You are on page 1of 54

ĐÁP ÁN 30 CÂU TRIẾT PHẦN 2

Câu 1: Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC)
với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).

Câu 2: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của
nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?

Câu 3: Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học
của khẳng định đó?

Câu 4: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con người không
chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?

Câu 5: Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội dung và ý nghĩa triết học câu
nói của C.Mác: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng"

Câu 8: Nguyên lý? Nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy nêu những yêu
cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.

Câu 9. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý nghĩa của
nó đối với quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tình hình hiện nay?

Câu 10: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.

Câu 11: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phụ định và vạch ra ý nghĩa phương
pháp luận.

Câu 12: Bằng lý luậnvà thực tiễn. Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới luân là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại
tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.

Câu 13: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện
chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của
phép chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát triển thêm”
Câu hỏi 14: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn”
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc LSCT.

Câu 15. Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?

Câu 16: Lý luận? thực tiễn? Anh / chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

Câu 18: Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc nào trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc đó.

Câu 19: Anh/chị hãy phân tích những tiền đề xuất phát mà Các Mác dựa vào để xây
dựng lý luận hình thái kinh tế, xã hội?

Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.

CÂU 21: Anh/ Chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT)
và kiến triến thượng tầng (KTTT). Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này
như thế nào vào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.

Câu 22: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng của Mac: “sự phát triển hình thái kinh tế - xã hội là
quá trình lịch sử - tự nhiên”.

Câu 23: Anh(chị) hãy phân tích ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của học thuyết
HTKT-XH

Câu 24: Phân tích Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

Câu 25: Anh chị hãy phân tích những cống hiến to lớn của Các-Mác, Ph-Angghen và
Lênin vào sự phát triển lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp ?

CÂU 26: Anh/chị hãy trình bày quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp và vai trò của
nó đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay như thế nào?

Câu 26: trình bày quan điểm Macxít về đấu tranh G/c và vai trò của nó đ/v sự phát
triển của xh có g/c đối kháng. sự vận dụng của ĐCS VN về đấu tranh g/c trong thời kì
quá độ đi lên CNXH ở nước ta hiện nay như thế nào ?
Câu 27: Anh chị hãy chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền
XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản?

Câu 28: Phân tích vai trò của Nhà Nước đối với quá trình phát triển kinh tế ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.

Câu 29. Anh/Chị hãy phân tích quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con
người và về vấn đề giải phóng con người.

Câu 30: Anh chị hãy trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung cơ bản của việc xây
dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn cách mạng hiện nay?

TRẢ LỜI
Câu 1: Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC)
với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).

Trả lời:

1. Nội dung: Có 2 nhóm quan điểm:

Quan điểm duy vật về thế giới:

 Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở
tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và
khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
 Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
 Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
 Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức
nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng
chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của TGVC.
 Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế
giới thống nhất và duy nhất.
 Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
 Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại
trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật
phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn,
ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên
thế giới góp phần biến đổi thế giới.

Quan điểm duy vật về xã hội:

 Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của
tự nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông
qua hoạt động thực tiễn.
 Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng
giai đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm
thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.
 Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các
hình thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là
lịch sử phát triển của xã hội.

LLSX   QHSX   PTSX   (CSHT + KTTT)   HTKTXH 

 Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần,
quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở
những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy
khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:
 CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:

CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc  không thấy được tính năng động của ý
thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động
thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con
người.

 CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng
tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm  Mác cải tạo CNDV
cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện  xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa
TGQDV với PBC.
 CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà
còn trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng
của loài người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV
vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội
trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có
được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.
 CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
 CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi
ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học  CNDVBC trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
 CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
 CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng
cái mới tiến bộ.
 CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.

Câu 2: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của
nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?

+ Cơ sở lý luận :

Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như
sau :khi nhận thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể
tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy
tiện .

- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá
trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta
về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được
”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối
tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ
đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối
tượng đó.

- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự
tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu
vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự
vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó
khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách
quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .

- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các
hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ
thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ
sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học
….Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính
sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng
tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà là những
biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu .

- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần
chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng
tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác
nhau ) của con người. Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy
bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách
quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy
tính năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên
tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ
những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó
còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố
khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã
hội là nhân tố quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời
sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược
lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng
chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan
những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên
cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.

- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng
lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với
khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội
….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá,
những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp
tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem
xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc
này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành
chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.

+ Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :

Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác của lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau :

 Trong hoạt động nhận thức :

Chủ thể phải :

Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà
không được tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả
thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả
tuyết đó bằng thực nghiệm

 Trong hoạt động thực tiễn :

Chủ thể phải :

Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối
nó.

Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế
họach, tìm kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn
nắng họat động của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .

Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình
cảm, ý chí, lý trí ….tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và
họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới .

+ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của
Việt Nam :

Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể
là :

- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .

- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .

- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực
chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau ( lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội ….) thành động lực mạnh mẻ thúc đẩy công cuộc đổi mới .

- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lằm, thất bại trước đổi mới,
Đảng ta kết luận :“ mọi đường lối, chủ trương của đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.

Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ
quan ( tri thức, tình cảm …..) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận
thức và thực tiển :
- Coi sự thống nhất giữa tình cả( nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường
….) và tri thức ( kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học ) là động lực tinh
thần thúc đẩy công cuộc đổi mới. Chống lại thái độ ỷ lại, trì trệ, chỉ biết làm theo cách củ mà
không biết dũng cảm làm theo cái mới, biết khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường……
phải phổ biến tri thức khoa học, công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân
dân, biết nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.

- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo dục chủ
nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải
nâng cao và đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.

- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan , duy ý chí,lối suy nghĩa và
hành động giản đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật
khách quan, coi thường tình hình thực tế.

Câu 3: Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học
của khẳng định đó?

Trả lời:

Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân và
gây ra tác hại lớn.

Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về
lý luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả”
khuynh, xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa
sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ...) nhưng lại không
xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính
sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo
dài.

Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc
khách quan. Vì nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận
dụng nguyên tắc khách quan kết hợp với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được
những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.

Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó
Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn trọng vai trò quyết định của VC, tức:

 Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến
lược, sách lược phát triển đất nước;
 Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh
tế – quân sự, trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa
chúng.
 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động
lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh
tế, chính trị, tinh thần,...; cá nhân, tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc
đổi mới

Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu
tố chủ quan (t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí,...), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận
thức & thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:

 Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy
công cuộc Đổi mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt
tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người
Việt Nam,…
 Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–
Lênin, tư tưởng HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường
đi lên CNXH);
 Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.
 Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất
chấp quy luật khách quan.

Câu 4: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con người không
chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?

Trả lời:

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao
của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của
con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con
người” (theo LêNin).

Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua
thực tiễn lao động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội –
vật chất mang/chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức
và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh
thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành chủ
thể sáng tạo ra lịch sử.

Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người
xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên
sức mạnh này, ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực
tiễn xã hội.

Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý
thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực
tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại,
những giả thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói
lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học
còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.

Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất
3 mặt sau:

Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang
tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất,
đây là quá trình “ sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật
chất tạo thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.

Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá
tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý
tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này,
con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực
khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.

Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà
kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc
bản chất ý thức.

Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là
kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất
bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên,
xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa
học, văn hoá và tư tưỏng.

Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu,
trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước
ta có thể đạt được những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ
đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh
được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho
chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công
nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận
thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công
tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức
năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo
đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách
mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư
tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra
được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người
mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá-
tư tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp
đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.

Câu 5: Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội dung và ý nghĩa triết học câu
nói của C.Mác: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê
phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng"

- Hoàn cảnh xuất hiện: trong Lời nói đầu của bộ “ Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêgen” của C.Mác - Gồm ba tác phẩm của Mác phê phán quan điểm của Hêghen về nhà
nước và pháp quyền. Sự tán dương của tác giả với chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quan liêu
và quân chủ Phổ. Nêu vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm cải tổ xã
hội.

- Nội dung và ý nghĩa triết học:

+Nội dung: Ở đây, "Vũ khí của sự phê phán" và "lý luận" là khoa học, tư tưởng khoa học, lý
luận khoa học, còn "sự phê phán của vũ khí” và "lực lượng vật chất" là hoạt động vật chất,
hoạt động thực tiễn của con người. Như vậy, C Mác đã giải trình rất rõ ràng, lý luận khoa
học phải thông qua hoạt động của con người thì mới trở thành lực lượng vật chất.

Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động của người
lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác
nói khoa học không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.
Theo Mác, triết học phải có nhiệm vụ phản ánh mọi xung đột của đời sống hiện thực, những
điều kiện kinh tế, vật chất của những xung đột hiện thực ấy, đồng thời vạch ra con đường và
những cách giải quyết các xung đột đó. Vì vậy, triết học phải tìm được cho mình một lực
lượng nằm ngay trong bản thân hiện thực, có khả năng phủ định xã hội hiện tại, xây dựng
một xã hội mới. Lực lượng ấy chính là giai cấp vô sản. Như vậy theo Mác, triết học tiên tiến
phải gắn liền với các lực lượng tiến bộ.

+ Ý nghĩa triết học: Cho thấy vị trí vai trò của triết học, của lý luận khoa học trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi sự nô dịch của giai cấp bóc lột.

Câu 8: Nguyên lý? Nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy nêu những yêu
cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.

8.1. Nguyên lý là gì?

- Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý
luận) mà tính chân lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh
nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.

- Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con
người. Nó vừa là cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải
– tiên đoán) và cải tạo thế giới.

- Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng)
và nguyên lý của triết học. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.

8.2. Nguyên tắc là gì?

- Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự
nhằm đạt mục đích đề ra một cách tối ưu.

8.3. Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc

- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng.
Nghĩa là cơ sở lý luận của các nguyên tắc là các nguyên lý: cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn
diện và nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
là nội dung nguyên lý về sự phát triển…

8.4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển

• Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản
thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó;

- Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những
giai đoạn thay đổi của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự
vật.

• Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:

- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu
hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;

- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện,
phát huy hay hạn chế những khả năng…tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát
triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.

8.5. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển

Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.

• Sự vận động và sự phát triển

- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được
hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy”.

- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát
triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có
thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo
khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về
chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về
lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.

+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm
đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan
điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có
quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”;
chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm
tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ
và cái mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình
thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.

- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến
và đa dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh;
phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.

• Nội dung nguyên lý

- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.

- Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của
một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và
hướng theo xu thế phủ định của phủ định.

8.6. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.

- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục
được quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.

Câu 9. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý
nghĩa của nó đối với quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tình hình hiện nay?

1. Đặt vấn đề.

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn), là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện chứng, nó
vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.

2. Các khái niệm.

Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được
đỉnh cao nhất trong học thuyết của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là Cantơ và Hêghen.
Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm, nên không thể phát triển học thuyết mâu thuẫn
biện chứng đến độ triệt để.

Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch sử triết học
và dựa trên những thành quả mới nhất của khoa học hiện đại, C.Mác và PH.Ăngghen đã phát
triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao mới. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong
chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể
hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của của các mặt đối lập.

Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ
thông qua một loạt những phạm trù cơ bản: “ mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “ đấu tranh
của các mặt đối lập”

Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong
nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị
trường có cung và cầu, v.v...Những mặt trái ngược nhau đó, trong phép biện chứng duy vật
gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong cả tự nhiên lẫn trong xã
hội và tư duy.

Hai mặt đối lập tuy có tính bày trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với
nhau, tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương
tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại
của mặt kia làm tiền đề.

Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “sự thống nhất của các mặt
đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối
lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển
hoá lẫn nhau.

Như vậy, các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn tác động qua lại với nhau “đấu
tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ
và phủ định lẫn nhau giữa các mặt đó.

3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn
biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống
nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính
tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối
lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.

Vậy mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển?
Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Chính sự tác
động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung
lực của sự sống. Chẳng hạn, tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu
không có sự cọ xát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai...

Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và sự thay đổi.
Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự
vật. Do vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật và
hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng.

4. Phân loại mâu thuẫn

a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:

Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng
một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ
giữa sự vật đó với các sự vật khác nhau. (Thí dụ, sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá
của một sinh vật là mâu thuẫn bên trong, sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường - khi
xét cơ thể là một sự vật - là mâu thuẫn bên ngoài). Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định
trực tiếp với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động nhau.

b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định
bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó
của sự vật.

c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:

Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của
sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những
mâu thuẫn thứ yếu). Sự phát triển hơn nữa của sự vật, chuyển hoá nó sang giai đoạn tồn tại
khác của mình phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.

c) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:

Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu
hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (Thí dụ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, giữa tư sản và vô sản). Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những
lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời (Thí dụ
mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí
óc và lao động chân tay,... ở nước ta hiện nay).
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.

5. Ý nghĩa phương pháp luận.

Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.

- Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một thực thể
đồng nhất, tiếp đó phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua
lại giữa các mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển.

- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặt đối lập; theo dõi toàn bộ quá trình
phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn.

- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện
và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn
một cách thực tế.

- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta không
được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện
thức đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.

- Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ
thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết
thích hợp với từng mâu thuẫn.

Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy, mọi sự vật và hiện tượng đều
chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân sự
vật; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận
động và phát triển, dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.

Câu 10: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.

Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất & ngược lại:

Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:

 Chất - tính quy định vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự vật là nó, giúp
phân biệt nó với sự vật khác.
 Lượng - tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị quy mô, tốc độ vận
động, phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính (chất) của nó.
 Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm Chất thay đổi
căn bản.
 Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt qua nó sẽ làm
Chất thay đổi căn bản.
 Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về Lượng trước
đó gây ra; Bước nhảy là giai đoạn cơ bản trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn
tại khách quan, phổ biến, đa dạng (Bước nhảy toàn bộ/Bước nhảy cục bộ; Bước nhảy
đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước nhảy tự nhiên/Bước nhảy xã hội/Bước nhảy tư
duy).

Nội dung quy luật:

 Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa Chất và Lượng.
 Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về Lượng (liên tục,
tiệm tiến); nếu Lượng thay đổi trong độ, chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay
đổi căn bản; khi Lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì Chất sẽ thay đổi căn bản,
bước nhảy xảy ra.
 Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) – Chất (Sự vật )
cũ mất đi, Chất (Sự vật) mới ra đời; Chất mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay
đổi quy mô tồn tại, tốc độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật ).
 Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay đổi về Chất
gây ra sự thay đổi về Lượng là phương thức vận động, phát triển của mọi sự vật trong
thế giới; phát triển vừa mang tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.

Phân tích:

Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự
thay đổi của Lượng và của Chất không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của Lượng cũng ngay lập tức làm
thay đổi căn bản Chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất
định mà không làm thay đổi căn bản Chất của sự vật đó. Khi vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho
sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời (bước nhảy xảy ra).

Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với tư cách là những chất khác
nhau (chất – trạng thái), ứng với chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng
có thay đổi trong một phạm vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C), nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức
là chưa thay đổi về chất – trạng thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ
chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C nước sẽ chuyển sang trạng thái hơi (bước
nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C và 100 độ được gọi là điểm nút.

Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt đến điểm nút. Sau khi
ra đời, chất mới có tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy
mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó.
Ýnghĩa phương pháp luận:

Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:

 Phát hiện chính xác các quy định về chất và lượng của sự vật; thấy được
sự thống nhất giữa chúng để xác định đúng độ, điểm nút của sự vật;
 Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác định đúng tính
chất, quy mô, tiến độ của bước nhảy có thể xảy ra;
 Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá độ, quá điểm
nút; còn nếu lượng chưa thay đổi qua độ, chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra,
chất chưa thay đổi căn bản được;
 Xác định được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước nhảy), qua đó
xác định lượng độ, điểm nút và bước nhảy, tức định hình được sự vật mới phải ra đời
thay thế sự vật cũ như thế nào.

Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:

 Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật; từ đó xây dựng
các đối sách thích hợp;
 Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công cụ, phương
tiện vật chất can thiệp đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát
triểncủa sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích cùa chúng ta. Cụ thể:

◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn định của chất phải giữ sự thay đổi về lượng trong phạm vi giới
hạn độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết thực hiện bước nhảy.

Câu 11: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phụ định và vạch ra ý nghĩa phương
pháp luận.

a/ KN phủ định biện chứng, phủ định của phủ định:

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ một mắt khâu của quá trình tự phát
triển của sự vật đưa đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định. Phủ định
biện chứng cũng là sự khẳng định. Phủ định biện chứng gắn liền với giải quyết mâu thuẫn và
bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật; nó mang tính khách quan – nội tại, tính kế thừa –
tiến lên.
Phủ định của phủ định là phạm trù triết học dùng để chỉ sự xác lập lại cái cũ , tức khằng định
lại cái bị phủ định, ở một trình độ cao hơn trong quá trình tự phát triển của bản thân sự vật.
Trong sự phủ định của phủ định, cái cũ bị phủ định trong lần phủ địnhthứ nhất đưa đến sự ra
đời của cái mớ; cái mới này chứa sự phủ định mình trong lần phủ định sau đó. Lần phủ định
nào làm xuất hiện cái mới, tức ái được khẳng định, nhưng trong cái mới này có lặp lại (yếu
tố) cái cũ, đã bị phủ định trong lần phủ định thứ nhất, ở một trình độ cao hơn thì lần phủ định
đó được gọi là phủ định của phủ định.

Qua nhiều lần phủ định biện chứng ( có cả phủ định của phủ định) sự vật loại dần cái tiêu
cực, tích lũy dần cái tích cực, làm cho cái mới ra đời quay về với cái cũ, cái khẳng định quay
trở lại với cái bị phủ định ở một trình độ cao hơn.

b/ Nội dung quy luật:

- Theo quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mac thấy rõ sự chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập
dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế
ấy làm thành một chuỗi mắc xích phát triển của hiện thực và tư duy. Sự ra đời cái mới là
kết quả của sự phụ định cái cũ, cái lỗi thời. Do đó, mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và
luôn vận động, phát triển; phát triển là một chuỗi các lần phủ định biện chứng có gắn liền
với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật.
- Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình hiểu phủ định là sự can thiệp của
những lực lượng bên ngoài là phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó cả
trong tự nhiên và xã hội , làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn. Do vậy ,
phủ định là vòng khâu liên hệ giữa cái mới với cái cũ, cái mới ( cái được khẳng định) ra
đời trên cơ sở laọi bỏ yếu tố tiêu cực, đồng thời lưu giữ, cải tạo những yếu tố tích cực của
cái cũ ( cái bị phủ định).
- Phủ định biên chứng mang tính khách quan - nội tại do mâu thuẫn của bản
thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc ý
muốn chủ quan của con nguời. Ngoài ra phủ định biên chứng không phải là sự thủ tiêu
hoàn toàn cái cũ bị phủ định. Trái lại, dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định
biên chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định.
Do vậy, phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính kế thừa – tiến lên
- Qua một số lần phủ định biên chứng xuất hiện phủ định của phủ định, xác lập
lại cái cũ ( khẳng định lại cái cũ đã bị phủ định ) ở một trình độ cao hơn. Phủ định của phủ
định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực, được khôi
phục duy trì và phát triển. sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kì phát
triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo . Do đó, phủ định
của phủ định mang tính chu kỳ hở.
- Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ
định; do sự kế thừa đó , phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ
tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội
dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát,
nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Do vậy, phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng phát
triển xoắn ốc tiến lên của mọi sự vật trong thế giới.

c/ Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ phương hướng tiến lên của quá trình phát
triển. Do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm phát triển.
- Xây dựng cái mới phải đi đôi với xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu và kế thừa có chọn lọc các
yếu tố tích cực của cái cũ , cải biến nó theo yêu cầu của cái mới. Cần chống cả hai
khuynh hướng sai lầm là phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên vẹn cái cũ.
- Phát triển là tiến lên nhưng quanh co, phức tạp , do đó phại biết phát hiện cái mới, ủng
hộ cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện cho nó mau chiến thắng cái cũ.

Câu 12: Bằng lý luậnvà thực tiễn. Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới luân là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại
tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.

* Về mặt lý luận:

+ Quy luật phủ định của phủ định của phép tư duy biện chứng chỉ ra rằng: Bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật
cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu của quá trình vận động và
phát triển của sự vật.

+ Sự vật là một tập hợp các yếu tố tương tác với nhau, trong sự tương tác đó nảy sinhvài yếu
tố (biến đổi) trái ngược nhau, tạo nên cơ sở các mặt đối lập trong sự vật. Các mặt đối lập này
không tách rời nhau, chứa những yếu tố giống nhau cùng tồn tại trong sự vật, tác động qua
lại lẫn nhau. Dù vậy, các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tác động qua lại theo xu hướng
loại bỏ lẫn nhau.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nay chỉ mang tính tương đối nhưng sự đấu tranh mang
tính tuyết đối. Sự đấu tranh này gắn liền với sự vận động và thay đổi của sự vật. Mâu thuẫn
biện chứng phát triển tương ứng với quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập còn sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập thì chuyển dần từng bước từ bình lặng tới quyết liệt, làm xuất hiện
khả năng chuyển hoá của các mặt đối lập.

+ Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự phát triển, chúng đều trải qua các giai
đoạn: từ sự xuất hiện của các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
rồi chuyển hoá các mặt đối lập. Khi mâu thuẫn được giả quyết , cái cũ mất đi cái mới ra đời
tiến bộ, ưu việt hơn cái cũ và tự nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn mới, hay thay đổi
những vai trò tác động cảu các mâu thuẫn cũ.
* Về mặt thực tiễn:

+ Thực tế đã chứng minh vận cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn là qúa trình khó
khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng
cái cũ. Điều đó được minh chứng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và
giai cấp công nhân trong xã hội ta đưa đất nước đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua tư bản
chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.

+ Cùng là hai giai cấp tồn tại tong cùng một chế độ xã hội nhưng giữa các giai cấp này luôn
chứa đựng những mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân lao động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy
diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc dù có gặp phải những khó khăn chống cự của chế độ cũ
nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn vẫn chiến thắng. Thay thế chế độ phong kiến
lác hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng
những mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao động với tàn dư của chế độ
phong kiến, với giai cấp tư sản đang hình thành trong nền kinh tế.

Câu 13: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt
phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm
được hạt nhân của phép chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự
phát triển thêm”

Trả lời:

- PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên
hệ và sự vận động, phát triển của thế giới vật chất.

* Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay
lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không cần phải chứng minh
nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó
phản ánh.

- Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ
bản: NL về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển.

- NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong
các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau:

+ Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH
ràng buộc qua lại lẫn nhau.

+ Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có MLH
phổ biến. MLH phổ biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự
VĐ và PT của mọi SV, HT, QT trong thế giới.
- NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong
các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau:

+ Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.

+ PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ
thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng
theo xu thế phủ định của phủ định.

* Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự
vật, hiện tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ
bản sau:

1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:

- Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi
trường. Kết quả của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV có một sự biến đổi
nhất định, trong đó có một vài yếu tố biến đổi trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau
(bên cạnh những yếu tố giống hay khác nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV.
MĐL tồn tại k.quan và phổ biến.

- Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy MĐL
kia làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất nhau tức trong
chúng chứa những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong SV; là các MĐL tác
động ngang nhau, tức sự thay đổi trong MĐL này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL
kia, và ngược lại.

- Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu
tranh với nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ
lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các MĐL rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn
nhau là một hình thức đặc biệt của các MĐL.

- Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến
và đa dạng (MT bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT
thứ yếu; MT trong tự nhiên – MT trong xã hội – MT trong tư duy). Sự tác động lên bản
thân sự vật là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.

- Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối
gắn liền với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay
đổi của SV. MTBC phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các MĐL chuyển từ mức
độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu tranh các MĐL chuyển từ mức bình lặng sang quyết
liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của các MĐL. Khi đk k.quan hội đủ, một
trong khả năng đó biến thành hiện thực, các MĐL tự thực hiện quá trình chuyển hóa. MTBC
sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Với hai
phương thức chuyển hóa như sau: MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới và cả
hai MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào đó.

- Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh thành (sự xuất hiện
của các MĐL) sanh hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL), rồi giải quyết (sự
chuyển hóa của các MĐL). MTBC được giải quyết, cái cũ mất đi cái mới ra đời với những
MTBC mới hay thay đổi vai trò tác động của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc của mọi sự
vận động và phát triển. Do đó, VĐ và PT trong thế giới vật chất là tự bản thân nó.

-> Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể,
xem xét những mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất mang tính biện
chứng, sự đồng nhất có chứa đựng các yếu tố khác biệt.

-> Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin
đưa ra một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng
là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Phép biện chứng là sự phát triển của nó, các mặt đối lập và mâu thuẫn - hạt nhân của phép
biện chứng.

2 – QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại:
Mọi SV đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất. SV bắt đầu bằng sự thay
đổi về lượng một cách liên tục hay tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá
điểm nút thì chất kg thay đổi căn bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất
sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho chất thay một cách
gián đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng.
Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về
lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới.

3 – QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát triển.
Phát triển là một chuỗi các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và
thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa –
tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện PĐ của PĐ, xác lập cái cũ ở một trình độ cao hơn.
PĐ của PĐ vạch ra khuynh hướng phát triển xoắn ốc tiến lên của mọi SV trong thế giới.

* Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các chung,
nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện
tượng, khả năng và hiện thực.

Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống
các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá
và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình.
Câu hỏi 14: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn”
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc LSCT.

a/ - Cơ sở khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin

- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học trong lịch sử nhân lọai.

- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng con người
là sản phẩm của lịch sử.

b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT

1. Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Nghĩa là:

- Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện,
hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
- Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao, do những quy luật nào chi phối;
- Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên
những nét cơ bản) trong tương lai ..

2. Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ
cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong
bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
3. Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi
vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế
nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên
quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.

Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong
những tình hình cụ thể để thấy được:

- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất,
lượng mới nào?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu
thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của
sự vật?...
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định
nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện
tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình
thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với
nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?..
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh
ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu
hiện thực hóa ra sao?...

4. Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong
nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái
ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn
lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra
được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự
nhân quả quy định chúng.

Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới,
để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử
trong sự thống nhất.

5. Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất
phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác
cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.

Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi
vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà
V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài
nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.

Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con
đường riêng đi lên CNXH.

Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH.
Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội
lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Câu 15. Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?

Phép biện chứng tư duy là một hệ thống tư tưởng phản ánh những mối liên hệ cơ bản
và phổ quát – các nguyên lý, quy luật biện chứng – chi phối những hình thức tư duy biện
chứng. Về nguồn gốc, phép biện chứng tư duy chính là sự phản ánh của phép biện chứng
khách quan vào trong bộ óc con người.

Tư duy biện chứng là một hệ thống các nguyên tắc có quan hệ với nhau điều phối hoạt
động của chủ thể tư duy trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn thế giới. Về nguồn gốc, tư
duy biện chứng được xây dựng từ những nội dung cơ bản của phép biện chứng tư duy, trước
hết là từ nội dung của các nguyên lý, quy luật cơ bản.

 Mối quan hệ giữa phép biện chứng tư duy và tư duy biện chứng

Phép biện chứng tư duy có nhiệm vụ giải thích những gì xảy ra trong quá trình tư duy
nhận thức, đồng thời vạch ra những mối liện hệ phổ biến giữa các tiến trình tư duy và diễn
đạt điều đó bằng hệ thống các phạm trù của phép biện chứng duy vật. Trong khi đó, tư duy
biện chứng – công cụ nhận thức hiệu quả được xây dựng từ nội dung của phép biện chứng tư
duy nói riêng, phép biện chứng duy vật nói chung – được chủ thể sử dụng để nắm bắt bản
chất của sự vật trong quá trình vận động, phát triển của chính nó.

Phép biện chứng tư duy thực hiện chức năng chính là giải thích, nó chỉ ra các quy luật mà
tư duy biện chứng tuân theo, các hình thức mà tư duy biện chứng phải dựa vào. Còn tư duy
biện chứng thực hiện chức năng điều tiết, nó chỉ ra chủ thể tư duy phải xử sự như thế nào,
phải thực hiện những thao tác nào để đạt được mục đích là hiểu thấu bản chất của sự vật
trong sự vận động và phát triển của nó – khách thể biện chứng.

Không nên đồng nhất phép biện chứng của tư duy với tư duy biện chứng mặc dù chúng cùng
phản ánh một đối tượng là tư duy lý luận hiện đại. Nói đến phương thức tư duy lý luận khoa
học không nên chỉ chú trọng đến các nguyên tắc chi phối tư duy mà cần phải làm rõ các quy
luật, hình thức thể hiện của nó.

Câu 16: Lý luận? thực tiễn? Anh / chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn

Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo
tự nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác- Lê nin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng.

I.1. Thực tiễn là một hoạt động vật chất

Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất
của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu
của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể
hướng vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức
con người với thế giới bên ngoài.

I.2. Hoạt động thực tiễn có mục đích

1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ
động. Con người chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới
thoả mãn theo nhu cầu của mình.
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không
có sẵn trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.

I.3. Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội

1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã
hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan
xã hội

I.4. Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn


I.4.1. Dạng cơ bản:

 Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
 Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội.
 Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại.

I.4.2. Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng
cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như
đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo …

2. Phạm trù “lý luận”


2.1. Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối
liên hệ bản chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.
2.2. Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm lý luận được hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận
đều xuất phát từ kinh nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá
trình nhận thức kinh nghiệm. Trong quá trình nhận thức, con người đi từ nhận thức
kinh nghiệm thông thường đến nhận thức kinh nghiệm khoa học.
2.3. Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương
pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người
2.4. Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy
vào phạm vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).

3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
3.1. Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động
lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất
phát từ thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên
đầu tiên bằng hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc
lộ những thuộc tính, quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích,
tổng hợp, khái quát kinh nghiệm thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra
những vấn đề mà lý luận phải trả lời.
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi
hỏi lý luận phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do
thực tiễn đặt ra. Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu
sắc hơn.
3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại
lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã
giúp cho lý luận hoàn thành được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực
tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù
hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm
nghiệm. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho
tang tri thức nhân loại.

3.2. Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực
tiễn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.
3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường. Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác
định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng
phát triển của các mối quan hệ thực tiễn.
3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng
lý luận máy móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý
luận và thực tiễn
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.

Câu 18: Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc nào trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc đó.

1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:

- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường
lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.

- Kinh nghiệm là rất quý, góp phần thành công trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định
và là cơ sở để khái quát lý luận. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa kinh nghiệm một nơi, một lúc
nào đó, xem thường lý luận sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm và sẽ thất bại trong thực tiễn khi
điều kiện, hoàn cảnh thay đổi. Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lý luận,
cụ thể:

+ nguyên nhân chủ quan: dễ thỏa mãn với vốn kinh nghiệm bản thân, ngại học lý
luận, không chịu nâng cao trình độ lý luận, coi thường khoa học kỹ thuật, coi thường giới trí
thức, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ.

+ nguyên nhân khách quan: sự tồn tại phổ biến nền sản xuất nhỏ, trình độ dân trí thấp,
khoa học – kỹ thuật chưa phát triển, Nho giáo phong kiến còn ảnh hưởng nặng nề.

2/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh giáo điều:

- Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu vai trò lý luận, coi nhẹ thực
tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm
một cách rập khuôn, máy móc.

- Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lý luận chỉ dừng ở câu chữ theo
kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lý luận một cách phiến diện, hời hợt, biến lý luận thành tín
điều và áp dụng lý luận một cách máy móc; vận dụng sai lý luận vào thực tiễn, không bổ
sung, điều chỉnh lý luận. Nguyên nhân của bệnh giáo điều là do yếu kém về lý luận, cụ thể:
+ hiểu lý luận bằng kinh nghiệm, hiểu lý luận một cách đơn giản, phiến diện, cắt xén,
sơ lược…

+ xuyên tạc, bóp méo lý luận…

3/. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều có hiệu quả:

Hoàn cảnh giai cấp vô sản của nước ta trong buổi đầu cách mạng vừa giành độc lập tự do
làm mảnh đất màu mỡ cho các bệnh này phát triển nhanh, tuy nhiên chúng ta đã để chúng
tồn tại quá dài. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ
thể:

- Bám sát thực tiễn, lý luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong
thực tiễn và không ngừng phát triển cùng thực tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lý
luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn;

- Phải coi trọng lý luận và công tác lý luận; nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo
dục và đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ…;

- Phải đổi mới công tác lý luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn
chỉ đạo hoạt động lý luận của Đảng;

- Hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì kinh tế thị trường luôn
vận động và biến đổi, đòi hỏi mọi thành phần, mọi chủ thể kinh tế phải năng động, sáng tạo,
phải thường xuyên bám sát thị trường để ứng phó cho phù hợp

- Phải đổi mới tư duy lý luận, khắc phục sự lạc hậu của lý luận, thu hẹp khoảng cách
giữa lý luận và thực tiễn bằng cách:

+ từ bỏ lối nghiên cứu kinh viện, tư biện;

+ thường xuyên đối chiếu lý luận với cuộc sống, vận dụng lý luận vào hoàn cảnh thực
tế của nước ta;

- Coi trọng và thường xuyên tổng kết thực tiễn, qua đó sửa đổi, phát triển lý luận đã có, bổ
sung hoàn chỉnh đường lối, chính sách, hình thành lý luận mới, quan điểm mới để chỉ đạo sự
nghiệm đổi mới xã hội.

Câu 19: Anh/chị hãy phân tích những tiền đề xuất phát mà Các Mác dựa vào để xây
dựng lý luận hình thái kinh tế, xã hội?
Trả lời:

Các nhà triết học duy tâm trước Mác đã tiếp cận các vấn đề xã hội từ góc độ nhân tố
tinh thần như: đạo đức, niềm tin tôn giáo, chính trị…, đã “lấy sự thống trị của tôn giáo làm
tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người
ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước”. Từ việc phê
phán quan điểm duy tâm đó, C Mác đã đưa ra một hướng tiếp cận mới khoa học và thuyết
phục nhằm lý giải các vấn đề của đời sống xã hội và làm tiền đề, xuất phát điểm cho học
thuyết của mình.

Trước hết, Mác nghiên cứu xã hội từ việc xem xét yếu tố con người cụ thể, hiện đang
sống đời sống thực trong từng xã hội cụ thể. Sự tồn tại của con người là một sự tồn tại hiển
nhiên và phổ biến trong đời sống xã hội, quy định sự tồn tại của toàn thể xã hội.

Mác cho rằng tiền đề đầu tiên của tất cả mọi sự tồn tại của người, và do đó, cũng là tiền
đề của mọi quá trình lịch sử, đó là:” người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra
lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo
và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu
để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”.

Nhu cầu và lợi ích của con người quy định hành vi lịch sử đầu tiên và là động lực thúc
đẩy con người hoạt động, phát triển. Khi nhu cầu này được thoả mãn thì ngay lập tức xuất
hiện nhu cầu mới. Cứ như vậy, nhu cầu của con người là động lực thúc đẩy sự phát triển của
chính con người và qua đó là động lực phát triển của cả xã hội.

Để thoả mãn nhu cầu, đáp ứng lợi ích cho mình, con người phải liên kết trong các cộng
đồng, tức hệ thống các mối liên hệ giữa cá nhân con người cụ thể, từ đó tạo thành xã hội.

Khi đề cập tới hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là hành vi lịch sử đầu tiên của
con người, Mác cũng đồng thời chỉ ra các hoạt động sản xuất khác của con người như hoạt
động sản xuất tinh thần và hoạt động sản xuất ra bản thân con người, cũng như các quan hệ
xã hội khác. Trong hoạt động đó, hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò là nền tảng, là cơ
sở cho toàn bộ đời sống xã hội và là điểm đánh dấu sự khác biệt cơ bản giữa con người và
con vật. Mác viết: “ Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con
người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình”. Chính thông qua sản xuất vật
chất để duy trì tồn tại và phát triển của mình, con người đồng thời sáng tạo ra toàn bộ đời
sống vật chất và tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, việc xuất phát từ con người hiện
thực để nghiên cứu đời sống xã hội đòi hỏi phải bắt đầu từ sản xuất vật chất của họ, qua đó
đi đến việc xem xét các mặt khác của xã hội nhằm tìm ra các quy luật vận động và phát triển
khách quan của xã hội.

Từ việc nghiên cứu quá trình sản xuất vật chất, Mác phát hiện ra 2 mặt không tách rời
nhau là lực lượng sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên ) và quan hệ sản xuất (quan
hệ giữa con người với con người). Hai mặt này của sản xuất vật chất tồn tại thống nhất với
nhau, tạo thành phương thức sản xuất. Sự tác động qua lại giữa chúng trong một phương
thức sản xuất đã tạo nên quy luật: quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.

Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động sản xuất, Mác đi tới việc nghiên cứu các mặt của đời
sống xã hội như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo…có liên hệ ràng buộc với nhau. Ở
đây, Mác đã phát hiện ra các quy luật: cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội; phương thức sản xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã
hội. Từ kết quả này, trong tư duy Mác hình thành quan niệm cho rằng xã hội là một hệ thống,
trong đó các mặt liên hệ, tác động lẫn nhau làm cho xã hội vận động và phát triển theo các
quy luật khách quan; tuy nhiên các quy luật đó không tác động bên ngoài hoạt động sống có
ý thức của con người cụ thể. Xã hội là sự thống nhất mặt khách quan và mặt chủ quan.

Tóm lại, xuất phát từ vai trò quyết định của sản xuất vật chất, Mác đã phân tích một
cách khoa học mối quan hệ của tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội; cũng như
phát hiện ra các quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của xã hội. Trên cơ sở đó,
Ông đã đi tới sự khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế xã hội.

Câu 20: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.

Trả lời:

I Biện chứng giữa lực lượng sản xuất (PTSX) và quan hệ sản xuất (QHSX)

1.1 khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất.

1.1PTSX : là cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định của xã hội loài người.

Mỗi xã hội được đặc tưng bằng một PTSX nhất định.

PTSX đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội : Kinh tế, chính trị,
văn hóa và xã hội.

Sự thay thế kế tiếp nhau của các PTSX trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài
ngưòi từ thấp đến cao.

Trong sản xuất, con người có quan hệ : Một mặt là quan hệ giữa người với tự nhiên, tức là
LLSX, mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. PTSX chính là sự
thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng.

1.2 LLSX : là toàn bộ các lực lượng đựoc con người sử dụng trong quá trình sản xuất
vật chất. LLSX biểu hiện quan hệ giữa người với người với giới tự nhiên. Nghĩa là trong quá
trình sản xuất, con người phải chinh phục giới tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của
mình.

LLSX bao gồm : Con người (CN) và tư liệu sản xuất (TLSX)

* TLSX : bao gồm :

+Đối tượng lao động : một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất.

+ Tư liệu lao động : Công cụ lao động và kho tàng bến bãi, giao thông vận tải.

Trong TLLĐ, công cụ lao động không ngừng đựoc cải tiến, cho nên nó là yếu tố động nhất,
cách mạng nhất. Chính sự cải tiến và hòan thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến
đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.

*Con người: là yếu tố có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất. Tư liệu lao động chỉ trở
thành lực lươngj tích cực cải biến đối tượng lao động, khi chúng được kết hợp với lao động
sống, đó chính là con người, với những kỹ năng, kỷ xảo, với trí tuệ và kinh nghiệm của
mình. Hàm lượng trí tuệ trong điều kiện của khoa học công nghệ hiện nay đã làm cho con
người trở thành nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.

1.3 QHSX: là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Thể
hiện qua 3 mặt : Quan hệ giữa ngưòi với người đối với việc sở hữu về TLSX, quan hệ giữa
người với người đối với việc tổ chức quản lý, quan hệ giữa người với người đối với việc
phân phối sản phẩm.

Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa
quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng
đều phụ thuộc vào vấn đề những TLSX chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.

Có 2 hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội.

II. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX:

LLSX và QHSX là hai m?t c?a PTSX, có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau hình thành
nên quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX. Quy luật nàu
vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của QHSX vào sự phát triển của LLSX. Đến lượt
mình, QHSX tác động trở lại đối với LLSX. Khuynh hướng chung của SX là không nhừng
phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của LLSX,
trước hết là CCLĐ.

Trình độ của LLSX là trình độ phát triển của CCLĐ, của ký thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ
năng của người lao động, quy mô sản xuất, trình độ phân công lao động… Trình độ của
LLSX gắn với tính chất của LLSX. Tính chất của LLSX : Khi SX còn trình độ thấp kém thì
LLSX có tính chất cá nhân, khi SX đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã
hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng
nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn luôn tìm cách cải thiện, hoàn thiện công cụ lao
động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn, đồng thời kinh nghiệm sản
xuất, thói quen lao động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ
theo.

Như vậy, sự thay đổi của xã hội bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi LLSX. Cùng với sự
phát triển của LLSX, QHSX cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX. Sự phù hợp đólà động lực làm cho LLSX phát trỉen mạnh mẽ.

QHSX phải tạo được điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu giữa TLSX và người lao động. Mở
ra điều kiện thích hợp cho việc kích thích vật chất, tinh thần đối với người lao động. Nhưng
LLSX luôn luôn phát triển còn QHSX có xu hướng tương đối ổn định. Khi LLSX phát triển
lên một trình độ mới, QHSX không còn phù hợp nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát
triển của nó sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của PTSX. Sự phát triển khách đó tất
yếu dẫn đến việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế bằng một QHSX mới phù hợp với tính chất và
trình độ mới của LLSX, mở đường cho LLSX phát triển. Việc xóa bỏ QHSX cũ, thay thế
bằng QHSX mới cũng có nghĩa là sự diệt vong của một PTSX lỗi thời và sự ra đời của PTSX
mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa LLSX mới và QHSX lỗi thời là cơ
sở khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời là tiền đề tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội. Đây là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại
“Quy luật QHSX phù hợp với trình độ PT của LLSX”. QHSX phù hợp với trình độ của
LLSX lại trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho LLSX phát triển. QHSX không
phù hợp với trình độ của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Song tác động kìm hãm
đó cũng chỉ có tính chất tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng QH cũng se phải
thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Sở dĩ QHSX có tác động trở lại
mạnh mẽ với LLSX là vì nó qui định: Mục đích của SX, hệ thống quản lý của SX và quản lý
xã hội, Phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng.
Từ đó, nó sẽ tạo ra những điều kiện để kích thích việc cải tiến lao động và kỹ thuật sản xuất,
thúc đẩy LLSX phát triển. Thực tiễn đã cho thấy LLSX chỉ có thể phát triển khi có một
QHSX hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó. QHSX lạc hậu hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo
cũnhg sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX. Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất
và trình độ của LLSX là quy luật chung nhất của sự phát triển XH. Sự tác động cảu quy luật
này đã đưa xã hội loài ngưòi trải qua các PTSX khác nhau. Tuy nhiên không phải bất cứ
nước nào cũng nhất thiết phải tuần tự trải qua các PTSX, một số nước có thể bỏ qua hợc một
số các PTSX để tiến lên PTSX mới cao hơn.

CÂU 21: Anh/ Chị hãy phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng (CSHT)
và kiến triến thượng tầng (KTTT). Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này
như thế nào vào vào quá trình xây dựng CNXH ở nước ta hiện nay.

Trả lời:
* CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.

* KTTT là toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn
giáo...,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà nước, đảng phái, giáo hội… được hình
thành trên một CSHT nhất định.

* Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT

- CSHT quyết định KTTT (CSHT nào thì KTT nấy):

+ Trật tự kinh tế xét đến cùng quy định trật tự chính trị, mâu thuẫn trong kinh tế gây ra
mâu thuẫn trong chính trị. Giai cấp nào thống trị trong kinh tế thì giai cấp đó thống trị trong
chính trị.

+ Tất cả các yếu tố của KTTT dều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào CSHT và do
CSHT quy định.

+ CSHT thay đổi hay mất đi thì sớm hay muộn KTTT cũng phải thay đổi hay mất đi để
cho một KTTT mới ra đời, tuy nhiên đây là một quá trình phức tạp.

- Sự tác động của KTTT đến CSHT: Do KTTT và mỗi yếu tố của nó có tính độc lập
tương đối và vai trò khác nhau nên chúng tác động đến CSHT theo những cách những
xu hướng khác nhau.

+ Chức năng chính của KTTT là xây dựng, củng cố, bảo vệ CSHT đã sinh ra nó, chống
lại mọi nguy cơ làm suy yếu hay phá hoại chế độ kinh tế hiện hành.

+ KTTT tác động mạnh mẽ đến kinh tế - xã hội, nhưng nó không thể làm thay đổi xu
hướng phát triển khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Sự tác động của nó chủ yếu
diễn ra theo 2 hướng:

. Nếu phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT thúc đẩy sự tăng trưởng,
đảm bảo sự phát triển bền vững cho CSHT.

. Nếu không phù hợp với CSHT, với các quy luật kinh tế thì KTTT kìm hãm sự tăng
trưởng, gây bát ổn cho đời sống xã hội

* Đảng ta đã vận dụng mối quan hệ biện chứng này trong quá trình xây dựng CHXH ở
nước ta hiện nay.

Nước ta đã trải qua các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau: từ xã hội cộng sản
nguyên thủy tiến lên xã hội chiếm hữu nô lệ, đến xã hội phong kiến rồi tiến hóa lên
CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và đỉnh cao nhất trong quá trình tiến hóa này là
chủ nghĩa cộng sản. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng CNXH theo hướng xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đó mối quan hệ biện chứng
giữa CSHT và KTTT là 1 quá trình đấu tranh lâu dài giữa cái mới và cái cũ. CNXH đang
trong quá trình xây dựng nên là cái mới còn rất non yếu, muốn xóa bỏ hết tàng dư của xã
hội cũ - đại diện cho cái cũ rất khó bởi nó đã tồn tại lâu dài. Tuy nhiên con đường đi lên
CNXH ở nước ta diễn ra theo các quy luật khách quan của thời đại chứ không phải do ý
muốn chủ quan của con người quyết định nên nó là cái mới nhưng hợp quy luật nên ngày
càng phát triển và ngược lại cái cũ không hợp quy luật sẽ ngày càng yếu đi.

Đảng ta đã ra sức xây dựng CNXH trong đó phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và
phân phối. Quá trình xây dựng này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng các quan điểm về
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo...,các thể chế xã hội tương ứng như Nhà
nước, đảng phái, giáo hội cho phù hợp với sự phát triển của phương thức sản xuất mà
Đảng đã đề ra để góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

Câu 22: Anh (chị) hãy phân tích tư tưởng của Mac: “sự phát triển hình thái kinh tế - xã
hội là quá trình lịch sử - tự nhiên”.

* Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: HTKT-XH là một phạm trù của CNDVLS dùng
để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu qhsx đặc trưng cho xã hội đó,
phù hợp với một trình độ nhất định của llsx, và với một kttt tương ứng được xây dựng trên
những qhsx ấy.

HTKT-XH là một hệ thống hoàn chỉnh và có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ
bản là llsx, qhsx, kttt. Mỗi mặt của htkt-xh có vai trò, vị trí riêng, tác động qua lại lẫn nhau,
thống nhất với nhau.

+ LLSX: là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi htkt-xh. Sự hình thành và phát triển của
mỗi htkt-xh xét đến cùng do llsx quyết định. Llsx phát triển qua các htkt-xh nối tiếp nhau từ
thấp đến cao.

+ QHSX: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là những quan hệ cơ
bản ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ xã hội khác. Mỗi htkt-xh lại có một kiểu qhsx
của nó tương ứng với trình độ nhất định của llsx. Qhsx là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử

+ KTTT: được hình thành và phát triển phù hợp với CSHT, nhưng nó lại là công cụ để
bảo vệ, duy trì và phát triển CSHT đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản nêu trên, các htkt-xh còn có quan hệ về gia đình, dân tộc, và các
quan hệ xã hội khác. Các quan hệ đó đều gắn bó chặt chẽ với qhsx, biến đổi cùng với sự biến
đổi của qhsx.

* Sự phát triển của các htkt-xh là một quá trình lịch sử tự nhiên:

Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến
cao, tương ứng với mỗi giai đoạn là một htkt-xh. Sự vận động thay thế nhau của các htkt-xh
trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên
của xã hội. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật phát triển khách quan của xã hội, Mac đã đi
đến kết luận: “sự phát triển của những hình thái kinh tế- xã hội là một quá trình lịch sử- tự
nhiên”.

Các mặt cơ bản hợp thành một htkt-xh không tách rời nhau mà liên hệ biện chứng với
nhau hình thành nên những qui luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của
qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx; quy luật csht quyết định kttt và các quy luật
xã hội khác. Chính tác động của các quy luật khách quan đó mà các htkt-xh vận động phát
triển thay thế nhau từ thấp đến cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên, không
phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng chủ quan của con người.

Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa từ sự phát triển của
llsx. Chính tính chất và trình độ phát triển của llsx đã quy định một cách khách quan tính
chất và trình độ của qhsx. Do đó xét đến cùng llsx quyết định quá trình vận động và phát
triển của htkt-xh như quá trình lịch sử tự nhiên

Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của các htkt-xh thì quy
luật về sự phù hợp của qhsx với tính chất và trình độ phát triển của llsx có vai trò quyết định
nhất. Llsx bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển tiến lên của xã hội, quy định khuynh
hướng phát triển từ thấp đến cao. Qhsx là mặt thứ hai của ptsx biểu hiện tính gián đoạn trong
sự phát triển của lịch sử. Những qhsx lỗi thời được xóa bỏ và được thay thế bằng những kiểu
qhsx mới cao hơn. Đến lượt nó, sự thay đổi qhsx sẽ kéo theo sự thay đổi về kttt, và do đó mà
htkt-xh cũ được thay thế bằng htkt-xh mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra theo
quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người.

Sự thay thế một htkt-xh này bằng một htkt-xh mới cao hơn thường được thực hiện thông
qua cách mạng xã hội. Nguyên nhân sâu sa của cách mạng xã hội là mâu thuẫn giữa llsx và
qhsx, khi qhsx trở thành xiềng xích của llsx. Trong thời kỳ cách mạng xã hội khi cơ sở kinh
tế thay đổi thì sớm hay muộn toàn bộ kttt đồ sộ cũng thay đổi theo

Quá trình kế thừa của lịch sử loài người luôn luôn cho phép cộng đồng nào đó, trong
điều kiện nhất định do tác động của các nhân tố, các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, có
thể bỏ qua các giai đoạn phát triển nhất định để vươn tới trình độ tiên tiến của nhân loại.
Trong thời đại ngày nay chủ chương rút ngắn để đi lên CNXH ở một số quốc gia tiền tư bản
chủ nghĩa chẳng những không mâu thuẫn với tinh thần của sự phát triển mang tính lịch sử- tự
nhiên mà còn là biểu hiện sinh động của quá trình lịch sử- tự nhiên ấy. Chỉ khi ta “rút ngắn
”một cách duy ý chí, bấp chấp quy luật thì lúc đó sự phát triển rút ngắn mới trở nên đối lập
với quá trình lịch sử- tự nhiên.

Như vậy, quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng
con đường tuần tự mà còn bao hàm cả sự bỏ qua trong những điều kiện lịch sử nhất định,
một hoặc một vài htkt-xh nhất định. Sự khác nhau về trật tự phát triển vẫn là quá trình lịch
sử- tự nhiên.

Câu 23: Anh(chị) hãy phân tích ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của học thuyết
HTKT-XH

* ý nghĩa lý luận:

Học thuyết Mac- Lenin về htkt-xh đã vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự phát
triển xã hội, vạch ra cơ sở và những nguyên nhân xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã
hội, làm cho xã hội học trở thành một khoa học thật sự, khắc phục được các quan điểm duy
tâm về lịch sử.

Là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.

Là cơ sở lý luận cho việc xác định đường lối cách mạng của các Đảng cộng sản.

Là cơ sở lý luận để phê phán các quan niệm phi macxit trong việc phân kỳ sự phát triển
của xã hội.

*Ý nghĩa thực tiễn (sự vận dụng học thuyết ở nước ta hiện nay)

Kể từ khi ĐHĐ VI Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Đường lối đó đã từng
bước đi vào cuộc sống thể hiện sinh động trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và thu được
những kết quả bước đầu rất quan trọng.

Thực hiện công cuộc đổi mới là một quá trình vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm bởi
vì chưa bao giờ có sẵn mô hình để căn cứ vào đó mà chủ động vạch ra một chương trình đổi
mới cụ thể, chi tiết trên từng lãnh vực. Song định hướng cho sự quá độ lên CNXH không qua
chế độ chính trị tbcn ở nước ta là:

+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước, từng bước làm cho nền kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể chiếm
ưu thế về năng suất, chất lượng, hiệu quả và qua đó giữ vị trí chủ phối.

+ Xây dựng hệ thống chính trị theo nguyên tắc nhân dân lao động là người làm chủ xã
hội, bảo vệ quyền dân chủ của mọi thành viên trong xã hội.
+ Mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và tận dụng những giá trị mới của văn minh nhân
loại.

+ Tạo môi trường cho hoạt động tự do, sáng tạo, cho mọi sáng kiến các cá nhân và đơn
vị, khai thác triệt để yếu tố con người, vì con người.

Tóm lại, xây dựng htkt-xh XHCN ở nước ta là xây dựng hệ thống qhsx theo yêu cầu phát
triển không ngừng của llsx hiện đại, xây dựng một hệ thống chính trị bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân lao động, hoạt động theo nguyên tắc tất cả từ con người và vì con người.

Câu 24: Phân tích Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

a. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam

Trong quá trình quá độ lên CNXH chúng ta cần phải biết tiếp thu và vận dụng sáng tạo
tư tưởng của các nhà kinh điển MÁC-Lenin, nhất là tư tưởng của Lê nin về những khâu
trung gian, những bước quá độ tất yếu để đưa một xã hội tiểu nông, lạc hậu lên CNXH; lại
vừa biết tổng kết lịch sử của đất nước và của thế giới với những biến đổi to lớn của nó. Điều
quan trọng là quá trình đi lên CNXH, chúng ta cần phải tuân thủ nghiêm ngặt những yêu cầu
khách quan của sự phát triển, tuân theo những qui luật khách quan của sự phát triển từ xã hội
nông nghiệp lạc hậu lên CNXH. Tuyệt đối không có những hành động chủ quan, duy ý chí,
trái với qui luật khách quan. Phải hiểu rằng quá độ gián tiếp lên CNXH , bỏ qua chế độ
TBCN là con đường phù hợp với điều kiện đất nước và thời đại ngày nay.

Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra biến đổi về chất của XH trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải phải trải qua một thời kỳ quá độ
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính quá độ. Trong
các lĩnh vực của đời sống XH diễn ra sự đan xen và đấu tranh của cái củ và cái mới.

b. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến
lên CNXH ở Việt Nam:

- Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực lượng sản xuất
của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất-kỹ thuật của nó. Để có CNXH phải có một
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc CM khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta
tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái
thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực chất của công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh của
đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế giới. đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.

- Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển mạnh mẽ một
nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thế giới ngày nay trong xu
thế hợp tác, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cuả Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể
rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của
đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức
cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam: coi
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp
công nghiệp hó hiện đại hóa.

Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.

c. Kết hợp giữa LLSX với xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
ở Việt Nam.

- Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận hình thái kt-xh còn chỉ ra, sự phát
triển của LLSX phải gắn liền với việc thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp
xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định “Phát triển LLSX gắn liền với QHSX mới
phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
- Phù hợp với sự phát triển của LLSX ở nước ta, đảng ta chủ trương sử dụng “nhiều
hình thức sở hữa về TLSX, nhiều thành phần kinh tế”. đồng thời thực hiện nhất quán lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
- Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự
phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội
và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh
mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của
LLSX ở nước ta, với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH
nâng cao đời sống của nhân dân.

d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH trong thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.

Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH
mà lý luận hình thái kt-xh đã chỉ ra, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với
phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức
quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ.

Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài, theo quan điểm của đảng ta, đó là quốc sách hàng đầu, giải quyết các vấn đề
XH, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống XH.

Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục
và đào tạo. Phải coi giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu. Điều này vừa phù hợp
với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là đòi hỏi cấp bách của sự phát triển đất nước.

Tóm lại: lý luận hình thái kt-xh là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta một quan
niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống kt-xh, về sự vận động
và phát triển của XH. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn
giữ nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích các hiện
tượng trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt
động thực tiễn.

Câu 25: Anh chị hãy phân tích những cống hiến to lớn của Các-Mác, Ph-Angghen và
Lênin vào sự phát triển lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp ?

Nguồn gốc giai cấp: C.Mác và Ph.angghen đều khẳng định giai cấp không phải là hiện
tượng bẩm sinh của xã hội, không xất hiện cùng với sự xuất hiện của xã hội. Trong xã hội
nguyên thủy khi lực lượng sản xuất còn thấp kém, con người làm ra sản phẩm chỉ để tồn tại,
chưa có sản phẩm dư thừa, chưa có điều kiện khách quan để người này chiếm đoạt sản phẩm
của người khác, xã hội chưa xuất hiện chế độ người bóc lột người và do đó chưa thể có giai
cấp. Cuối xã hội nguyên thủy, công cụ sản xuất bằng kim loại xuất hiện, có sự phân công lao
động làm cho lực lượng sản xuất phát triển mang lại năng suất lao động cao hơn, từ đó dẫn
đến của cải dư làm của riêng, chế độ tư hữu ra đời. Chế độ tư hữu làm cơ sở cho sự phân hoá
xã hội thành các gia cấp có lợi ích đối kháng nhau.

Giai cấp : là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị trong một hệ thống sản
xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Nói đến giai cấp là nói
đến một hệ thống các tập đoàn người trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định, do chế độ ấy
sản sinh ra; mỗi giai cấp trong lịch sử đều có đặc điểm riêng, tuy nhiên theo LêNin cho phép
ta nắm được dấu hiệu đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất, những dấu hiệu phổ biến và ổn định
nhất của giai cấp.

Giai cấp là phạm trù kinh tế xã hội có tính lịch sử; giai cấp không phải là sản phẩm của
sản xuất nói chung mà là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; một
hệ thống giai cấp tương ứng với môt hệ thống sản xuất xã hội, do đó không thể hiểu đặc
trưng của từng giai cấp cụ thể nếu không đặt nó trong mối quan hệ với các giai cấp đối lập
khác

Nói đến giai cấp là nói đến sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ
thống kinh tế xã hội nhất định, trong đó tập đoàn người này là thống trị, còn tập đoàn người
kia là bị trị; sự khác nhau ấy thể hiện ở chỗ:

Các giai cấp có quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất; đây là sự khác nhau cơ bản nhất,
quy định sự khác nhau về địa vị của các giai cấp trong xã hội (ví dụ).

Các giai cấp có vai trò khác nhau trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý
sản xuất; tập đoàn nào chiếm hữu tư liệu sản xuất đương nhiên giữ vai trò lãnh đạo, chỉ huy
hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa tại từng đơn vị kinh tế và trên quy mô toàn xã hội.

Các giai cấp có phương thức và qui mô thu nhận của cải xã hội khác nhau các giai cấp
thống trị chiếm đoạt giá trị thăng dư của các giai cấp bị trị; chế độ phân phối trong xã hội có
giai cấp đối kháng là chế độ phân phối bất công vì phần lớn của cải nằm trong tay giai cấp
thống trị, phần ít ỏi còn lại thuộc về lực lượng đông đảo trong xã hội đó là những người lao
động. Tóm lại, giai cấp nào nắm được quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất thì giai cấp đó sẽ
nắm quyền quản lý, tổ chức sản xuất và quyền chi phối sản phẩm, giai cấp đó sẽ có địa vị
trong xã hội.

Đấu tranh giai cấp: Gia cấp thống trị và giai cấp bị trị có lợi ích căn bản đối lập nhau
không thể đều hoà đều hoà được. Đó là đối kháng về quyền lợi giữa những giai tầng áp bức
bóc lột và những giai tầng bị bóc lột, có áp bức thì có đấu tranh chống áp. V.I.Lênin cho rằng
đấu tranh giai cấp trong lịch sử và trong thời đại ngày nay không phải là cuộc bạo loạn,
khủng bố, lật đổ chỉ có ý ngĩa phá hoại tiêu cực , mà thực chất là cuộc đấu tranh của quần
chúng bị tước heat quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức
và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản
chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản.

Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp, sự xung đột giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ
sản xuất lạc hậu được giải quyết, thực hiện bước quá độ từ một chế độ xã hội lỗ lời sang chế
độ mới cao hơn.

Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp không chỉ thể hiện trong
thời kỳ cách mạng xã hội, mà còn trong thời hòa bình

Đấu tranh giai cấp là quy luật chung của xã hội có giai cấp, song quy luật ấy có những
biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ thể.

Về kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế xã hội có một kết
cấu giai cấp nhất định; khi hình thái kinh tế xã hội này thay thế hình thái kinh tế xã hội khác
thì kết cấu giai cấp cũng thay đổi.

Mỗi kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản, giai cấp không
cơ bản và tầng lớp trung gian; những giai cấp cơ bản là những giai cấp gắn liền với sự xuất
hiện và tồn tại của phương thức sản xuất thống trị trong xã hội; sự đối kháng và cuộc đấu
tranh của các giai cấp đó biểu hiện mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất đã sinh ra
chúng; những giai cấp không cơ bản đó là những người nông dân tự do có ít ruộng đất trong
chế độ chiếm hữu nô lệ, đó là giai cấp nô lệ, chủ nô với tư cách là tàn dư của chế độ cũ, giai
cấp tư sản với tư cách là mầm móng của xã hội mới trong xã hội phong kiến….; tầng lớp
trung gian là sản phẩm của chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của quá
trình phân hóa xã hội diễn ra không ngừng trong xã hội, đó là tầng lớp bình dân trong xã hội
nô lệ, là tầng lớp trí thức, tiểu tư sản trong xã hội tư bản

Cùng với sự phát triển của sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp cũng có
những biến đổi nhất định, những biến đổi ấy dẫn đến những thay đổi địa vị của các giai cấp
đó trong hệ thống sản xuất xã hội.

Lý luận về giai cấp của chủ nghĩa Mác –Lênin là cơ sở đúng đắn để nhận định giai cấp,
phân tích các quan hệ giai cấp trong đấu tranh giai cấp và lien minh giai cấp, bác bỏ mọi
quan điểm sai lầm trong việc phân chia giai cấp trong xã hội.

Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Ph.Angghen , Lênin đã
vạch ra tính tấc yếu của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Sau khi giai
cấp vô sản giành chính quyền, những cơ sở vất chất để nảy sinh giai cấp bóc lột và sự phân
chia giai cấp nói chung vẫn tồn tại, vì vậy giai cấp công nhân phải tiến hành tổ chức xây
dựng một hệ thống quan hệ xã hôi mới theo yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện
đại. Ngoài ra , giai cấp vô sản còn phải từng bước khắc phục những tư tưởng tâm lý tập
quán, văn hóa lạc hậu của xã hội củ còn in sâu vào đời sống tinh thần của xã hội.
CÂU 26: Anh/chị hãy trình bày quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp và vai trò của
nó đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng. Sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay như thế nào?

1. Quan điểm Mácxít về đấu tranh giai cấp:

- Đấu tranh giai cấp là quá trình tất yếu khách quan của xã hội có áp bức bóc lột. Đó
là cuộc đấu tranh giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị đối kháng về quyền lợi không thể
dung hoà được.

-V.I.Lênin cho rằng đấu tranh giai cấp trong lịch sử và ngày nay không phải là những
cuộc bạo loạn, khủng bố, phá hoại mà nó thực chất là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn áp bức, ăn bám, đấu tranh của những người
công nhân làm thuê hay những người vô sản chống giai cấp tư sản.

*Nguyên nhân đấu tranh giai cấp:

-Do mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới tiến bộ và quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu.

- Về mặt xã hội đây là mâu thuẫn biểu hiện giữa giai cấp cách mạng tiến bộ đại diện
cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp thống trị bóc lột đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu.

*Hình thức đấu tranh:

Tuỳ thuộc hoàn cảnh lịch sử, giai cấp tham gia đấu tranh, giai đoạn phát triển đấu
tranh mà đấu tranh giai cấp diễn ra dưới nhiều hình thức. Ngày nay cách mạng xã hội chủ
nghĩa đang thời kỳ thoái trào giai cấp công nhân các nước tư bản đấu tranh bằng những hình
thức mới chống lại những thủ đoạn của giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích giai cấp trước mắt và
lâu dài của công nhân và nhân dân lao động.

2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển xã hội có giai cấp đối kháng.

-Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển quan trọng của xã hội có
giai cấp. Vì đấu tranh giai cấp giúp thay đổi phương thức sản xuất cũ, lỗi thời, lạc hậu bằng
phương thức mới cao hơn, đồng thời xây dựng lực lượng sản xuất mới phù hợp quan hệ sản
xuất tạo cơ sở phát triển mọi mặt đời sống xã hội.
-Đấu tranh giai cấp giúp cải tạo các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động thông
qua việc xoá bỏ tập quán xấu do giai cấp thống trị sản sinh ra.

-Đấu tranh giai cấp là đòn bẩy phát triển lịch sử cách mạng, là động lực phát triển các
mặt đời sống xã hội trong thời kỳ phát triển bình thừơng. Đấu tranh là động lực để giai cấp
tư sản đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới để tạo nên những thành tựu mới.

-Vai trò đấu tranh giai cấp thể hiện ở những cuộc đấu tranh mang tính quần chúng
rộng lớn, do lực lượng tiến bộ xã hội lãnh đạo, được tổ chức khoa học nhằm đánh đổ giai cấp
thống trị cản trở phát triển xã hội.

3. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay:

-Thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta tồn tại nhiều giai cấp và mâu thuẫn giai cấp.
Tuy nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường quá độ lên CNXH, mâu thuẫn này bộc
lộ là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân. Nhìn chung lợi ích giai cấp tư sản thống nhất lợi ích
cộng đồng, đấu tranh là để hợp tác, đoàn kết xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, công
bằng, văn minh.

-Thực chất đấu tranh giai cấp ở nước ta trong thời kỳ quá độ là đấu tranh giữa khuynh
hướng tự giác theo định hướng XHCN và khuynh hướng phát triển tự phát lên TBCN. Trong
quá trình đó, nhất thiết chúng ta phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó
có thành phần kinh tế tư bản tư nhân.

-Đấu tranh giai cấp ở nước ta diễn ra hàng ngày trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội. Vì vậy Đảng ta luôn xác định rõ cần phải:

+Đấu tranh chống khuynh hướng và biểu hiện tiêu cực của tầng lớp tư sản

+Đấu tranh chống khuynh hướng tự phát TBCN của sản xuất nhỏ.

+Đấu tranh chống các thế lực thù địch, âm mưu diễn biến hoà bình, phá hoại độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta

+Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quyền làm chủ nhân
dân.

+Xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện CNH, HĐH định hướng XHCN, giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại làm cho đời sống vật chất và tinh
thần nhân dân không ngừng nâng cao.

-Để đạt được các mục tiêu trên đòi hỏi sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau,
vừa mềm dẻo, vừa cương quyết.
*Tóm lại, giai đoạn hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải nắm vững biện pháp duy vật, nắm
vững quan điểm giai cấp của CN Mác-Lênin để phân tích được tính chất tình hình gay go,
phức tạp của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ tránh rơi vào thái cực sai lầm: quá
cường điệu đấu tranh giai cấp đi đến rụt rè, không dám đổi mới, mơ hồ, mất cảnh giác đi
đến phủ nhận đấu tranh giai cấp.

Câu 26: trình bày quan điểm Macxít về đấu tranh G/c và vai trò của nó đ/v sự phát
triển của xh có g/c đối kháng. sự vận dụng của ĐCS VN về đấu tranh g/c trong thời kì
quá độ đi lên CNXH ở nước ta hiện nay như thế nào ?

- Đấu tranh g/c: lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng đến nay là lịch sử đấu
tranh giai cấp. đây là quá trình tất yếu khách quan của XH có áp bức giai cấp. bởi vì giai cấp
thống trị và giai cấp bị trị có lợi ích căn bản đối lập nhau không thể điều hoà được. đó là đối
kháng về quyền lợi giữa những giai tầng áp bức bóc lột và những giai tầng bị bóc lột. có áp
bức thì có đấu tranh chống áp bức. Thực chất của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay
là: “ cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có
đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân
làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp TS”

- nguyên nhân của đấu tranh g/c: nguyên nhân khách quan của cuộc đấu tranh GC trong
các XH có GC đối kháng là do mâu thuẫn gay gắt giữa LLSX mới, tiến bộ với QHSX lỗi
thời, lạc hậu. mâu thuẫn này biểu hiện về mặt XH thành mâu thuẫn giữa một bên là GC cách
mạng, tiến bộ đại diện cho LLSX mới thích hợp, với một bên là GC thống trị bóc lột, bảo
thủ, đại biểu cho QHSX lỗi thời lạc hậu.

- Hình thức của đấu tranh GC: Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh LS, vào các GC tham gia đấu tranh,
vào giai đoạn phát triển cuộc đấu tranh mà đấu tranh GC diễn ra dưới nhiều hình thức khác
nhau. Trong thời đai ngày nay, cách mạng XHCN đang ở thời kì thoái trào, GC công nhân
các nước TBCN đứng trước vấn đề cấp bách là tìm những hình thức mới của dấu tranh GC
để chống lại những thủ đoạn mới của GC thống trị, của những tập đoàn TB lũng đoạn xuyên
quốc gia bảo vệ những lợi ích GC trước mắt và lâu dài của GCCN và ND lao động.

- Vai trò của đấu tranh GC đ/v sự phát triển XH có GC đối kháng: Đấu tranh GC là phương
thức thay đổi phương thức SX cũ bằng phương thức SX mới cao hơn, đồng thời đấu tranh
GC là một trong những động lực phát triển quan trọng của các XH có GC.

+ Trong các XH có áp bức GC, đấu tranh GC chẳng những cải tạo XH mà còn có tác dụng
cải tạo bản thân các GC cách mạng và quần chúng lao động. qua đấu tranh cho tự do, không
cam chịu số phận nô lệ, các GC bị áp bức mới gột rửa được tinh thần nô lệ và những tập
quán xấu do chế độ người áp bức người sản sinh ra.

+ Đấu tranh GC không chỉ là đòn bẩy của LS trong thời kì cách mạng mà còn là động lực
phát triển các mặt của đời sống XH trong thời kì phát triển bình thường của XH có giai cấp.
dưới chế độ TB, sức ép của phong trào CN là một trong những động lực mạnh mẽ, thường
xuyên trực tiếp thúc đẩy GCTS đổi mới phương thức quản lý, sử dụng kỹ thuật mới…

+ Vai trò đấu tranh GC trong LS đặc biệt to lớn là những cuộc đấu tranh mang tính quần
chúng rộng lớn, do lực lượng tiên tiến của XH lãnh đạo, được tổ chức một cách khoa học
nhằm thực hiện nghĩa vụ LS chín muồi là đánh đổ GC thống trị phản động đang là lực cản
đối với sự phát triển XH.

- Như vậy theo quan điểm Macxít, sự xuất hiện GC, đấu tranh GC và sự xoá bỏ GC đầu
là tất yếu khách quan, không phục thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ GC nào. Khi điều
kiện khách quan chưa cho phép thì không GC nào có thể thực hiện được những mục tiêu của
mình. Điều kiện khách quan đó bắt nguồn từ trong quá trình phát triển của nền SXXH.

* Đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở nước ta có nội dung cụ thể là đấu tranh nhằm thực
hiện mục tiêu cách mạng, Xd nước ta thành nước dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân
chủ, văn minh, mà cơ bản là phát triển mạnh mẽ nền KTTT định hướng XHCN, thực hiện
CNH, HĐH theo định hướng XHCN; bảo vệ và phát triển những nhân tố XHCN, chống lại
khuynh hướng tự phát TBCN trong nền KTTT; xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ tổ quốc,
bảo vệ chính quyền nhân dân và pháp chế XHCN, đấu tranh chống âm ưư “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch phá hoại độc lập dân tộc và CNXH ở nước ta; giữ gìn và phát
huy các giá trọ văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm
cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta không ngừng nâng cao.

- Để thực hiện được những mục tiêu của đấu tranh GC, đòi hỏi phải sử dụng nhiều hình thức
đấu tranh khác nhau, vừa mềm dẻo vừa cương quyết, bao gồm cả giáo dục, tuyên truyền vận
động, cả hành chính, thậm chí cả những biện pháp bạo lực trấn áp.

- Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi chúng ta phải nắm vững phương pháp biện chứng
duy vật, nắm vững quqn điểm GC của chủ nghĩa Mác – Lênin để phân tích tình hình cụ thể
để thấy được tính chất gay go, phức tạp của cuộc đấu tranh GC ở nước ta trong thời kì quá
độ, tránh rơi vào hai thái cực sai lầm: quá cường điệu đấu tranh GC đi đến rụt rè, không dám
đổi mới; hoặc mơ hồ, mất cảnh giác đi đến phủ nhận đấu tranh GC.

Câu 27: Anh chị hãy chỉ ra những điểm giống và khác nhau giữa nhà nước pháp quyền
XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản?

Trả lời:

Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó có sự ngự trị
cao nhất của pháp luật, với nội dung thực hiện quyền lực của nhân dân.
Nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nhà nước pháp quyền tư sản
có những điểm giống và khác nhau như sau:

Giống nhau:

Pháp luật được đề cao và là công cụ chủ yếu để quản lý mọi hoạt động của xã hội và công
dân. Ngay cả hoạt động của các cơ quan thuộc hệ thống tổ chức nhà nước cũng phải tuân
theo pháp luật, mặc dù chính nó là những cơ quan công bố, ban hành, thực thi và kiểm tra
việc thực hiện pháp luật.

Khác nhau:

 Điểm khác biệt căn bản giữa nhà nước pháp quyền XHCN mà chúng ta đang xây
dựng với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ, nếu như trong nhà nước pháp quyền tư sản
quyền lực của nhà nước được phân cho ba cơ quan khác nhau hoàn toàn độc lập với nhau
đảm nhiệm, thì một trong những nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền XHCN là
quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
 Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân nên hệ thống pháp luật thể hiện tập trung ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
và đội ngũ trí thức. Trong khi nhà nước pháp quyền tư sản là của giai cấp tư sản nhằm thực
hiện nền chuyên chính tư sản đối với giai cấp vô sản và nhân dân lao động.
 Nhà nước pháp quyền Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN, thực hiện
quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Nhà nước pháp quyền tư sản được tổ chức
dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng nhìn chung có 2 hình thức cơ bản là quân chủ lập
hiến và các hình thức cộng hòa, chung quy lại đều là nền chuyên chính tư sản.

Câu 28: Phân tích vai trò của Nhà Nước đối với quá trình phát triển kinh tế ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.

Vai trò tác động của Nhà Nước đối với kinh tế thuộc phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa
kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng: Nếu chính sách, pháp luật của Nhà Nước phù hợp
với nhu cầu khách quan của nền kinh tế, thì nó sẽ có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển; và
ngược lại, sẽ kìm hãm hoặc phá hoại sự phát triển kinh tế.

Nền kinh tế VN hiện nay là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, trong đó, Nhà
Nước giữ vai trò rất quan trọng .

1 – Vai trò của Nhà Nước trong việc ổn định kinh tế vĩ mô:
Nền kinh tế thị trường luôn diễn ra những biến động khôn lường và tiềm ẩn những nguy cơ
khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Do đó, xuất hiện nhu cầu cần sự can thiệp của Nhà Nước
nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế sao cho ít có khả năng xảy ra khủng hoảng nhất thông
qua chính sách tài chính tiền tệ.

Chính sách tài chính bao gồm các chính sách thuế và chi tiêu ngân sách của Nhà nước nhằm
điều tiết chu kỳ kinh tế, đảm bảo công ăn việc làm, ổn định giá cả và tăng trưởng liên tục của
nền kinh tế. Trong những thời kỳ kinh tế suy giảm, chính sách tài chính có tác dụng kích cầu
và sản xuất bằng cách Chính phủ tăng mua, giảm thuế, do đó tạo ra được một thu nhập quốc
dân khả dụng lớn hơn để đưa vào luồng tiêu đùng. Còn trong những thời kỳ kinh tế "quá
nóng", chính phủ làm ngược lại. Khi tăng chi tiêu vào thời điểm thất nghiệp cao và lạm phát
thấp, Nhà nước đã tăng cung ứng tiền, dẫn tới giảm lãi suất (tức giám giá đồng tiền), nhờ đó
ngân hàng mới có nhiều điều kiện cho vay và chi tiêu cho tiêu dùng được tăng lên. Điều đó
có nghĩa là kích cầu vì tiêu dùng là bộ phận cấu thành lớn nhất và ổn định nhất của tổng cầu.
Lãi suất thấp, đồng thời khuyến khích đầu tư, các chủ doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất,
thuê thêm công nhân. Trong thời kỳ lạm phát cao và thất nghiệp thấp thì ngược lại, Nhà nước
“làm nguội" nền kinh tế bằng cách tăng lãi suất, giảm cung ứng tiền. Cùng với việc giảm tiền
và tăng lãi suất, cả chỉ tiêu lẫn giá cả đều có xu hướng giảm hoặc ít nhất, nếu có tăng thì
cũng rất chậm, và kết quả là thu hẹp lại sản lượng và việc làm.

2 – Vai trò của Nhà Nước trong việc cung cấp hàng hóa công cộng

Trong nền kinh tế thị trường, có thành phần kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này chủ yếu
hoạt động vì mục đích lợi nhuận nên chỉ tập trung đầu tư, phát triển những lĩnh vực có thể
thu được nhiều lợi nhuận. Còn những lĩnh vực cung cấp hàng hóa công cộng, như xây dựng
cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, nước, …) thì tư nhân không muốn hoặc không thể đầu tư vì
vốn lớn, chậm thu hồi vốn. Mà một nền kinh tế muốn phát triển thì không thể không có cơ sở
hạ tầng. Do vậy, để ổn định và phát triển kinh tế, Nhà Nước phải đảm nhận lĩnh vực hàng
hóa công cộng.

3 – Vai trò của Nhà Nước trong việc chống ô nhiễm môi trường

Các thành phần kinh tế tư nhân trong quá trình hoạt động kinh doanh đã gây ra ô nhiễm môi
trường, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Do đó, cần sự can thiệp, điều tiết của Nhà Nước để
hạn chế và khắc phục những vấn đề này.

4 – Vai trò của Nhà Nước trong việc tạo lập hành lang pháp lý vững chắc

Sự phát triển của nền kinh tế thường đòi hỏi phải có một môi trường chính trị - xã hội ổn
định cần thiết. Mặt khác, xu thế phát triển của kinh tế thị trường là theo hướng hội nhập kinh
tế quốc tế, do đó càng cần tới vai trò của Nhà Nước bằng các chính sách đối ngoại, tạo môi
trường pháp lý vững chắc cho quá trình này.

Câu 29. Anh/Chị hãy phân tích quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con
người và về vấn đề giải phóng con người.

1/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về bản chất con người

a. Con người là một thực thể sinh vật – xã hội

- Khoa học và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, tiền đề đầu tiên của sự tồn tại người là sự sống của
thể xác

Thể xác sống của con người chính là sản phẩm tiến hóa lâu dài của tự nhiên, là sự tiếp
tục phát triển của tự nhiên. Ph.Aêngghen viết : “Bản thân chúng ta với cả xương thịt, máu
mủ và đầu óc chúng ta là thuộc về giới tự nhiên”. Do vậy, trước hết nó bị chi phối bởi các
quy luật tự nhiên sinh học như : quy luật trao đổi chất giữa cơ thể với môi trường, quy luật
biến dị và di truyền, quy luật tiến hóa …

- Sự tồn tại của con người còn gắn liền trực tiếp với sự tồn tại của xã hội

Để thỏa mãn các nhu cầu của mình, con người phải tiến hành lao động sản xuất, qua
đó tạo thành các mối quan hệ xã hội và xã hội; trong đó “ xã hội sản sinh ra con người với
tính cách là con người như thế nào thì con người cũng sản sinh ra xã hội như thế”. Sự tồn tại
xã hội của con người gắn liền với sự tồn tại của ý thức.

- Con người là một thực thể sinh vật – xã hội, trong đó có sự tác động đan xen của ba hệ
thống nhu cầu (nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội, nhu cầu tinh thần) và ba hệ thống quy luật
(quy luật sinh học, quy luật xã hội, quy luật tinh thần)

Mỗi hệ thống nhu cầu và quy luật này đều có vị trí, vai trò và tác dụng của mình trong
sự tồn tại và phát triển của con người đồng thời chúng tham gia vào việc quy định bản chất
của nó; trong đó hệ thống nhu cầu và quy luật xã hội luôn giữ vị trí trung tâm và có vai trò
quyết định.

Các nhu cầu của con người, dù là nhu cầu vật chất hay tinh thần, mang tính tự nhiên
và xã hội, đều được quy định bởi lịch sử, nhưng con người hoàn toàn có thể tự điều chỉnh, tự
kiểm tra các nhu cầu và hoạt động của mình.

Con người tồn tại trong thế giới không phải như các sinh vật khác, mà tồn tại với tư
cách là chủ thể của quá trình nhận thức và hành động cải tạo thế giới, cải tạo xã hội và cải
tạo chính bản thân con người.
b. Con người là chủ thể của lịch sử

- Triết học Mac-Lênin cho rằng, con người là sản phẩm của lịch sử (sản phẩm của điều kiện
tự nhiên và điều kiện xã hội) đồng thời chính là chủ thể sáng tạo ra quá trình lịch sử ấy-lịch
sử của con người. Đó là quá trình hoạt động có ý thức của con người nhằm mục đích cải tạo
tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân con người.

- Trên cơ sở vận dụng phép biện chứng duy vật, C.Mác đã khảo sát bản chất con người bắt
đầu từ hoạt động thực tiễn, từ trong hoàn cảnh xã hội lịch sử cụ thể.

- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, luận điểm này cho thấy, con người
là một thực thể có tính loài. Đặc tính “loài” của con người hiện thực tức là tính người. Tính
người bao gồm toàn bộ các thuộc tính vốn có của con người, trong đó có ba thuộc tính cơ
bản nhất đó là : thuộc tính tự nhiên, thuộc tính xã hội và thuộc tính tư duy.

- “Bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”, quan hệ xã hội ở đây được hiểu là
tổng thể các quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó còn bao hàm
cả những quan hệ trong tương lai.

- Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nhưng con người bao giờ cũng là con
người riêng biệt, con người cụ thể, ứng với những thời đại, những giai đoạn lịch sử nhất
định, với từng tập đoàn người, đồng thời nó cũng mang bản chất chung của nhân loại, phát
triển trong toàn bộ lịch sử loài người.

2/ Quan điểm của triết học Mac-Lênin về giải phóng con người

- Triết học Mac-Lênin là triết học vì con người. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”,
C.Mac và Ph.Aêngghen đã viết : “vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách
áp bức” song “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho
mỗi cá nhân riêng biệt”. Như vậy, tư tưởng giải phóng con người, giải phóng nhân loại là tư
tưởng xuyên suốt, là cái cốt lõi của Triết học Mac- Lênin.

- Triết học Mac-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn đề giải phóng con
người. Vấn đề giải phóng con người đã được nhiều học thuyết triết học đề cập đến, nhưng do
hạn chế bởi lịch sử , do chưa hiểu đúng về con người, về bản chất con người, cho nên khi xác
định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào, bằng các nào, giải phóng như thế nào
… các học thuyết triết học trong lịch sử đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau nhưng chưa có
được câu trả lời thích đáng.

- Triết học Mac-Lênin, trên cơ sở giải thích đúng đắn và khoa học về con người, về bản chất
con người, đã xác định “bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con
người, những quan hệ của con người về với bản thân con người”, “là giải phóng người lao
động thoát khoải lao động bị tha hóa”. Có thể nói rằng , vấn đề “tha hóa con người” và giải
phóng con người chiếm vị trí trung tâm trong quan niệm của C.Mác về đời sống xã hội. “Tha
hóa” là biến thành cái bản chất khác với bản chất ban đầu. “Tha hóa con người”, theo C.Mác
là con người không còn là chính mình mà trở thành tồn tại khác, cái đối lập với mình. Và
nguyên nhân của sự “tha hóa con người” là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự nô
dịch nhiều mặt đối với con người gây ra.

- Theo triết học Mac-Lênin, sự “tha hóa con người” là do hoạt động của chính con người tạo
ra, vì thế, con người bằng hoạt động tích cực của mình, có thể xoá bỏ được sự “tha hóa” cho
mình.

+ Cần phải xóa bỏ “chế độ sở hữu tư sản” thứ “ sở hữu vận động trong sự đối lập giữa
hai cực tư bản và lao động” nó chính là nguồn gốc sinh ra mọi nô dịch con người trong xã
hội tư bản.

+ Sự nghiệp xóa bỏ “tha hóa”, giải phóng cho con người là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân lao động, trong đó, giai cấp vô sản là lực lượng nòng cốt và quyết định. Bởi vì chỉ
có giai cấp vô sản mới có khả năng đem lại tự do và bình đẳng thực sự cho mọi người.

+ Sự nghiệp giải phóng con người, giải phóng nhân loại là một quá trình lâu dài. Nó
phụ thuộc chủ yếu vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, vào các điều kiện vật chất
tất yếu cho sự nghiệp giải phóng ấy.

Câu 30: Anh chị hãy trình bày mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung cơ bản của việc xây
dựng con người Việt Nam đáp ứng giai đoạn cách mạng hiện nay?

Theo chủ nghĩa Mác- Lênin: con người là sản phẩm của lịch sử cũng là chủ thể sáng
tạo lịch sử.

Con người Việt Nam do điều kiện tự nhiên, địa lý, văn hoá đã hình thành nên con
người Việt Nam mộc mạc, chất phác có truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất để giữ
nước và phấn đấu không ngừng vì sự nghiệp dựng nước.

Con người Việt Nam hiện nay đang đứng trước những thử thách mới cần phải vượt qua
đó là:

- Đấu tranh chống lại những mặt tiêu cực và hạn chế của cơ chế thị trường mang lại có
tác động xấu đến tư tưởng, tâm lý con người VN
- Cùng với cuộc CM KHKT như vũ bảo con người VN cần phát huy và kế thừa những
tinh hoa văn hoá của nhân loại và giữ gìn bản sắc văn hoá của mình.

• Xây dựng con người VN đáp ứng giai đoạn CM hiện nay:

- Xây dựng con người VN có những đức tính cơ bản như: tinh thần yêu nước, có ý chí
đưa đất nước khỏi đói nghèo, đoàn kết vì sự nghiệp tiến bộ xã hội
- Có ý thức tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung
- Lối sống lành mạnh, cần kiệm, bảo vệ môi trường sinh thái
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ luật, kỹ thuật và sáng tạo
- Thường xuyên học tập, hiểu biết và nâng cao nghiệp vụ….

Tóm lại, để con người VN có thể đáp ứng được những yêu cầu của giai đoạn cách mạng
hiện nay, một mặt cần tích cực phát huy và rèn luyện những ưu điểm đồng thời khắc phục
và hạn chế những nhược điểm để sớm đưa VN thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu và
“sánh vai cùng với các cường quốc năm châu”.

You might also like