You are on page 1of 24

LỜI NÓI ĐẦU

Hiện nay, nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi, các quố gia dần
chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá. Cùng với sự phát triểncủa
nền kinh tế có nhiều vấn đề bất cập xảy ra. Một trong những vấn đề luôn song
hành với nền kinh tế đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ là lạm phát. Lạm
phát là một trong những vấn đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối quan tâm lớn
nhất của các nhà chính trị và của cả công chúng. Lạm phát được coi như là một
căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề hết sức phức tạp đòi
hỏi phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thẻe đạt được kết quả
khả quan nhất. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đặc biệt
là giới lao động, chống lạm phát không chỉ là việc của doanh nghiệp, của một cá
nhân mà còn là nhiệm vụ của chính phủ.
Ở Việt Nam, hiện nay về việc kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát triển
ổn định của nền kinh tế là một mục tiêu quan trọng trong việc phát triển kinh tế
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Thật vậy, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và
cũng đưa ra phương pháp khắc phục nhằm kiểm soát được lạm phát. Từ lâu,
tiền giấy xuất hiện và sau một thời gian sẽ diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn
đến lạm phát. Nét đặc trưng cơ bản nền kinh tế thị trường khi có lạm phát là giá
cả của hầu hết các hàng hoá đêù tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng
giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20 ở nước ta
lạm phát diễn ra kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch
của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội.

1
PHẦN I :LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT

1- CÁC KHÁI NIỆM VỀ LẠM PHÁT :


Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện
khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là
quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tòn tại những quan
hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát
chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. Lạm phát đã trở
thành mối quan tâm của rất nhiều người. Do đó lạm phát được đề cập đến rất
nhiều trong các công trình nghiêm cứu của các nhà kinh tế. Mỗi người đều đưa
ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng nghiên cứu của mình.
- Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình, Các Mác viết :”Việc phát hành tiền giấy
phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện
tiền giấy của mình “. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước
phát hành vào lưu thông vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của
tiền giấy giảm xuống, giá cả tăng vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Từ đây, ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư bản.
Không những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà
còn gây ra lạm phát giảm tiền lương của người lao động.
- Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng :”lạm phát xảy ra khi mức chung
của giá cả và chi phí tăng – giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá
đất, tiền thuê tư liệu sản xuất tăng “. Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu thị
sự tăng lên của giá cả .
- Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả tăng
nhanh và kéo dài “. Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý
kiến đó của Friedman. Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng
đến nền kinh tế quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời
điểm nào. Nó chính là một hiện tượng tất yếu của taì chính – tiền tệ.

2
- Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra
và nó đựoc sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường :”Lạm phát là
sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian“.
- Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng
CPI (Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và
dịch vụ trên thị trường. Để tính CPI, ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng
mặt hàng trong tổng chi tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát.
+ Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI:
Producer Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI dùng để tính giá cả trong
lần bán đầu tiên do người sản xuất ấn định
Ip = ∑ip. d
ip:chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d:tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
+ Ngoài 2 chỉ số trên, chỉ số GNP cũng được sử dụng. Đây chính là chỉ số
giảm phát, chỉ số giá cả cho toàn bộ NGP :chỉ số giảm phát GNP = GDP danh
nghĩa / GDP thực tế.
2) PHÂN LOẠI LẠM PHÁT :
Có nhiều cách đẻ phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ
có các loại lạm phát khác nhau.
a) Căn cứ vào định lượng gồm:
- Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát
dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối.
Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của
người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm, lãi
xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá
với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mứclạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác
động của nó là không đáng kể. Mặt khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm
cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng

3
kinh doanh có khoản thu ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh
doanh.
- Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với
tỷ lệ 2 con số 1 năm. Ở mức 2 con số thấp :11, 12% thì nói chung các tác động
tiêu cực không đán kể và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi
tăng đến hai chữ số cao thì lạm phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh
chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này
người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay
tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ làm ảnh hưởng xấu đến
sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không nhỏ. Bên cạnh đó
lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh tế
- Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên
với tốc độ rất nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa
lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng
kinh khủng, giá cả tăng nhanh và không ổn định, tiền luơng thục tế của người
lao động bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính
xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào
tình trạng rối loạn, mất phương hướng. Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống
và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít
xảy ra.
b) Căn cứ vào định tính :
- Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng.
* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người
lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động
và dến nền kinh tế nói chung.
* Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của
người lao động. Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
-Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường

4
* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một
thời kì tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể
dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người
dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước. Do đó không
gây ảnh hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.
Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp
thích nghi. Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế
và niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát
triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm
trọng hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau :
lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm
phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu
lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3. TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT :
Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của
lạm phát đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế
lạm phát là một nỗi lo của toàn xã hội và ta cũng thấy được các tác động của nó.
a) Tác động đến lĩnh vực sản xuất :
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và
đầu ra biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất.
Sự mất giá của đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất – kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra
những biến động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận
thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
Tuy nhiên, xét ở góc độ nào đó, khi tỷ lệ lạm phát thấp, không gây ảnh
hưởng đến kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến
khích các doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên.

5
Ngoài ra cũng khuyến khích tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá
bán chạy và cũng làm sản lượng tăng.
b) Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của mình để
vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm
trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên
nhiều hơn.
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh
vực sản xuất sẽ gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh
vực lưu thông lên lĩnh vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán
hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc đọ lưu thông tiền tệ
tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng.
c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:

Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp.
Số tiền người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị
giảm xuống. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm
mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá
quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ không làm an tâm những
cá nhân, doanh nghiệp hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy
ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ thống ngân hàng phải luôn
cố gắng duy trì mứclãi suất ổn định. Mà lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ
lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất
danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng
tiền nhanh chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình
thường nữa. Chức năng kinh doanh tiềntệ bị hạn chế, không cònnguyên vẹn bởi
khi có lạm phátthì chẳng có ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
d) Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà
nước :

6
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi
lạm phát xảy ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá
cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được những
doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, các
khoản thu cho ngân sách nhà nước không tăng. Do đó, nhà nước không còn đủ
sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội, các nghành, các lĩnh
vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì.
Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao
đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện.
4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT :
a) Lạm phát do cầu kéo :
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân
chính là do tổng cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng
không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng cầu
về hàng hoá và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm
tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá
vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung
máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được
sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do
cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như ở Mỹ, sử dụng
công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ,
sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng

(Tổng mức giá) AS3

P AS2
P3
3
2' AS1
P2
2
1' AD3
P1
1 AD2
AD1 Y
0
Yn Yt (Tổng sản phẩm) 7
Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1. Khi các nhà hoạch
định chính sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên, họ sẽ đưa ra những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn
mức sản lượng tiềm năng (Yt > Yn). Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và đường tổng
cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh tế chuyển đến điểm 1’. Lúc này sản lượng
đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng và mục tiêu của các nhà hoạch
định chính sách đã thực hiện được.
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên
tiền lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ
điểm 1’ sang 2’. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên nhưng ở một mức giá cả P2 > P1 . Lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại
cao hơn mục tiêu ban đầu. Do đó các nhà hoạch định chính sách lại tìm cách làm
tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp diễn và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao
hơn.
b) Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung, do chi phí
sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt
trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao
hơn. Ví dụ : Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và
dịch vụ và nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng xuất lao động thì tổng chi phí
sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho
người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu
tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí sinh hoạt taưng lên điều đó tạo
vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng
hợac khả năng khả thác hạn chế. Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên
nhiên vật liệu là giá dầu thô tăng. Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc
tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4, 6% đến 13, 5% bình quân trên qoàn thế

8
giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức
thấp chưa từng thấy.
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa
cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát. Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng
nội tệ yếu đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
c) Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền
tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể
thấy ngưỡng tăng cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền
kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai
thác nhiều. Có nhiều nhà máy xí nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động. Do
đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao … Trong trường hợp này, khi
tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ nào đó, các nhà đầu tư
thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều. từ đó các nhà máy, xí nghiệp mở
cửa để sản xuất, kinh doanh. Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai
thác, người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên.
Ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công
suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao
động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy
nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn
khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng,
thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm …Vai trò của chính phủ và các
nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách
khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà
giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc
cung tiền.
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện
kinh doanh tốt ) hợac các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả

9
hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung
và dài hạn, điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không
tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy
nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ
cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ năm 1966-
1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang
của cuộc chiến tranh taị Việt Nam, lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến 6%
(năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng,
nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không
đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ
tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây cũng chính là lý do tại
sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này.
d) Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên, một số các nguyên nhân
khác cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư. Khi
người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà
đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực
kinh doanh nào đó … Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được
cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá
lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng,
cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể
là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục
bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp
phần thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy
mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự
thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.
Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền,
đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. TUy nhiên, đối với các

10
nước đang phát triển, việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì
nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả
nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ
tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn.
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành
trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ
tăng và lãi xuất tăng cao hơn. Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân
hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó. Như thế mức cung tiền lại
tăng lên và dễ gây lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp
vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá
tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước
muốn đẩy giá hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khac khi tỷ
giá hối đoái tăng, chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng
lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do
chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước,
chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy
ra lạm phát.
5. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC LẠM PHÁT
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn, ảnh hưởng
trầm trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. Ở mỗi
nước tỷ lệ lạm phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động khác nhau.
Do đó chính phủ ở các nước sẽ có những biện pháp khác nhau. Tuỳ vào từng
hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp dụng biện pháp tình thế và các biện pháp có
tính chiến lược.
Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước sẽ có những biện pháp điển hình
sau:

11
- Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm giảm
tức thời cơn sốt lạm phát
Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm lượng
tiền cung ứng trong lưu thông. Đây được gọi là biện pháp thắt chặt lượng cung
tiền tệ hay còn gọi là đóng bảng tiền tệ. Cụ thể là Ngân hàng trung ương ngừng
thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín
dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ,
không phát hành tiền đề bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, đểlàm
giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng trung ương sẽ bán các chứng khoán
ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền
trong nền kinh tế. Và ngân hàng cũng có thể ấn định mức lãi xuất cao, từ đó sẽ
khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp gửi tiền không kì
hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm.
Tiếp đến, đẻ khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp thắt
chặt chi tiêu của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng
nhanh của tổng cầu. Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm
lượng cầu chi tiêu của dân cư. Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và xin viện trợ
từ nước ngoài… Một biện pháp nữa được áp dụng là cải cách tiền tệ khi tỷ lệ
lạm phát tăng quá cao trong khi các biện pháp nêu trên chưa đạt được hiệu quả.
- Cùng với những biện pháp tình thế, các nước còn sử dụng các biện pháp
chiến lược nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và làm cho
cơ số tiền tệ ổn định bền vững. Đó là các biện pháp :
Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá.
Hàng hoá trong nước ngày càng nhiều, quỹ hang tăng lên với số lượng, chủng
loại đa dạng phong phú. Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để bổ xung
cho hàng hoá thiếu hụt trong nước. Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ để bán cho
dân chúng, phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu và ngành du lịch.
Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh hoàn hảo :Sản phẩm
để người tiêu dùng chấp nhận được là yếu tố quan trọng. Như vậy cần phải cạnh
tranh giá cả bằng việc tìm mọi cách giảm chi phí.

12
Biện pháp chiến lược khác là kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế
quản lý hành chính . Điều này sẽ làm giảm mức chi tiêu thường xuyên của Ngân
sách nhà nước. Mặt khác cần phải tăng cường công tác quản lý điều hành Ngân
sách nhà nước dựa trên việc tăng các khoản thu cho Ngân sách một cách hợp lý
chống thất thu như thất thu về thuế và điều chỉnh các khoản chi p
PHẦN II
THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

1. THỰC TRẠNG VÀ LỊCH SỬ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.


Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại của nó không công
khai, các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm
lạm phát mà chỉ sử dụng cụm từ “ chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền"
"Thị trường vật giá không ổn định…”
Sau một thời gian, lạm phát đã bộc phát công khai với mức bộc phát phi
mã. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này.
“ Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách
đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính
bao cấp và một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện
trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến thâm hụt ngân sách trầm trọng “.
Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới
đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ để chống lạm phát. Đối với
nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt
ra trong điều hành của chính phủ, của các nhà quản lý vì sự phát triển và ổn
định. Và về phương diện này, Việt Nam đã thành công. Lạm phát đã giảm từ
hơn 70% một năm vào năm 1986 xuống còn 35% một năm vào năm 1989. Đây
là một thành công lớn, phản ánh kết quả từ nhiều yếu tố như tự do hoá nền kinh
tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, ngươi dân không còn tồn trữ hàng
hoá, vàng và đô la bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu dàu
thô ngày càng tăng…Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã

13
không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng,
do đó trong các nhu năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm.
Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam có thể chia thành những thời kỳ như sau
:
- Giai đoạn thứ nhất : Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát được hiểu
giống như định nghĩa của Mác, cho nên chống lạm phát là tìm mọi cách hạn chế
việc phát hành tiền vào lưa thông.
- Thời kỳ 1938-1945 : Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền
thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để voư vét của cải của nhân
dân Việt Nam. Số tiền đó được đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến chống
phát xít Đức. Hậu quả năng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá
sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần.
- Thời kỳ 1946-1954 : chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đòng
Đông Dương và sau đó là đòng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân
tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải
phóng hoàn toàn nửa đất nước.
- Thời kỳ 1955-1965 : chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên
tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong
trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền
Nam một khối lượng hàng viện trợ khổn lồ, giá trị hàng trăm tỉ USD cũng
không thể bù đắp được chi phí bỏ ra.
- Thời kỳ 1965-1975 : ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống
chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thốn nhất đất
nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền
Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có
sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em nên
chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này.

14
- Thời kỳ 1976 đến nay : sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu
nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán
kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu
dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ
dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay, với sự chỉ đạo
đúng đắn của Nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ dừng ở mức độ tưong đối tốt
cho sự phát triển nền kinh tế (15-17%). Có thể nói, đây là một thành công
không nhỏ của đất nước ta.
2. ĐẶC TRƯNG CỦA LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát
ở các quốc gia khác như : chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị
của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện
kinh tế – xã hội cụ thể.
- Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế
nhà nước có địa vị thống trị. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ
trọng lớn hiếm có trên thế giới. Thế nhưng, khu vực với số vốn đầu tư lớn và tỷ
lệ chất xám cao này lại chỉ có thể làm ra từ 30%-37% tổng sản phẩm xã hội.
Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền
rất thấp so với số tiền nhà nước cung cấp để bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng,
lãi xuất thấp. Ngược lại, khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả và đóng góp một
phần quan trọng trong ngân sách nhà nước. Chính những hoạt động của các
hãng kinh tế nhà nước với lãi giả lỗ thật đã làm cho thị trường hônx loạn, lỗ lãi
khó kiểm tra, từ đó hiệu quả kinh doanh giảm sút. Do vậy mà công tác giảm sút
của nhà nước không có hiệu quả dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát xảy
ra.
- Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thốn trị
trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị
trường, một công ty mới giành thế độc quyền phải tiến hành trang thiết bị máy
móc, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn…và khi đã ở vị trí độc quyền, nó

15
sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Trên thực tế, độc quyền ở
Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Và cùng với cơ chế quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất
các quan hệ thị trường làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây
cũng là nguyên nhân góp phần làm tăng lạm phát.
- Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu gồm những
ngành kém hiệu quả có sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối
khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm)
- Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh
kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp cho gia đình
chính sách nhiều. Những khoản này làm tăng thâm hụt ngân sách và tăng lạm
phát.
- Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai,
hạn hán, mất mùa…Do đó, ngân sách hụt đi do phải trợ cấp cho các vùng bị
thiên tai.
3) NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung,
phần này ta xét đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể.
Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam có nhiều.
- Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan
liêu bao cấp, đóng cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các nghành
có chi phí cao, tách rời cầu thị trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự
mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi ngân sách thể hiện nền kinh tế kém
hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những nguyên nhân dẫn đến lạm
phát phi mã.
- Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định
cơ cấu không xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính
sách phá giá đồng tiền, làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước,
chính sách lãi xuất thấp so với mức trượt giá làm cho người dân không muốn

16
gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây lạm phát qua kênh tín dụng, ngân
hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các nguồn vốn cho vay của
ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây dựng cơ bản ngày
càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân bằng cung cầu hàng
hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so
với giá quốc tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng
dầu và ngoại tệ.
- Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các
doanh nghiệp. những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước.
Việc làm ăn của nhiều công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ,
bù giá qua lớn chiếm gần 40% tổng số thu chi cho ngân sách.
- Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở
mức thấp. Đầu tư nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài qua
sức chịu đựng của nền kinh té trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn.
Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc gia bị thâm hụt, không còn cách nào
khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã gây ra lạm phát.
- Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu
bao cấp nặng nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế.
Các quan hệ tiền tệ không phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác
động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong khu
vực.

17
PHẦN III
CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA.

1. CÁC QUAN ĐIỂM VỀ KHẮC PHỤC LẠM PHÁT.

- Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát : thuyết tiền tệ Friedman
được áp dụng. Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách “ hạn chế
tiền tệ “ hay “ khắc khổ “ thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân hàng trung ương,
hạn chế tăng lương, duy trì thất nghiệp ở mức thấp.

- Các cách tiếp cận khác :

+ Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn
liền với sự tăng trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn… nên đề
ra những biện pháp giảm mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi
tiêu và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn
đứng và đẩy lùi lạm phát.

+ Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức
thấp hơn cũng đòi hỏi áp dụng chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện pháp này
kéo theo suy thoái và thất nghiệp – một giá đắt – nên viẹc kiểm soát chính sách
tiền tệ tài khoá trở nên phức tạp và đòi hỏi phải hết sức thận trọng.

Có thể xoá bỏ lạm phát hay không ? Cái giả phải trả của việc xoá bỏ hoàn
toàn lạm phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia
thường chấp nhận lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó chỉ số hoá
các yếu tố chi phí như tiền lương, giá vật tư, lãi suất… Đó là cách làm cho sự
thiệt hại của lạm phát ít nhất.
2. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG LẠM PHÁT Ở NƯỚC TA :

a. Giải pháp của Đảng và nhà nước :

Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, kinh tế. Đảng viên phải theo
hướng đổi mới trên mọi lĩnh vực. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh chuyên
chính vô sản, lập lại trật tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên
18
quyết thực hiện nguyên tắc tập chung dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ
quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng, xoá bỏ những đặc quyền, đặc
lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê liệt những chủ
trương chính sách nhà nước. Để làm được việc này, nhà nước cần ban hành
những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tái
chính, ngân hàng… làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng
thời phải đề ra chức năng thoái soát kiểm kê của nhà nước đối với các hoạt động
kinh tế, xã hội… Ngoài ra, nhà nước tạo điều kiện phát triển kinh tế ngoài quốc
doanh. Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh
doanh trên nhiều lĩnh vực. Pháp luật của nhà nước đảm bảo các quyền lợi,
quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Từ đây,
các thành phần kinh tế tạo nên được cạnh tranh trong hoạt động, gây sức ép với
nhau để đổi mới, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ thể
giảm tỷ lệ lạm phát xuống khoảng 30-40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997,
năm 1999 còn 3, 6%.

b) Các biện pháp tiền tệ – tín dụng, thanh toán và giải pháp của ngân
hàng trung ương và các ngân hàng thương mại.

“ Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường nền
tài chính, tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có hiệu quả
“.

Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm chế
lạm phát với việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng
một nền tài chính lành mạnh. Các giải pháp đó gồm :

+ Xoá bao cấp qua tín dụng

+ Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ

+ Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách, cải tiến việc phân
cấp quản lý ngân sách

+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục. Việc thực
hiện giải pháp này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất.
19
Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng lớn giấy bạc. Để thực hiện được
điều này, chính phủ và ngân hàng thường sử dụng các hình thức thu hút vốn vào
quỹ ngân hàng như sau :

- Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng (kể cả tiền
gửi tiết kiệm của người dân ) bằng cách nâng cao mức lãi suất trên mức lạm
phát, với sự sụt giá đồng bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn
gửi vào ngân hàng.

- Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu
thương mại đối với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và
nâng cao tỷ lệ quỹ vốn lao động.

- Ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ một giá hối
đoái và thực hiện nghiêm ngặt điều kiện quản ký ngoại hối, biện pháp náy cho
phép ngân hàng nhà nước thu về một khối kượng tiền tệ đáng kể trên thị trường
tăng thu nhập ngân sách, đó là cách để bù đắp một phần thiếu hụt cán cân thi
chi ngân sách.

- Hạn chế và thu hẹp tín dụng ngân hàng nói chung, nhất là tín dụng do
hoạt động thương mại thuần tuý, hối đoái trong điều kiện sản xuất là sản xuất
hàng tiêu dùng bị đình đốn. Song có thể ra tăng khối lượng tiêu dùng ngắn hạn
hướng vào sản xuất háng tiêu dùng thiết yếu bằng số ngoại tệ thu được qua xuất
khẩu, cung ứng dịch vụ đối ngoại hoặc vay nợ viện trợ. Biện pháp này có thể
giảm đi một khối lượng tiền tệ đáng kể do việc buôn bán vòng vèo, ăn chênh
lệch giá mà bấy lâu nay không kiểm soát nổi. Mặt khác do hướng tín dụng ngân
hàng có lựa chọn và chú trọng tính hiệu quả của nó có thể tạo ra một khối lượng
hàng hoá nhất định bán và thu tiền về, đồng thời giảm đi một khối lượng đáng
kể số tiền sẽ chi cho các kỳ phiếu thương mại giữa ngân hàng và khách hàng
cũng như các hoạt động tái chiết khấu và tín dụng cuối cùng của ngân hàng nhà
nưóc và ngân hàng thương mại.

- Để hạn chế và điều hoà tín dụng, ngân hàng Trung ương thường sử
dụng các biện pháp : tăng hay giảm lãi suất để giảm hay tăng khối lượng tín

20
dụng, nghĩa là đối với công cụ lãi suất này sẽ khuyến khích hoặc hạn chế trong
hoạt động kinh doanh, thực hiện mua hay bán các chứng khoán tại thị trường bỏ
ngỏ.

c. Điều chỉnh giá cả và sự quản ký của nhà nước.

Nhà nước thả nổi giá cả hầu hết các mặt hàng, giờ đây giá cả hàng hoá do
thị trường định đoạt. Nhà nước chỉ dừng lại ở mức quy định một ít mặt hàng
theo giá của nhà nước đưa ra. Từ năm 1989, giá cả hầu hết các hàng hoá được
thị trường xác định, đến nay nhà nước chỉ còn xác định giá cước tải liên lạc,
giá năng lượng, xăng dầu. Một số mặt hàng quan trọng nhà nước can thiệp
bằng các biện pháp kinh tế tích cực chẳng hạn như giá gạo hạ thấp, nhà nước bỏ
tiền ra mua với giá cao hơn thị trường tự do để giữ vững và khuyến khích sản
xuất nông nghiệp, giá vàng lên cao, ngân hàng nhà nước bán vàng ra thị trường
với mức giá thấp hơn để kéo giá vàng hạ xuống. Với giải pháp này, nhà nước
đã xoá bỏ tình trạng ngân sách phải bao cấp cho các xí nghiệp và các tổ chức
kinh tế.

Nhà nước Việt Nam cho phép ngân hàng quốc gia được xác định tỷ giá
ngoại tệ xấp xỉ với thị trường tự do, biện pháp này có tác dụng xoá bỏ hiện
tượng đầu cơ vàng và ngoại tệ gây rối loạn thị trường. Hiện nay, nhà nước
cùng với ngân hàng Trung ương đang tiến dần đến việc điều chỉnh giá vàng và
giá đô la thoe mức giá cả của thị trường thế giới, đây là một trong những kế
hoạch hoà nhập kinh tế Việt Nam với thế giới.

Bên cạnh đó, nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới
khuyến khích các nguồn nhập khẩu vào Việt Nam đã làm cho thị trường ngày
càng phong phú, làm cho cung và cầu cân bằng hơn. Việc nhập khẩu vào Việt
Nam còn có tác dụng gây sức ép với hàng hoá trong nước buộc họ phải nâng cao
chất lượng để đáp ứng thị hiếu của khách hàng, hoạt động nhập khẩu cần có
nhiều vốn ngoại tệ, từ đó mà xuất khẩu gia tăng. Nhà nước sớm thực hiện
chính sách bảo hộ một số nghành trong nước, việc này không có nghĩa là cấp

21
nhập khẩu mà là đầu tư vốn, kỹ thuật để chất lượng hàng hoá đạt tiêu chuẩn,
giá thành hạ để đủ sức cạnh tranh với thị trường quốc tế.

Việt Nam đã đạt đượcnhững thành tựu đáng kể trong cuộc sống lạm phát
nhừ áp dụng các giaỉ pháp nêu trên. Tuỳ từng hoàn cảnh, từng giai đoạn mà
chúng ta có thể linh hoạt sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm đạt được hiệu
quả kinh tế lớn.

22
KẾT LUẬN

Chúng ta nhận thức rằng quá trình đấu tranh chống lạm phát không dơn
giản ngày một ngày hai. Nó là bệnh kinh niên nhưng việc xoá bỏ hoàn toàn lạm
phát thì cái giá phải trả không tương xứng với lợi ích đem lại.
Tình hình diễn biến lạm phát và khắc phục nó tại Việt Nam rất phức tạp.
Lạm phát đã hoành hành công khai khi Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế xã
hội, xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp. Sự cải cách không đồng bộ giữa giá cả và
quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Thành công trong công cuộc
chống lạm phát năm 1989 đưa đất nước vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận
thức quản lý kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Kinh tế ổn định làm tiền đề cho
sự thành công của các thành tựu trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị…
Tuy nhiên, lạm phát luôn rình rập và đe doạ chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì
vậy Đảng và nhà nước phải luôn thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm
bảo cho nền kinh tế nước nhà phát triển vững mạnh, làm nền tảng để phát triển
khoa học, giáo dục, đuổi kịp sự phát triển của các nước trong khu vực nói riêng
và các nước trên thế giới nói chung. Điều này không chỉ của riêng ai mà của tất
cả các cá nhân, doanh nghiệp đặc biệt là các nhà doanh nghiệp trẻ và của toàn
xã hội.

23
MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU
B- NỘI DUNG
I> Lý luận chung về lạm phát
1) Các khái niệm về lạm phát
2) Phân loại lạm phát
3) Tác động của lạm phát
a)Tác động đến lĩnh vực sản xuất
b)Tác động đến lĩnh vực lưu thông
c)Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
d)Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của Nhà nước
4)Nguyên nhân gây ra lạm phát
a)Lạm phát do cầu kéo
b)Lạm phát do chi phí đẩy
c)Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
d)Các nguyên nhân khác
5)Biện pháp khắc phục lạm phát
II>Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
1)Lịch sử của lạm phát
2)Đặc trưng của lạm phát
3)Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở nước ta
III>Các giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam
1)Các quan điểm về khắc phục lạm phát
2)Giải pháp chống lạm phát
a)Giải pháp của nhà nước
b)Các biện pháp về tiền tệ – tín dụng, thanh toán và giải pháp của ngân hàng
trung ương và c ác ngân hàng thương mại.
c)Điều chỉnh giá cả và sự quản lý của Nhà nước
C>KẾT LUẬN

24

You might also like