sâu hại thời kỳ đầu.
Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 6,5 – 10,0 mm, hình bầu dục dài, màu đen trơn bóng, là một
trong những loài sâu hại có kích thước lớn trong kho. Đầu gần giống hình tam giác. Râu
hình chùy 11 đốt. Mảnh lưng ngực trước rộng hơn chiều phía ngọn có có mép lõm rộng,
dài, phía sau ngực trước thành hình lồi có nhiều điểm nhỏ. Nơi nối tiếp của ngực trước và
cánh cứng hình thành cái cổ trông rất rõ. Cánh cứng gần giống hình bầu dục, chiều dài
cánh gấp 2 chiều ngang, gốc cánh và gốc mảnh lưng ngực trước cắt rời, 2 cánh gần như
song song, đoạn ngọn tròn, hàng chấm lõm rõ ràng, hàng xen kẽ hàng chấm lõm có 2
hàng chấm lõm nhỏ. Trên mỗi cánh cứng có 7 đường vân chạy dọc.

Trứng: Dài 1,5 – 2 mm, rộng 0,25 mm, nhỏ dài, một đầu hơi nhọn, màu trắng sữa, không
có ánh.

Sâu non: Khi đã lớn dài khoảng 20,0 mm, rộng 3,5 mm thân mình nhỏ dài và hơi dẹt, hai
cạnh song song, những đốt thứ 3 và thứ 7 rộng hơn. Thân mình màu trắng sữa, hơi có
màu tro. Râu ngắn và nhỏ, ngực và bụng có 12 đốt màu ghi trắng. Có nhiều đường vân
hình gợn sóng. Các đốt, nhất là hai cạnh có lông cứng dài. Nửa thân phía sau to và béo
hơn. Mảnh cứng ở đốt ngực trước màu đen nâu, đốt ngực thứ 2 và thứ 3 mỗi đốt có 2
mảnh nhỏ màu đen (nhìn phía bụng của các đốt ngực có 6 mảnh màu đen rất rõ). Gần gốc
râu đầu có 5 mắt đơn. Ngực giữa và ngực sau và khu cánh ở đốt bụng thứ 1 – 8 đều có
một nốt lồi nhỏ mềm. Từ đốt bụng 1 – 8 đều có 1 đôi vật lồi hình bọt. Đốt thứ 9 có mảnh
mông hóa xương, mảnh mông có 2 đuôi lồi to và tròn, ngọn đuôi lồi nhỏ và nhọn. Lỗ thở
hình vòng 2 buồng.

Nhộng: Dài 8 mm, toàn thân màu vàng nhạt

Đặc tính sinh vật học

Back và Cotton đã nghiên cứu vòng đời của mọt thóc lớn. Cadura đã nghiên cứu sinh vật
học của mọt trong vòng 7 năm. Kết quả các nghiên cứu tóm tắt như sau:

Sâu non và mọt đều thích ẩn nấp ở những góc tối và khe kẽ, vì vậy số lượng sâu hại thực
tế vượt qua số lượng quan sát được. Sâu non và trưởng thành thích chui rút, ẩn nấp, hóa
nhộng trong các tấm ván, sàn kho, mảnh liếp, cót, kê lót trong kho. Tác giả cho biết trên
các ván thuyền chở lương thực là nơi ẩn nấp của hàng nghìn, vạn con mọt thóc lớn.
Trong các kho lương thực, nếu không tiến hành vệ sinh sát trùng chu đáo, hàng loạt mọt
ẩn nấp trong trần kho, khi nhập lương thực mới vào, chúng lao ra rất nhanh để phá hại và
gây nên thiệt hại rất lớn.

Loài sâu hại này, tuy phá hại nghiêm trọng hàng hóa bảo quản trong kho, nhất là sản
phẩm dạng hạt, nhưng nó còn bắt sâu hại khác ăn thịt và ăn thịt lẫn nhau. Mọt sống được
tới hơn 1 năm. Thời gian trước đẻ trứng tùy theo mùa hóa mọt, dài có thể tới 210 ngày,
ngắn chỉ có 15 ngày. Thời gian đẻ trứng từ 2 – 14 tháng. Con cái đẻ được 500 – 1000
quả, nhiều nhất có thể hơn 1300 quả, đẻ rải rác thành từng ô 8 (10 – 60 quả) trên bột mì,
hạt thóc hoặc các khe kẽ kho tầng, có kê lót,.. Ở điều kiện độ nhiệt 26,60C đến 29,40C
thời gian trứng là 7 ngày, ở 210C là 15 ngày. Nếu nuôi bằng thức ăn thích hợp như ngô,
lúa mì, trong vòng 69 ngày sâu non có thể hoàn thành giai đoạn phát dục. Sâu non nở
trong tháng 3, 4 sẽ hoàn thành phát dục ngay trong năm, sâu non nở trong tháng 6 chỉ có
10 % có thể hoàn thành phát dục trong năm, sâu non nở trong tháng 8 sẽ không có một cá
thể nào có thể hoàn thành phát dục trong năm.

Trước khi hóa nhộng, sâu là buồng nhộng, thời gian trứng hóa nhộng là 9 ngày, thời gian
nhộng 8 – 25 ngày. Thời gian phát dục từ trứng đến mọt tối thiểu là 67 ngày. Nếu sâu non
quá đông thì thời gian thực hiện vòng đời là 171 ngày. Mọt hay sâu non quá đông thì thời
gian đẻ trứng dài, vì vậy mà thời gian phát dục hơi lộn xộn và chồng chất lên nhau. Các
hình thái sâu đều có thể tìm thấy trong các mùa, trừ mùa đông. Mọt có khả năng nhịn đói
rất lâu, ở 4,4 – 100C có thể nhịn đói được 18 ngày. Sâu non có khả năng nhịn đói khỏe
hơn mọt rất nhiều, cũng ở 4,4 - 100C thời gian nhịn đói tới 24 tháng mà chưa chết. Trong
điều kiện độ nhiệt, độ ẩm và thức ăn không thích hợp, có thể kéo dài tới 3 năm rưỡi mới
hoàn thành một vòng đời.

Thức ăn là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mọt thóc lớn, chúng tôi theo
dõi thời gian thực hiện vòng đời và thời gian tăng số lượng lên gấp đôi của mọt thóc lớn
thì thấy như sau:Loại lương thực có thủy phần 14 % Thời gian thực hiện vòng đời (ngày)
Thời gian tăng số lượng gấp đôi (ngày)
Thóc 76 131
Gạo 53 93
Ngô 49 95
Bột mì 81 109

Thủy phần sản phẩm càng cao, càng thuận lợi và thích hợp với đời sống của mọt thóc
lớn. Qua theo dõi chúng tôi thấy ở lương thực có thủy phần 16 %, mọt sinh sống thích
hợp nhất, lương thực có thủy phần 12 % sự phát triển số lượng rất khó khăn và lương
thực có thủy phần 10 % hầu như mọt ngừng phát dục.

Mọt thóc lớn sinh trưởng và phát triển thuận lợi nhất ở độ nhiệt 27 – 300C và độ ẩm 85 –
90 %.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: Trần Văn Mì
Mọt gạo dẹt

Tên khoa học: Ahasverus advena Watl

Họ: Silvanidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này có phổ biến khắp thế giới, ở nước ta cũng phát hiện thấy nó trong các kho lương
thực, dược liệu. Mọt thường phát triển mạnh và ăn hại nghiêm trọng ở lương thực đã bị
ẩm mốc hoặc dược liệu có hàm lượng nước cao.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Mọt mình dài 1,5 – 2 mm, hình trứng nhỏ dài, màu nâu đỏ nhạt. Đầu
gần giống hình tam giác, đoạn trước hơi hẹp, đoạn sau lồi, có chấm lõm nhỏ khắc sâu
trong ngực trước. Râu đầu có 3 đốt rõ ràng, đảo ngược đốt thứ 3 hình chóp tròn, hơi hẹp
hơn đốt sau gấp 2 lần; đảo ngược đốt thứ 2 cũng có hình đảo ngược đốt thứ 3, nhưng có
phần rộng hơn, đốt cuối cùng hình quả lê, dài và rộng bằng nhau, kích thước vào khoảng
giữa của 2 đốt sau. Cánh có viền chấm lõm mờ, có lông nhung trắng nhỏ và thưa, 2 cạnh
hơi lồi, có răng cưa nhỏ và tù. Góc trước có răng tù to một cách đặc biệt, góc sau hình
vuông, chính giữa mép sau hơi cong về phía sau. Phiến thuẫn nhỏ rất dẹt. Cánh cứng rất
lồi, có hàng chấm lõm quy củ, chấm tròn và không sâu lắm, có chỗ không có, còn có lông
nhỏ và ngắn, màu trắng, nằm rạp, những lông này sắp xếp một cách trật tự, nhưng không
nhiều.

Trứng: Dài 0,2 – 0,5 mm, hình bầu dục, hai đầu to nhỏ khác nhau, màu vàng sữa.

Sâu non: Khi đẫy sức mình dài gần 3 mm, rộng 0,6 mm. Màu sắc của sâu non phụ thuộc
vào thức ăn, nói chung sâu non có màu trắng, xám tro. Đầu và ba đốt bụng trước màu
nâu. Thân mình nhỏ dài, hơi song song, đoạn sau hơi to và có lông thưa thớt. Ngực trước
hình vuông rất rõ, dài hơn cả hai đốt kia. Đốt bụng thứ 1 ngắn hơn, râu đầu chỉ có 2 đốt.

Nhộng: Dài 1,5 – 2 mm, rộng 1 mm, hình bầu dục tròn, đầu màu đen và hơi cụp xuống
phía bụng, toàn thân màu nâu.

Đặc tính sinh vật học

Con cái đẻ trứng rải rác, mỗi ngày đẻ được 9 trứng. Thời gian trứng 4 – 5 ngày. Sâu non
sau khi nở ra ăn hại ngay sản phẩm dự trữ trong kho. Sâu non phát dục rất nhanh, hoàn
thành phát dục trong 1 – 2 tuần lễ. Thời gian từ nhộng đến mọt thường không quá một
tuần lễ.

Điều kiện thích hợp nhất với đời sống của mọt là độ nhiệt 25 – 270C, độ ẩm 80 – 90 %.
Ở độ ẩm dưới 65 %, mọt không thể phát triển được, chúng có thể phá hại được ở điều
kiện 300C và độ ẩm 70 % trên các sản phẩm chưa bị men mốc.

Mọt sống rất dài, suốt năm lúc nào cũng có thể tìm thấy trong kho, mọt rất hoạt bát và
nhanh nhẹn, nhưng không bay được, nó ăn rất ít và có khả năng ăn cả trứng và nhộng của
chính nó. Thức ăn thích hợp nhất với nó là lúa mì đã bị lên men.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: http://www.ento.csiro.au/aicn/name_s/b_3759.htm
Mọt ngô

Tên khoa học: Sitophilus zeamais Motsch

Họ: Curculionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này có phổ biến ở hầu hết khắp các nước trên thế giới, nhất là ở châu Á, vùng Địa
Trung Hải (châu Âu) và Bắc Mỹ. Ở nước ta trong các kho lương thực, nhất là kho bảo
quản ngô, gạo thường gặp loài mọt này.

Tính ăn hại của mọt ngô khá phức tạp, nói chung nó có thể ăn hại được hầu hết các loại
ngũ cốc, các loại đậu, hạt có dầu và nhiều sản phẩm thực vật khác. Thức ăn thích hợp
nhất với nó là ngô hạt.

Mọt có thể đẻ trứng ở ngoài đồng và cả trong kho. Nó thuộc loại phá hại nghiêm trọng.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Về hình thể mọt ngô rất giống mọt gạo, vì thế trong phân loại trước
đây, có nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng mọt ngô và mọt gạo là cùng loài
nhưng khác tên. (Zampt, 1935), nhiều người khác cho rằng mọt ngô và mọt gạo là 2 loài
độc lập với nhau (Kuschel).
Mọt ngô thân dài tới 5 mm, hình bầu dục dài, màu nâu đỏ đến nâu đen, không bóng.
Chấm lõm trên đầu rất rõ ràng. Đoạn trước trán rất bằng dẹt, phần gốc vòi có 3 chiếc
máng, dọc theo viền mép ngực trước còn có một dảy chấm lõm. Chấm lõm trên mảnh
lưng ngực trước hình tròn, ở khu giữa chấm lõm rất dày, chấm lõm ở 2 cạnh gần như hỗn
hợp lại.

Cánh cứng có 2 vệt chấm màu trắng đỏ, một ở bên vai, một ở gần đoạn cuối. Chấm lõm ở
mặt bụng thân mình dày hơn. Cánh sau phát triển và có thể bay được.

Giữa mọt ngô và mọt gạo có những điểm khác nhau:

- Mọt gạo có thân hình ngắn và nhỏ hơn mọt ngô. Có thể là do thức ăn làm cho mọt ngô
có thân hình to lớn hơn.

- Ở mọt ngô, trên lưng dương cụ trung bình lồi ra, không có 2 rãnh dọc. Ngực trước và
cánh cứng có những dấu vết gạch rõ ràng trong vân hoa rất nhỏ. Lưng không bóng sáng.

- Ở mọt gạo, trên lưng dương cụ dẹt bằng, có 2 rãnh dọc rõ ràng. Ngực trước và cánh
cứng có những dấu gạch không rõ ràng, trông tựa như vân hoa rất nhỏ. Lưng tương đối
bóng sáng.

Trứng: Dài 0,5 – 0,7mm, rộng 0,25 – 0,30 mm, hình bầu dục hơi dài, màu trắng sữa.

Sâu non: Khi đã lớn dài 3,0 – 3,2 mm, rất mập, lưng cong lại như hình bán nguyệt, mặt
bụng tương đối bằng. Toàn thân màu sữa, đầu màu nâu nhạt.

Nhộng: Dài 3 – 4 mm, hình bầu dục, cân đối hai đầu, lúc đầu màu vàng sữa, sau chuyển
thành màu vàng nâu.

Đặc tính sinh vật học

Khi đẻ trứng, mọt dùng vòi khoét một lỗ sâu vào hạt, rổi đẻ trứng vào những lỗ này, sau
đó tiết ra một thứ dịch nhầy để bít kín lỗ đó lại. Sâu non nở ra ăn hại ngay trong hạt và
lớn lên, làm hạt chỉ còn lại một lớp vỏ mỏng, nhưng nhìn bề ngoài tưởng chừng như hạt
còn nguyên vẹn. Khi ăn hại, nó thường ăn phôi trước, sau đó mới đến nội nhũ và các bộ
phận khác. Tùy theo điều kiện mà mọt đẻ ít hay nhiều, nhiều nhất mỗi con cái có thể đẻ
được 384 trứng.

Tùy theo điều kiện độ nhiệt, độ ẩm và thức ăn mà thời gian trứng 3 – 6 ngày, thời gian
sâu non 18 – 32 ngày, thời gian nhộng 12 – 16 ngày. Trong điều kiện bình thường mọt
thực hiện một vòng đời mất khoảng 40 ngày, khi gặp điều kiện thuận lợi chỉ mất 28 – 30
ngày.

Thức ăn có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của mọt, trong cùng một điều kiện độ nhiệt và
độ ẩm như nhau, nuôi mọt ngô bằng thức ăn khác nhau đã thu được kết quả như sau:Loại
thức ănThời gian thực hiện một vòng đời (ngày)
Ngô hạt 34
Gạo 47
Thóc 53

Ở nhiệt độ 00C, mọt có thể sống được 37 ngày, ở -50C mọt chết sau 23 ngày, còn ở
-100C tất cả các giai đoạn phát triển của mọt chết sau 13 ngày. Ở 550C, mọt chết sau 6
giờ, ở 600C chết sau 2 giờ. Trong điều kiện độ nhiệt 250C mọt có thể sống không có thức
ăn 18 – 26 ngày.

Mọt hoạt động nhanh nhẹn, hay bay bò và có tính giả chết, mọt thích bò lên các vị trí cao
trong đống hạt. Khi gặp điều kiện độ nhiệt cao, mọt thường tập trung vào kẽ kho, mép
bao, … để ẩn nấp.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: http://www.tecnigran.com.br/html/araecerus_fasciculatus_am.htm

Mọt cà phê

Tên khoa học: Araecerus fasciculatus Degeer

Họ: Anthribidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại


Theo tài liệu của nước ngoài, mọt cà phê phân bố khắp thế giới. Nó có thể ăn hại ở trong
kho và ở cả ngoài đồng. Ở trong kho nó ăn hại ngô, khoai, sắn khô, cà phê, dược liệu và
các loại quả khô. Ở ngoài đồng nó ăn hại ca cao, ngô, cà phê. Ở nước ta hầu khắp các
vùng trong nước đều có mọt này, ngô hạt và khoai sắn khô là những sản phẩm trong kho
bị hại nghiêm trọng nhất. Thường ít gặp mọt cà phê trong các kho thóc. Mọt cà phê thuộc
loại sâu hại nguy hiểm, vì nó đục hạt đẻ trứng vào trong đó, làm cho hạt bị hại nội nhũ và
phôi bị phá hủy hoàn toàn. Ở các tỉnh miền núi, gieo trồng và bảo quản nhiều ngô, mật độ
mọt này thường cao.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 2,5 – 4,5 mm, hình bầu dục, màu nâu xám hay màu xám tro,
có phủ lông nhung màu vàng nâu đến đỏ nâu. Râu tương đối dài, có 11 đốt, nhỏ dài, màu
hung đỏ, gốc râu đốt 1 và đốt 2 hình bầu dục tương đối to, đốt râu thứ 3 đến đốt râu thứ 8
hình sợi dài, đốt 9 đến đốt 11 hình tam giác bằng và dẹt. Chấm lõm ngực trước rất nhỏ và
dày. Chấm lõm trên cánh cứng nhỏ và nông, trông không rõ, giữa hàng xen có hạt lõm
nhỏ, tất cả các chấm lõm đều được phủ bằng lông nhung, nằm rạp hay xiên màu trắng.
lông nhung trên mảnh lưng ngực trước rất dài, nhất là nửa phần trước. Hàng xen trên
cánh cứng giao nhau, hình thành vệt chấm vuông màu nâu, màu vàng rất đặc trưng. Ở đốt
bụng cuối cùng có một bộ phận thò ra ngoài cánh cứng hình tam giác có phủ lông nhỏ
màu nâu. Đốt chân, đốt bàn chân màu nâu đỏ, chính giữa đốt đùi màu hắc ín.

Trứng: Hình tròn, dài khoảng 0,56 mm, màu trắng có ánh bóng.

Sâu non: Khi đã lớn dài 4,5 – 6,0 mm, nhỏ và dài, màu trắng sữa, không có chân, nhiều
lông và nếp nhăn trên bề mặt đầu và đuôi hướng về phía bụng nên hơi cong lại. Đầu to
hình tròn màu vàng nhạt, miệng màu nâu đỏ.

Nhộng: Dài khoảng 5 mm, màu vàng nhạt, toàn thân có lông nhỏ màu xám trắng. Đầu và
ngực rộng lớn, râu nhỏ và dài.

Đặc tính sinh vật học

Mọt ưa hoạt động thích bay, bò, và có thể nhảy. Mọt có thể ăn hại mạnh ở trong kho và
cả ngoài đồng. Ở 200C, con đực sau khi nhộng hóa 3 ngày và con cái sau 6 ngày sẽ tiến
hành giao phối và sau khoảng nửa giờ thì bắt đầu đẻ trứng. Thông thường đẻ mỗi quả
trứng mất 8 phút. Mỗi con cái đẻ tối đa 130 – 140 trứng, ở 270C, độ ẩm 50 – 100 % thời
gian trứng 5 – 8 ngày.

Ở 270C độ ẩm là 60 %, mọt cà phê thực hiện vòng đời trong ngô hạt là 57 ngày, độ ẩm
100 % là 29 ngày. Sâu non lột xác 3 lần, độ ẩm 50 % mọt sống được 27 -28 ngày, độ ẩm
90 % sống được 86 – 134 ngày.

Thức ăn có ảnh hưởng rất rõ rệt đến đời sống của mọt, trong điều kiện thức ăn thích hợp,
mọt thực hiện vòng đời ngắn, thời gian sống kéo dài và sức phá hại lớn. Chúng tôi đã tiến
hành theo dõi thì thấy như sau:
Ở độ nhiệt 200C và độ ẩm 80 %, thời gian thực hiện vòng đời, thời gian sống và thời gian
phát triển số lượng gấp đôi ( ban đầu là 10 đôi) của mọt cà phê ở các loại thức ăn khác
nhau, có thủy phần trung bình là 13 % thể hiện ở bảng dưới đâyLoại lương thực Thời
gian thực hiện vòng đời (ngày) Thời gian sống (ngày) Thời gian phát triển số lượng
gấp đôi (ngày)
Thóc 102 69 - 100 103
Ngô hạt 41 93 - 164 61
Lúa mì 86 76 - 121 80
Sắn lát 40 90 - 149 70

Từ kết quả theo dõi trên thấy thức ăn thích hợp nhất với mọt cà phê là ngô hạt và sắn lát.
Trong thóc, lúa mì và loại nông sản khác ít thuận lợi cho đời sống của mọt cà phê.

Thủy phần của nông sản có ảnh hưởng rất rõ rệt đến đời sống mọt cà phê. Chúng tôi theo
dõi 2 kho ngô ở Trùng Khánh (Cao Lạng) và tháng 7 - 1969 là tháng mật độ mọt cà phê
khá cao thì thấy: cùng bảo quản thời gian như nhau (3 tháng), trong cùng một loại kho,
nhưng ở kho ngô có thủy phần 14,2 %, mật độ mọt và phê trung bình 13 con/kg, trong
khi đó kho ngô có thủy phẩn 12,9 %, mật độ trung bình chỉ có 6 con/kg. Qua theo dõi,
chúng tôi thấy nông sản có thủy phần 9 % trở xuống, hầu như mọt cà phê ngừng phát
dục, không có khả năng phát triển về số lượng.

Ở độ nhiệt 200C, độ ẩm 80 %, thời gian thực hiện vòng đời của ở ngô có thủy phần 10 %
là 64 ngày, 12 % là 52 ngày, 13 % là 46 ngày, 14 % là 40 ngày, 15 % là 30 ngày.
© Theo Vũ Quốc Trung, 1981
Nguồn ảnh: Trần Văn Mì

Mọt khuẩn đen


Tên khoa học: Alphitobius piceus Olivier

Họ: Tenebrionidae

Bộ: Coleoptera

Phân bố và tác hại

Mọt này có mặt hầu khắp thế giới. Ở nước ta khắp các vùng đều có mọt này, ở các vùng
miền núi, mật độ mọt này thường thấp hơn vùng đồng bằng. Ở trong kho, mọt thường tập
trung ở sàn, nền kho, lớp trấu lót kho. Nó ăn hại thóc, gạo, bột mì, ngô, quả khô, dược
liệu, tiêu bản động vật, các chất hữu cơ mục nát, khi ăn cả xác côn trùng. Mọt phát sinh
và phát triển mạnh trong nông sản có thủy phần cao, bảo quản lâu ngày và để nơi ẩm ướt
tối tăm.

Mọt khuẩn đen thuộc loại mọt gây tác hại nghiêm trọng.

Đặc điểm hình thái

Dạng trưởng thành: Thân dài 4,5 – 8 mm, rộng 2,5 – 3 mm, hình bầu dục dài. Toàn thân
màu đen nâu đậm, có ánh bóng. Râu ngắn có 11 đốt. Ngực trước về phía lưng mép trước
hơi cong, ngực trước và gốc cánh khít lại với nhau. Trên cánh cứng có những đường chạy
dọc, Phần bụng có lông ngắn màu nâu hồng thưa thớt.

Trứng: Dài từ 1 – 2 mm, hình bầu dục dài, ở một phía, hơi lõm vào một ít, màu vàng
trắng nhạt.

Sâu non: Khi đẫy sức dài từ 11 -13 mm, phía lưng hơi cao lên, phía bụng bằng phẳng
thành hình ống tròn, nhưng hơi dẹt. Đầu lớn thành hình bán cầu màu đen nâu, nhưng nơi
gần nơi tiếp giáp ngực trước màu vàng nâu. Miệng màu đen nâu. Râu có 3 đốt, đốt thứ 2
dài nhất, đốt thứ 3 nhỏ. Đốt ngực trước dài nhất và trên lưng của đốt ngực trước ở chính
giữa (chiếm khoảng 2/3 đốt) có màu đen nâu, còn mép trước và mép sau màu đen nâu
nhạt, ở giữa màu đen và đen nâu nhạt có chen màu vàng nâu, phần sau màu đen nâu nhạt.
Từ đốt bụng thứ 5 đến đốt bụng cuối cùng, ở phía lưng của mỗi đốt thì nửa đốt về trước
màu đen nâu, nửa đốt về phía sau màu cũng chia làm 2 phần, phần trước màu vàng nâu,
phần sau màu đen nâu nhạt.

Về phía bụng của sâu non, từ đốt ngực trước đến đốt bụng thứ 6 màu vàng nâu nhạt, từ
đốt bụng thứ 7 đến đốt bụng cuối cùng màu nâu nhạt. Đốt cuối cùng có một đôi chân gả.
Các đốt của sâu đều có lác đác những lông nhỏ màu nâu, nhiều nhất là ở hai bên của đốt
cuối cùng.

Nhộng: Dài 6 – 8 mm, phần đầu và ngực to, rộng, phần bụng nhỏ bé, hai bên đều có lông
gai màu đen thưa thớt. Bụng có 6 hàng lông gai. Ở dưới cùng đoạn đuôi nhộng cái có 1
cái đuôi phụ vật mềm nhô ra, nhộng đực thì hình lõm vào như hình máng.
Đặc tính sinh vật học:

Mỗt năm sinh 1 – 3 lứa, sau khi hóa nhộng 5 – 7 ngày bắt đầu giao cấu đẻ trứng, trứng đẻ
rải rác trên bề mặt hạt lương thực, mỗi chỗ 1 – 2 trứng hoặc đẻ tập trung ở trong các khe
bao, vách kho, trong các lỗ thủng của hạt, mỗt chỗ 8 – 64 trứng.

Mỗi con cái trung bình đẻ được 115 trứng, thời kỳ đẻ trứng trung bình khoảng 85 ngày, ở
trên 170C trứng bắt đầu phát dục, ở 180C thời kỳ trứng phát dục khoảng 18 ngày, ở 32 –
340C khoảng 3 ngày. Sâu non khi ở trên 170C mới bắt đầu phát dục, ở 320C thời kỳ sâu
non trung bình khoảng 30 ngày, ở 210C hoặc 390C phải mất tới 45 ngày. Thời kỳ nhộng
ở 32 – 360C mất 4 ngày, ở 18 – 240C mất 8 ngày. Khi ở 320C và độ ẩm tương đối của
không khi 100 % thường một vòng đời mất 37 ngày.

Sức sống của mọt trong điều kiện thích hợp có thể kéo dài tới 1 năm, thông thường sống
được 2 – 3 tháng. Mọt thường thích sống tập trung, hoạt động rất nhanh nhẹn, có tính giả
chết, thường hay ăn thịt lẫn nhau hoặc ăn xác côn trùng khác. Nó thường hay sinh sống
và ẩn nấp dưới phên vách, trong trấu lót kho, dưới gầm kho. Sâu non thường thích ăn các
loại bột và lương thực ẩm, bò rất nhanh và cũng có tính giả chết và tính ăn thịt.

Trong họ chân bò giã (Tenebrionidae) có 2 loài rất giống nhau là mọt khuẩn đen và mọt
khuẩn nhỏ (Alphitobius diaperinus P.). Dưới đây là các đặc điểm để phân biệt
chúngMỌT KHUẨN ĐEN MỌT KHUẨN NHỎ
1) Thân dài 4,5 - 8,0 mm 1) Thân dài 3,5 - 5,0 mm
2) Toàn thân màu đen nâu đậm, có ánh bóng 2) Toàn thân màu nâu đen, không có ánh
bóng
3) Mắt hoàn toàn hoặc gần như bị phân chia bởi đường viền cạnh từ đầu lồi ra đến phía
sau, chỗ hẹp nhất rộng bằng 1 mắt nhỏ 3) Mắt chỉ có một phần bị phân chia bởi
đường viền cạnh ở đầu, chỗ rộng nhất bằng 3 - 4 mắt nhỏ.
4) Đốt râu đầu thứ 5 gần như song song, cạnh trong đoạn cuối không lồi ra 4) Cạnh trong
đoạn cuối của đốt râu thứ 5 hơi lồi ra
5) Ngực trước rất dẹt, chấm lõm rất nhỏ, gần như bóng nhẵn, chỉ có chấm lõm khu bên
hơi dày và rõ ràng 2 cạnh từ giữa đến cuối gần như không thắt hẹp lại, từ giữa đến trước
thắt lại thành hình tròn, góc sau nhọn, góc trước cong hình góc vuông và hơi tù, góc của 2
cạnh không có hốc nhỏ 5) Ngực trước rộng hơn, phủ đầy chấm lõm đều đặn, hai
cạnh hình tròn, chính giữa rộng nhất. Đoạn cuối phần gốc thắt hẹp nhiều, góc sau hình
gốc vuông, góc của 2 cạnh có một hốc nhỏ
6) Ngọn đốt chầy chân trước to ra bên ngoài, hình thành gia tù rất rõ 6) Ngọn đốt
chầy chân trước hơi rộng
7) Chấm lõm cánh cứng thưa. Đoạn cuối hàng chấm lõm, lõm thành hình rãnh 7)
Chấm lõm cánh cứng dày. Đoạn cuối hàng chấm lõm hơi lõm xuống, không hình thành
rãnh

© Theo Vũ Quốc Trung, 1981

You might also like