Professional Documents
Culture Documents
HỒ CHÍ MINH
LỚP 24TC_4_T02, KHOA CƠ BẢN
NHÓM 4
Trương Ngọc An
Vũ Tiến Đạt
Ngô Hiền Đức
Nguyễn Thị Thanh Hường
Nguyễn Cát Tường Linh
Trương Ngọc Thanh Thanh
Nguyễn Mai Thảo
Hồ Trung Thịnh
Nguyễn Phương Thúy
Năm KN xuất khẩu Tốc độ tăng KN nhập khẩu Tốc độ tăng Cán cân
(tr.USD) XK(%) NK(%) thương mại
(tr.USD)
Sau 3 năm gia nhập tổ chức thương mại (WTO), hoạt động ngoại thương nói
chung, đặc biệt hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng có nhiều
thuận lợi để phát triển. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có điều kiện tiếp cận thị trường thế
giới dễ dàng hơn, những hạn chế và rào cản thuế đối với hàng hoá Việt Nam được cắt
giảm.
Năm 2007
Năm 2007, kinh tế toàn cầu chịu nhiều ảnh hưởng bởi những biến động lớn về
giá hàng hoá, chủ yếu là do giá nguyên, nhiên liệu, nông sản, thực phẩm tăng cao liên
tục. Những biến động thất thường của giá dầu thô, giá vàng cùng với dấu hiệu suy thoái
kinh tế Hoa Kỳ, đồng đô la mất giá nhanh so với các ngoại tệ mạnh khác đã tác động
không tốt và lan tỏa tới nhiều nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 48,4 tỷ USD tăng 21,5 % so với năm 2006 và
vượt 15,5% so với kế hoạch. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng
22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%. Mặc dù đã là thành viên chính thức
của WTO, nhưng xuất khẩu trong những tháng đầu năm dường như chưa đạt mức tăng
trưởng tương xứng so với tiềm năng và cơ hội mang lại. Kết quả là xuất khẩu chỉ tăng
bình quân 22%. Xuất khẩu các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ,
cao su, gạo… đều có mức tăng trưởng không cao. Lượng hàng hóa xuất khẩu tăng khá,
nhưng chưa có nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn, có khả năng bù đắp phần thiếu
hụt khi giá và lượng dầu thô xuất khẩu giảm. Chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt
là thủy sản và thực phẩm chưa thực sự ổn định, vẫn còn nhiều lô hàng bị trả lại.
Trong khi đó kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là 60,8 tỷ USD tăng 35,5% so
với năm 2006, đứng thứ 41 trên thế giới.
Trong năm 2007, thị trường xuất siêu của nước ta là khu vực Mỹ, EU… nhưng
thị trường nhập siêu lại là Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…
Như vậy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong năm này là 109,2 USD với tình
hình nhập siêu lên tới 12,45 tỷ USD bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Mức nhập siêu
như thế là rất cao, vượt xa so với năm trước và cao gấp hơn hai lần so với kế hoạch, bởi
lẽ ngay cả một số sản phẩm mà trong nước có thể sản xuất được thì chúng ta vẫn phải
nhập khẩu. Đồng thời do hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất trong nước chưa
được tốt nên nhiều mặt hàng không cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại nhập.
Năm 2008
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và
trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều loại
nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những tháng giữa
năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước, từ đó cũng
ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu nước ta năm 2008.
Về xuất khẩu: Tính chung cả năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá ước đạt
62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, chiếm 49,7% tổng kim ngạch xuất khẩu;
khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, chiếm 50,3%. Theo đánh giá
của Tổng cục Thống kê, tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008 tăng khá cao so
với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8
mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim
ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%.
Về nhập khẩu: Trong 5 tháng đầu năm, nhập siêu tăng mạnh, cao hơn gần 3,4
lần so với cùng kỳ năm 2007, lên tới 14,4 tỷ USD. Nhưng liên tiếp trong 7 tháng còn
lại, nhập siêu được kiềm chế ở mức thấp; một trong những nguyên nhân chính là do giá
hàng nhập khẩu trên thị trường thế giới giảm mạnh, đặc biệt là xăng dầu.
Tính chung cả năm 2008, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính 80,4 tỷ USD,
tăng 28,3% so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD,
tăng 26,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Nếu loại
trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch nhập khẩu năm nay chỉ tăng
21,4% so với năm 2007.
Như vậy, mức thâm hụt cán cân thương mại lên đến 17,5 tỷ USD, cao nhất từ
trước đến nay. Báo động đối với Việt Nam là thâm hụt cán cân thương mại đã ở mức
đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng Trung Quốc.
Trong tổng mức thâm hụt 17,5 tỉ USD hàng hoá của Việt Nam với thế giới thì riêng
thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 12 tỉ USD, tiếp đến là thâm hụt thương mại với các
đối thủ cạnh tranh là các nước ASEAN và Hàn Quốc.. chỉ thặng dư với Hoa Kỳ và EU.
Năm 2009
Do những hậu quả còn tồn đọng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008, nên cán cân thương mại Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng thâm hụt cao. Tuy
nhiên, con số thâm hụt đã giảm hơn so với năm trước.
Về quy mô xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt
khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7% so với năm 2008 và bằng 87,6% kế hoạch (kế hoạch
điều chỉnh tăng 3% của Quốc hội). Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 29,85 tỷ USD, chiếm 52,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước,
giảm 13,5% so với năm 2008; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt
26,7 tỷ USD, chiếm 47,2%. giảm 5,1%, so với năm 2008.
Nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2009 khoảng 68,8 tỷ USD,
giảm 14,7% so với năm 2008 (năm 2008 so với 2007 tăng 28,7%), trong đó khối doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 36,1% tổng kim
ngạch nhập khẩu cả nước, giảm 10,8%; Kim ngạch nhập khẩu của khối doanh nghiệp
100% vốn trong nước đạt 43,96 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm 16,8% so với
năm 2008.
Năm 2009, Trung Quốc vẫn là thị trường dẫn đầu về cung cấp hàng nhập khẩu
cho nước. Tiếp theo là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia …
Với nhiều biện pháp tăng cường kiểm soát để hạn chế nhập khẩu những mặt
hàng tiêu dùng không cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất được, khối lượng một số
hàng hóa nhập khẩu năm 2009 cũng đã giảm hơn năm 2008, tuy nhiên một số loại hàng
hóa khác vẫn còn có mức nhập khẩu cao (như máy móc, thiết bị, dược phẩm, tơ
sợi…). Do đó, mặc dù giá nhập khẩu giảm nhưng kim ngạch nhập khẩu giảm chậm,
dẫn đến mức nhập siêu vẫn còn cao hơn mục tiêu đề ra.
Cán cân thương mại nước ta luôn nằm trong tình trạng thâm hụt, đặc biệt đang
có xu hướng tăng nhanh vào những năm gần đây. Và thực tế cho thấy các mặt hàng
xuất khẩu chưa có giá trị cao, giá cả cũng không ổn định. Đó là một điều đáng báo
động cho nền kinh tế nước ta.
20
17.5
18
16
14 12.45 12.2
12
10
8
5.1 5.48 5.06
6 4.31
4 3.04
2 1.15 1.19
0
Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm Năm
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Nguyên nhân khách quan
Nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế chưa đủ tiềm lực để sản xuất các
mặt hàng về công nghiệp hay những mặt hàng đòi hỏi kĩ thuật cao. Bởi vậy, việc chúng
ta nhập siêu liên tục từ năm 1986 đến nay là điều không thể tránh khỏi. Không thể nói
nhập siêu là điều không tốt, nếu như chúng ta sử dụng nhập siêu để mà có thể trang bị
máy móc thiết bị để dùng cho công cuộc kiến thiết đất nước. Khi mà một đất nước
nhập những hàng hoá có thể sản xuất được, hay là cho nhập khẩu những sản phẩm
không cần thiết và nhập với tỉ lệ quá lớn thì đó là điều rất đáng lo ngại.
Từ tháng 9- 2008, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toán cầu đã bắt đầu thể hiện trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đồng loạt giảm giá mạnh, đặc biệt ở mặt hàng
dầu thô, nông sản, thủy sản.Cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu
làm giảm khá mạnh nhu cầu về hàng nhập khẩu của các nước, đặc biệt là sự suy giảm
mạnh của nền kinh tế Hoa Kỳ - bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam đã làm giảm
kim nghạch xuất khẩu. Năm 2009, thị trường Hoa Kỳ đạt kim ngạch 11,2 tỷ USD,
giảm 5,5% so với năm 2008.
Bên cạnh những tác động thuận lợi khi mở cửa hội nhập, nới lỏng các rào cản
thương mại, và đặc biệt là gia nhập WTO, Việt Nam cũng gặp phải những thách thức.
Việt Nam đang trong thời kỳ thực hiện các cam kết về giảm thuế quan và các hạn chế
thương mại, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Trong khoảng thời gian kể từ
ngày gia nhập, mức thuế nhập khẩu trung bình của Việt Nam phải giảm từ 17,4%
xuống còn 13,4% trong vòng 5-7 năm cho nên kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn
xuất khẩu trong ngắn hạn và xu hướng này còn có khả năng tăng nhanh hơn nữa trong
thời gian tới khi Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong WTO.
Đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã quen với việc sản xuất những hàng
hoá và dịch vụ phục vụ thị trường nội địa trong điều kiện có bảo hộ bằng thuế quan
hoặc các hàng rào phi thuế quan thì nay phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài, đây là một thách thức vô cùng lớn, nếu không có lợi thế tất yếu sẽ bị loại bỏ,
trước hết là các doanh nghiệp thương mại. Như vậy sẽ gia tăng sức ép cạnh tranh quốc
tế khắc nghiệt ngay trong thị trường nội địa. Các cơ sở xuất khẩu của Việt Nam vẫn
chưa có biện pháp ứng phó hiệu quả với các rào cản thương mại và những biến động
khó lường của thị trường thế giới, bởi các rào cản thương mại quốc tế được các nước
nhập khẩu dựng lên ngày càng tinh vi, phức tạp.
2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan, chúng ta phải kể đến những nhân tố chủ
quan, làm cho tình hình thâm hụt cán cân thương mại ngày càng trầm trọng như hiện
nay.
Nước ta vẫn là một nước xuất thô, nhập tinh. Kể từ năm 2002-2008, các mặt
hàng xuất khẩu quan trọng của nước ta đang ở mức tăng rất thấp (vào khoảng 10-12%).
Hiện nay các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt nam vẫn là các mặt
hàng sử dụng tài nguyên thiên nhiên và công nghiệp nhẹ, sử dụng lao động rẻ mạt.
Trong khi đó, nước ta chủ yếu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu. Khi giá cả hàng hóa
nước ngoài đắt hơn thì nhu cầu trong nước đối với hàng hóa nước ngoài sẽ giảm,
nhưng giảm rất ít do đó là những mặt hàng thiết yếu.
Từ tình hình thực tế trên cho ta thấy các mặt hàng mà nước ta xuất khẩu là
những mặt hàng có khả năng thu ngoại tệ không cao, giá cả biến động phụ thuộc rất
nhiều vào giá của thế giới. Các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, hàng may mặc, giày
dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Tuy nhiên những mặt hàng
này ngày càng bị đánh giá khắt khe hơn, đòi hỏi chất lượng cao hơn, và còn phụ thuộc
vào thời tiết khí hậu. Các mặt hàng thuỷ sản của nước ta vẫn tiếp tục bị đánh thuế bán
chống phá giá, gây tổn hại lớn cho nền kinh tế. Bởi thế ngoại tệ thu được của các ngành
hàng này không ổn định.
Trong khi đó về nhập khẩu, chúng ta nhập khẩu một lượng hàng lớn nguyên
liệu, đặc biệt là phục vụ cho dệt may, da giày. Nhưng điều cần xem xét ở đây là
nguyên vật phụ liệu đã chiếm trên 50%, chưa kể công mà chúng ta làm ra, rồi lại mang
đi bán. Như vậy ngoại tệ thực sự cũng chẳng bao nhiêu.
Nguyên nhân sâu xa chính là chất lượng của hàng Việt Nam không thể đáp ứng
được yêu cầu khắt khe của thế giới. Bởi vậy ngay cả những nguyên liệu tưởng chừng
như đơn giản, có thể sản xuất được trong nước, chúng ta vẫn phải nhập khẩu nhiều.
Điều này cần đáng lưu ý hơn, khi thị trường xuất khẩu ngày càng khắt khe hơn đối với
hàng hóa nước ta. Cũng cùng lý do đó, lượng gạo của Việt Nam chỉ đứng sau Thái Lan
nhưng chúng ta lại phải chịu mức giá thấp hơn rất nhiều. Hàng loạt người dân nuôi cá
tra, cá ba sa dư cá, trong khi nguồn nguyên liệu cho các doanh nghiệp lại thiếu hụt.
Chất lượng cà phê, cao su của Việt Nam bị phản ánh trong những năm gần đây, chất
lượng gạo không tốt, chứa quá nhiều độc tố, cá nuôi có quá nhiều dư chất... chính chất
lượng hàng hoá của Việt Nam đã dẫn đến việc nhập khẩu quá nhiều nguyên vật liệu
không cần thiết.
Trình độ phát triển kinh tế thấp, phụ thuộc thị trường thế giới về nguồn vốn,
nguyên nhiên liệu, công nghệ… Ví dụ: các ngành sản xuất của ta phụ thuộc quá nhiều
vào nguyên liệu đầu vào nhập khẩu; cùng với đó là sự yếu kém công nghệ ảnh hưởng
khả năng cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu nên xu hướng
nhập khẩu thường cao hơn xuất khẩu. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn
đến thâm hụt cán cân thương mại.
Hiệu quả đầu tư thấp, không sử dụng hết các nguồn lực làm tăng trưởng kinh tế
dưới mức tiềm năng. Đầu tư tăng, làm nhập khẩu tăng theo, nhưng nếu kém hiệu quả sẽ
không bù đắp nỗi nhập khẩu dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại. Kèm theo đó là tình
trạng độc quyền, bảo hộ, bao cấp, chính sách thương mại chưa minh bạch, khó tiên
liệu, phân biệt đối xử dẫn đến tình trạng tham nhũng, gian lận làm hiệu quả đầu tư kém,
lãng phí, tăng giá hàng nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các chính sách lớn như thương mại, đầu tư, tỷ giá hối đoái cũng có
tác động mạnh đến cán cân thương mại thời gian qua của nước ta:
+ Chính sách thương mại, đặc biệt là chính sách thúc đẩy xuất khẩu và
quản lý nhập khẩu, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cán cân thương mại.
Trong những năm qua, cải cách thương mại theo hướng tự do hóa đã góp phần thúc đẩy
tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao và tương đối ổn định, mở cửa thị trường, cắt giảm các
rào cản thương mại tạo thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2004,
cơ chế thương mại Việt Nam có những thiên lệch không tốt cho xuất khẩu và nhập
khẩu cạnh tranh dẫn đến kim ngạch xuất khẩu giảm. Do bảo hộ quá cao hàng nhập
khẩu làm cho sản xuất tiêu thụ nội địa lãi hơn để xuất khẩu, làm tăng chi phí những
hàng hóa phi thương mại gồm cả lao động dẫn đến giảm tính cạnh tranh hàng xuất
khẩu; do mức thuế nhập khẩu và biểu thuế quan Việt Nam còn nhiều phức tạp làm hạn
chế nhập khẩu cạnh tranh…
+ Chính sách đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài: đầu tư tăng mạnh là
một trong các nhân tố dẫn đến nhập khẩu tăng cao, góp phần làm tăng nhập siêu. Trong
những năm qua , vốn đầu tư của ta chưa phát huy hiệu quả, nhất là nguồn vốn Nhà
nước, ngoài ra xuất hiện tham nhũng, tham ô, phân phối vốn đầu tư không đúng, hiệu
suất đầu tư thấp…càng đẩy tình trạng nhập siêu lên cao.
+ Chính sách tỷ giá hối đoái, việc điều chỉnh tỷ giá có ảnh hưởng đến giá
cả trong nước và quốc tế, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi
chính sách thương mại, đặc biệt trong thời kỳ mở cửa. Theo lý thuyết, khi phá giá tiền
tệ, đồng nội tệ mất giá, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trở nên rẻ hơn trên góc độ
người tiêu dùng nước ngoài. Do đó tạo nên lợi thế canh tranh về giá cả, thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài
Ngược lại, nghĩa là tỷ giá giảm, VND lên giá và sức cạnh tranh thương mại quốc tế
của Việt Nam bị xói mòn. Nhưng thực tế, việc thực hiện điều chỉnh chính sách này ở
nước ta ít có ảnh hưởng đến cán cân thương mại do sản phẩm xuất khẩu của ta chủ yếu
là thô, sản lượng phụ thuộc điều kiện tự nhiên về cơ bản ít co giãn nguồn cung ứng khi
có sự thay đổi giá cả tương đối, đặc biệt trong ngắn hạn; còn sản phẩm ngành công
nghiệp chế biến được coi là nhạy cảm với sự biến động giá cả tương đối thì hoặc phụ
thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, hoặc chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn trong
tổng kim ngạch xuất khẩu nên ít khai thác được lợi thế từ sự thay đổi tỷ giá.
+ Cơ chế tỷ giá của Việt Nam rất tiếc đã không đảm nhiệm được chức
năng điều hoà cán cân thương mại. Do tỷ giá chính thức về cơ bản là cố định nên trong
hầu hết quãng thời gian các năm 2006, 2007 và 2009 tốc độ nhập siêu ngày càng tăng
mạnh nhưng tỷ giá thì hầu như không thay đổi; ngược lại, trong giai đoạn nửa cuối năm
2008, bất chấp tốc độ nhập siêu giảm dần, VND lại vẫn mất giá rất nhanh. Có thể nói,
cơ chế tỷ giá chính thức áp đặt cho nền kinh tế đã làm cho các chủ thể kinh tế “tê liệt
cảm giác” về giá trị tương đối của hàng hoá trong nước và ngoài nước cũng như giá trị
tương đối của ngoại tệ và bản tệ. Nó là tác nhân chính gây ra tình trạng nhập siêu ngày
càng nghiêm trọng của Việt Nam..
2.3 Quí I/2010: Khó khăn và thách thức
2.3.1 Về xuất khẩu:
Cần phải nhận định rằng tác động kìm hãm sự suy giảm của kim ngạch xuất
khẩu trong năm 2009 một nửa đến từ nhóm nông, lâm, thủy sản. Theo Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2009 ước
đạt khoảng 15,3 tỷ USD, vượt dự kiến hồi đầu năm (12 tỷ USD) và chỉ tiêu Thủ tướng
Chính phủ giao (14 tỷ USD). Trong năm 2010, theo đánh giá của Bộ Công thương,
năng lực sản xuất nhiều mặt hàng nông sản, cũng như khoáng sản đã đến ngưỡng, khó
có khả năng tăng trưởng cao. Các mặt hàng như gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, dầu thô,
than đá… sẽ khó có sự tăng trưởng lớn về lượng, thậm chí sụt giảm. Đặc biệt, trong
năm 2010, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm khoảng 3,5-4 triệu tấn do phải dành để
phục vụ Nhà máy Lọc dầu Dung Quất. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu,
khoáng sản của năm 2010 sẽ giảm khoảng 1,9%.
Hội nhập vào WTO, trước các thị trường khó tính như Mỹ, EU….môi trường
cạnh tranh quốc tế đã khiến nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam không đủ sức
cạnh tranh, kể cả ở một số mặt hàng được xem là thế mạnh trong những năm qua.
Thêm vào đó là các hàng rào phi thuế quan cùng nhiều biện pháp bảo hộ đang được các
nước dựng lên khiến cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam ngày càng khó khăn hơn.
+ Dệt may là thế mạnh xuất khẩu của nước Việt Nam và là một trong
những ngành được hưởng lợi sớm nhất khi nhu cầu tiêu dùng của thế giới đang có xu
hướng tăng trở lại. Nhưng mặc dù đã có một số tín hiệu tốt nhưng ngành này cũng sẽ
không thuận lợi khi Mỹ, một trong những thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt
Nam đã ra thông báo kể từ ngày 10/2/2010, Mỹ sẽ áp dụng đạo luật cải tiến an toàn
hàng tiêu dùng (CPSIA) đối với hàng dệt may. Theo đó, các lô hàng dệt may xuất khẩu
vào Mỹ đều phải kèm theo giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn đối với vật liệu,
nguyên phụ liệu đến thành phẩm, được đánh giá bởi một đơn vị độc lập (được Ủy ban
An toàn Sản phẩm Tiêu dùng - CPSC của nước này công nhận). Bên cạnh đó, từ năm
2009, Mỹ đã bỏ hoàn toàn hạn ngạch hàng dệt may và giày da đối với Trung Quốc, nên
sức cạnh tranh của mặt hàng này của Việt Nam tại Mỹ vẫn sẽ căng thẳng. Thêm vào,
Ủy ban châu âu (EC) đã áp thuế chống phá giá 10% thêm 15 tháng, như vậy ước tính
Việt nam sẽ bị mất khoảng 200 triệu USD. Điều này chứng tỏ lòng tin của EC đối với
các doanh nghiệp Việt Nam đã bị sụt giảm 1 cách đáng kể. Vì thế, 2010 sẽ là năm đầy
thử thách thử thách đối với xuất khẩu mặt hàng dệt may và giày, mũ da của Việt Nam.
+ EU cũng đã thông báo đồ gỗ muốn xuất khẩu sang thị trường này phải
đảm bảo tiêu chuẩn REACH về sử dụng an toàn hóa chất.
+ Theo một diễn biến mới đây, chiều 31-3, ông Hồ Đắc Lam, phó chủ
tịch Hiệp hội Nhựa VN (VPA), xác nhận việc Bộ Thương mại Mỹ (DOC) chính thức
kết luận túi nhựa PE của VN xuất khẩu sang thị trường Mỹ bán giá thấp hơn giá trị
thông thường tại thị trường Hoa Kỳ từ 52,3-76,11%. Với kết luận này, DOC sẽ chỉ thị
cho hải quan và cơ quan bảo vệ biên giới Hoa Kỳ tiến hành thu các khoản tiền ứng
trước, trong khi thuế chống trợ cấp sẽ chưa áp dụng cho tới khi Ủy ban Thương mại
quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đưa ra quyết định cuối cùng đối với các sản phẩm túi nhựa nhập
khẩu từ VN.
+ Việt Nam đang có nguy cơ mất đi một thị trường lớn khi mới đây EU
đã ra quy định IUU (illegal, unreported and unregulated fishing) về việc cấm nhập
khẩu các loại thủy hải sản bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định.
Đây sẽ là điều vô cùng khó khăn đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành
nghề này của Việt Nam, nếu như các doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu của
EU thì Việt Nam sẽ mất đi thị trường xuất khẩu thủy hải sản lớn nhất hiện nay, trong
đó có hơn 40% là thủy sản.
+ Mặt hàng vốn gặp nhiều khó khăn trong năm 2009 là cá ba sa, cá tra
nhiều khả năng năm nay chưa tìm ra được con đường đi đúng đắn. Năm 2009, các
doanh nghiệp (các nước như Ý, Tây Ban Nha, Ai Cập) đã tìm cách hạ bệ hàng cá ba sa,
tra sa của Việt Nam và nâng cao mặt hàng của họ trong nước.
Do vậy, có thể dự đoán việc muốn đẩy mạnh tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
trong những quí còn lại của năm 2010 không phải là vấn đề đơn giản.
Theo số liệu của Bộ, xuất khẩu quý I ước đạt khoảng 14 tỷ USD, giảm 1,6% so
với cùng kì 2009. Nhiều mặt hàng công nghiệp chiến lược đã giảm sản lượng và kim
ngạch xuất khẩu như dầu thô đạt 2,24 triệu tấn, giảm 46,8% và bằng 24,7% kế hoạch
năm 2010; than đá đạt 4,73 triệu tấn, giảm 15,5%; đá quý, kim loại quý và sản phẩm
đạt 48 triệu USD, chỉ bằng 1,9% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như dây và cáp
điện đạt 292 triệu USD, tăng 119,5%; sắt thép và sản phẩm đạt 372 triệu USD, tăng
72,2%; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 630 triệu USD, tăng 66,7%; máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 703 triệu USD, tăng 40,9%; sản phẩm nhựa đạt
210 triệu USD, tăng 20,7%; dệt may đạt 2,16 tỷ USD, tăng 12,3%; giày dép đạt 1,03 tỷ
USD, tăng 10,1%; túi xách, vali, mũ và ô dù đạt 181 triệu USD, tăng 8,4%...
2.3.2 Về Nhập khẩu:
Thực tế
đầu năm đã
có nhiều
diễn biến bất
lợi trên thị
trường
nhập khẩu:
Thứ
nhất, do kinh
tế thế giới
phục hồi, nên giá cả hầu hết các mặt hàng nguyên, nhiên, vật liệu đều tăng cao. Theo
báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá nhiều loại mặt hàng trên thị trường đã tăng
mạnh so với cùng kỳ là một trong các nguyên nhân khiến kim ngạch nhập khẩu tăng
cao trong những tháng đầu năm. Cụ thể, giá xăng dầu các loại tăng 49,9%; chất đốt hóa
lỏng tăng 44,8%; chất dẻo nguyên liệu tăng 43,2%; phôi thép tăng 18,9%; kim loại
thường tăng 53%... Theo ước tính, riêng yếu tố tăng giá khiến kim ngạch nhập khẩu
tăng hơn 600 triệu USD.
Thứ hai, dù hàng loạt giải pháp khẩn cấp đã được Bộ này đưa ra hoặc đề xuất
lên Chính phủ như ban hành hạn ngạch thuế quan, áp dụng cấp phép nhập khẩu tự
động, tăng thuế nhập khẩu... nhưng đều không “phanh” được tốc độ nhập khẩu. Thậm
chí, Bộ Công Thương đã tiến hành cả giải pháp siết chặt tiêu dùng nhằm hạn chế lượng
nhập khẩu. Những mặt hàng bị xếp vào diện xa xỉ như ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, xe
máy, nước hoa, mỹ phẩm, rượu ngoại....đều phải áp dụng các biện pháp hạn chế nhập
khẩu khác nhau. Nhưng tất cả các biện pháp đó không đủ chặn đà nhập siêu. Ngược lại,
nhập siêu đang có xu hướng nhích lên, khác hẳn với diễn biến cùng kỳ năm trước. Thứ
trưởng Công thương Nguyễn Thành Biên thừa nhận, hiệu quả kiềm chế nhập siêu thấp
là bởi các biện pháp đang áp dụng hiện nay chủ yếu tập trung vào hàng tiêu dùng trong
khi tỷ trọng của nhóm này rất thấp, chỉ chiếm 8,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nói
cách khác, đối tượng cần tập trung chưa trúng nên không có mấy tác dụng.
Tới đây thì Bộ Công Thương có vẻ “bó tay” vì nhóm này là đầu vào chủ yếu
của… đầu ra - xuất khẩu. Mà ai cũng biết, muốn hạ nhập siêu phải đẩy mạnh xuất
khẩu, muốn đẩy xuất khẩu buộc phải tăng … nhập khẩu. Nhìn vào biểu nhập khẩu 3
tháng qua cũng có thể thấy tốc độ tăng cao nhất đều rơi vào nhóm nguyên, phụ liệu,
thiết bị. Điển hình là bông tăng 147%, sợi các loại tăng 127%, cao su 77%, phân bón
24%, giấy 2,8%, phôi thép 106 %, thép thành phẩm 12%, kim loại khác cũng hơn
100%... Không chỉ tốc độ mà thực tế tỷ trọng của nhóm hàng này cũng chiếm tới
82,6% tổng kim ngạch nhập khẩu, gấp gần 10 lần nhóm hàng tiêu dùng. 3 tháng đầu
năm, nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu (hàng cần nhập khẩu) đã tăng 35,3%.
Điển hình cho câu chuyện này là ngành dệt may - ngành xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam. Bên cạnh việc đóng góp lớn nhất kim ngạch cho xuất khẩu, ngành này cũng
có “thành tích” rất lớn trong tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm. Ông Nguyễn Tiến
Trường, Phó TGĐ Tập đoàn Dệt may Việt Nam dẫn chứng, để xuất khẩu được 1,46 tỷ
USD trong 2 tháng đầu năm, dệt may này đã phải chi tới 991 triệu USD nhập bông, vải,
sợi, nguyên phụ liệu. Tương tự, theo ông Vũ Ngọc Bảo, Tổng Thư ký Hiệp hội giấy,
60% nguyên liệu sản xuất của ngành giấy phụ thuộc nhập khẩu, mỗi năm, bột giấy
nhập 100 triệu, giấy loại 200 triệu USD. Rõ ràng, với cơ cấu phụ thuộc cả đầu vào lẫn
đầu ra của nền kinh tế không khó hiểu vì sao dù Bộ Công Thương tìm đủ mọi cách,
nhập siêu vẫn tăng đều đặn suốt hơn 20 chục năm qua.
Tổng kết 3 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu của cả nước là 17,51 tỷ USD,
tăng 37,6% so với cùng kỳ 2009. Nhập siêu quý I/2010 vào khoảng 3,51 tỷ USD,
chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu, vượt quá chỉ tiêu khống chế dưới 20% Quốc hội đã
thông qua. Đây là con số đáng báo động khiến Bộ Công Thương lo lắng bởi nền kinh
tế mới đi được ¼ chặng đường năm 2010. Theo nhìn nhận của Thứ trưởng Bộ Công
Thương Nguyễn Thành Biên, “với tình hình xuất nhập khẩu những tháng đầu năm, việc
thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu năm 2010 ở mức 20% kim ngạch xuất khẩu,
tương đương nhập siêu 12,2 tỷ USD là rất khó đạt”.
Như vậy với những kết quả đạt được trong quí I thì có thể nói những khó khăn
đã nêu trên vẫn còn tồn đọng, vì thế việc đề ra các giải pháp để khắc phục là vô cùng
cần thiết đối với cán cân thương mại Việt Nam cũng như nền kinh tế vĩ mô.
3. KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
3.1 Đẩy mạnh xuất khẩu:
Năm nay có thể gọi là năm rào cản đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam, làm thế nào để có thể vượt qua các rào cản đó là một câu hỏi khó.
+ Theo nhóm thì các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chấp nhận thực tế
là hiện nay các nước trên thế giới ra các quy định khắt khe về xuất nhập khẩu là vì
muốn đẩy mạnh xuất khẩu ,hạn chế nhập khẩu (nếu có nhập khẩu thì cũng chỉ nhập
những mặt hàng chất lượng cao) nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nắm giữ thật
kỹ các quy định đấy và phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt, đồng thời phải tìm cách
nâng cao chất lượng lẫn mẫu mã của các sản phẩm mình. Thực tế đã chứng minh ,nếu
các doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng sản phẩm của mình thì không chỉ đẩy
mạnh xuất khẩu mà còn có thể thu hút thị trường trong nước ,và điều đó sẽ một phần
hạn chế tình trạng nhập siêu.
+ Một vấn đề nữa rất hay xảy ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam
chính là các vụ kiện bán phá giá và không làm đúng quy định của các nước. Đối với
việc này thì các doanh nghiệp không nên lẫn tránh như trong quá khứ mà nên tích cực
hợp tác, sự hợp tác trong điều tra sẽ giúp các doanh nghiệp có nhiều điều lợi hơn và sẽ
tránh những thiệt hại không cần thiết.
Chủ động phòng chống các vụ kiện bán phá giá của nước ngoài:
• Chính phủ tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương
để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, do
đó không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với Việt Nam.
• Dự báo danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có
khả năng bị kiện phá giá trên cơ sở rà soát theo tình hình sản xuất, xuất khẩu từng
ngành hàng của Việt Nam và cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia để từ đó
có sự phòng tránh cần thiết.
• Xây dựng chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị
trường xuất khẩu của các doanh nghiệp để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất
khẩu với khối lượng lớn vào một nước vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các
nước khởi kiện bán phá giá. Theo hướng đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến
các thị trường lớn (Trung Quốc, Nhật Bản..) các thị trường mới nổi (Hàn Quốc,
Úc..) các thị trường mới (SNG, Trung Đông, Nam Phi...). Bên cạnh đó cần tăng
cường khai thác thị trường nội địa - một thị trường có tiềm năng phát triển. Đây là
những kinh nghiệm ta đã rút ra được từ các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa của
Mỹ trước đây.
• Tăng cường áp dụng các biện pháp cạnh tranh phi giá để nâng cao
khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thay cho cạnh tranh bằng giá thấp. Đó là
phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh các dịch vụ hậu mãi, tiếp thị
quảng cáo, áp dụng các điều kiện mua bán có lợi cho khách hàng...
• Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu, về luật
thương mại quốc tế, luật chống bán phá giá của các nước... và phổ biến, hướng
dẫn cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến
các vụ kiện.
+ Trong vấn đề xuất khẩu thì bản thân sự can thiệp và những quy định
cũng như sự giúp đỡ của chính phủ là hết sức cần thiết. Chính phủ nên có những biện
pháp tìm hiểu về những quy định về các mặt hàng nhập khẩu của các nước và thông
báo cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp có thể thuận lợi trong việc tìm được thị
trường phù hợp với doanh nghiệp mình, ngoài ra việc biên giảm những khâu thủ tục
không cần thiết trong vấn đề xuất khẩu cũng là một điều quan trọng và cần thiết đối với
các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
+ Việc các ngân hàng mới đây công bố mức lãi suất cho vay quá cao (có
ngân hàng lên đến 18% - 20%) đã khiến không ít các doing nghiệp xuất khẩu Việt Nam
gặp khó khăn. Vì thế, trong quý II và III, Bộ Công Thương cũng cần đề nghị với Ngân
hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại có giải pháp cụ thể về tín dụng lưu
động cho các ngành hàng để doanh nghiệp xuất khẩu có thể tiếp cận vốn thuận lợi, dễ
dàng, yên tâm sản xuất. Cụ thể là:
Thứ nhất, tạo điều kiện tối đa, thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận được
nguồn tín dụng cho sản xuất kinh doanh và mua hàng xuất khẩu thông qua các nhóm
hàng đã được quy định, không chịu lãi suất cao như mức lãi suất thỏa thuận của các
loại hình kinh doanh khác.
Thứ hai, Bộ Công thương sẽ phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tiếp cận nguồn vốn vay của ngân
hàng này với lãi suất hợp lý.
3.2 Hạn chế nhập khẩu:
Để hạn chế nhập siêu trong dài hạn Chính phủ cần ban hành nghị định về quy
hoạch, phát triển công nghiệp phụ trợ để chủ động về nguyên phụ liệu. Hạn chế tình
trạng cơ cấu kinh tế phụ thuộc cả đầu vào lẫn đầu ra như những năm qua.
Bộ Công Thương cần kiểm soát nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất
được bằng các biện pháp về thuế và phi thuế trong khuôn khổ pháp luật và những cam
kết mà Việt Nam đã cam kết. Từ thực tế đầu năm, ông Ngô Văn Trụ, Phó Vụ trưởng
Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho biết, việc kiểm soát chưa hiệu quả. Các Hiệp
hội, doanh nghiệp cũng tỏ ý bức xúc vì lý do tương tự như ngành giấy, hóa chất, thép…
đều trong tình trạng công suất trong nước dư thừa nhưng không hiểu sao vẫn cho nhập
khẩu ồ ạt.
Tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam với các ngoại tệ chủ chốt cần phải được
duy trì ổn định. Vai trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho
vừa thu hút vay vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hướng tới xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng trưởng kinh tế mà vẫn kiểm soát được
lạm phát ở mức hợp lý. Để xuất khẩu có thể tăng lên khi tăng khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu thông qua tăng tỷ giá, nhất thiết cần quan tâm và thực hiện đồng bộ các
biện pháp hỗ trợ như nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất, chất lượng hàng hoá xuất khẩu
đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
Bên cạnh đó cũng cần có chung tay góp sức của các doanh nghiệp. Tại cuộc
họp bàn về biện pháp kiềm chế nhập siêu với các tập đoàn và các tổng công ty
(25/3/2010), đại diện các doanh nghiệp cũng chứng tỏ sự quyết liệt trong thực hiện chỉ
đạo của Chính phủ về kiểm soát nhập siêu:
+ Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex)
Nguyễn Quang Kiên cho biết, Petrolimex phối hợp với Petrovietnam tích cực tiêu thụ
sản phẩm của Nhà máy lọc dầu Dung Quất, hiện hai bên đã ký hợp đồng dài hạn mua
1 triệu m3 sản phẩm. Theo ông Kiên, xăng từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ chiếm
31% cơ cấu xăng nhập khẩu và diesel chiếm 7%. Vì vậy để góp phần giảm nhập siêu,
quý II/2010 Petrolimex tiếp tục xem xét giảm nhập khẩu tối đa.
+ Đối với ngành Hóa chất, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam Nguyễn Gia Tường cho biết, Tập đoàn đang tập trung đưa Nhà máy sản xuất đạm
DAP Hải Phòng vào sản xuất ổn định và nghiệm thu. Với sản lượng 200.000 tấn DAP
trong năm 2010 sẽ góp phần giảm nhập khẩu DAP.
+ Theo Tổng Thư ký Hiệp hội Giấy Việt Nam Vũ Ngọc Bảo, sản lượng
giấy năm 2010 dự kiến tăng 30% do có nhiều dự án đưa vào vận hành, điều này góp
phần giảm giấy nhập khẩu xuống còn bằng 98% so với năm 2009.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên, Bộ đang cùng Vụ
Chính sách Thuế Bộ Tài chính rà soát lại một loạt dòng thuế theo hướng tăng thuế với
những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.
Bộ Công Thương cũng yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty cần tận dụng tối đa sự
phân cấp của Chính phủ trong việc ủy quyền cho chủ đầu tư chỉ định thầu các dự án
trong năm 2010 cần ưu tiên sử dụng máy móc thiết bị trong nước sản xuất dưới dạng
chỉ định thầu.
Đây là những giải pháp nhằm một phần nào có thể cải thiện được tình trạng cán
cân thương mại nước ta nhưng để mang lại hiệu quả tốt hơn cần có sự ủng hộ và quyết
tâm của các nhà lãnh đạo và toàn dân.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, vấn đề nhập siêu vẫn là một bài toán khó, làm đau đầu những nhà
kinh tế hiện nay. Do đó, các giải pháp đưa ra đơn thuần là ý kiến chủ quan, theo từng
vấn đề đang vấp phải… Nó chỉ thực sự có ý nghĩa, đem lại hiệu quả cao khi mà Việt
Nam triển khai các giải pháp vào thực tế một cách linh hoạt; vận dụng sáng tạo, phối
hợp hài hòa từng giải pháp với nhau phù hợp tình hình thực tiễn nước ta... Có như vậy,
Việt Nam mới có điều kiện phát huy tiềm lực, ổn định cán cân thương mại trong tương
lai tốt hơn, thuận lợi bước tiếp vào sân chơi bạn bè quốc tế