You are on page 1of 22

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

Bài 1:

KHÁI QUÁT LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

A. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:


Làm cho người học nắm được toàn bộ quá trình hình thành, phát
triển của tổ chức đảng và những hoạt động toàn diện của Đảng; khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam; làm rõ những vấn đề có tính quy luật
của cách mạng Việt Nam; góp phần tổng kết những kinh nghiệm lịch sử
phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; đồng
thời giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường cách
mạng Hồ Chí Minh.

B. PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN ĐẠT:


Dùng phương pháp phân tích, hỏi đáp, truyền đạt, thảo luận…

C. TÀI LIỆU THAM KHẢO:


Tài liệu học tập chính trị dành cho học viên lớp bồi dưỡng kết nạp
Đảng - Nhà xuất bản lao động – xã hội Hà nội - 2007.

D. KẾT CẤU BÀI GIẢNG: Gồm 3 phần lớn.


Phần thứ nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặc
quyết định của cách mạng Việt Nam.
Phần thứ hai: Những thành tựu vẻ vang của cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Phần thứ ba: Những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản
Việt Nam.

NỘI DUNG BÀI GIẢNG:

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm
1930 là kết quả tất yêu của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là kết qủa

1
của quá trình sàng lọc, lựa chọn nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của đội tiên
phong của giai cấp công nhân do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh đứng đầu. Đây là một đặc trưng về sự hình thành và ra đời của
Đảng, dựa trên cơ sở một học thuyết cách mạng sáng tạo, với một quyết
định lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự hiện thực hóa cuộc đấu
tranh của dân tộc ta theo “Đường Kách mệnh” của Người. Ngay từ khi ra
đời, Đảng đã nêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
vắn tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi toàn dân theo Đảng làm cách
mạng. Từ ngày ấy, nhân dân ta gọi Đảng là Đảng ta - một cách xưng gọi
vừa gần gũi, thân thiết, vừa rất đặc sắc, ít có chính đảng nào trên thế giới
có được. Mới 15 tuổi chỉ 5000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
đứng lên làm cuộc cách mạng Tháng Tám 1945 lở đất, long trời, lật nhào
chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á, mở ra kỷ
nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong 9 năm trường kỳ, gian khổ chống xâm lược Pháp, dưới sự lãnh
đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, quân và dân ta lập nên nhiều chiến công
vang dội, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa
cầu". Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không chỉ giải phóng và đưa
miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin để cả
nước bước vào cuộc chiến đấu mới chống đế quốc Mỹ xâm lược, mà còn
là hồi kèn lệnh giục giã các quốc gia, dân tộc bị nô dịch đứng lên rũ bỏ
xiềng gông, cáo chung chủ nghĩa thực dân kiểu cũ. Hơn 20 năm chống
Mỹ cứu nước đầy hy sinh, gian khổ, với đại thắng mùa xuân 1975 "đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" miền Nam được giải phóng, đất nước
thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Từ cuối thập niên tám mươi, đầu thập niên chín mươi của thế kỷ
trước, do sự tấn công điên cuồng và xảo quyệt của các lực lượng thù
địch, phản động, do những yếu kém, tha hóa và cả sự phản bội từ bên
trong, mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời thoái trào, phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế gặp những khó khăn, thử thách nghiệt ngã. Bằng bản lĩnh
của một Đảng cộng sản chân chính, bằng nhiều tìm tòi, khảo nghiệm,
tổng kết thực tiễn, nâng tầm lý luận, Đảng vững tay chèo, vượt đá ngầm,
sóng dữ, đưa con thuyền cách mạng bước vào công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tất cả

2
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, tên gọi Việt Nam – Hồ
Chí Minh – Điện Biên Phủ trở nên thân thiết, tự hào của nhân dân các
dân tộc trên thế giới, thành “lương tri của thời đại”, “phẩm giá của loài
người”. Từ một nước nông nghiệp đói nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã thoát
khỏi tình trạng một nước nghèo chậm phát triển có thu nhập bình quân
đầu người trên 1200 USD; thành nước xuất khẩu gạo, hồ tiêu, cao su, hồ
tiêu đứng trong tốp đầu của thế giới; mức tăng trưởng GDP và thu hút
đầu tư nước ngoài đạt mức cao trong nhiều năm liền, kể cả trong thời kỳ
nhiều nước trên thế giới rơi vào khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh
tế nghiêm trọng. Việt Nam đã trờ thành thành viên Tổ chức Thương Mại
Thế giới (WTO); được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo
an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009, hoàn thành xuất sắc vai trò chủ
tịch luân phiên Hội đồng Bảo an Liên hợp Quốc trong thánh 10 năm
2009; đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA năm 2010...

Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa lịch sử của Cách Mạng Việt Nam
trong 80 năm qua bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó, nhân tổ hàng đầu
mang tính quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng
Cộng Sản Việt Nam – Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện; một Đảng của cách mạng hết lòng vì nước vì dân, đúng như câu
nói trong bài diễn văn nổi tiếng của Người tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày
thành lập Đảng : ”Đảng ta vĩ đại vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân
dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”.

3
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI, BƯỚC NGOẶC QUYẾT
ĐỊNH CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM:
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đó là kết quả của sự
chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể nước ta; là sản phẩm của sự
kết hợp của chủ nghĩa Mác - Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Sự ra đời của Đảng đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta; phù hợp với su
thế phát triển của thời đại.
1. Tình hình xã hội Việt Nam trước khi ĐCSVN ra đời:
* Khủng hoảng suy vong của vương triều Nguyễn:
Tư bản Pháp lăm le nổ súng xâm lược đúng vào lúc chế độ phong kiến Việt
Nam đang đi sâu vào giai đoạn khủng hoảng nặng từ cuối thế kỷ XVIII. Lúc này,
những mầm mống đầu tiên của chủ nghĩa tư bản trong nước đã xuất hiện và ngày
càng mâu thuẫn đối kháng với quan hệ kinh tế phong kiến bảo thủ lạc hậu bao đời
thống trị xã hội Việt Nam. Nền kinh tế tiểu nông đang cần được phát triển, nhưng
bị chế độ chiếm hữu và bóc lột phong kiến uy hiếp nghiêm trọng. Đây cũng là thời
kỳ bùng nổ các cuộc khởi nghĩa nông dân trên một quy mô rộng lớn trong phạm vi
cả nước, đòi hỏi đất nước phải sớm thống nhất. Cuộc khởi nghĩa Tây sơn thắng lợi
đã mở ra nhiều triển vọng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất theo hướng tư
bản chủ nghĩa. Nhưng dựa vào thế lực tư bản Pháp, Nguyễn Ánh đã đánh thắng
Tây Sơn. Có thể khẳng định rằng triều Nguyễn Thành lập là sự thắng thế của tập
đoàn phong kiến tối phản động trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ.
Ngay sau khi lên ngôi (1802), Nguyễn Ánh lấy niên hiệu là Gia Long và các
vua tiếp theo (Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức…) Ngày càng đi sâu vào con đường
phản động, vừa ra sức phục hồi và củng cố quan hệ sản xuất cũ, vừa cố tình bóp
nghẹt lực lượng sản xuất mới đã manh nha phát triển hồi thế kỷ XVIII. Mọi chính
sách chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội triều Nguyễn ban hành đều nhằm mục đích
duy nhất là bảo vệ đặc quyền, đặc lợi cho tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn.
Bộ máy chính trị triều Nguyễn ngay từ đầu đã mang nặng tính chất quan
liêu, độc đoán và sâu mọt. Đó là một nhà nước quân chủ chuyên chế tuyệt đối, tập
trung cao độ với một chế độ chính trị lạc hậu, phản động. Mọi quyền hành đều tập
trung trong tay nhà vua. Vua được coi là “con trời”, “thay trời” trị dân; quyền hành
nhà vua được coi là “thần khí” thiêng liêng, vô hạn. Nhà vua trong thực tế là đại địa
chủ lớn nhất trong nước, có toàn quyền phung phí tài sản quốc gia trên xương máu
của nhân dân. Còn quan lại trong triều và ở các địa phương hầu hết là bọn hủ bại;
chính trị thì bảo thủ, cầu an; kinh tế thì tham lam và cuồng bạo. Từ vua đến quan
đều rất tự cao, tự đại với mớ học thuyết Khổng, Mạnh lỗi thời, xem trật tự phong
kiến là bất di bất dịch, mãi đến lúc súng giặc nổ ầm bên tai mới bàng hoàng tỉnh
giấc. Trong hoàn cảnh đó, đời sống của người nông dân trong các thôn, xã vô cùng
cơ cực. Dưới triều Nguyễn, tổ chức xã, thôn đã hoàn toàn trở thành một công cụ
của bọn cường hào địa chủ nông thôn. Nó trói buộc người nông dân trong những
quan hệ địa phương hẹp hòi có lợi cho sự bóc lột của nhà nước phong kiến và cản
trở sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.

4
Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trọng. Ruộng đất
phần nhiều tập trung vào tay quan lại, địa chủ. Công điền công thổ chổ nào mầu mỡ
béo tốt đều bị bọn cường hào lũng đoạn, còn lại thì bọn hương lý lại bao chiếm, dân
nghèo chỉ được chỗ xương xẩu mà thôi.
Chính sách của triều Nguyễn về mặt công nghiệp vô cùng phản động. PK
nhà Nguyễn nắm trong tay những ngành kinh doanh lớn. như đúc súng, đóng tàu,
đúc tiền; các xưởng nhỏ chuyên chế tạo đồ dùng riêng cho nhà vua, vàng bạc, gấm
vóc; các công trường xây dựng cung điện, thành quách, lăng tẩm đều do bộ công
của triều đình quản lý. Triều đình PK còn giữ độc quyền ngành khai thác mỏ, phần
lớn do bọn quan lại triều đình đứng ra quản lý, khai thác, chỉ một số ít là do chủ mỏ
Hoa kiều hay người Việt Nam chủ trì.
Về Thương nghiệp triều Nguyễn dùng chính sách “trọng nông ức thương”;
đối với nội thương một mặt chúng nắm độc quyền buôn bán nguyên liệu công
nghiệp (như đồng, thiếc, chì, kẽm nhất là lưu huỳnh, diêm), vì sợ nhân dân chế tạo
vũ khí chống lại. Mặt khác, chúng đặt ra nhiều luật lệ chặt chẽ để kiềm chế. Đối vơi
ngoại thương, triều Nguyễn thực hiện chính sách “bế quan toả cảng”, mở nhỏ giọt
một số cửa biển cho tàu nước ngoài lui tới buôn bán. Chỉ được nhập những mặt
hàng triều đình cần như sắt, chì, gang, lưu huỳnh, để làm súng đạn.
Rõ ràng là với những chính sách phản động nói trên, nuớc Việt Nam đã suy
yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương tây.
Đặc biệt đối với tư bản Pháp từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta nhờ sự hoạt động
ngấm ngầm và liên tục của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sỹ. Lịch sử lúc
này đã đi tới một bước ngoặc. Một là, triều đình Nguyễn bị đánh đổ và thay thế
vào một triều đại khác tiên tiến theo hướng mới của tư bản chủ nghĩa có khả năng
duy tân đất nước vào bảo vệ nền độc lập dân tộc. Hai là, nước Việt Nam bị mất vào
tay tư bản pháp để trở thành một xứ thuộc địa. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng
khi tiếng súng xâm lược của tư bản Pháp bùng nổ, giai cấp phong kiến Việt Nam đã
phân hoá ra hai phái chủ chiến và chủ hoà, phái chủ hoà gồm phần đông bọn đại
phong kiến và quan lại lớn với Tự Đức đứng đầu sẽ nhanh chóng câu kết với bọn
cướp nước để làm tay sai cho chúng đàn áp và bóc lột nhân dân cả nước. Đó là tội
lớn của Phong kiến nhà Nguyễn trước dân tộc, trước lịch sử. Tất nhiên, khi khẳng
định “tội” của Nhà Nguyễn trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp vào
nữa sau thế kỷ XIX, chúng ta không hề quên những đóng góp của họ về các mặt
phát triển giáo dục, văn hoá, nghệ thuật mà một số thành tự đến nay vẫn là tài sản
quý của dân tộc.

Vậy, là từ tháng 8 năm 1858, mà cụ thể là từ ngày 1/9/1858 thực dân Pháp
bắn phát đại bác đầu tiên lên Bán đảo Sơn trà (Đà Nẵng) đến hai Hiệp ướng đó là
Hiệp ước Hác Măng 25/8/1883 và Hiệp ước Pa Tơ Nốt 6/6/1884. Đến đây, giai cấp
phong kiến độc lập Việt Nam đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn và sự đầu hàng của
triều Nguyễn trước chủ nghĩa tư bản Pháp; nước Việt Nam trở thành một nước
thuộc địa nữa phong kiến.

5
Sau khi đã cơ bản áp đặt được chế độ cai trị trên đất nước ta. Thực dân Pháp
tiến hành khai thác thuộc địa. Để bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân
Pháp duy trì phương thức sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt
Nam có nhiều thay đổi.

* Về Chính Trị: chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy
đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người
Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống
sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua
quan Nam triều thành bù nhìn, tay sai.
Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm các cuộc
đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị
rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba
kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông Dương thuộc
Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc,
Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các
dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.

* Về kinh tế: Thực dân Pháp bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách
độc quyền về kinh tế (các mặt xuất nhập khẩu, khai thác mỏ, tài chính, ngân hàng,
giao thông vận tại…), kìm hãm sự phát triển nền kinh tế độc lập của nước ta.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý và vô nhân đạo, tăng cường vơ vét tài
nguyên và bóc lột nặng nề, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến… làm cho nhân
dân ta bị bần cùng, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu
quả nghiêm trọng kéo dài.
Những việc làm trên dẫn đến hậu quả nhân dân ta vô cùng khổ cực, đất nước
tiêu điều.
Phân tích: - Về xuất nhập khẩu Thực dân Pháp mua hàng hoá của ta với giá rẻ
mạt, trong khi đó hàng hoá dư thừa của Pháp được nhập vào Việt Nam. Hàng hoá
Pháp thống trị thị trường Việt Nam vì được miễn thuế. Tất cả các lợi nhuận đều lọt
vào tay các công ty như Đông ấn, Den nis Frers… chúng đánh thuế cao để không
chế hàng hoá của các nước khác muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam.
- Khai thác mỏ được tập trung chủ yếu ở Bắc kỳ như mỏ than, mỏ vàng... số
lượng mỏ tăng lên nhanh chóng, cướp đất lập đồng điền trồng cao su, mía…
- Về giao thông vận tải: các công trình xây dựng mà chủ yếu là đường bộ và
đường thuỷ được đầu tư xây dựng phục vụ cho công cuộc khai thác. Các công trình
này đều do Tư bản Pháp nắm giữ và ngân hàng Đông Dương được mở để đầu tư
cho bọn tài phiệt. Ngoài ra chúng còn độc quyền buôn bán về rượu, thuốc phiện,
muối, hàng xa xỉ phẩm… Tất cả các hoạt động đó nhằm mục đích thu lợi nhuận tối
đa đem về cho chính quốc. Vậy hậu quả của chúng gây ra là hết sức nguy hiểm đối
với dân tộc Việt Nam.

6
* Về Văn hoá: Chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý
tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi
hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít
và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi
hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị.
Phân tích: - Hệ thống giáo dục không được chú ý. Các trường không được
mở, giáo dục nhằm làm cho người học lạc hướng, xa rời truyền thống dân tộc.
Ví dụ: Hơn 90% người dân bị mù chữ điều đó đã nói lên bản chất của chế độ
Thực dân.
Sau khi thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa với những chính sách như
trên đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hoá giai cấp
diễn ra ngày càng sâu sắc hơn.
Giai cấp địa chủ phong kiến đã tồn tại hơn ngàn năm. Chủ nghĩa tư bản thực
dân được đưa vào Việt Nam và trở thành yếu tố bao trùm, song vẫn không xóa bỏ
mà vẫn bảo tồn và duy trì giai cấp địa chủ để làm cơ sở cho chế độ thuộc địa. Tuy
nhiên, do chính sách kinh tế và chính trị phản động của thực dân Pháp, giai cấp địa
chủ càng bị phân hóa thành ba bộ phận khá rõ rệt: tiểu, trung và đại địa chủ. Có
một số địa chủ bị phá sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có
truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về
chính trị, chèn ép về kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ
không chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với đế quốc về quyền lợi dân tộc nên
đã tham gia đấu tranh chống thực dân và bọn phản động tay sai.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số. Họ bị đế quốc, phong kiến địa
chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông dân đã bị bọn tư bản
thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua rẻ bán đắt, tô cao, thuế
nặng, chế độ cho vay nặng lãi... của đế quốc và phong kiến đã đẩy nông dân vào
con đường bần cùng hóa không lối thoát. Một số ít bán sức lao động, làm thuê
trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền hoặc bị bắt đi làm phu tại các thuộc địa khác
của đế quốc Pháp. Còn số đông vẫn phải gắn vào đồng ruộng và gánh chịu sự bóc
lột vô cùng nặng nề ngay trên mảnh đất mà trước đây là sở hữu của chính họ.
Vì bị mất nước và mất ruộng đất nên nông dân có mâu thuẫn với đế quốc và
phong kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với đế quốc và bọn tay sai phản động. Họ vừa có
yêu cầu độc lập dân tộc, lại vừa có yêu cầu ruộng đất, song yêu cầu về độc lập dân
tộc là bức thiết nhất. Giai cấp nông dân có truyền thống đấu tranh kiên cường bất
khuất là lực lượng to lớn nhất, một động lực cách mạng mạnh mẽ. Giai cấp nông
dân khi được tổ chức lại và có sự lãnh đạo của một đội tiên phong cách mạng, sẽ
phát huy vai trò cực kỳ quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam.
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, tư sản Việt Nam mới chỉ là một tầng lớp
nhỏ bé. Sau chiến tranh, tư sản Việt Nam đã hình thành giai cấp rõ rệt. Ra đời trong

7
điều kiện bị tư bản Pháp chèn ép, cạnh tranh rất gay gắt, nên số lượng tư sản Việt
Nam không nhiều, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối.
Trong quá trình phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân thành hai bộ phận:
Tư sản mại bản là những tư sản lớn, hợp tác kinh doanh với đế quốc, bao thầu
những công trình xây dựng của chúng ở nước ta. Nhiều tư sản mại bản có đồn điền
lớn hoặc có nhiều ruộng đất cho phát canh, thu tô. Vì có quyền lợi kinh tế và chính
trị gắn liền với đế quốc thực dân, nên tư sản mại bản là tầng lớp đối lập với dân tộc.
Tư sản dân tộc là bộ phận đông nhất trong giai cấp tư sản, bao gồm những tư
sản loại vừa và nhỏ, thường hoạt động trong các ngành thương nghiệp, công nghiệp
và cả tiểu thủ công nghiệp. Họ muốn phát triển chủ nghĩa tư bản của dân tộc Việt
Nam, nhưng do chính sách độc quyền và chèn ép của tư bản Pháp nên không thể
phát triển được. Xét về mặt quan hệ với đế quốc Pháp, tư sản dân tộc phải chịu số
phận mất nước, có mâu thuẫn về quyền lợi với bọn đế quốc thực dân và phong
kiến, nên họ có tinh thần chống đế quốc và phong kiến. Giai cấp tư sản dân tộc là
một lực lượng cách mạng không thể thiếu trong phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản bao gồm nhiều bộ phận khác nhau: tiểu thương, tiểu chủ,
thợ thủ công, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên và những người làm nghề tự
do. Giữa những bộ phận đó có sự khác nhau về kinh tế và cách sinh hoạt, nhưng
nhìn chung, địa vị kinh tế của họ rất bấp bênh, luôn luôn bị đe dọa phá sản, thất
nghiệp. Họ có tinh thần yêu nước nồng nàn, lại bị đế quốc và phong kiến áp bức,
bóc lột và khinh rẻ nên rất hăng hái cách mạng. Đặc biệt là tầng lớp trí thức là tầng
lớp rất nhạy cảm với thời cuộc, dễ tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ và canh tân
đất nước, tha thiết bảo vệ những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc. Khi
phong trào quần chúng công nông đã thức tỉnh, họ bước vào trận chiến đấu giải
phóng dân tộc ngày một đông đảo và đóng một vai trò quan trọng trong phong trào
đấu tranh của quần chúng, nhất là ở đô thị. Giai cấp tiểu tư sản là một lực lượng
cách mạng quan trọng trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Giai cấp công nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa
của Pháp và nằm trong những mạch máu kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Lớp
công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một
số cơ sở công nghiệp và thành phố phục vụ cho việc xâm lược và bình định của
chúng ở nước ta. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của đế quốc Pháp,
giai cấp công nhân đã hình thành. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp
công nhân đã phát triển nhanh chóng về số lượng, từ 10 vạn (năm 1914) tăng lên
hơn 22 vạn (năm 1929), trong đó có hơn 53.000 công nhân mỏ (60% là công nhân
mỏ than), và 81.200 công nhân đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy còn non trẻ, số lượng chỉ chiếm khoảng 1%
số dân, trình độ học vấn, kỹ thuật thấp, nhưng sống khá tập trung tại các thành phố,
các trung tâm công nghiệp và các đồn điền.
Giai cấp công nhân Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công
nhân quốc tế, đồng thời còn có những điểm riêng của mình như: phải chịu ba tầng
lớp áp bức bóc lột (đế quốc, phong kiến và tư sản bản xứ); phần lớn vừa mới từ

8
nông dân bị bần cùng hóa mà ra, nên có mối quan hệ gần gũi nhiều mặt với nông
dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, nên nội bộ
thuần nhất, không bị phân tán về lực lượng và sức mạnh. Sinh ra và lớn lên ở một
đất nước có nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhất là truyền thống yêu nước
chống ngoại xâm, sớm tiếp thu được tinh hoa văn hóa tiên tiến trong trào lưu tư
tưởng của thời đại cách mạng vô sản để bồi dưỡng bản chất cách mạng của mình.
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội tiên tiến, đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, có tinh thần cách
mạng triệt để, lại mang bản chất quốc tế. Họ là một động lực cách mạng mạnh mẽ
và khi liên minh được với giai cấp nông dân và tiểu tư sản sẽ trở thành cơ sở vững
chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do. Khi được
tổ chức lại và hình thành được một đảng tiên phong cách mạng được vũ trang bằng
một học thuyết cách mạng triệt để là chủ nghĩa Mác - Lênin thì giai cấp công nhân
trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc.
Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam và cả Đông
Dương nói chung là một chính sách thống trị chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng
nề về kinh tế nhằm đem lại lợi nhuận tối đa về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn
hóa, giáo dục, chứ không phải đem đến cho nhân dân một sự "khai hoá văn minh" -
một sự khai hoá và cải tạo thực sự theo kiểu phương Tây. Bản chất của "sứ mạng
khai hoá" đó chính là sự khai thác thuộc địa diễn ra dưới lưỡi lê, họng súng, máy
chém, v.v.. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói về "nhà khai hoá" như sau: "Khi người
ta đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là
người văn minh nhất"1. Và nếu dân bản xứ không chịu nhục được, phải vùng lên,
thì các nhà khai hoá "điều quân đội, súng liên thanh, súng cối và tàu chiến đến,
người ta ra lệnh giới nghiêm. Người ta bắt bớ và bỏ tù hàng loạt. Đấy! Công cuộc
khai hoá nhân từ là như thế đấy!"2.
Nước Việt Nam đã có những biến chuyển sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý đã biến thành một xã hội
thuộc địa. Mặc dù thực dân còn duy trì một phần tính chất phong kiến, song khi đã
thành thuộc địa thì tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và giai cấp ở
Việt Nam đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội đó.
Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã hình thành
những mâu thuẫn đan xen nhau, song mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức
và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì
sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về
nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi
giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu
tranh dân tộc. Hồ Chí Minh đã vạch rõ vấn đề này từ năm 1924 rằng: "Cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây... Sự xung đột về quyền lợi
của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được".

2. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời:

9
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của
thế kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta
chống đế quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi
vì không có một đường lối cứu nước đúng đắn.
Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp
phong kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn
mạnh xâm lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một
kẻ thù mới, một đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất
lực và trở thành phản động.
Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ
chức cách mạng có khả nǎng dẫn dắt dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào
này đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ
tư tưởng phong kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của
cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước
ở nước ta bộc lộ sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng
phong kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến những
con đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của
Nhật Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách
mạng Tân Hợi của Trung Quốc (1911)...
Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành
nước đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga - Nhật
(1905). Cách mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi
ở Trung Quốc (nǎm 1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung
Hoa dân quốc. Những sự kiện trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt
Nam.
Ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến
bộ tiếp thu trào lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường
tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào
Nhật để đánh Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan
Bội Châu sáng lập, với mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống
Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số
khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa
Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước, bài xích chính sách cai trị của
thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến, cường hào v.v.. Là
một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan Chu Trinh khác hẳn
với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ
tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động,
bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố của cụ
Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi
vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay
đầu lại mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho quốc dân để quốc dân được trực

10
tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau này". Phong trào Đông
Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của
khuynh hướng tư tưởng tư sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số
tổ chức yêu nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907), hội Đông á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v..
Song, vì đường lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa
vào quần chúng lao động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự
thống nhất trong những người đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ
lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào cũng tan rã theo. Cách mạng tháng Mười
Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Quốc
tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới
được thành lập. Ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản Trung
Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện
lịch sử này không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Pháp, mà còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này
cũng bắt đâu có những chuyển biến mới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những người Việt Nam yêu nước
ở Pháp đưa bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc thắng trận ở
thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập
Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham
gia thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920).
Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ tịch Hội nông dân Quốc tế
(l0-1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924). Tiếng bom Phạm
Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu (Trung Quốc)
v.v.. Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào cách
mạng Việt Nam.
Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí
Nguyễn ái Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào
thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến".
Đúng như nhận xét của đồng chí Nguyễn ái Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi,
phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến mạnh mẽ. Bên cạnh những
đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện những tổ chức yêu
nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân ngày càng có tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước
và phong trào công nhân.
Ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được ngọn cờ giải
phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một tập
đoàn địa chủ "tư sản hoá".
Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ làm tay sai cho đế
quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo hoàng lập
hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc lộ chân tướng ôm chân đế quốc Pháp.

11
Phong trào đấu tranh trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo
kiểu cách mạng tư sản, nhưng động lực của nó là những người tiểu tư sản chứ
không phải do Đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo. Biểu hiện của phong trào này là
nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế tiếp nhau ra đời: Tân Việt
thanh niên đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925), Đảng thanh
niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng Đảng của Nguyễn An Ninh
(1926-1929), Tân Việt cách mạng Đảng (1926-1930), Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí Hội (1925-1929), Việt Nam quốc dân Đảng (1925-1930) v.v...
Những tổ chức yêu nước cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc
truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh
niên trí thức, tiểu tư sản. Nhưng, họ chưa vạch ra được một đường lối cách mạng
phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu cao quyết tâm "khôi phục quyền
làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến chính thể". Tân Việt cách
mạng Đảng nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa thấy vị trí lịch sử của
giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân Đảng chủ trương chống đế quốc, chống
phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên
(Trung Quốc).
Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế quốc,
nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách
mạng tháng Mười Nga, nên không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với
giải phóng nhân dân lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính
phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền
với chế độ mới để đi đến xoá bỏ mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người
trong các tổ chức này cũng không thấy hết bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc, không nhận thức được vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò của
quần chúng nhân dân, trước hết là nông dân trong cách mạng. Bởi những hạn chế
đó, những người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể xác định được một
đường lối cách mạng đúng đắn.
Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ
phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn
chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt
Nam đặt ra, cần được giải quyết.

3. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam:
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam
Đàn, Tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là
Nguyễn Tất Thành sau này là Hồ Chí Minh. Lớn lên giữa lúc nước mất, nhà tan,
đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào. Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh
đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Đồng thời, trong giai đoạn này, cách mạng
Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước
ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người bôn ba khắp năm châu, bốn biển,

12
vừa lao động, vừa học tập, quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc
cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ) và tham gia hoạt động trong Đảng xã hội
Pháp.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước
ngoặc lớn.
Một là, Nhận ra hạn chế của các nhà cách mạng đương thời.
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của cụ Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của
một người nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã
vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác.
Hai là, Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc
cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
Một cuộc khảo sát có một không hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp Nguyễn
Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người
áp bức và người bị áp bức. Càng ngày người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ
nghĩa đế quốc.
Ngày 6/7/1911, Nguyễn Ái Quốc đến cản Mác xây, thấy nhiều người phụ
nữ nghèo khổ. Nguyễn Tất Thành nói với người bạn “Tại sao người Pháp không
“khai hoá” đồng bào của họ trước khi đi “khai hoá” chúng ta?.
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy những
cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn
Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay
da đen cũng không đáng một su.
Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần
thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên
cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng thần Tự do, Nguyễn Tất
Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh
những nô lệ da đen dưới chân tượng.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở
lại Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) giết hại biết bao sinh mạng, phá
huỷ vô vàn của cải. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc càng hiểu thêm bản chất của chủ
nghĩa tư bản.
Quá trình nghiên cứu, xem xét cách mạng tư sản Mỹ (1776) và cách mạng
tư bản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy,
Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là “những cuộc cách mạng
không đến nơi”.
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình ở Vécxây
(Pháp) để chia phần. Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái
Quốc gửi đến hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề
dân tộc tự quyết, người chỉ đề cập những yêu sách “tối thiểu” và “cần thiết”. Tổng
thống Mỹ Uynxơn, tác giả chương trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết

13
cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng những yêu sách dù khiêm tốn của Người không
được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ “chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một
trò bịp bợm lớn...”. Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản trong lúc
chiến tranh thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của
bản thân mình. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng xã hội Pháp, một
Đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị
nổi tiếng ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công
nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.
Ba là, Đi theo con đường Cach mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế
cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn
nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi
của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga đặt ra sự lựa chọn mới đối với
những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho
đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên
chủ nghĩa xã hội?.
Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, nguyễn Ái Quốc
ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lê nin. Người đã tham gia nhiều cuộc
vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 3/1919, Quốc
tế cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng
thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra quyết liệt trong
nhiều Đảng công nhân và ngay trong Đảng xã hội Pháp: Tiếp tục theo quốc tế hai
tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo Quốc tế ba, con đường cách mạng.
Tháng 7/1920, nguyến Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê nin. Luận cương đã giải đáp đúng
những vấn đề mà nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu. Từ đây, Người đã tìm ra
con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Người xác định
những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc. Đó là con đường cách mạng
vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách
mạng dân tộc từng nước với phong trào vô sản thế giới...
Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặc chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng
sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặc mở đường thắng lợi cho sự
nghiệp gải phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam, tìm ra con
đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.

14
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực hoạt động trong phong trào
cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghía Mác – Lê nin vào Việt
Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác
phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong
Quốc tế Cộng sản, tháng 12/1942, nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc)
trực tiếp chỉ đạo chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Người sáng
lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên, sáng lập và viết
bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tiếp
tục truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho
việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc
được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “Người đi đường
đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người
yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đố giai cấp công nhân ngày càng trở
thành một lực lượng chính trị độc lập. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị
lãnh đạo. Vì vậy, đã có các tổ chức cộng sản lần lượt thành lập.
Ngày 17/6/1929, Đông dương cộng sản Đảng được thành lập tại số nhà 312
Phố Khâm Thiên (Hà Nội) ở Bắc Kỳ với sự tham dự của 20 đại biểu ưu tú của Kỳ
bộ thanh niên. Sau khi ra đời, ĐDCSĐ cho công bố Tuyên ngôn, Điều lệ và phát
hành báo búa liềm làm cơ quan tuyên truyền của Đảng. Bản Tuyên ngôn nêu rõ
ĐDCSĐ là đại biểu cho giai cấp vô sản, bao gồm những người giác ngộ và tiên tiến
hơn cả. Đảng bênh vực quyền lợi cho “toàn thể vô sản giai cấp, dân cày nghèo và
tất cả những người làm lụng bị bóc lột và đè nén”.
Mùa thu 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
Ngày 1/1/1930, Đông dương Cộng sản liên đoàn được thành lập ở Trung
kỳ.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng
sản được tuyên bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu
tranh cách mạng ở Việt Nam. Sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập
trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. yêu cầu bức thiết của cách
mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ
cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín
đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng
Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội ngị hợp nhất ba tổ chức Cộng
sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là

15
ĐCSVN, thông qua Chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử
như là Đại hội thành lập Đảng. ĐCSVN được thành lập là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là
sản phẩm của sự kết hợp chủ nghía Mác – Lê nin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước; là kết quả của qúa trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của
lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức
của tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn, bước ngoặc trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt
Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước. Chính cương vắn tắt,
Sách lược vắn tắt do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo được hội nghị thành lập
ĐCSVN thông qua đã xác định: cách mạng VN phải tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách
mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân VN đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo
cách mạng.
Sự ra đời của ĐCSVN gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
* Tôi vừ trình bày xong phần I: ĐCSVN Ra đời, bước ngoặc quyết định
của cách mạng Việt Nam.
Giờ chúng ta chuyển sang phần II.
II. NHỮNG THÀNH TỰU VẺ VANG CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM
DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG:
1. Đảng lãnh đạo và tổ chức các cuộc đấu tranh cách mạng, khởi nghĩa
giành chính quyền – Cách mạng Tháng Tám (1945).
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã quy
tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây dựng
nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn phong kiến tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Qua 15 năm lãnh đạo cách mạng, trải qua các cuộc đấu tranh giai khổ hy
sinh, qua ba cao trào Cách mạng lớn (1930 – 1931, 1936 – 1939, 1939 1945) với
khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ sịch sử, với một nghệ
thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta lãnh đạo cuộc Tổng khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích
nô lệ của chế độ thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại tồn
tại trong gần một thế kỷ.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời đọc
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước VNDCCH, lập nên nhà nước của dân, do dân
và vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ
nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

16
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này
là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nữa thuộc địa,
một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”.
2. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và
tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược (1945-
1954).
a. Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945 –
1946).
Ngay khi vừa mới ra đời, nước VNDCCH đã phải đối mặt vơi ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đầu năm 1945 đã làm
chết hơn hai triệu người ở miền bắc; trên 95% dân Việt Nam mù chữ. ở Miền bắc
hơn 20 vạn quân Tưởng đã vào với mưu đồ “diệt cộng, cầm Hồ”. Ở miền Nam, hơn
15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của liên quân Anh - Ấn lăm le xâm lược nước ta.
Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của
đất nước như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn,toàn diện trên tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch,
chúng ta đã thực hiện sách lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng,
dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị
sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động
viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn
khó khăn, nguy hiểm, củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình
thế hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân
Pháp.
b. Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp sâm lược.
Bất chấp mong muốn độc lập và hòa bình của Chính phủ và nhân dân ta,
thực dân Pháp không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta đã nhân nhượng,
nhưng càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng lên bảo
vệ độc lập của dân tộc. Đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, nhân dân cả nước đã quyết tâm “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu
mất nước, nhất đinh không chịu làm nô lệ”… Với đường lối kháng chiến toàn dân,
toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược bằng chiến thắng tiêu diệt toàn bộ tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (Tháng 8/1945).
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử được ghi vào lịch sử ta như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như

17
một chiến công chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực
dân.
Đánh giá thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thộc địa nhỏ yếu đã đánh
thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân
Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và
XHCN trên thế giới”.
Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay,
một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu
tranh dưới sự lãnh đạo của chính Đảng mác –Lê nin để dành độc lập và dân chủ, thì
có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng
tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu,
chỉ có đường lối cách mạng khoa học chủ nghĩa Mác – Lê nin mới có thể tạo điều
kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
3. Đảng lãnh đạo tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược – Đánh
thắng Đế quốc Mỹ xâm lược (1954-1975).
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt
Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm chia làm hai miền với hai
chế độ chính trị – xã hội đối lập nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu
của Cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân ở miền Nam, chống
đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nuớc nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, trong đó cách mạng XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định
nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc, dân
chủ, nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng trực tiếp đối với sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả nước ta tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh
cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ
đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng
lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên
cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ
hy sinh, được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần
lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến
tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc. Bằng cuộc tổng tiến công và
nổi dậy Mùa xuân 1975 và thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, nhân dân
ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

18
Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết lực lượng mà kẻ
địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những tình huống cực
kỳ phức tạp mà cách mạng Việt nam đã vượt qua, chúng ta càng thấy rõ tầm vóc vĩ
đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Nghị quyết đại
hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta
trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch
sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan
trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thắng lợi oanh liệt Mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẽ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một
thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng
dân tộc, dân chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của CNXH ở miền Bắc, mở ra
thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

4. Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN
(1975 đến nay).
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên CNXH, cách mạng Việt Nam có những
thuận lợi song cũng không ít khó khăn, mà khói khăn lớn nhất là nền kinh tế nước
ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng xuất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại nặng
nề. Trong khi đó, chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách phá hoại.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tap;
CNXH thế giới gặp phải những khó khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc
biệt từ khi chế độ XHCN ở Đông Âu và liên Xô sụp đổ. Các điều kiện đó đã tác
động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 – 1985), cách mạng Việt
Nam đã vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng.
Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh
thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN. Trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong
công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản
xuất và đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về
kinh tế xã hội đạt được còn thấp so với yêu cầu kế hoạch và công sức bỏ ra; nền
kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao quá mức, đất nước lâm
vào khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đã nghiêm khắc kiểm
điểm sự lãnh đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những
sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo
kinh tế, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặc trong công cuộc xây
dựng CNXH ở nước ta.

19
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) của Đảng đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế – xã hội 5 năm
1991 – 1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát nhất về xã hội XHCN ở Việt
Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác –
Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành đồng
của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một
giai đoạn thử thách gay go. Đại hội VIII của Đảng (22/6 đến 1/7/1996) đã nhận
định: “công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có
ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 – 1995 đã
được hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa
vững chắc.
Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của tời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đến Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên CNXH” và đề ra nhiệm vụ KT - XH từ năm 1996 đến năm 2000
là: Tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết
những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống
của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho
bước phát triển cao hơn vào thế kỷ XXI.
Đại hội XI của Đảng (4/2001) đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996 – 2000 toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
đã vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội đã khẳng định: Thực tiễn phong phú và những
thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Đảng,
đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở nước
ta.
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001 –
2005), Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta đã đạt được những thành tựu quan trọng đó là:
Một là, nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao và phát triển tương đối toàn diện.
Tốc độ tăng trưởng GDP hăm sau cao hơn năm trước. Bình quân 5 năm 2001
– 2005 đạt 7,51%, đạt mức kế hoạch đề ra.
Hai là, Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh
tế với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt; đời sống của các tầng lớp
nhân dân được cải thiện. GD và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước phát triển

20
khá; công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm thu được nhiều kết quả; công
tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đạt kết quả tốt...
Ba là, chính trị – xã hội ổn địn; quốc phòng - an ninh được tăng cường; quan
hệ đối ngoại có bước phát triển mới.
Bốn là, việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có tiến bộ trên cả ba lĩnh
vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc được phát
huy...
Năm là, Công tác xây dựng đảng đạt một số kết quả tích cực.
Bên cạnh đó Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém:
Một là, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu
quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Hai là, cơ chế, chính sách về VH – XH chậm đổi mới; nhiều vấn đề xã hội
bức xúc chưa được giải quyết tốt, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm
trọng, tội phạm và một số tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng.
Ba là, các lĩnh vực quốc phòng, an ninh đối ngoại còn một số hạn chế.
Bốn là, tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân chậm đổi mới, bộ máy quản lý các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém; tình trạng
nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, chậm được
khắc phục; hoạt dộng của Quôc hội còn lúng túng; dân chủ trong xã hội còn bị vi
phạm; kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơikhông nghiêm.
Năm là, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chưa đạt yêu vầu: Tình trạng
suy thới về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân và tệ nạn quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phậncán bộ, công chức diễn ra nghiêm
trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng sức chiến đấu yếu.
Những khuyết điểm, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân. Đạihội X của Đảng
đã phân tích và cho rằng nghuyên nhân chủ quan là chính. Đó là, tư duy của Đảng
trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ
phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực.
đây là những vấn đề cần được khắc phục.
Nhìn lại 20 năm đổi mới Đại hội X khặng định: với sự nỗ lực phấn đấu của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Thành tựu 20 năm đổi mới đất nước đã chứng minh sự tài tình, sáng suốt và
tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức rõ hơn vè con đường đi
lên CNXH ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường XHCN, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lê Nin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
III. NHỮNG TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện,
trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt
đẹp của Đảng ta, đó là:
+ Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.

21
+ Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo.
+ Kiên định Chủ nghĩa Mác Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn
cờ độc lập dân tộc và CNXH.
+ Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân
dân.
+ Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Đảng.
+ Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế…
Những truyền thống quý báu của Đảng là sự kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân
Quốc tế, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của quá
trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hi sinh phấn đấu không mệt mỏi của các thế
hệ đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu
sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao
của Đảng ta.
Khái quát lịch sử Đảng có thể khẳng định rằng: ngay từ khi vừag mới ra đời,
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm bắt đúng xu thế phát
triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng
thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.
Vì vậy, nhất là trong những bước ngoặc lịch sử phải đương đầu với với mọi thử
thách, dù hiểm ngjèo tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết
sách sáng suốt, đúng đắn, đáp ứng nhu cầu phát triển của thữ tiễn, đưa con thuyền
cách mạng đứng lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng
vững trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác - Lê nin và
tư tưởng Hồ chí Minh. Đảng ta không chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lê nin mà còn biết vận dụng sáng tạo và phát triển trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh của Đảng còn ở chỗ Đảng ta đã
không ngừng phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh
hoa trí tuệ của nhân loại.
Học tập, nghiên cứu lịch sử và truyền thống của Đảng để tự hào về Đảng và
góp phần giữ vững, kế thừa và phát huy những truyền thống của Đảng làm cho
Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng, ngang tầm thời đại mới.

CÂU HỎI

22

You might also like