You are on page 1of 17

Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên


và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở
Việt Nam

Họ tên: Nguyễn Thủy Trang


Lớp: Anh 19 – Khối 7 - Kinh tế - K48
Ngày sinh: 27/12/1991
Mã sinh viên: 0951010226
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Huy Quang

Hà Nội, 2010

1/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG


KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên


và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở
Việt Nam

Họ tên: Nguyễn Thủy Trang


Lớp: Anh 19 – Khối 7 - Kinh tế - K48
Ngày sinh: 27/12/1991
Mã sinh viên: 0951010226

Hà Nội, 2010

2/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU...........................................................................................................4
B.NỘI DUNG........................................................................................................5
1.Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên.......................................................5
2.Tự nhiên – con người – xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất.........6
3.Tự nhiên – nền tảng của xã hội..................................................................6
4.Tác động của xã hội đến tự nhiên...............................................................7
5.Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội..............8
6.Môi trường – vấn đề của chúng ta..............................................................9
II.Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.........................................10
1.Môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam.................................10
b)Tài nguyên nước của Việt Nam...........................................................10
c)Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam..................................................11
d)Môi trường và tài nguyên biển của Việt Nam......................................11
e)Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học...................................................11
f)Vấn đề môi trường ở Việt Nam............................................................13
2.Việt Nam hành động.................................................................................14
C.KẾT LUẬN......................................................................................................16
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................17

3/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

A. MỞ ĐẦU
Trái Đất của chúng ta là một hành tinh kì diệu. Nó dang rộng cánh tay của
mình để đón chào sự sống và bao dung chứa chấp tất cả các loại sinh vật. Nó là
ngôi nhà chung duy nhất của tất cả chúng ta. Vậy mà kể từ khi xuất hiện, con
người đã tự coi mình là bá chủ của Trái Đất, vì con người là sinh vật thông minh
nhất, là sinh vật duy nhất có khả năng tư duy để hành động. Con người đã đến
và làm biến đổi thế giới xung quanh mạnh mẽ hơn bất cứ một loài sinh vật nào
cùng tồn tại.
Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, con người đã phát hiện ra rằng: sự
ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà quan
trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Do vậy, con người rất quan tâm đến
mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội.
Trong một thời gian rất dài, hai khái niệm tự nhiên và xã hội được coi là
hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan đến nhau. Quan điểm này ngày nay
vẫn còn tồn tại. Vì thế nhiều người đã có những hành động phá hủy thiên nhiên
mà không hiểu được rằng họ đang phá hủy tương lai của chính con em mình.
Đó thật là một sai lầm lớn, thực tế và lý luận khoa học đề chứng tỏ rằng tự
nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng nằm trong một tổng
thể bao gồm tự nhiên, con người và xã hội.
Con người và xã hội dựa trên nền tảng tự nhiên mà tồn tại và phát triển,
nhưng chính trong quá trình tồn tại và phát triển ấy, nền tảng tự nhiên lại bị phá
hủy. Đặc biệt là trong thời đại hiện nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển mãnh
mẽ và dân số toàn cầu đang bùng nổ thì tự nhiên và môi trường càng bị phá hủy
mạnh hơn.
Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, đang trong quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chúng ta cũng có những vấn đề về môi
trường, chúng ta cần có quan điểm đúng đắn để giải quyết những vấn đề này.
Vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và
vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam”.

4/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

B. NỘI DUNG
I. Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên.
1. Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên.
Theo định nghĩa, tự nhiên theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất vô
cùng, vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo
quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ
động vật. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà
quan trọng hơn là kết quả của các quá trình lao động. Đây là quá trình con người
tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để đáp ứng nhu
cầu tồn tại của mình. Chính trong quá trình lao động, cấu tạo cơ thể của con
người ngày càng hoàn thiện hơn và cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu
trao đổi, hợp tác đã làm ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức
kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con
người, tâm lý động vật thành ý thức.
Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa
người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá
trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng
thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá
trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
Vậy, xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái
vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm
nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”
Như vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận
này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù
quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là những con
người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định.

5/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn
tái sản xuất ra giới tự nhiên.
2. Tự nhiên – con người – xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế nữa,
tự nhiên – con người – xã hội còn nằm trong một chỉnh thể thống nhất.
Theo nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô
cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy
đến cùng có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu
tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống bởi chúng đều là những dạng
thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối quan hệ khác nhau của vật chất
đang vận động.
Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những quy luật nhất định, tất cả
các quá trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những
quy luật phổ biến nhất định ấy. Sự hoạt động của các quy luật đó đã nối liền các
yếu tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn và phát triển không
ngừng trong không gian và theo thời gian.
Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người
vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời
xã hội. Để trở thành một con người đích thực, con người cần được sống trong
môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người. Con người
mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội. Chính vì thế, ta có thể nói
rằng con người còn là hiên thân của sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên.
3. Tự nhiên – nền tảng của xã hội.
Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương tác với nhau. Đây là
một mối quan hệ biện chứng hai chiều.
Trong phần này, ta xét chiều thứ nhất là những tác động của tự nhiên lên
xã hội loài người. Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên là nguồn
gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế
giới vật chất. Đồng thời, tự nhiên cũng là môi trường tồn tại và phát triển của xã
hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự
6/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện
cần thiết nhất cho các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không
thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới
hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu và tác động làm cho lao động của con người
được thực hiện, từ đó lao động của con người sản xuất ra sản phẩm.
Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có thể
tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội.
4. Tác động của xã hội đến tự nhiên
Tự nhiên tác động đến xã hội nhiều như thế nào thì xã hội cũng tác động
ngược lại với tự nhiên như thế. Như ta đã biết, xã hội gắn bó chặt chẽ với tự
nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Lao động là đặc
trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song, lao
động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất
hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra
giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính
mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ
và tự nhiên".
Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: Tự nhiên cung
cấp cho con người tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển để con người
sống và tiến hành lao động sản xuất; nhưng cũng chính quá trình sử dụng các
nguồn vật chất của sinh quyển để sống và lao động sản xuất, con người đã làm
biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả các thành phần
khác của chu trình sinh học.
Trong quá trình trao đổi chất này, nếu con người không kiểm tra, điều tiết
việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng
hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ,
sự sống của con người và xã hội loài người bị đe dọa.
Do vậy, để giữ gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình, con người
phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, kiểm tra, điều tiết hợp lý việc bảo quản,
7/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

khai thác, sử dụng và tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên để đảm bảo cân
bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội.
5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội.
Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, trong
đó quan trọng nhất là trình độ phàt triển của xã hội và việc nhận thức, vận dụng
quy luật tự nhiên, quy luật xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.
Thông qua hoạt động của mình, con người làm cho lịch sử xã hội và lịch
sử tự nhiên gắn bó, quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định lẫn nhau ấy phụ
thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá nó là phương
thức sản xuất – cách thức sản xuất ra của cải vật chất trong mỗi giai đoạn lịch sử
nhất định của con người. Sự ra đời của những phương thức sản xuất mới cao
hơn những phương thức sản xuất trước đó đã quyết định những chuyển biến về
chất của xã hội loài người, đưa xã hội loài người từ mông muội, dã man, sang xã
hội văn mình.
Ngày nay, mặc dù con người đã đạt đến đỉnh cao trong sản xuất là nền đại
công nghiệp cơ khí tự động hóa, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa – chế độ lấy lợi nhuận làm mục đích – thì con người coi tự nhiên không
chỉ là môi trường sống mà chủ yếu là đối tượng để khai thác, chiếm đoạt nhằm
đạt được mục đích của mình. Khủng hoảng sinh thái đã xảy ra ở nhiều nơi và
đang đe dọa sự sống của cả nhân loại. Bởi vậy, con người không còn con đường
nào khác là phải quay về chung sống với tự nhiên, thay đổi phương thức khai
thác và sử dụng những tài nguyên thiên nhiên và quan trọng hơn là phải xóa bỏ
chết độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – nguồn gốc sâu xa phá hoại thiên
nhiên để tiến tới việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa tự nhiên
và xã hội.
Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người còn được thể hiện thông qua hoạt
động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan
hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận
thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.

8/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con
người sẽ tạo ra một thế giới hài hòa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã
hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn
trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng
hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu
diệt vong.
Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật
của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Đây vừa là tiền đề, vừa
là từng bước thực hiện việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa xã
hội và tự nhiên. Chỉ có nắm vững các quy luật của xã hội và triệt để vận dụng
nó, con người mới xác định được đúng đắn mục đích của quá trình sản xuất và
mới có ý thức tự giác lựa chọn những công cụ, phương tiện hợp lý để thực hiện
mục đích đó, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội trong mối
quan hệ hài hòa tự nhiên – xã hội.
6. Môi trường – vấn đề của chúng ta.
Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống.
Khái niệm môi trường bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở
đây, ta chỉ đề cập đến môi trường tự nhiên hay còn gọi chung là môi trường sinh
thái.
Môi trường sinh thái không chỉ là điều kiện sinh sống của con người, nó
cũng là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội. song vai trò của nó ở những giai đoạn lịch sử khác nhau được thể hiện một
cách khác nhau.
Ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu săn bắn, hái lượm
những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người bị giới tự nhiên
hoàn toàn thống trị. Cuộc sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự
nhiên.
Khi con người văn mình hơn, nhất là khi khoa học – kỹ thuật phát triển thì
con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên, biết khai thác tự nhiên phục vụ
cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề ra đời từ những điều kiện sẵn có của
9/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

môi trường tự nhiên như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các ngành khai
thác,… Song nhìn chung, xã hội vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, do đó
môi trường tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, tốc độ phát triển
của xã hội.
Khi con người bất chấp quy luật phạm vi những nguyên tắc đảm bảo cho
sự phát triển bền vững, biến “khai thác” thành “chiếm đoạt” tự nhiên thì môi
trường tự nhiên không phải chỉ gây khó khăn cho quá trình sản xuất mà còn đe
dọa đến sự sống còn của toàn xã hội. Biểu hiện trước hết của đe dọa đó là sự
khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất, nước
ngọt, động vật, thực vật, khoáng sản,…; là nạn ô nhiễm nặng nề môi trường
sống; là các hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”, “lỗ thủng tầng ozon”, sa mạc hóa,

Để có thể khắc phục tình trạng trên và thiết lập lại mối quan hệ hài hòa
giữa xã hội với tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái
để kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái, đảm bảo cho hệ thống tự
nhiên – xã hội.
II. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.
1. Môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam.
a) Tài nguyên đất của Việt Nam.
Quỹ đất của Việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích đất
bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới).
Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng
đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha... Tổng tiềm năng dự trữ quỹ
đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu ha được
sử dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm.
Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn, đất trũng úng nước, đất dễ
bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý.
b) Tài nguyên nước của Việt Nam.
Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).

10/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km 3/năm, của sông
Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.
Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày.
Đến năm 2000, lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt Nam tổng số
khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng nước sản sinh ra trong lãnh thổ).
c) Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam.
Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình
Dương và Địa Trung Hải nên Việt Nam rất giàu có về khoáng sản.
Việt Nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ
được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.
Khoáng sản chủ yếu: than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng
Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn Sơn 400 triệu tấn, Cửu Long 300 triệu
tấn, Vịnh Thái Lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí đốt thiên
nhiên có trữ lượng lớn.
Tài nguyên khoáng vật của Việt Nam được đánh giá là phong phú, lớn
mạnh, tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta thành công.
d) Môi trường và tài nguyên biển của Việt Nam.
Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh
tế và có độ đa dạng sinh học cao.
Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, ngoài ra còn có nhiều hải
sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi,
ngọc trai. Ven bờ có sò, ngao, điệp, hàu, phi,... với sản lượng hàng chục vạn tấn
một năm.
Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm
gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.
e) Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học.
Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người
dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18
triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.

11/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang
dã. Rừng ngập mặn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn
đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực vật
phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật
và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đầy sự hấp dẫn.
Chính nguồn tài nguyên động vật này là nguồn cung cấp thực phẩm, là nguồn
dược liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm
cho cuộc sống.
Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai thác hợp lý.
Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37%
năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2).
Về đa dạng sinh học, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao:
Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800
loài rêu, 600 loài nấm lớn. 2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn
cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu. 1500 loài cây làm dược liệu. Môi trường nước có
hơn 2000 loài tảo, nhiều loài có giá trị dinh dưỡng cao.
Giới động vật cũng vô cùng phong phú, đa dạng về thành phần loài. Dưới
đây là bảng so sánh thành phần các loài động vật ở Việt Nam so với thế giới (chỉ
tính một số nhóm động vật ở bậc loài)
STT Nhóm động vật Số loài ở Việt Nam Số loài trên thế giới Tỉ lệ phần trăm
1 Thú 275 4000 6,88%
2 Chim 828 9672 8,56%
3 Bò sát 260 6300 4,13%
4 Lưỡng cư 82 4184 1,96%
5 Cá 2600 19000 13,68%
6 Côn trùng 7000 751000 0,93%
Hệ động vật rừng Việt Nam không những giàu về thành phần loài mà có
những nét đặc trưng cho hệ động vật Đông Nam Á, không những thế hệ động
vật rừng ở Việt Nam còn có mức độ cao về tính đặc hữu (endemic) so với các
nước trong khu vực Đông Dương. Thiên nhiên Việt Nam với sự đa dạng sinh
học có tầm cỡ quốc tế luôn được chú ý và đánh giá cao.

12/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Tuy nhiên do các hoạt động khai thác không hợp lý các nguồn tài nguyên
sinh vật, phá hủy môi trường sống, đa dạng sinh học Việt Nam đang bị đe dọa
nghiêm trọng. Nhiều loài động vật đã biến mất hoàn toàn (như tê giác hai sừng),
số loài bị đe dọa ngày càng nhiều. Một số loài có nguy cơ bị tuyệt diệt là: tê giác
một sừng, bò xám, bò rừng, hạc cổ trắng, đồi mồi, cóc tía... Tê giác Java (tê giác
một sừng: Rinoceros sondaicus) là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao hàng đầu ở
Việt Nam và trên thế giới. Ở Việt Nam hiện nay chỉ còn 7 cá thể loài này tại
Vườn quốc gia Cát Tiên.
f) Vấn đề môi trường ở Việt Nam
Ngày nay Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước, nền kinh tế mới chuyển đổi sang kinh tế thị trường. Sự phát triển công
nghiệp với những công nghệ ít thân thiện với môi trường đồng thời với một hệ
thống chính sách ít hiệu quả trong việc bảo vệ môi trường đang làm cho môi
trường Việt Nam trở nên ô nhiễm hơn. Cơ chế thị trường cùng với một bộ phận
nhân dân thiếu hiểu biết sẵn sàng khai thác đến cạn kiệt mọi nguồn tài nguyên vì
lợi nhuận. Đói nghèo cũng đẩy nhiều người vào cảnh phải tàn phá thiên nhiên vì
miếng cơm manh áo hàng ngày. Ngay cả du lịch sinh thái, khi được tổ chưc
không hợp lí cũng phá hủy cảnh quan môi trường. Rác thải sinh hoạt, công
nghiệp, khói bụi ngày càng nhiều hơn và thực sự rất khó giải quyết.
Dưới đây là bảy vấn đề đang gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường của Việt Nam:
Thứ nhất, đó là nạn phá rừng:
Theo thống kê, năm 1943, nước ta có 37% đất phủ xanh. Đến năm 1975, tỉ
lệ này giảm xuống còn 29,1%. Và đến năm 1983, tỉ lệ này đã xuống tới 23,6%.
Đối với vùng nhiệt đới, dưới 30% là khủng hoảng môi trường: chế độ thủy
văn thay đổi, khí hậu thay đổi, cảnh quan thay đổi, suy thoái độ đa dạng sinh
học.
Thứ hai là tình trạng suy giảm tài nguyên đất:
Giảm diện tích bình quân đầu người là do dân số tăng.
Đất bị xói mòn, rửa trôi, laterit hóa, chua phèn hóa, mặn hóa.
13/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

Thứ ba là sử dụng tài nguyên nước không hợp lý: Không giữ được nước
vì không có hồ chứa nước, kĩ thuật điều tiết nước thấp. Thiếu nước nghiêm trọng
vào mùa khô. Ô nhiễm nước nặng nề ở Đồng bằng sông Cửu Long. Ô nhiễm
mặn do khai thác nước ngầm.
Thứ tư là tài nguyên khoáng sản bị tổn thất, khai thác không hợp lý: Than
lộ thiên mất 15-20%. Hầm lò mất 30-40%. Sử dụng đá granit để rải đường. Gây
ô nhiễm môi trường do khai thác khoáng sản. Khai thác vàng, đá quý bừa bãi.
Thứ năm là suy thoái đa dạng sinh học: Nhiều loài có nguy cơ tuyệt
chủng. Sách đỏ đã liệt kê 500 loài động đang gặp nguy hiểm, 60 loài có nguy cơ
tuyệt chủng. Các hệ thống vườn quốc gia xây dựng và bảo vệ tốt nhưng rất khó
khăn về thể lệ, nguồn lực để bảo vệ. Có 3200 km bờ biển nhưng không đủ vốn
để sắm tàu nên khai thác bừa bãi vùng ven bờ, nuôi thủy sản không khoa học.
Thứ sáu là ô nhiễm môi trường từ nước, không khí, rác, chất thải, tiếng
ồn. Các khu công nghiệp ô nhiễm hóa chất.
Cuối cùng là do hậu quả của chiến tranh: Hiện nay chất độc trong chiến
tranh còn ảnh hưởng, nhiều người còn di chứng không khắc phục được.
2. Việt Nam hành động
Hiện nay, Việt Nam đã có rất nhiều hành động để bảo vệ môi trường:
Từ năm 1981, nhà nước đã cho tập hợp các trường đại học, các viện,
thành lập Chương trình Quốc gia về Bảo vệ môi trường.
Công tác môi trường ở nước ta có 3 giai đoạn:
- Từ 1975-1980 : Hồi phục.
- Từ 1981-1990 : Xử lí môi trường trong phát triển sau chiến tranh.
- Từ 1990 đến nay là phát triển môi trường bền vững.
Ở Canada, ta đã trình bày chiến lược quốc gia của mình về bảo vệ môi
trường:
- Bảo vệ các hệ sinh thái, hệ nông nghiệp, thủy sản, rừng.
- Bảo vệ độ đa dạng sinh học.
- Khuyến cáo sử dụng năng lượng tiết chế, tiết kiệm.
- Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
14/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

- Bảo vệ môi trường có liên quan tới toàn cầu.


Năm 1985 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị Bảo vệ môi trường:
1991- 2000 ta chấp nhận phát triển bền vững ở hội nghị RIO.
Chương trình quốc gia về phát triển bền vững có nội dung hoạt động theo
5 hướng là :
- Có luật lệ chính sách về môi trường.
- Xây dựng các cơ quan môi trường. Đầu 1992, Bộ Khoa học Công
nghệ va Môi trường ra đời.
- Khuyến cáo phải quan trắc và thông tin bảo vệ môi trường. Thực hiện
Monitoring.
- Xây dựng chiến lược phát triển bền vững cho ngành và địa phương.
- Đánh giá tác động môi trường, tai biến môi trường.
với 7 chương trình hành động:
- Quản lí xây dựng.
- Quản lí tổng hợp lưu vực các sông.
- Quản lí tổng hợp vùng ven biển, cửa sông.
- Bảo vệ vùng đất ngâp nước.
- Bảo vệ đa dạng sinh học, các vườn quốc gia.
- Kiểm soát ô nhiễm và xử lí phế thải.
Hai chương trình hỗ trợ là:
- Giáo dục đào tạo.
- Quản lí hợp tác quốc tế.
Hiện nay chúng ta đã có bộ Bộ Tài nguyên và Môi trường riêng để quản
lý các vấn đề tài nguyên môi trường.
Những hoạt động này đã mang lại một số kết qua ban đầu song cần phải
tiếp tục duy trì lâu dài nhằm đạt được chiến lược phát triển bền vững của nước
nhà. Thực sự nước ta vẫn còn rất nhiều việc cần phải làm.

15/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

C. KẾT LUẬN
Môi trường thực sự là một vấn đề lớn và cấp bách song việc giải quyết nó
lại cần một thời gian dài. Việc giải quyết này sẽ quyết định trực tiếp đến tương
lai của loài người chúng ta.
Điều quan trọng ở đây là chúng ta phải nhận thức được một cách đúng đắn
mối quan hệ giữa tự nhiên, môi trường và xã hội. Đây là cơ sở đầu tiên cho việc
giải quyết những vấn đề môi trường hiện nay.
Sau khi đã nhận thức tốt chúng ta cần biến những nhận thức đó thành
hành động thực tế. Việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững là vấn đề toàn
cầu điều đó có nghĩa nó là việc của mỗi chúng ta.
Để giải quyết các vấn đề môi trường chúng ta cần có một tư duy dài hạn
nhưng phải hành động ngay từ bây giờ. Đây là một việc khó khăn nhưng chúng
ta cần phải làm và làm cho thành công, bởi nều không chính chúng ta sẽ bị diệt
vong.
Mỗi người chỉ với những hành động nhỏ bé và thiết thực, chúng ta có thể
góp phần thay đổi tương lai. Mỗi sáng hãy đi xe đạp tới trường, hãy tắt các thiết
bị điện không cần thiết, hãy trồng một chậu hoa, chỉ cần thế thôi.
"... Chẳng cần phải thật thông thái cao siêu chúng ta cũng hiểu được rằng
không nên tàn phá thiên nhiên chỉ vì những món lợi trước mắt, bởi chúng ta
muốn con cháu chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn trong một thế giới tốt đẹp
hơn..."( VTV2)

16/17
Tiểu luận Triết học Nguyễn Thủy Trang

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.


1. Bộ GD – ĐT, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr331 – tr348.
2. Nguyễn Văn Tuyên, Sinh thái và môi trường, 2000, tr190 – tr199.
3. Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển thế giới 2003, tr27.
4. Trần Hữu Dũng, Jared Diamond và vận mệnh các xã hội loài người, Tia sáng
số 3/2005, tr19 – tr21.
5. WWF Chương trình Đông Dương, Việt Nam - Thông tin khái quát, 1999, tr2
– tr4.
6. WWF, Sự huyền diệu của đất ngập nước, 1999, tr12 – tr13.
7. WWF, Tính đa dạng của sự sống, 1999, tr15.
8. Đặng Huy Huỳnh, Bảo vệ và phát triển lâu bền nguồn tài nguyên động vật
rừng Việt Nam, 1997, tr9 – tr12.

17/17

You might also like