You are on page 1of 43

trêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n

khoa ng©n hµng – tµi chÝnh


---  ---

BµI TËP NHãM


TµI CHÝNH QuèC TÕ
Đề tài:
Phân tích những tác động của tình trạng đôla hóa ở
Việt Nam và các biện pháp khắc phục

Danh sách nhóm 5: 1. CQ501555 Cao Thị Hồng Linh


2. CQ501682 Đàm Phương Mai
3. CQ503430 Hồ Thị Quỳnh Nga
4. CQ503491 Nguyễn Thị Như Quỳnh
5. CQ502396 Hà Thị Thu Thảo
6. CQ502167 Dương Thế Quyết
7. CQ503940 Nhữ Thị Huyền Ngọc
8. CQ503331 Lê Thị Thanh Huyền

Hà Nội, ngày 15/11/2010

1
MỤC LỤC
3.2. Giai đoạn 2001 đến 2006...........................................................................17

2
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng
với sự phát triển không ngừng của quan hệ thương mại giữa các quốc gia
dẫn tới sự xâm nhập mạnh mẽ của các ngoại tệ mạnh vào một số nền kinh tế
dẫn tới hiện tương đô la hóa. Có thể nói đôla hóa là hiện tượng phổ biến ở
các nước đang phát triển đang trong quá trình chuyển đổi trong đó có Việt
Nam. Ở Việt Nam hiện nay đôla hóa đang là vấn đề nóng bỏng thu hút sự
quan tâm của các nàh nghiên cứu kinh tế đồng thời cũng là mối lo ngại của
các nhà hoạch định chính sách. Việc tìm ra những giải pháp hiệu quả nhằm
hạn chế những tác động tiêu cực của hiện tượng này lên nền kinh tế là một
nhiệm vụ cấp bách.Chính vì vậy đề tài “Phân tích những tác động của tình
trạng đôla hóa ở Việt Nam và các biện pháp khắc phục’’ đã được chọn.

3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÔLA HÓA
I. Tổng quan về đôla hóa
1. Khái niệm đôla hóa
Đôla hóa là hiện tượng xảy ra khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi để thay
thế một phần hoặc toàn bộ nội tệ để thực hiện một số chức năng của tiền.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại, tiền có ba chức năng: làm
phương tiện trao đổi, đơn vị đo lường và cất trữ giá trị. Đối với những nền
kinh tế bị đô la hóa ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong việc niêm yết giá
hàng hóa dịch vụ, trong thanh toán và trong cất trữ. Bất kỳ một ngoại tệ nào
(như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật…) đều có khả năng thay thế đồng nội tệ dẫn
đến hiện tượng đôla hóa, tuy nhiên trong một thời gian dài USD được nhìn
nhận là đồng tiền mạnh nhất thế giới, được sử dụng rộng rãi nhất trong các
quan hệ thương mại quốc tế nên trong bài đôla hóa là để chỉ sự thay thế nội
tệ của USD.
Mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của nội tệ thể hiện
dưới hai dạng:
Thứ nhất là sự thay thế tài sản: đó là việc công chúng nắm giữ trái
phiếu nước ngoài; tài khoản tiền gửi tiết kiệm tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài;
tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ trong nước với mục đích cất trữ giá trị
hạn chế tác động của việc đồng nội tệ mất giá khi làm phát xảy ra.
Thứ hai là sự thay thế tiền tệ: đó là việc người dân nắm giữ ngoại tệ
tiền mặt, tài khoản tiền gửi thanh toán bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng trong nước để thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Giá hàng
hóa, dịch vụ cũng được niêm yết bằng ngoại tệ và người dân sử dụng ngoại
tệ để thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ đó.

4
2. Phân loại đôla hóa

Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi USD trong nền kinh tế và thái độ của
quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận mà Đô la hóa được
chia làm 3 mức độ:

Đôla hóa chính thức là hiện tượng xảy ra khi một quốc gia sử dụng
ngoại tệ là tiền tệ chính thức, hoàn toàn thay thế nội tệ. Trong những nền
kinh tế đôla hóa chính thức nội tệ không còn tồn tại hoặc chỉ tồn tại dưới
dạng tiền xu với mệnh giá nhỏ và không có nhiều ý nghĩa trong việc thực
hiện các chức năng của tiền. Trong khi đó ngoại tệ là tiền tệ chính thức được
sử dụng với cả 3 chức năng: phương tiện thanh toán, đơn vị đo lường và cất
trữ giá trị. NHTW của những quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa không
có vai trò gì trong việc điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của
quốc gia phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách của Cục dự trữ liên bang Mỹ.
Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức chỉ chọn một ngoại
tệ làm tiền tệ chính thức. Do mọi người đều coi đồng tiền quốc gia là biểu
tượng chủ quyền dân tộc, mất đi đồng tiền có nghĩa là giao quyền điều hành
chính sách tiền tệ cho NHTW nước ngoài vì vậy hiện tượng đôla hóa chính
thức không phổ biến thường chỉ xảy ra ở những nước có nền kinh tế nhỏ.
Một nước chỉ từ bỏ đồng nội tệ chấp nhận ngoại tệ là tiền tệ chính thức khi
chính phủ nước đó không còn cách nào khác để đưa nền kinh tế thoát khỏi
khủng hoảng suy thoái và tình trạng mất ổn định kéo dài.

Đôla hóa không chính thức là hiện tượng xảy ra khi người dân một
nước nắm giữ số lượng lớn tài sản bằng ngoại tệ, tuy nhiên nội tệ vẫn là
đồng tiền chính thứ, hợp pháp của quốc gia đó. Trong những nền kinh tế bị
đôla hóa không chính thức, ngoại tệ được công chúng ưa chuộng nắm giữ
dưới dạng tài sản như: ngoại tệ tiền mặt, trái phiếu nước ngoài, tài khoản

5
tiền gửi ngoại tệ ở nước ngoài, tài khoản tiền gửi ngoại tệ trong nước. Các
nhà kinh tế nhìn chung đồng nhất đôla hóa không chính thức với thay thế tài
sản có nghĩa là ngoại tệ được nắm giữ chủ yếu với chức năng cất trữ giá trị
nhằm giảm tác động của việc đồng nội tệ mất giá trong điều kiện lạm phát.
Tuy nhiên tùy thuộc vào mức độ đôla hóa trong nền kinh tế và tùy thuộc vào
những quy định hạn chế trong hệ thông pháp luật của từng quốc gia về vấn
đề sử dụng ngoại tệ mà có những quốc gia ngoại tệ còn được sử dụng trong
cả thanh toán và niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Thông thường, trong các
quốc gia này, các khoản mục như lương, thuế, những hàng hóa dịch vụ bình
thường vẫn được thanh toán bằng nội tệ còn những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ
hay trong hoạt động kinh doanh bất động sản thì được niêm yết và thanh
toán bằng ngoại tệ. Việt Nam là một trong số các nước có nền kinh tế bị đôla
hóa không chính thức.

Đôla hóa bán chính thức là hiện tượng mà trong nền kinh tế có sự lưu
hành chính thức hai đồng tiền. Ở những quốc gia này ngoại tệ là đồng tiền
lưu hành hợp pháp và chiếm tỷ trọng lớn hơn trong tổng số tiền gửi ngân
hàng nhưng việc trả lương, nộp thuế và các chi tiêu hàng ngày vẫn đc thực
hiện bằng nội tệ. Các nước này vẫn duy trì NHTW để thực thi chính sách
tiền tệ của họ.

II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN ĐÔLA HÓA

1. Nguyên nhân chủ quan

Các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức thường là những
quốc gia có nền kinh tế nhỏ quy mô dân số cũng như diện tích nhỏ. Đối với
những nước này việc chấp nhận một ngoại tệ mạnh là tiền tệ chính thức góp
phần làm cho nền kinh tế ổn định hơn, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng ở mức
cao hơn và họ chấp nhận đánh đổi chủ quyền về tiền tệ để đạt được sự ổn

6
định này hoặc do sự yếu kém trong việc hoạch định thực thi chính sách tiền
tệ của NHTW và sự hoạt động kém hiệu quả của hệ thống NHTM trong
nước, NHTW không đủ năng lực để điều hành chính sách tiền tệ do đó chấp
nhận giao quyền điều hành cho NHTW nước ngoài. Panama là một ví dụ
điển hình về một nước đôla hóa hoàn toàn mặc dù về kinh tế do sử dụng
chính thức USD đã tạo ra môi trường kinh tế ổn định, trở thành trung tâm tài
chính quan trọng trong vùng, tương phản với các nước láng giềng, nhưng về
chính trị, Panama là nước dễ bị tổn thương trong quan hệ với Mỹ. Điển hình
là năm 1998, Mỹ đã buộc tội và bỏ tù nhà lãnh đạo của nước này, tướng
Manuel Noriega, đồng thời chính phủ Mỹ ra lệnh đóng băng tài sản của
Panama tại các ngân hàng Mỹ, ngừng tất cả việc chuyển nhượng, thanh toán
bằng USD.

2. Nguyên nhân khách quan.

Nguyên nhân thứ nhất là sự sụp đổ của hệ thống Bretton Wood

Sau khi hệ thống này sụp đổ rất nhiều nước gặp khó khăn trong việc tìm
kiếm một chế độ tỷ giá phù hợp, việc điều hành tỷ giá lại càng khó khăn hơn
khi thị trường vốn và thị trường thương mại tự do hội nhập. Một trong
những cách giải quyết tương đối hiệu quả vấn đề này là từ bỏ đồng tiền
chính thống của mình và chấp nhận một tiền tệ ổn định hơn của quốc gia
khác. Cũng trong giai đoạn này các nước kém phát triển không xuất khẩu
dầu mỏ gặp nhiều khó khăn một mặt do giá dầu tăng cao một mặt do kinh tế
các nước phát triển suy thoái nên xuất khẩu vào những nước này có xu
hướng giảm sút. Kết quả là các nước này chịu thâm hụt cán cân thanh toán
với khối lượng khổng lồ và để cân bằng chính phủ các nước tiến hành vay
nợ nước ngoài dẫn đến đôla hóa tài khoản nợ bươc đầu mở đường cho đôla
hóa.

7
Nguyên nhân thứ hai là do nhu cầu phòng chống rủi ro. Khi nền kinh
tế trong nước gặp phải những bất ổn trầm trọng như khủng hoảng tài chính,
lạm phát cao thậm chí siêu lạm phát trong khi lãi suất tiền gửi nội tệ lại
không mấy hấp dẫn so với lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Người dân sẽ tìm đến
các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Với
chức năng ban đầu làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ
cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay
làm thước đo giá trị.

Nguyên nhân thứ ba đô la hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới
hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ,
được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách
khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, được tự do chuyển đổi đã được lưu
hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai
trò tiền tệ thế giới. Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các
quốc gia khác cũng được quốc tế hóa như GBP, JYP, EUR..., nhưng vị thế
của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là
chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế
giới).

Trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại,
đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền
tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng
đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ.

Nguyên nhân thứ tư mức độ đôla hóa của mỗi nước khác nhau còn phụ
thuộc vào trình độ dân trí và tâm lý của người dân, trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng và cơ chế quản lý ngoại hối. Ở những quốc gia trình độ của

8
người dân về lĩnh vực tài chính tiền tệ còn hạn chế họ có tâm lý thích nắm
giữ ngoại tệ, thích sử dụng hàng ngoại sẽ tiếp tay cho sự thâm nhập ngoại tệ
ngày càng sâu vào nền kinh tế trong nước. Bên cạnh đó trình độ phát triển
của hệ thống ngân hàng trong nước càng thấp, cơ chế quản lý tỷ giá càng
lỏng lẻo thì mức độ đôla hóa nền kinh tế càng cao.

III. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA

Có rất nhiều quan điểm đánh giá về vấn đề tác động của đôla hóa lên
nền kinh tế. Có ý kiến cho rằng đôla hóa chỉ mang lại tác động tiêu cực do
đó phải đưa ra giải pháp nhằm xóa bỏ hoàn toàn hiện tượng này. Tuy nhiên
thực tế cho thấy bên cạnh những tác động tiêu cực đôla hóa cũng có những
tác động tích cực.

1. Tác động tích cực

Thứ nhất đối với các quốc gia có nền kinh tế đôla hóa hoàn toàn, ngoại
tệ mạnh được sử dụng thay thế toàn bộ nội tệ trong giao dịch cũng như trong
cất trữ, do đó đôla hóa chính thức góp phần làm giảm chi phí giao dịch như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng
tiền khác được xoá bỏ, các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không
cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi
phí kinh doanh. Ngoài ra đôla hóa chính thức còn loại bỏ hoàn toàn rủi ro
tiền tệ xảy ra trong giao dịch giữa các quốc gia cùng sử dụng USD từ đó
thúc đẩy quan hệ thương mại giữa các nước. Những nền kinh tế đôla hóa
chính thức thường ổn định hơn và có tỷ lệ lạm phát thấp hơn, chính sự ổn
định này của nền kinh tế đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn
vào trong nước từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế .

9
Thứ hai đô la hóa chính thức góp phần làm tăng kỷ luật ngân sách nhà
nước. Với những quốc gia có chính sách tiền tệ độc lập khi ngân sách nhà
nước bị thâm hụt, chính phủ có thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để bù đắp
thâm hụt. Ngược lại với những quốc gia bị đôla hóa hoàn toàn chính phủ
không thể yêu cầu NHTW phát hành tiền để tài trợ cho thâm hụt ngân sách
do đó để khác phục tình trạng thâm hụt chính phủ nước này phải tiết kiệm
chi tiêu đồng thời gia tăng nguồn thu ngân sách.

Thứ ba đô la hóa không chính thức góp phần giảm lạm phát. Đôla hóa
làm tăng cung ngoại tệ dẫn đến sự giảm giá ngoại tệ. Khi đó giá cả hàng hóa
nhập khẩu từ nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn đến mặt bằng giá cả trong nước
giảm xuống.

2. Tác động tiêu cực

Ngoài sự đánh mất chủ quyền về tiền tệ, vị trí độc tôn của đồng nội tệ
bị giảm sút khi ngoại tệ được sử dụng rộng rãi lấn át nội tệ thì đôla hóa còn
gây ra nhiều tác động tiêu cực lên những nền kinh tế bị đôla hóa. Chính vì lý
do này mà chính phủ và NHTW các nước luôn tìm cách hạn chế và đẩy lùi
tình trạng này.

Tác động tiêu cực đầu tiên có thể dễ dàng nhận thấy là việc mất đi thu
nhập từ thuế in tiền. Đó chính là thu nhập từ việc phát hành tiền được tính
bằng chênh lệch giữa chi in tiền, chi phí đưa tiền vào lưu thông so với giá trị
hàng hóa mà tiền mua được.

Thứ hai, những quốc gia có nền kinh tế đôla hóa chính thức không có
chính sách tiền tệ độc lập khi đó các quốc gia này không thể chủ động trong
việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đối với những nền kinh
tế không bị đôla hóa, NHTW có thể thông qua cơ chế điều hành tỷ giá tác

10
động lên xuất nhập khẩu để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Giả sử khi các yếu tố khác không đổi muốn kiềm chế lạm phát, NHTW có
thể hút nội tệ trong lưu thông làm cho nôi tệ lên giá so với ngoại tệ (tức làm
cho tỷ giá giảm) ngược lại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo công ăn việc
làm, NHTW có thể sử dụng chính sách nội tệ. Trong khi đó, những nước có
nền kinh tế đô la hóa chính thức không có quyền chủ động trong việc điều
hành chính sách tiền tệ, chính sách tiền tệ của họ phụ thuộc hoàn toàn vào
chính sách tiền tệ của NHTW nước ngoài.

Thứ ba, đô la hóa chính thức tước đi vai trò của NHTW, là người cho
vay cuối cùng của nền kinh tế. Ở những nền kinh tế không bị đô la hóa, khi
NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, NHTW sẽ cho vay tiền để giải quyết
vấn đề đó, tránh dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, nhưng ở những
nền kinh tế bị đôla hóa chính thức, NHTW chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Một
khi đã sử dụng hết dự trữ tiền tệ thì không thể phát hành thêm tiền để giúp
đỡ NHTM. Vì vậy, khả năng dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống NHTM trong
nước là hoàn toàn có thể xảy ra.

Thứ tư, đối với những nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức,
ngoại tệ được sử dụng rộng rãi trong thanh toán, cất trữ, do đó sẽ có một
lượng ngoại tệ lớn trôi nổi trên thị trường, nằm ngoài tầm kiểm soát của
NHTW. Vì vậy, việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán từ đó
đưa ra các quyết định về tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông sẽ kém
chính xác và kịp thời.

Thứ năm, cung cầu ngoại tệ thường xuyên biến động. Những thay đổi
về lãi suất trong nước từ nước ngoài có thể gây ra sự dịch chuyển lớn từ
đồng tiền này sang đồng tiền khác hay từ nơi này sang nơi khác. Khi lãi suất
có sự thay đổi theo hướng nắm giữ ngoại tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang

11
nội tệ đổi lấy ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng, ngược lại, khi nắm giữ nội
tệ có lợi hơn, người dân sẽ mang ngoại tệ đổi lấy nội tệ, dẫn tới cầu nội tệ
tăng. Điều này sẽ gây khó khăn cho NHTW trong việc điều hành chính sách
tiền tệ. Ngoài ra, đối với các NHTM có tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ cao, khi
có biến động, người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ đó đã
được ngân hàng cho vay, và NHTW cũng không thể hỗ trợ được do dự trữ
ngoại hối còn mỏng có thể gây ra những bất ổn trong hệ thống NHTM trong
nước.

12
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ ĐÔLA HÓA TẠI VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM.


Việt Nam là một trong những nền kinh tế bị đôla hóa không chính
thức. Đôla hóa của Việt nam bao gồm: đôla hóa thay thế tài sản, đôla hóa
phương tiện thanh toán, đôla hóa trong niêm yết giá hàng hóa dịch vụ. Tình
trạng đôla hóa ở Việt Nam được đánh giá là khá trầm trọng.
Một trong những công cụ đo lường mức độ đôla hóa là tỷ lệ tiến gửi bằng
ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán FCD/M2. Tuy nhiên tỷ lệ này vẫn
chưa phản ánh được một cách chính xác nhất về tình trạng đôla hóa của Việt
Nam do nó chỉ đo lường được lượng USD gửi trong các ngân hàng mà
không thể thấy được khối lượng lớn USD dân chúng nắm giữ.

Bảng 1: Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán
(FCD/M2)

Thờigian Tỷ lệ %
1989 28,2
1990 32,4
1991 41,2
1992 30,6
1993 22,9
1994 22,2
1995 21,0
1996 20,3
1997 23,6
1998 24,6

13
1999 26,1
2000 26,9
2001 31,7
2002 28,4
2003 23,6
2004 24,3
2005 23,0
2006 21,6
6/2007 20,2
(Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007)
Theo thống kê trên, tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam luôn ở mức trên 20%,
con số này cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Indonesia,
Malaysia, Thái lan… (chỉ khoảng từ 7-10%).

II. THỰC TRẠNG ĐÔLA HÓA Ở VIỆT NAM QUA CÁC GIAI
ĐOẠN
1. Giai đoạn trước khi mở cửa.

Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc
quyền về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh
tranh của hàng hoá, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ
thống ngân hàng còn sơ khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo
Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm
các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ,
mang theo người), mọi giao dịch trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc
chuyển đổi VND sang ngoại tệ được thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa
tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch) do Nhà nước công bố. Xuất

14
nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp định song biên - đa
biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại thường là đồng
Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng
chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của
khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá -
lương - tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng.
Trong dân cư xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử
dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên mức độ đôla hóa là không đáng
kể do độ mở của nền kinh tế còn rất nhỏ.

2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến khủng hoảng tài chính khu vực

Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đôla Mỹ trong
giao dịch buôn bán..., chỉ bắt đầu được chú ý đến từ cuối những năm 80 đầu
những năm 90, khi mà nền kinh tế nước ta phải đối mặt với lạm phát nặng
nề, tiền đồng trở nên mất giá so với USD dẫn đến tâm lý người dân chuyển
sang tích trữ USD hoặc vàng thay cho nội tệ.

Bảng 2: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam


Năm Lạm phát(%) Năm Lạm phát(%)
1986 774,7 2000 -0,6
1987 223,1 2001 0,8
1988 393,8 2002 1,5
1989 37,7 2003 3,0
1991 64,6 2004 7,71
1992 17,36 2005 8,29
1996 4,5 2006 7,48
1997 3,6 2007 8,3
1998 7,8 2008 22,97
1999 0,1 2009 6,88

15
(Nguồn: Tổng cục thống kê, Ngân hàng Nhà nước và IMF)

Mặt khác, do thấy được điểm yếu về giá trị của tiền đồng, nên người dân
chuyển sang gửi ngắn hạn nội tệ thay cho việc gửi dài hạn, điều này đã ảnh
hưởng lớn tới lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế đang trong giai đoạn kiến
thiết. Trước hoàn cảnh đó, Chính phủ đã ban hành luật đầu tư năm 1987
hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và
kỹ thuật vào Việt Nam, đồng thời cho phép các ngân hàng được nhận tiền
gửi bằng đồng đôla. Chính sách này đã làm tăng tỉ lệ đôla hóa của nền kinh
tế do đã tác động làm tăng nguồn đôla chảy vào trong nước thông qua các
kênh như FDI, viện trợ nước ngoài và lượng kiều hối Đến năm 1991, sau khi
Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và một số quốc gia
khác, cùng với những chính sách mở cửa của Nhà nước đã làm lượng USD
vào Việt Nam tăng mạnh. Bên cạnh đó, tỷ lệ lạm phát lên tới đỉnh điểm
67.5% và tỷ giá USD/VND tăng vọt (từ 5,133VND/USD lên
9,274VND/USD). Điều này khiến cho tình trạng đôla hoá tăng lên mạnh với
hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD.
Trước tình trạng trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo
ngược quá trình đôla hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh
mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996.
Mặt khác, thời gian này lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động
ít, việc nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ đôla hóa giảm mạnh, tỷ
lệ FCD/M2 năm 1997 ở mức 23,6%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn
chế việc thanh toán bằng ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ,
tăng cường các bàn đổi ngoại tệ. Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá
và thanh toán ngoại tệ trong dân cư vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và
các hoạt động kinh tế ngầm. Cũng phải nhìn nhận rằng, các hoạt động ngoại

16
hối trái phép tồn tại chủ yếu là do chưa được xử lý một cách kiên quyết. Cho
đến nay, vấn đề này vẫn là một tồn tại chưa được khắc phục.

3. Giai đoạn từ sau khủng hoảng tài chính khu vực đến nay

3.1. Giai đoạn 1998-2001

Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ
FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001
đã tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài,
kinh tế Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các
ngoại tệ khác. Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của
người dân, thu hút được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ
thống ngân hàng. Tâm lý đôla hóa trong giai đoạn này cũng một phần do tác
động của khủng hoảng tài chính khu vực và kỳ vọng của thị trường vào sự phá
giá của VND.

3.2. Giai đoạn 2001 đến 2006.

Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm, đến năm 2003 còn 23,6%. Thanh toán và
kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả khảo sát năm 2002,
hoạt động của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương
đương 1/3 kim ngạch nhập khẩu năm đó, số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường
tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đôla hóa trong niêm yết, định giá bằng ngoại tệ
còn phổ biến. Tuy nhiên đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất
tiền gửi VND không mấy hấp dẫn hơn lãi suất tiền gửi bằng USD khiến cho
người dân có tâm lý đổi VND lấy các đồng tiền khác có tính ổn định cao hơn
như USD, EUR để gửi vào NHTM khiến cho FCD/M2 tăng lên đến mức
24,3%. Với doanh số tiền gửi ngoại tệ không ngừng tăng lên, các NHTM

17
cũng phải tìm cách để cho vay số ngoại tệ này, tránh tồn đọng vốn. Đây
chính là hiện tượng đôla hóa nguồn vốn huy động và đôla hóa cơ cấu dư nợ
cho vay của hệ thống ngân hàng. Năm 2005 lãi suất cơ bản của Mỹ tiếp tục
tăng lên từ 3.75% lên đến 4.75%, theo hiệu ứng đó, các NHTM trong nước
đồng loạt tăng lãi suất tiền gửi USD, lãi suất tiền gửi VND cũng tăng nhưng
không đáng kể, trong khi lạm phát vẫn ở mức cao, từ đó thu hút lượng tiền
gửi ngoại tệ vào các NHTM. Năm 2006, đánh dấu sự tăng trưởng ngoạn mục
của đầu tư trực tiếp vào Việt Nam đạt mức 10.2 tỷ USD mang lại một nguồn
thu ngoại tệ lớn và làm cho tỷ lệ FCD/M2 vẫn duy trì ở mức trên 20%.

3.3. Giai đoạn năm 2007 đến nay

Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
Thương mại thế giới WTO và thực hiện cam kết quy chế Thương mại bình
thường vĩnh viễn với Hoa Kỳ (PNTR), đã tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất
khẩu và hạn chế các rào cản thương mại. Tuy nhiên, trong năm 2007, biến
động của nền kinh tế Mỹ cũng ảnh hưởng một phần đến nền kinh tế Việt
Nam đã khiến cho tỷ giá USD/VND trong nước bất ổn. Những tác động này
một lần nữa lại làm tăng tỷ lệ đôla hóa trong nền kinh tế.

Năm 2008 được xem là một năm đầy biến động đối với nền kinh tế VN
nói chung và vấn đề tỷ giá USD/VND nói riêng.

Giai đoạn đầu năm 2008, NHNN thông báo phát hành tín phiếu bằng
VND, và thực hiện dưới hình thức bắt buộc đối với các NHTM với tổng giá
trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn 364 ngày, lãi suất
7,8%/năm. Đồng thời NHNN cũng không thực hiện việc mua USD vào
nhằm hạn chế bơm tiền ra lưu thông.

18
Cùng thời điểm trên thị trường thế giới giá USD vẫn tiếp tục sụt giảm,
Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) vẫn tiếp tục cắt giảm lãi suất cơ bản. Người
dân không còn giữ USD như trước mà chuyển qua nắm giữ vàng hoặc VND
để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Hoạt động của giới đầu tư và đầu cơ
nước ngoài đã đưa vào Việt Nam một lượng ngoại tệ lớn. Số tiền này được
đổi ra VND để hưởng chênh lệch lãi suất thông qua gửi tiết kiệm hoặc đầu
tư vào trái phiếu chính phủ. Một lượng kiều hối cũng được chuyển về Việt
Nam nhằm hưởng chênh lệch lãi suất và chuyển cho người thân dịp Tết.
Những nguyên nhân trên đã khiến cho lượng USD đổ vào NHTM tăng lên
không ngừng, làm tăng tỷ lệ FCD/M2 một cách đáng kể.

Tuy nhiên, trong quý 2 năm 2008, khi mà tỷ giá USD/VND tăng mạnh
và việc các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam khi lo ngại
về tình hình kinh tế Việt Nam cũng như tình hình thanh khoản yếu trên thị
trường thế giới đã gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ cả trên thị trường
chính thức và thị trường tự do, tỷ lệ đôla hóa có xu hướng giảm nhiệt.

Sang đến quý 3 năm 2008, khi tỷ giá đi vào ổn định đồng thời NHNN
công bố tỷ lệ dự trữ USD, thực hiện kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại
tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các
NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm
nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị
trường thông qua các NHTM lớn đã khắc phục tình trạng khan hiếm USD,
ổn định thị trường ngoại hối, đồng thời ổn định tỷ lệ FCD/M2 quanh mức
20%.

Những tháng cuối năm 2008, tỷ lệ lạm phát tăng lên đạt mức xấp xỉ 20 %
khiến cho người dân có tâm lý lo ngại về sự mất giá của VND, từ đó tăng
việc nắm giữ USD trong dân. Thời gian này cũng là lúc nhu cầu sử dụng

19
ngoại tệ để thanh toán của các doanh nghiệp nhập khẩu tăng lên, cũng như
nguồn kiều hối đổ về nước nhiều hơn khiến cho tình trạng đôla hóa trầm
trọng trở lại. Mặt khác, các ngân hàng thương mại tăng lãi suất tiền gửi bằng
USD lên 7,2% cao hơn gần 2% so với mức lãi suất trái phiếu Chính phủ kì
hạn 1 năm của Mỹ là 5,25%. Chênh lệch quá lớn so với thị trường quốc tế đã
tạo ra tâm lý coi trọng đồng đôla, tiếp sức cho nạn đầu cơ ngoại tệ, làm tăng
mức độ đôla hóa nền kinh tế.

Sau cú sốc khủng hoảng tài chính năm 2008, kinh tế thế giới đang phục
hồi chậm chạp. Đồng đôla Mỹ ngày càng mất giá, song USD tỷ giá
USD/VND ngày càng cao, vượt mức 20.000 VND/USD. Người dân ngày
càng mất lòng tin vào VND và xu hướng sùng bái đồng đô la càng trở nên
trầm trọng hơn, tỷ lệ đô la hóa ngày càng cao, theo thống kê mới nhất của
ADB tỷ lệ đôla hóa của Việt Nam hiện nay ở mức 20%. Mặc dù Nhà nước
không cho phép, nói một cách khác là bất hợp pháp, nhưng giao dịch ngoại
tệ tại một số trung tâm của các thành phố lớn (như Hà Trung ở Hà Nội) đã
diễn ra khá sôi động, kể cả khi Ngân hàng Nhà nước tăng cường kiểm soát,
vì chừng nào tồn tại tỷ giá thị trường chợ đen cao hơn tỷ giá chính thức thì
người bán ngoại tệ vẫn lựa chọn tỷ giá cao; hơn nữa, hoạt động trao đổi
ngoại tệ trên thị trường chợ đen còn có ưu điểm về tiện ích cho người dân,
chỉ cần gọi điện thoại đến các cơ sở đổi tiền là có người mang đến tận nhà
một lượng tiền lớn.

III.BIỂU HIỆN ĐÔLA HÓA TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Thứ nhất, là đô la hóa trong quảng cáo, niêm yết, thông báo giá hàng
hóa, dịch vụ. Hiện nay tình trạng quảng cáo, niêm yết, thông báo giá cả hàng
hóa dịch vụ có giá trị lớn. Những nơi bị kiểm soát gắt gao, chủ hộ kinh

20
doanh lách bằng cách không ghi giá song vẫn chấp nhận thanh toán bằng
USD. Ở những nơi tập trung nhiều khách du lịch nước ngoài tới thăm quan
mua sắm, những người bán hàng dù không niêm yết giá bằng USD nhưng
khi khách ngoại quốc hỏi họ vẫn phải nói giá bằng USD. Công ty kinh
doanh máy tính và linh kiện máy tính cũng là một trong số những “đối
tượng” vi phạm quy định niêm yết giá nhiều nhất.
Thứ hai, là đôla hóa nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay trong các
NHTM. Mức độ đôla hóa này được đo lường bằng tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên
tổng tiền gửi và tỷ lệ tín dụng bằng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong hệ
thống NHTM. Từ năm 1988, khi NHTM cho phép các ngân hàng thương
mại được nhận tiền gửi bằng ngoại tệ, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi
tăng dần, đến năm 1992 đạt mức 41,2%. Tuy nhiên sau đó, tỷ lệ này giảm
xuống mức 20,3% năm 1996. Đầu năm 2000, đồng USD liên tục tăng giá so
với VND, đồng thời lãi suất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng rất cao,
giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm dẫn tới sự tăng lãi suất huy động USD của
các NHTM trong nước, điều này thúc đẩy tâm lý muốn nắm giữ USD của
người dân. Do đó tiền gửi bằng USD tăng lên đạt 31,7% năm 2001 trong khi
các khoản cho vay bằng USD lại giảm gây nên hiện tượng đôla hóa nguồn
vốn. Sau đó, tỷ lệ tiền gửi USD trên tổng tiền gửi giảm từ 31,7% năm 2001
xuống 22% năm 2005. Tỷ trọng tín dụng ngoại tệ trên tổng tín dụng trong
các NHTM tăng từ 20,7% năm 2000 lên 24,5% năm 2004 đạt gần 103 tỷ
(theo báo cáo IMF năm 2006). Mặc dù tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền
gửi có giảm xuống song số tuyệt đối vẫn liên tục tăng từ 4,85 tỷ USD năm
2000 lên 8.85 tỷ USD năm 2005. Hiện nay, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ có xu
hướng giảm và tỷ trọng tín dụng ngoại tệ lại có xu hướng tăng do nhu cầu
găm dữ USD của người dân và nhu cầu vay ngoại tệ cho các hoạt động
thanh toán của doanh nghiệp.

21
Thứ ba, hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ diễn ra một cách tự do và
công khai trên thị trường ngầm (thị trường phi chính thức, thị trường chợ
đen).
Trong thông tư số 33/NH-TT ngày 15/03/1989 về hướng dẫn thi hành
Điều lệ quản lý ngoại hối đã nêu rõ: “Việc lưu thông ngoại tệ trong nước chỉ
được thực hiện thông qua ngân hàng và các tổ chức kinh doanh, dịch vụ
được phép thu ngoại tệ. Nghiêm cấm việc mua bán, trao đổi ngoại tệ trên thị
trường ngầm”. Như vậy thị trường ngầm là thị trường diễn ra hoạt động trao
đổi, mua bán ngoại tệ không được pháp luật công nhận. Sở dĩ tồn tại của thị
trường ngầm làm tăng tình trạng đô la hóa ở Việt Nam là do: NHNN luôn
khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho NHTM đồng thời pháp luật Việt
Nam có một số quy định hạn chế đối với đối tượng được mua ngoại tệ tại
các NHTM nhằm hạn chế việc sử dụng rộng rãi việc sử dụng ngoại tệ trên
lãnh thổ Việt Nam nhưng do tỷ giá các NHTM luôn thấp hơn tỷ giá trên thị
trường ngầm nên để có lợi người dân đem ngoại tệ bán trên thị trường ngầm,
bên cạnh đó những đối tượng không đáp ứng được yêu cầu của các NHTM
thì cũng thực hiện việc mua USD trên thị trường ngầm. Ở Việt Nam, thị
trường ngầm tồn tại dưới các hình thức sau: các cửa hàng kinh doanh vàng
bạc đá quý đồng thời kinh doanh mua bán ngoại tệ tiền mặt; chuyển tiền
kiều hối chuyển tiền qua biên giới không thông qua hệ thống ngân hàng dưới
nhiều hình thức khác nhau; các sạp đổi tiền dọc biên giới nơi các hoạt động
buôn lậu; các hoạt động mua bán khác trong dân cư. Phương thức giao dịch
mua bán chủ yếu trên thị trường ngầm là phương thức trao tay. Đồng tiền
giao dịch chủ yếu là USD, ngoài ra còn một số ngoại tệ khác nhưng khối
lượng giao dịch rất nhỏ bé. Sự tồn tại của thị trường ngầm ở các quốc gia là
điều thường thấy vì trên thực tế không có sự ăn khớp hoàn toàn giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá tự do, tuy nhiên ở Việt Nam thị trường ngầm không

22
những tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ do sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ
giá chính thức và tỷ giá chợ đen. Sở dĩ có sự chênh lệch này là do trong thời
gian qua tỷ giá vẫn được xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN,
chưa phải là tỷ giá phản ánh cung cầu trên thị trường. Hiện nay, các NHTM
được phép xác định tỷ giá mua bán đối với USD không được vượt quá biên
độ giao dịch cho phép so với tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường liên
ngân hàng của ngày giao dịch trước đó. Thời gian gần đây, do có nhiều biến
động trên thị trường ngoại hối, NHNN đã thực hiện 2 lần điều chỉnh nhẹ
biên độ năm 2007, 3 lần điều chỉnh trong năm 2008 và 2 lần vào năm 2009.
Cụ thể, ngày 3/1/2007 biên độ là 0.5%, đến cuối năm 2007 là 0.75%. Ngày
10/3/2008, biên độ tăng thêm 0.25% lên mức 1%, ngày 27/6/2008 biên độ là
2% và tăng lên 3% vào ngày 7/11/2008. Ngày 24/3/2009, biên độ được
NHNN quy định là 5%, sau đó giảm xuống 3% vào ngày 26/11/2009 và giữ
nguyên cho tới nay. Việc mở rộng biên độ này là cần thiết để kéo tỷ giá trên
thị trường chính thức gần với thị trường tự do hơn. Ngoài ra chừng nào các
hoạt động kinh tế ngầm còn phát triển, thì chừng đó nhu cầu ngoại tệ và các
giao dịch về ngoại tệ trên thị trường ngầm còn tồn tại và phát triển.

IV. CÁC NGUỒN CUNG USD CỦA VIỆT NAM

1. Nguồn kiều hối


Kiều hối (không kể lượng kiều hối chuyển lậu, ngoại tệ của người Việt
Nam nhập cảnh không khai báo…) chuyển về Việt Nam nhìn chung mỗi
năm một tăng, với mức tăng bình quân 10% mỗi năm, với số liệu cụ thể ở
bảng 2. Các khoản kiều hối sau khi đi qua hệ thống ngân hàng nếu không
được khuyến khích chuyển thành nội tệ sẽ phát tán trong dân cư dưới hình
thức ngoại tệ và làm tăng khả năng đôla hóa nền kinh tế.

23
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta, với giá trị kiều hối khoảng 4,5 tỷ
USD/năm, thì kiều hối là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, có tác động tích cực
trong việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá, là nguồn
ngoại tệ quan trọng cung ứng cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa. Tuy nhiên,
bên cạnh luồng kiều hối vào Việt Nam theo con đường chính thức, thì một
bộ phận lớn kiều hối chảy vào Việt Nam theo con đường không chính thức,
gọi là “kiều hối lậu”. Kiều hối lậu chuyển vào Việt Nam chủ yếu bằng tiền
mặt USD do Việt kiều thu gom ở nước ngoài chuyển về nước và được trao
tận tay cho người nhận. Cơ chế quản lý ngọai hối hiện hành ở Việt Nam
không cấm đưa kiều hối vào Việt Nam dười bất kỳ hình thức nào, miễn là
khi nhập cảnh có khai báo đủ với cơ quan hải quan theo quy định. Trên thực
tế người nhận “kiều hối lậu” rất ít khi gửi, bán ngoại tệ cho ngân hàng mà
chủ yếu là nắm giữ ngoại tệ tiền mặt hoặc bán trên thị trường ngầm. Bên
cạnh đó, đối với nguồn kiều hối chính thức, cơ chế quản lý ngoại hối cho
phép việc chi trả bằng ngoại tệ tiền mặt cho người thụ hưởng trong nước
cũng là nguyên nhân tạo nên lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường ngầm.

Bảng 3: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây

24
(Nguồn: BVSC)

2. Khách du lịch đến Việt Nam


Số lượng khách quốc tế đến Việt Nam ngày càng tăng. Khách du lịch
nước ngoài mang theo ngoại tệ và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt rất lớn tại
các cơ sở kinh doanh tư nhân. Khách du lịch cũng có hoạt động đổi tiền tại
các quầy đổi tiền nhưng thông thường chi tiêu đến đâu họ đổi tiền đến đó và
khi việc đổi tiền không mấy thuận lợi do địa bàn, đường xá, họ thỏa thuận
với người bán hàng để thanh toán bằng đôla Mỹ.

Bảng 4 : Số lượng khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam

25
Năm 2000 01 02 03 04 05 06 07 08 09
Số
lượng 2.1 2.3 2.6 2.4 2.9 3.4 3.6 4.2 4.3 3.8
(tr lượt
người)

Nguồn: Tổng cục thống kê

3. Vốn đầu tư nước ngoài


3.1. Vốn đầu tư trực tiếp
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI ngày càng tăng cung cấp một
lượng ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Năm 2006 được coi là mở đầu cho một
thời kì mới, vị thế của nước ta trên thế giới tiếp tục được nâng cao sau khi
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO, bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu
tư, kinh doanh tạo trường pháp lý bình đẳng thông thoáng và minh bạch cho
các nhà đầu tư trong và ngoài nước: Luật đầu tư và luật doanh nghiệp cùng
với luật đấu thầu, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ và một số luật khác
được ban hành và có hiệu lực trong năm 2006 đã đánh dấu bước tiến quan
trọng trong việc thể chế hóa kinh tế thị trường và đường lối mở cửa hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta. Chính những yếu tố trên, đã tạo niềm tin cho các
nhà đầu tư nước ngoài từ đó góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào nước ta.

Bảng 5 : Biểu đồ Vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam 2006-2009

26
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)

3.2. Vốn đầu tư gián tiếp


Nguồn vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp FII, cũng là một nguồn cung
ngoại tệ quan trọng. Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư thông
qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng
khoán và thông qua các định chế trung gian tài chính khác mà nhà đầu tư
không trực tiếp tham gia hoạt động quản lý đầu tư. Làn song FII đầu tiên vào
Việt Nam xuất hiện khi một số quỹ đầu tư từ nước ngoài như Vietnam
Lazard Fund, Templeton Vietnam và Beta Fund được thành lập ở thị trường
Việt Nam với số vốn huy động khoảng 700 triệu USD. Tuy nhiên, sau cuộc
khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997, phần lớn các quỹ đầu tư đã rút khỏi
thị trường VIệt Nam, chỉ còn duy nhất Vietnam Enterprise Investment Fund
(VEIL) do công ty Dragon capital (của Anh) quản lý. Làn số FII thứ hai
được khởi động lại từ năm 2002 khi nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy cơ hội
kinh doanh lớn từ quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước của Việt

27
Nam. Hiện nay, cùng với việc thành lập các quỹ vào Việt Nam, số nhà đầu
tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán Việt Nam đang tăng
nhanh, đặc biệt trong thời gian gần đây, khi thị trường chứng khoán Việt
Nam đang trên đà tăng trưởng mạnh mẽ.
4. Vay nợ nước ngoài
Vay nợ nước ngoài cũng là một kênh dẫn nguồn ngoại tệ vào nước ta.
Vay nợ nước ngoài là khoản vay ngắn, trung hoặc dài hạn (có hoặc không
trả lãi) do Nhà nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là
pháp nhân Việt Nam (kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của
tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của
tổ chức và cá nhân nước ngoài khác. Các khoản vay nợ bao gồm: Vay ODA,
tín dụng thương mại của chính phủ và doanh nghiệp từ các tổ chức tài chính
quốc tế, chính phủ các nước, các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài,
phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế của chính phủ và doanh
nghiệp Việt Nam trong đó chủ yếu là ODA.
Bảng 6: ODA của Việt Nam
Năm Cam kết Thực hiện % thực hiện
2006 3.75 1.85 49.41%
2007 4.50 1.82 40.44%
2008 5.43 2.20 40.55%
2009 5.85 3.00 51.28%
Nguồn: Tổng cục thống kê

5. Nguồn thu từ xuất khẩu


Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh trong thời gian gần đây,
cũng góp phần là nguồn cung đôla lớn cho nền kinh tế.
Bảng 7: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

28
Kim ngạch xuất khẩu

70

60
50
40
30

20
10
0
2000 2002 2004 2006 2008 2010

Kim ngạch xuất khẩu

Nguồn: Tổng cục thống kê

6. Các kênh ngoại tệ khác


Các kênh ngoại tệ khác như tiền lương và thu nhập của người Việt Nam
được trả bằng ngoại tệ, lượng ngoại tệ do người nước ngoài đến Việt Nam

29
làm việc , sinh sống và học tập mang theo, ngoại tệ từ hoạt động buôn lậu và
các hoạt động kinh tế ngầm khác…

V. TÁC ĐỘNG CỦA TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA TẠI VIỆT NAM

Đô la hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở ,có
quy mô nhỏ và có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối
với quốc gia cung cấp đồng tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là
ứng cử viên được lợi từ đô la hóa do khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có,
cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về vốn và lao động. Ngoài ra ngoại tệ
được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam là đô la Mỹ nhưng Việt Nam lại có quan
hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù buôn bán
với Mỹ đang tăng nhanh nhưng buôn bán với các nước khác như Nhật Bản
Trung Quốc châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng lớn. Khi tỷ giá USD/VND và
tỷ giá của USD với các đồng tiền khác đang biến động ngược chiều như hiện
nay sẽ ảnh hưởng lớn đến thương mại của Việt Nam.

Tình trạng đô la hóa kéo dài và ở mức cao như việt Nam hiện nay đã gây
nhiều tác động tiêu cực lên nền kinh tế:
Thứ nhất, xu hướng tăng giá một chiều của tỷ giá ngày càng rõ rệt. Tính
đến ngày 30/9 /2010 VND đã mất giá khoảng 10,2% tỷ giá USD/VND đã có
lúc lên đến 21000. Theo lý thuyết khi nội tệ giảm giá sẽ kích thích xuất khẩu
tăng và nhập khẩu giảm, nhưng trong điều kiện thực tế của Việt Nam nhập
khẩu giảm không đáng kể do năng lực sản xuất và quản lý của các doanh
nghiệp trong nước vãn còn yếu kém, trong khi chúng ta xuất khẩu những sản

30
phẩm thô hoặc sản phẩm thuộc những ngành hàng cần nhiều sức lao động do
đó doanh thu từ xuất khẩu không lớn. Bên cạnh đó khi USD tăng giá làm
cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng từ đó dẫn tới sự tăng giá chung đối với các
hàng hóa trong nước, gây áp lực lạm phát.
Thứ hai, nguồn ngoại tệ chảy vào Việt Nam dồi dào nhưng cung ngoại tệ
tăng lên không đáng kể. Thay vì bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, các
cá nhân tổ chức có nguồn thu từ ngoại tệ như doanh nghiệp xuất khẩu,
những người nhận kiều hối từ nước ngoài…lại nắm giữ ngoại tệ tiền mặt
hoặc gửi tiết kiệm tại các NHTM.Khi đó các NHTM khó mua được ngoại tệ
để đáp ứng nhu cầu thanh toán và NHNN cũng khó tăng dự trữ ngoại hối.

Bảng 8: Tổng dự trữ quốc tế của Việt Nam

31
Bảng 9: Tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm 2010

32
(Nguồn BVSC ước tính)

Thứ ba, tình trạng đôla hóa càng phát triển càng tạo điều kiện và kích
thích thị trường chợ đen phát triển, từ đó gây khó khăn và giảm hiệu lực khi
điều hành chính sách tỷ giá. Đô la hóa tạo nên tình trạng hai tỷ giá, một tỷ
giá trên thị trường chính thức và một tỷ giá trên thị trường chợ đen.

Bảng 10: Tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen của VND/USD

33
Tỷ giá trên thị trường chợ đen thường cao hơn so với tỷ giá trên thị trường
chính thức, thường biến động rất nhanh, thậm chí đã tạo ra cơn sốt đô la, gây
thiệt hại cho một bộ phận người dân, tác động xấu đến lòng tin của người
dân đối với VND. Bên cạnh đó, hoạt động của thị trường chợ đen còn tiếp
tay cho những hoạt động kinh doanh bất hợp pháp như buôn lậu, tham
nhũng, rửa tiền….
Thứ tư, hệ thống ngân hàng bị đô la hóa gây nguy cơ khủng hoảng tài
chính. Mặc dù tiền gửi bằng ngoại tệ có tác động tích cực đến độ sâu tài
chính song tiền gửi bằng ngoại tệ thường có thời hạn tương đối ngắn, trong
khi các khoản cho vay bằng ngoại tệ lại thường có thời hạn dài. Sự mất cân

34
đối về kỳ hạn này dẫn đến nguy cơ thanh khoản bằng ngoại tệ cao, trong khi
đó khả năng của NHNN trong việc điều tiết nguy cơ thanh khoản bằng ngoại
tệ của hệ thống ngân hàng khi NHTM phải nhờ đến NHNN trên cương vị là
người cho vay cuối cùng còn hạn chế. Mở rộng tín dụng bằng ngoại tệ giúp
ngân hàng tránh được chênh lệch tiền tệ giữa tài sản nợ và có, nhưng lại gia
tăng rủi ro tín dụng, vì rủi ro tỷ giá được chuyển sang người đi vay cuối
cùng, nhất là những doanh nghiệp không có nguồn thu bằng ngoại tệ. Trong
khi đó các công cụ phòng ngừa rủi ro bằng ngoại hối trên thị trường Việt
Nam vẫn chưa phát triển, hơn nữa việc cho vay ngoại tệ trong nước còn thúc
đẩy tiến trình đô la hóa bằng cách tính lãi bằng ngoại tệ đối với những khoản
vay này, tạo thêm cầu ngoại tệ, phá hoại sự ổn định của nội tệ.
Thứ năm, đô la hóa nguồn vốn huy động khiến các NHTM trong nước bị
động về lãi suất. Lãi suất ngoại tệ trong nước và quốc tế ở đâu cao hơn, dòng
tiền gửi ngoại tệ sẽ chảy đến đó. Nếu nhận thấy lãi suất tiền gửi trên thị
trường quốc tế cao hơn, người gửi tiền sẽ rút tiền gửi ngoại tệ của mình ở
ngân hàng trong nước để gửi ở ngân hàng nước ngoài. Trong trường hợp
này, các ngân hàng trong nước có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán. Để giữ được người gửi tiền, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất bằng
ngoại tệ lên theo lãi suất quốc tế. Bên cạnh đó, những khách hàng đang gửi
tiền bằng nội tệ khi nhận thấy lãi suất tiền gửi ngoại tệ đem lại lợi nhuận cao
hơn, họ sẽ chuyển khoản tiền gửi của mình sang ngoại tệ. Vì vậy, cầu nội tệ
trở nên bất ổn do nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất quốc tế. Lãi suất huy
động nội tệ tăng lên, để đảm bảo lợi nhuận, các ngân hàng cũng phải tăng lãi
suất cho vay nội tệ, từ đó làm gia tăng chi phí vốn cho các doanh nghiệp,
dẫn đến sự gia tăng của giá cả hàng hóa trong nước, từ đó gây áp lực lên lạm
phát.

35
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ TÌNH TRẠNG ĐÔ
LA HÓA Ở VIỆT NAM

Nhận thấy được những tác động tiêu cực của tình trạng đôla hóa lên nền
kinh tế Việt Nam thời gian qua Chính phủ đã có một số biện pháp nhằm hạn
chế tình trạng này như: nghiêm cấm việc thanh toán, niêm yết giá hàng hóa
dịch vụ bằng ngoại tệ, phát hành trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ, từng
bước tự do hóa đối với giao dịch vàng lai và giao dịch vốn, hạn chế cho vay
ngoại tệ đối với các doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ…tuy nhiên những
biện pháp này chủ yếu là những biện pháp hành chính mang tính tạm thời
không đạt hiệu quả cao, tình trạng đôla hóa ở Việt Nam vẫn ngày càng trầm
trọng.

Để góp phần giải quyết tình trạng đôla hóa ở Việt Nam hiện nay nhóm
xin được đề xuất một số giải pháp cơ bản
1. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VND
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng đôla hóa trầm trọng như hiện
nay ở Việt Nam là việc mất lòng tin của công chúng vào VND đồng thời quá
sùng bái, tin tưởng USD. Vì vậy biện pháp quan trọng nhất có thể giải quyết
tận gốc tình trạng đôla hóa ở Việt Nam chính là củng cố lòng tin của người
dân vào sự ổn đinh của VND, nâng cao tính chuyển đổi của VND thông qua
ổn định nền kinh tế vĩ mô. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc kiểm soát lạm
phát và ổn định tỷ giá.
Để có thể kiềm chế lạm phát trước tiên đòi hỏi phải có sự phối hợp
đồng bộ, hài hòa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. NHTW phải
sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như: lãi suất tái chiết khấu,

36
nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc…tác động một cách có hiệu quả
vào thị trường tiền tệ nhằm ổn định giá trị của VND.
Lạm phát ở Việt Nam hiện nay được đánh giá là lạm phát do chi phí
đẩy và do cầu kéo. Đối với lạm phát do chiphis đẩy chính phủ có thể kiềm
chế bằng cách giảm thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng nhập khẩu cần
thiết cho quá trình sản xuất và cho tiêu dùng của người dân. Đối với lạm
phát do cầu kéo NHNN cần điều hành chính sách tiền tệ một cách thận trọng
kiểm soát chặt chẽ mức gia tăng tín dụng, hạn chế bơm tiền vào nền kinh tế.
Về vấn đề tỷ giá: NHNN cần điều hành chính sách tỷ giá theo cơ chế
linh hoạt và ổn định. Chế độ tỷ giá ở Việt Nam hiện nay được gọi là chế độ
tỷ giá thả nổi có điều tiết tuy nhiên có chế điều hành thật sự là cơ chế neo
giữ tỷ giá. NHNN công bố tỷ giá dao dịch bình quân liên ngân hàng đồng
thời quy định biên độ dao động đối với tỷ giá mua và bán của các ngân hàng
thương mại. Cơ chế này tạo ra sự ổn định của tỷ giá trong một thời gian
nhưng nó không phản ánh chính xác quan hệ giữa cung cầu ngoại tệ, làm
tăng chênh lệch giữa tỷ giá của các NHTM và tỷ giá trên thị trường tự do
góp phần làm tăng tình trạng đôla hóa.
Vì vậy trong dài hạn để hạn chế tình trạng đôla hóa NHNN cần phải
áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết thật sự, tỷ giá phải phản ánh chính
xác quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Việc làm này cần thực hiện
dần từng bước để các chủ thể trong nền kinh tế có thể thích ứng thích ứng
Bước đầu nên nới lỏng biên độ dao động dần tiến tới xóa bỏ biên độ dao
động và NHTM không trực tiếp ấn định tỷ giá. Bên cạnh đó các công cụ của
chính sách tỷ giá như: mua bán trực tiếp nội tệ trên thị trường ngoại hối, quy
đinh lãi suất tái chiết khấu…vẫn phải được NHTW sử dụng để có những tác
động kịp thời, hiệu quả trong trường hợp tỷ giá biên đổi theo chiều hướng
tổn hại đến sự phát triển của nền kinh tế.

37
Đồng thời tỷ giá ngang giá nên gắn với một rổ tền tệ bao gồm một số
ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và 1 số đồng tiền của các nước trong
khu vực như CNY….Các đồng tiền này tham gia vào rổ tiền tệ theo tỷ trọng
quan hệ thương mại và đầu tư vói Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như vậy sẽ
giảm bớt sự lệ thuộc của VND vào USD.
2. Xóa bỏ hoàn toàn hoạt động nhận tiền gửi bằng ngoại tệ và tín
dụng ngoại tệ ở các NHTM
Ở Việt Nam, lượng tiền bằng ngoại tệ được gửi vào các NHTM nhiều,
nhưng thực tế lượng ngoại tệ cho vay lại rất hạn chế (chỉ những doanh
nghiệp có hoạt động thu chi bằng ngoại tệ và một số ít người dân có đủ điều
kiện theo quy định mới được vay), từ đó dẫn đến tình trạng đô la hóa nguồn
vốn huy động ở Việt Nam, và nằm ở mức cao. Các NHTM sau đó cũng phải
đem gửi ngoại tệ ở nước ngoài để tạo ra sự cân bằng giữa nguồn vốn huy
động và nguồn cho vay.
Mặt khác, những đối tượng tham gia và hoạt động gửi tiền bằng ngoại
tệ vào NHTM không chỉ là những người có mục đích chính đáng như Việt
kiều gửi tiền về nước, các doanh nghiệp có doanh thu trực tiếp từ ngoại tệ,
mà còn có những đối tượng buôn lậu, tham nhũng từ các dự án đầu tư nước
ngoài, những người có được ngoại tệ từ việc bán nội tệ trên thị trường chợ
đen… Như thế, chính những hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm bằng
ngoại tệ, vô hình chung đã tiếp tay cho thị trường chợ đen phát triển.
Biện pháp xóa bỏ hoạt động huy động vốn bằng ngoại tệ của các
NHTM sẽ nâng cao tính minh bạch của thị trường ngoại hối trong nước,
khiến cho những người có ngoại tệ phải bán ngoại tệ cho ngân hàng thay vì
đem gửi như trước đây. Điều này có thể thực hiện bằng cách đưa ra các mức
tỷ giá hấp dẫn dành riêng cho nguồn kiều hối, đồng thời phát triển các dịch
vụ ngân hàng hiện đại, trong đó có dịch vụ chuyển tiền kiều hối có quy đổi

38
ngay ra VND theo tỷ giá hiện tại thông qua hệ thống ATM. Trên thực tế,
dịch vụ này đã được một số NHTM trong nước triển khai song người dân
vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận và sử dụng.
3. Quản lý chặt các kênh dẫn ngoại tệ vào trong nước: đầu tư nước
ngoài, kiều hối, vay nợ nước ngoài.
Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng đô la hóa là do nguồn
ngoại tệ dồi dào chảy vào nước ta hàng năm. Sẽ là không khả thi nếu hạn
chế lượng ngoại tệ chảy vào trong nước bởi đó là nguồn đóng góp quan
trọng vào sự tăng trưởng kinh tế. Do vậy nên thay vì hạn chế, cần phải có
những biện pháp nâng cao hiệu quả của luồng vốn này, như quản lý chặt chẽ
dòng lưu chuyển và sử dụng vốn, tăng cường hoàn thiện môi trường kinh
doanh, hệ thống pháp luật, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để thu hút các
luồng ngoại tệ đổ vào với hiệu quả đạt được là cao nhất.
Đối với nguồn kiều hối, chúng ta có thể khuyến khích người dân bán
thằng ngoại tệ cho tổ chức tín dụng, triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện
đại, đáp ứng được nhu cầu giao dịch nhanh chóng, thuận tiện.
Đối với nguồn vốn ODA, cần phải có những chính sách quản lý chặt
chẽ, sử dụng hợp lý, có hiệu quả, tránh tình trạng vốn đã được giải ngân mà
dự án triển khai chậm, kém hiệu quả, ngoại tệ rơi vào tay một số người, tổ
chức tiếp tay cho nạn tham nhũng.
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, cho phép nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư bằng VND, đồng thời quy định đầu tư gián tiếp phải mở tài khoản
giao dịch chứng khoán bằng VND; cần xây dựng môi trường pháp lý ngày
càng hoàn thiện, đồng bộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn
vào Việt Nam, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

39
4. Sử dụng đồng tiền chung khu vực
Đồng tiền chung châu Á là vấn đề đã được đề cập khá nhiều trong các
hội nghị quốc tế và khu vực kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998.
Ý tưởng về việc hình thành đồng tiền chung châu Á là rất tích cực trong xu
thế liên kết khu vực, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã họi tăng khả
năng cạnh tranh, mặt khác sẽ giúp các quốc gia châu Á hạn chế sự lệ thuộc
quá nhiều vào USD và tránh được những biến động trên thị trường tiền tệ
quốc tế. Tuy nhiên con đường dẫn đến đồng tiền chung cho khu vực châu Á
còn nhiều chông gai đặc biệt là sự khác biệt khá lớn giữa các thành viên
trong khu vực đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác giúp đỡ giữa các quốc gia.
5. Phát triển các công cụ phái sinh trên thị trường ngoại hối
Để các tổ chức tín dụng và khách hàng tiếp cận và thích nghi hơn với
cơ chế tỷ giá linh hoạt và phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong kinh doanh ngoại tệ;
thì chúng ta phải phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các
bên tham gia thị trường tự bảo vệ mình trước các rủi ro về tỷ giá thay vì nắm
giữ ngoại tệ. Tạo điều kiện cho mọi tổ chức, cá nhân được tham gia thị
trường ngoại tệ một cách công khai, dễ dàng nhằm thực hiện mục tiêu là
dịch vụ hoá cao độ các nghiệp vụ hối đoái, bình thường hoá vai trò và ảnh
hưởng của ngoại tệ.
Tại Việt Nam cũng đã có NHTM thí điểm cung cấp sản phẩm tài chính phái
sinh như hợp đồng quyền chọn, giao dịch hoán đổi….Tuy nhiên việc cung
cấp các sản phẩm này vẫn còn hạn chế về quy mô và loại hình sản phẩm. Vì
vậy cần nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ ngân hàng, khả
năng tài chính, trình độ công nghệ.
Bên cạnh đó chúng ta vẫn chưa có một khung pháp lý phù hợp điều chỉnh
hoạt động cung cấp sản phẩm tài chính phái sinh của cá ngân hàng thương
mại. Như vậy trong thời gian tới NHNN cùng các cơ quan chuyên môn cần

40
nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng, ban hành hệ thống cá văn bản pháp luật
hoàn chỉnh điều chỉnh hoạt động kinh doanh sản phẩm tài chính phái sinh
của các NHTM tạo điều kiện các NHTM được cung cấp và khách hàng được
sử dụng công cụ phái sinh này.
6. Tăng quy mô và quản lý tốt dự trữ ngoại hối quốc gia
Dự trữ ngoại hối trong thời gian vừa qua đã giảm mạnh hiện nay dự trữ
ngoại hối của Việt Nam đạt khoảng 8 tuần nhập khẩu trong khi mức cần
thiết là 12 tuần. Dẫn đến không chỉ lòng tin ở trong nước mà cả uy tín vay
nợ nước ngoài của chính phủ cũng giảm sút. Trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế, nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu cao (Việt Nam lại là một nước
nhập siêu…) và yêu cầu thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngày càng lớn
vì vậy tăng dự trữ ngoại hối là cần thiết. Dự trữ ngoại hối có đủ mạnh thì
NHNN mới có thể can thiệp kịp thời và hiệu quả vào thị trường ngoại hối.
Giải pháp quan trọng nhằm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng đồng thời
cũng hạn chế tình trạng đô la hóa là: Khuyến khích người dân bán ngoại tệ
cho NHTM, sau đó NHNN mua lại ngoại tệ từ các NHTM này để tăng dự
trữ ngoại hối quốc gia.
• Thu hút tiền gửi vào Ngân hàng, tăng cường giám sát chặt chẽ và
ngăn chặn việc mua bán ngoại tệ quá dễ dàng ở các cửa hàng tư nhân vừa
tạo nguồn USD cho phát triển kinh tế, quản lý được khối lượng USD, hạn
chế các giao dịch bằng USD không được phép.
• Nền kinh tế Việt Nam hằng năm thu hút một lượng lớn vốn đầu tư
nước ngoài, nếu lượng vốn này không được hấp thụ hết sẽ làm USD hóa
trầm trong hơn, vì vậy việc mua vào đôla của Nhà nước là cần thiết.
Tuy nhiên một vấn đề nảy sinh ở đây là mua ngoại tệ từ các NHTM cũng
có nghĩa là bán ra nội tệ. Hoạt động bán ra nội tệ làm tăng cung tiền trong
lưu thông từ đó có thể gây lạm phát. Vì vậy, khi tiến hành mua ngoại tệ từ

41
các NHTM, NHNN cần kết hợp với công cụ nghiệp vụ thị trường mở: bán ra
chứng khoán để thu hút bớt lượng nội tệ vào.
Bên cạnh đó cũng cần phải quản lý tốt dự trữ ngoại hối: Ngoại tệ khi đưa
vào can thiệp phải có hiệu quả, xác định mức dự trữ ngoại hối phù hợp đa
dạng hóa cơ cấu dự trữ ngoại hối, lựa chọn các đồng tiền mạnh trên thế giới
và được Việt Nam sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế làm dự trữ ngoại
hối, giảm sự phụ thuộc vào USD. Đồng thời phải công khai minh bạch số
kiệu dự trữ ngoại hối nhằm nâng cao tính minh bạch trong quản lý dự trữ
ngoại hối, tạo lập niêm tin cho dân chúng vào việc ổn định tỷ giá và tăng
cường thu hút đầu tư nước ngoài.
7. Các giải pháp khác
Bên cạnh những giải pháp cơ bản trên cần chú ý kết hợp thêm những
biện pháp như:
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, tăng cường nhận thức của
người dân về vấn đề này.
Hoàn thiện hệ thống NHTM đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền
mặt.
Tăng cường chống buôn lậu và tham nhũng.
Tăng cường công tác kiểm tra xử lý các vi phạm về quản lý ngoại hối.

42
KẾT LUẬN

Theo những phân tích đã trình bày ở trên, có thể thấy được thực trạng
đôla hóa trầm trọng trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như những
tác động tiêu cực mà nó mang lại trong mọi mặt đời sống. Tuy nhiên cũng
không thể phủ nhận những tác động tích cực của đôla hóa đến nền kinh tế
của các quốc gia khác, mà qua đó Việt Nam cần học tập.
Trong bối cảnh gia nhập WTO và mở rộng quan hệ về mọi mặt với
các quốc gia khác trên thế giới, việc sử dụng USD trong các hoạt động kinh
tế là một vấn đề tất yếu của Việt Nam. Tuy nhiên không nên quá lệ thuộc và
sùng bái USD, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà nền kinh tế Mỹ có
nhiều dấu hiệu bất ổn. Việc duy trì một tỷ lệ đôla hóa hợp lý là việc làm cần
thiết đòi hỏi phải thực hiện trong thời gian sớm nhất để ổn định thị trường
ngoại hối qua đó, tác động ổn định kinh tế vĩ mô. Có rất nhiều các giải pháp
được đề ra, nhưng chung lại, việc mà các cơ quan chức năng cũng như Nhà
nước cần làm là lấy lại lòng tin của người dân vào VND. Điều đó là rất khó
thực hiện trong ngày một ngày hai, mà cần một quá trình lâu dài với những
giải pháp đồng bộ và việc thực hiện kiên quyết, có hiệu quả của các cơ quan
Nhà nước, các cấp các ngành.

43

You might also like