You are on page 1of 210

J.

Beateman

Cậu cháu
nói chuyện đạo
(Dialogues apologétiques)

IMPRIMATUR
Fr.Verdier
Paris 10.6.1932

1
LỜI NGƯỜI DỊCH

Câu truyện trao đổi này, tuy ở một bối cảnh tôn giáo và
xã hội trước Vaticanô II đến hơn nửa thế kỉ, trong thời gian
đó, nhiều quan điểm thần học đã khác đi, đặc biệt là quan
điểm về đại kết, nhưng những vấn đề chủ chốt của khoa minh
giáo vẫn y nguyên, những luận cứ được vận dụng vẫn đầy sức
thuyết phục, sắc bén, rõ ràng.
Do đó, để giúp thực hiện hiểu, sống và làm chứng đạo
trong hoàn cảnh chúng ta hiện nay, thiết tưởng đây là một
trong những câu chuyện lí thú và bổ ích cho những ai không
đủ điều kiện đi sâu vào mọi ngõ ngách của môn Thần học có
hệ thống.
Người chuyển dịch tập này nghĩ nhiều hơn cả đến các
bạn giáo lí viên, chính thức, chuyên nghiệp hay nghiệp dư,
tạm thời, đang muốn góp tay gầy dựng toà nhà giáo lí vốn
nghèo nà của chúng ta.
Nào! Bây giờ xin mời hai Cậu cháu bắt đầu nói chuyện
đạo.

Phần I
Có Thiên Chúa

Chương mở đầu:
2
Ba nguyên tắc của ông cậu

- Chà! Cậu! Cậu tàn nhẫn thế à?


- Thế đấy! Đây, tóm tắt: Cậu chỉ tin cái gì cậu thấy. Cậu chỉ tin
cái gì cậu hiểu. Cậu là người tự - do - tư - tưởng. Chấm. Hết.
- Nhưng nếu cháu chứng minh được cho cậu thấy tất cả những cái
đó đều sai lạc cả thì sao?
- Thế nào?
- Cháu chứng minh được rằng cậu tin những cái cậu không thấy,
không hiểu và cậu không phải là người tự - do-tư - tưởng?
- Được, nói xem!
- Có thật, có chắc chắn rằng cậu chỉ tin cái gì cậu thấy mà thôi
không?
- Có chứ! Người nghiêm túc chỉ có thái độ đó mà thôi.
- Cậu đã thấy Na-pô-lê-ông chưa?
- Chưa.
- Vậy là không hề có Na-pô-lê-ông. Cậu có thấy ông cố nội của
cậu không?
- Không.
- Vậy là cậu không có ông cố nội. Cậu có thấy dạ dày, tim, trí
khôn của cậu không?
- Không. Nhưng...
- Vậy cậu không có dạ dày, không có trái tim, không có trí khôn.
- Cháu chọc tức cậu nhé! Cháu ghê quá!
- Không. Cháu cứ lô-gích thôi mà. Với cái nguyên tắc khốn nạn
cậu phóng ra như một phát thuỷ lôi đó, cậu không thấy rằng cậu
rơi vào tình trạng phi lí hết chỗ nói sao? Cứ nguyên tắc đó, thì
không được phép tin cổ sử, địa lí, hay triết học, khoa học nào cả.
Vậy mà cậu vẫn tin những cái đó. Này, cậu có tin có thành phố
Bắc kinh không? Có tin có không gian, có bản chất, có thời gian
không?
- Có! Phải tin những cái đó chứ!
- Thế cậu đã trông thấy những cái đó rồi?
- Nhưng cháu cũng biết rằng, khi người ta có thể thấy bằng con
mắt mình, thì người ta chắc chắn mình không lầm.
- Sai to rồi. Chính con mắt cậu cũng đánh lừa cậu!
3
- Con mắt cậu? Sao? Con mắt cậu đây?
- Cậu cứ thọc một chiếc đũa vào cốc nước. Cậu sẽ thấy nó gãy đi.
Không phải là con mắt cậu lừa cậu đó sao? Cậu cứ đi vào lòng
những sa mạc châu Phi, ảo cảnh sẽ làm cậu ngay giữa 12 giờ trưa
mà thấy cả những đồng cỏ xanh tươi, những cảnh trí nên thơ.
Không phải là những cái đó đánh lừa cậu sao? Phải chăng con mắt
cậu không bảo cậu rằng mặt trời xoay quanh quả đất sao? Vậy mà
trái lại thế.
- ...
- Cậu không nói gì cả? Này, cháu xin cậu nghĩ lại. Hãy vứt bỏ cái
nguyên tắc quá sai lầm đó đi. Nếu không, cậu sẽ phải kết luận
rằng: tổ quốc, danh dự, lòng tôn kính, tình yêu, công lí, nghĩa
vụ... chỉ là những danh từ, chỉ là những cái không có thật, vì
người ta không thấy chúng bằng con mắt mình.
- Thôi, không phải dài lời. Nhưng nguyên tắc thứ hai thì cậu
cương quyết giữ lấy, không bao giờ bỏ. Nguyên tắc này...Mọt
cũng đã đục rỗng đi như nguyên tắc thứ nhất.
- Cháu đừng sợ cậu nêu lại nguyên tắc đó.
- Ô! Không, cháu không hề sợ. Này, ngay bây giờ đây, nói thì
cũng hỗn với cậu đây, cháu có thể nói với cậu rằng nếu cậu chỉ tin
cái gì cậu hiểu, thì kết cục cậu là người không tin một cái gì hết.
- Trắng trợn thế!
- Xin lỗi, cháu đùa đấy. Trở lại cái nguyên tắc của cậu: riêng
cháu, cháu dám quyết rằng thật ra có những cái cậu không hiểu
mà cậu vẫn tin.
- Dẫn chứng xem!
- Cậu này! Chúng ta sống giữa những cái không thể hiểu, chúng
ta bị dìm trong bí nhiệm. Sự sống là gì? Nó được truyền sang
chúng ta như thế nào? Nó bắt đầu có khi nào và kết liễu khi nào?
Nếu cậu nhận có linh hồn, thì cậu giải thích làm sao việc một cái
thiêng liêng, phi vật chất, mà có thể làm cho một thể xác vật chất
cử động, dời chỗ được? Nếu cậu không tin có linh hồn, thì xin cậu
nói cho cháu hiểu tư tưởng là gì, ý chí là gì, vui sướng, sầu khổ,
lương tâm là gì? - Nóng lạnh, không gian, bản thể, điện lực là gì?
- Làm sao hạt lúa lại hoá thành bông lúa, con tằm biến thành con
bướm? – Cậu giải thích cho cháu lời nói là gì, dinh dưỡng, tiêu
4
hoá là gì, giấc ngủ, ánh sáng, lửa là gì? - Tại sao cũng một nồi
nước sôi, mà bỏ thức ăn này vào thì cứng lại, bỏ thức ăn khác vào
lại mềm ra, hành ra màu trắng, thịt ra màu sẫm, nhưng tôm cua lại
hoá màu đỏ?
- Giải thích? Giải thích ư?...
- Vâng, xin cậu giải thích cho cháu hiểu làm sao quả đất lại
có 3 chuyển động khác nhau một trật: xoay quanh trục của nó,
xoay quanh mặt trời và di chuyển trong không gian; - làm sao
theo lời các nhà bác học, mỗi giọt nước chứa đến 25 triệu phân tử,
mỗi phân tử như thế lại chứa hàng triệu nguyên tử? Đúng. Cả vũ
trụ nàyđầy dẫy những ẩn số oái oăm, những bài toán hóc búa. Nói
tóm tắt là đầy dẫy những mầu nhiệm. Chúng ta sống trong cái
không thể hiểu và, như Pascal nói, “chúng ta không biết rõ cái gì
hết”. Nào cậu không thấy nguyên tắc của cậu lung lay tận gốc và
nó làm cậu ra người kiêu căng sao?
- Thế nào? Cậu kiêu căng?
- Vâng, vì nếu nguyên tắc đó cậu đề ra một cách nghiêm
chỉnh, thì nó có nghĩa là: 1/ Nếu Thiên Chúa có thật, thì Người
phải ra trước toà án lí trí cậu để cậu xét hỏi về những bằng chứng
về Người; nếu cậu chưa cho những bằng chứng đó là đủ, cậu sẽ
không nhận Thiên Chúa; 2/ Cái mà bản thân cậu nghĩ mình có thể
làm được, thì kẻ thô bỉ nhất trong thiên hạ cũng có thể đòi Thiên
Chúa phải làm cái đó cho hắn. Cậu không thấy như vậy là xấc
xược sao?
- Nhưng trí khôn cậu có quyền kiểm tra!
- Trong những việc của loài người, được, nếu nó có thể kiểm
tra (nhiều lúc không thể); nhưng trong những việc của Thiên
Chúa, không được.
- Sao lại không được?
- Nếu nơi Thiên Chúa, không có cái gì mầu nhiệm cả, thì
Thiên Chúa sẽ không còn là Thiên Chúa nữa. Đàng khác, nếu nơi
sự vật thụ tạo rốt bét mà mầu nhiệm còn đầy dẫy như thế, sao lại
cấm không được có cái gì mầu nhiệm nơi Đấng đã sáng tạo nên
các sự vật?
- Thế thì còn gì là quyền của lí trí con người nữa?

5
- Lí trí có quyền trong phạm vi của nó. Bên cạnh một vài
quyền lợi, lí trí còn có những nhiệm vụ. Này cậu, nếu chỉ có cái
cậu hiểu được là có thật và, do đó, đáng tin, như thế không phải là
cậu cho trí khôn cậu là thước đo độc nhất, tuyệt đối và không thể
sai lầm cho chân lí hay sao? Như thế là cậu trở thành Ngài, trọng
tài thẩm định sự thật. Cái gì Ngài hiểu được là đúng, là thật. Cái
gì Ngài không hiểu được là sai, là trái!
- Cậu không nói như thế.
- Nhưng cậu đã nêu nguyên tắc, thì phải đi đến đó chứ! Ô!
Trông một con người dùng chút trí khôn lu mờ như ngọn đèn lắm
khói soi vào những bài toán hóc búa của vũ trụ và vô hạn, người
ta tưởng như thấy nó đang lấy cái đê-xi-mét đo cả đường kinh
tuyến, cân cả dãy Bạch sơn trên cái cân thư, hay hút cho hết nước
đại dương bằng cái “đếm giọt”. Thật đấy, cậu ạ. Cậu tin vô số cái
mà cậu chỉ nghiệm xét mà không sao hiểu được. vậy thì cậu cũng
nên biết điều mà kết luận rằng nơi Thiên Chúa cũng có những
mầu nhiệm chúng ta phải tin vì chính Người đã tỏ ra cho chúng
ta.
- Nhưng dù sao thì cháu cũng phải nhận rằng tin những cái
mình không hiểu được là làm một việc mâu thuẫn, vô lí, phi lí.
- Khoan! Mầu nhiệm không phải là phi lí. Có thể chúng ta
không thấy được các phần của chân lí bí nhiệm chúng hoà hợp
nhau như thế nào, nhưng chúng ta không thể chứng minh các
phần đó mâu thuẫn nhau.
- Như mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chẳng hạn?
- Nếu cháu nói với cậu: ba Thiên Chúa làm thành một
Thiên Chúa độc nhất, thì rõ ràng như thế là phi lí. Đàng này, cháu
nói: nơi Thiên Chúa có ba ngôi nhưng làm thành một Thiên Chúa
mà thôi. Cậu không hiểu làm sao lại như thế, nhưng cậu không
thể chứng minh rằng nói như vậy là mâu thuẫn. Hình tam giác: nó
có một mặt phẳng duy nhất, nhưng ba cạnh. Mầu nhiệm vượt trên
sức trí khôn, nhưng không nghịch với trí khôn. Mầu nhiệm là cái
không thể hiểu được, nhưng mầu nhiệm không phi lí.
- Các nhà bác học sẽ đủ lí lẽ để trả lời cháu!
- Cũng không hơn gì một người mù chữ. Tuy họ có biết hơn
chúng ta đôi chút, nhưng cũng như chúng ta, mà còn hơn chúng ta
6
nữa, họ cũng sống giữa những mầu nhiệm. Họ nghiệm xét các sự
kiện, nhưng họ chẳng giải thích được cái gì cả. Cậu cũng thừa biết
rằng chính khoa học cũng có những mầu nhiệm của nó, những
mầu nhiệm không sao thăm dò được. Khoa học tự hào về những
mầu nhiệm đó, vì nó nghiệm xét chúng, nhưng khoa học lại phải
nhục vì chúng, vì khoa học không biết gì về nguyên nhân hay bản
chất nội tại của chúng.
Trong thế giới tự nhiên mà còn như thế, thì sao cậu lại bỡ
ngỡ khi nghe nói rằng tôn giáo là phạm trù rộng lớn mênh mông,
mà đối tượng là Thiên chúa, tôn giáo cũng có những mầu nhiệm?
Cơ-lôt Bec-na nói rằng: có thấy nhà bác học, khi chạm trán
với bí nhiệm siêu hình, đành “buông mình cho ngọn gió của cái
không biết ru ngủ, giữa những cái tuyệt diệu của dốt nát”, mới
thán phục cái cử chỉ của người tín hữu tin cả những cái mình
không thể hiểu, vì niềm tin của họ dựa trên lời nói của một vị
Thiên Chúa không thể lầm, cũng không hề lừa dối chúng ta.
- Vị Thiên Chúa cháu nói đó, tại sao người ta lại không thể
hiểu Người, mặc dù xung quanh Người là những mầu nhiệm?
- Cháu đã thưa với cậu: nếu chúng ta hiểu được Thiên Chúa,
thì chúng ta sẽ là Thiên Chúa. Khi chúng ta hiểu một cái gì, thì có
nghĩa là cái đó lọt vào trí hiểu chúng ta, chúng ta chứa cái đó. Mà
cậu biết rằng chứa và hiểu đôi lúc đồng nghĩa với nhau. Do đó,
muốn hiểu được Thiên Chúa, thì Người phải nằm gọn trong trí
hiểu chúng ta. Điều đó không thể được, vì Thiên Chúa vô hạn,
còn ta có hạn. Ô! Cậu ạ, trí khôn chúng ta mà hiểu được, chứa
được Thiên Chúa, thì Thiên Chúa nhỏ bé quá!
- Các mầu nhiệm của cháu, chà! chỉ là đêm tối!
- Rất đúng. Nhưng đêm tối không phải là không có ích: có
đêm mới thấy sao. Thiên Chúa có những mầu nhiệm của Người,
cũng như chúng ta, chúng ta có những bí mật riêng của chúng ta.
Chúng ta có thể không thông tỏ những bí mật đó cho ai cả. Thiên
Chúa cũng làm như thê. Thay vì phẫn uất trước một việc tự nhiên
như thế, trước mầu nhiệm mà chúng ta cảm thấy ngay trong
chúng ta, xung quanh chúng ta, khắp mọi nơi, nhưng chính mầu
nhiệm đó cậu lại muốn không gặp thấy nơi Thiên Chúa, thay vì
như thế, tốt hơn là cậu hãy thoả mạn với câu trả lời của Niu-tơn vĩ
7
đại: “Tôi biết luật hấp dẫn vũ trụ. Nhưng nếu ai hỏi tôi hấp dẫn vũ
trụ là gì, thì tôi không biết trả lời thế nào cả!”
- Mặc!
- Thánh Augustin nói: “Khi không ai hỏi tôi: thời gian là gì,
thì tôi hiểu nó. Nhưng hễ là có ai hỏi: thời gian là gì. Thế là tôi
không hiểu nữa!” Đấy, người ta đã cố định nghĩa thời gian bao
nhiêu thế kỉ rồi mà vẫn chưa làm được.
- Như vậy, cứ nên trả lời: “ tôi không hiểu” sao ?
- Nhiều khi như thế là khôn hơn cả. Và cậu cũng nên bắt
chước Niu-tơn điểm này nữa. Hôm nọ có bà kia hỏi ông mấy vấn
đề, ông không giải đáp được. Thấy vậy, bà ta bỡ ngỡ, vặn lại:
-Nhưng, thưa ngài, thông thái như ngài nào ích gì?
- thưa bà, ích ở chỗ để đôi lúc mà trả lời với người ta rằng:
tôi không hiểu.
- Thôi, cám ơn cháu !
- Cậu ạ, cháu nghĩ rằng cậu có quá đủ thông minh để không
chôn chân trước một bóng ma như vậy. Có ngày chính cậu cũng
sẽ tin đạo.
- Không đâu. Cháu cũng biết thế, vì thẳng thắn mà nói, cậu
là người tự do tư tưởng.
- Như thế là đến nguyên tắc thứ ba?
- Đúng. Mà cháu đừng hòng tấn công nó. Cậu có quyền
muốn tin gì thì tin mặc ý mình.
- Không thể được. Trừ khi trí khôn đã rối loạn.
- Thế cậu không được tự do suy nghĩ sao?
- Không. Cậu không được tự do nghĩ rằng 2 cộng 2 thành 9,
rằng chưa bao giờ có vua Cơ-lô-vix, rằng Pa-ri ở bên Nhật, rằng
thạch tín là thức ăn tốt nên dùng và Axít xuyn-phu-rit là đồ uống
rất hợp vệ sinh.
- Nhưng nếu cậu lại muốn nghĩ như thế, thì ai ngăn được?
- Lí trí ngăn, nếu cậu có lí trí.
- Thiên Chúa có thì cũng phải để ta tự do chứ!
- Cậu tự do. Cậu có cái khả năng thãm hại là lãnh đạm,
không chịu tin, ghét tôn giáo; nhưng cậu không có quyền làm như
thế. Cháu xin nói lại lần nữa: không phải cậu muốn suy nghĩ thế
nào mặc ý cậu đâu. Không phải cậu sáng tạo nên chân lí; chính
8
chân lí chi phối và ràng buộc cậu. Nếu trong toán học,hình học,
sử học, địa lí, nghệ thuật, triết lí và mọi ngành khoa học khác, tự
do tuyệt đối trong suy nghĩ là một điều phi lí, thì chân lí tôn giáo
cũng tuyệt đối, cũng buộc người ta tin như chân lí văn chương,
khoa học, triết học và đạo đức học. Không. Người ta không được
tự do muốn suy nghĩ thế nào tuỳ ý. Có những chân lí bắt buộc
người ta phải tin.
- Kì dị thật!
- Kì dị là cậu cứ cố sống cố chết bám lấy những luận điệu cũ
rích đó, như người chết đuối bám lấy chiếc phao cứu mệnh. Cháu
xin hỏi: nếu cháu thưa ba cháu rằng ba không có quyền gì đối với
cháu, cháu được tự do muốn suy nghĩ thế nào mặc cháu, nghĩa là
vâng lời ba hay không tuỳ cháu, thì sao?
- Như thế là sai! Nguyên việc nghĩ đến điều đó cũng không
được.
- Thế thì trên đời, chỉ có cậu là tự do?
- Ai cũng tự do, nhưng cũng có ba bảy cách tự do.
- Phải rồi, ba bảy cách, nghĩa là người ăn trộm thì (nghĩ mình
được phép lấy của kẻ khác; tên hung thủ thì cho rằng giết người
có thể là có ích...Tóm tắt, như cậu nói, thì tự do tư tưởng chỉ là
suy nghĩ như cậu mà thôi... Như vậy là cậu nhận có hai chân lí và,
theo cậu, chân lí chắc chắn nhất lại không phải là chân lí mà
người ta nghĩ là chắc chắn nhất. Do đó, cậu không có quyền tự do
suy nghĩ mặc ý... Rồi, cậu có phải là nhà tư tuởng không? Cháu
khó mà hi vọng có thể tặng cậu cái danh hiệu đó, nếu cậu cứ tiếp
tục lặp đi lặp lại những luận điệu cũ rích, quá lỗi thời, chỉ tổ làm
trò cười cho hạng khờ, chứ thật ra đó là những nguyên tắc rỗng
tuếch, vô vị.
- Ô! Rất tinh tế.
- Này, cậu phải thú nhận là các nguyên lí mong manh cậu
nêu ra đã lung lay rồi. Cậu nên nhớ rằng lấy tay bịt mắt lại không
tắt được mặt trời đâu!
- Được rồi! Cháu sẽ biết tay! Cháu còn trẻ quá, đừng hòng bẻ
gãy được một tay già đời như cậu.
- Dù sao, hôm nay, cháu thấy rõ và cháu ghi nhớ 3 điểm này:
1/ Có những cái cậu không thấy mà cậu cũng tin;
9
2/ Có những cái cậu không hiểu mà cậu cũng tin;
3/ Cậu không phải tự do, cũng không phải nhà tư tưởng. Như
thế.
- Được, rồi cháu sẽ biết!....

Chương II: Có Thiên Chúa

I. Sáng tạo và sự sống


- Này cháu! Hôm trước, cháu cũng một phần nào làm lung
lay các nguyên tắc của cậu. Cậu đã để cháu làm việc đó. Suy nghĩ
lại, thì những nguyên tắc đó cũng có chỗ thiếu, sót. Hôm nay,
chúng ta đề cập những vấn đề lớn. Cháu có bộ óc linh lợi đấy,
nhưng cháu sẽ thấy rằng những tên lửa cháu phóng ra không thể
nào khuất phục được cậu đâu. Miệng cháu cứ luôn luôn nói đến
Thiên Chúa. Phần cậu, cậu quyết rằng không có Thiên Chúa.
- Phải rồi, đây là vấn đề căn bản, vấn đề chủ chốt. thiếu nó,
tất cả những vấn đề khác đều sụp đổ. Vì thế, cháu sẽ chứng minh
cho cậu thấy rõ là có Thiên Chúa.
- Cũng gay đấy, cháu ạ.
- Tất nhiên ở đây cháu không thể dẫn những chứng cứ theo
lối toán học. Thế nhưng, những lí lẽ cháu trình bày với cậu, cũng
đủ mạnh để quật ngã một người vô thần, miễn là người đó thành
tâm.
- Cậu là vô thần đây. Nhưng cháu nên biết rằng cậu muốn
thấy những chứng cứ, nếu không toán học, thì ít ra cũng có tính
chất thực nghiệm theo nghĩa thông dụng hiện nay của từ ấy.
10
- Nhưng, cậu ạ, Thiên Chúa là một Đấng thuần thiêng, thì làm sao
có thể dùng một thí nghiệm vật lí hay hoá học mà chững minh có
Người được? Đàng khác, thiếu gì sự vật có thật, mà người ta
không thể thấy, không thể sờ vào hay cảm nếm được!
- Thí dụ?
- Thí dụ: tư tưởng, sự sống, điện lực,vv... Có những sự vật
khác, có thể thấy được, nhưng không thấy cũng có thể đoán chắc
là có thật. Đây, vì cậu thích những sự vật cụ thể: vết chân người
trên bãi cát chẳng hạn: thấy nó, cậu kết luận rằng có một người
nào đó đã đi qua. Thấy sợi khói từ mái bếp toả lên, cậu đã có thể
quyết trong nhà có lửa, mặc dầu mắt cậu không thấy lửa.
- Đúng!
- Đàng khác, cháu xin báo cho cậu biết rằng: cuộc tranh luận
đầu tiên ngày hôm trước đã kích thích làm cháu thấy say sưa. Nên
cháu đã tạm gác mấy cuốn tiểu thuyết lại để vùi đầu vào việc
nghiên cứu minh giáo. Do đó, hôm nay, cháu xuất trận được vũ
trang đầy đủ lắm.
- Càng hay! Cậu thích những luận cứ chắc chắn, hơn là
những lối nói nửa đùa nửa thật.
- Thật ra, đối với những luận cứ mong manh hôm trước, thì
dễ bẻ gãy thôi. Nhưng hôm nay, không phải là những luận cứ
mong manh nữa, mà là một câu phủ định tàn nhẫn. thế thì ta đi
ngay vào vấn đề đó.
- Được, cháu nói trước đi!
- Trước tiên, cậu chối không có Thiên Chúa. Cái đó đã rõ
ràng. Vậy cháu xin hỏi: liệu cậu có thể chứng minh rằng khôngcó
Thiên Chúa không?
- Chứng minh ư?
- Phải. Xin cậu cho những chứng cứ. Xin cậu chứng minh
cho cháu thấy không có Thiên Chúa.
- Cái đó không chứng minh được, chỉ khẳng định thôi.
- Như thế là cậu khẳng định một phủ định? Cháu thì cháu
thấy rõ và cháu dám nói với cậu rằng cháu ngang nhiên hơn cậu,
vì cháu có thể đưa ra cho cậu thấy những chứng cứ và cháu cuộc
cậu đánh sập được những chứng cứ đó!
- Được, cậu sẽ đánh sập cho mà xem!
11
- Cậu hãy nói cho cháu biết: ai sáng tạo nên vũ trụ này?
- Chẳng ai sáng tạo nên vũ trụ này cả. Nó có từ bao giờ đến
nay.
- Có luôn ư?
- Đúng thế.
- Như thế nghĩa là từ trước tới nay, bao giờ cũng đã có
những khoáng sản, những thảo mộc, động vật, con người?
- Tất nhiên!
- Thế là cậu thua rồi! Này, cậu cũng biết rằng môn vũ trụ học
cho hay vũ trụ không phải là đã có luôn như nó hiện có. Ban đầu,
chỉ là một khối khổng lồ chảy lỏng, phải biến hoá mất 15 triệu
năm mới được như ngày nay. Quả đất ta ở tách khỏi khối đó phải
mất 50 triệu năm mới nguội đi, rồi dần dà sự sống mới xuất hiện
được. Môn địa chất học cho biết: trạng thái của những khối đá sơ
thuỷ và bản chất của chúng làm chững quả đất ta trước kia nguyên
là một khối nóng chảy thấp nhất là ở 3000 độ. Làm sao có thể có
một cây, một con vật, một con người sống được trong cái lò lửa
đó!
- Nói như thế để kết luận cái gì?
- Kết luận rằng sự sống chỉ có thể xuất hiện trong vũ trụ này
sau thời kì bạch nhiệt của nó và như thế nghĩa là phải có một ai đó
đã gieo sự sống vào quả đất này.
- Còn thuyết tự sinh thì sao?
- Ô! Pat-xtơ và Tin-đơn đã chứng minh một cách thực
nghiệm và dứt khoát không thể chối cãi được rằng không làm gì
có hiện tượng tự sinh và hễ là một vật sống thì chỉ có thể do vật
sống mà ra.
- Nhưng một nhà hoá học giỏi có thể làm nên một hợp chất
tương tự như “nguyên sinh chất” nơi một tế bào.
- Đồng ý. Nhưng như thế là nhà hoá học đó làm được một
“sản phẩm hữu cơ”, chứ không phải một “chất hữu cơ và sống”.
Làm gì thì làm, sục sạo các ống nghiệm mấy thì sục sạo, không
bao giờ ông tìm thấy sự sống. Do đó, sự sống tuỳ thuộc vào một
nguyên nhân ngoài và cao hơn vật chất. Nguyên nhân đó, cháu và
những người như cháu gọi là Thiên Chúa.
- Lập luận của cháu ranh mãnh lắm. Để cậu suy nghĩ đã.
12
- Nếu cậu đồng ý, chúng ta theo một phương pháp khác.
Cháu xin hỏi cậu: Cậu do đâu mà có?
- Do cha cậu.
- Cha cậu do đâu?
- Do ông cậu.
- Như thế là cậu lần mãi lên tận “Đại hồng thuỷ”?
- Trên nữa chứ! Cậu là một mắt xích trong cả một dây
chuyền mất hút trong đêm tối thời gian.
- Cháu đồng ý với cậu lấy so sánh dây chuyền và mắt xích.
Vậy phải chăng cậu muốn làm cháu tin rằng sợi dây chuyền đó
không có một mắt xích nào là mắt xích đầu tiên cả ư? Nếu thế, nó
treo vào cái gì? Cái gì giữ nó ? Phải. Cậu thử tìm cho cháu một
sợi dây chuyền không có mắt xích đầu tiên nào!
- Nó có từ đời đời...
- Ô! Vật chất mà bảo là có từ đời đời mới kì chứ! Như thế là
cậu có ý nói vũ trụ có từ đời đời?
- Đúng!
- Có từ đời đời như Thiên Chúa?
- Thiên Chúa là một ẩn số.
- Như thế là cậu đẩy cháu vào địa hạt triết học rồi. Được, ta
cứ tiến lên! Cháu nói thế này nhé: nếu vũ trụ có từ đời đời, thì nó
phải tất yếu, bất biến, vô hạn.
- Rất đúng.
- Cậu có công nhận rằng vũ trụ là vật chất không?
- Tất nhiên.
- Được rồi. Cháu hỏi cậu nhé: làm sao vật chất lại tất yếu
được! Trong các thành phần của nó, không thành phần nào có một
cách tất yếu cả. Có thể không có dãy núi này, cây cam này, có thể
không có cậu, không có cháu, phải không?
- Cái đó thì rõ quá rồi!
- Thế thì, nếu không thành phần nào của vật chất là tất yếu
cả, làm sao toàn bộ lại tất yếu được?
- Thôi, cái đó cho qua đi!
- Vật chất đời đời thì phải bất biến; vậy mà cậu cũng thấy
rằng mọi sự đổi thay, xuất hiện, sống, chuyển động, biến hoá
xung quanh ta. Điểm này có cần cho qua không, cậu?
13
- ừ, cho qua!
- Nhưng cháu chưa cho qua, cháu xin nói thêm rằng: nếu vật
chất có từ đời đời, thì nó phải vô hạn. Vậy mà ..
- Nó vô hạn, có luôn, không bắt đầu, không chấm tận, nó...
- Thôi, thôi! Cậu luận dở quá!
- Có thể lần ngược mãi chiếc thang sự vật, lên mãi không bao
giờ cùng, không bao giờ gặp cái “đầu mút” mà cháu khư khư bám
lấy đó.
- Phải. Cháu bám chặt lấy nó.
- Không bám thì hỏng cả.
- Không. Như thế mới hợp lí.
- Thế ra cậu đây phi lí hay sao?
- Hoàn toàn phi lí. Quyết rằng một vật nào đó không bao giờ
bắt đầu cả, tức là nói nó tự mình mà có và do đó, trong yếu tính
của nó có chứa lí do tồn tại của nó và vì lẽ đó, cũng quyết rằng nó
không bao giờ mất được. Cái gì không bắt đầu thì cũng không
bao giờ chấm tận.
-Thì chính đó là điểm cậu khẳng định.
- Nhưng không may cho cậu: khoa học còn đó để nói với cậu
rằng: mặt trời và các ngôi sao đang ngày một nguội dần; rằng có
những vũ trụ đang hình thành và nhưng vũ trụ đang tàn tạ; rằng
căn cứ vào màu sắc tương ứng của mỗi ngôi sao, người ta tính
được tuổi của nó. Tóm tắt, mọi sự đang tiến bước, đang chạy tới
một điểm tận không gần thì xa; quả đất ta ở đã trải qua tuổi thơ,
tuổi thanh niên của nó; có ngày nó sẽ già cỗi và chấm tận. Vô hạn
mà có ngày chấm tận!? Thế mới kì chứ!
- Cháu thì bao giờ cũng lấy chuyện sao trời để tấn công cậu.
- Cháu cũng sẽ tấn công cậu bằng cách kéo cậu vào thế giới
những vật vô cùng nhỏ bé. Nhưng ta trở lại vấn đề đã. Như thế là
vũ trụ đã có lúc bắt. Vậy thì ai là người đã làm cho mọi sự bắt đầu
có?
- Chả biết!
- Chưa hết. Không cần biết vũ trụ đã bắt đầu có khi nào, cho
bằng biết nó đã bắt đầu có thế nào. Vấn đề thời gian không hệ gì.
Căn bản là biết rõ nguyên nhân.
- Đơn giản thôi.
14
- Thế cậu thử nói xem nào!
- Đồng ý với cháu là vũ trụ không thể hằng có luôn như ngày
nay; trải qua các thời đại, nó đã biến hoá liên tục. Chúng ta hiện ở
tuổi vàng của vũ trụ, nhưng trước kia đã có thời kì đồ đá, thời kì
đồ sắt, thời kì hoá thạch, thời kì phân tử, thời kì nguyên sơ.
Chúng ta có thể cùng với khoa học lần lên tới tận khối tinh vân
nguyên thuỷ, trung tâm và mẹ của mọi cái hiện có.
- Cháu công nhận hệ thuyết đó .
- Qua những biến hoá liên tiếp, vật chất trở thành khoáng
chất, rồi thảo mộc, rồi động vật, cho đến bước phát triển hoàn bị
như ta thấy hiện nay.
- Tuy cháu có thể công nhận một sự biến hoá nhất định đã có
thể diễn ra chính trong vật chất, nhưng cháu đố cậu chứng minh
được cho cháu thấy rõ rằng:
1. Vật chất hay khối tinh vân nguyên thuỷ đã tự mình mà có;
2. Vật chất vô cơ, có khối lượng, bất động, lại có thể tự mình
chuyển động, tự tổ chức nên có qui cũ như hiện thấy;
3. Nhất là vật chất đã có thể sáng tạo nên sự sống cùng với con
người có thiên tư trí tuệ.
- Sao lại không?
- Không có cái gì không có nguyên nhân gây nên. Mọi hiệu
quả đòi phải có một nguyên nhân tương ứng. Không ai có thể cho
cái mình không có. Vậy mà vật chất nguyên nó không có sự sống,
thì có biến hoá mấy cũng không làm gì phát sinh sự sống được.
- Hiện nay người ta chưa nắm bắt được hết mọi tiềm lực của
tự nhiên.
- Đồng ý. Nhưng:
1. Những nguyên tử có móc mà người ta bảo là đã hình thành nên
khối tinh vân, tự nó không có chuyển động thì cũng không thể
truyền chuyển động được;
2. Vật chất quán định không thể phát sinh sự sống;
3. Vật chất vô tri (inepte) không thể tạo nên trí tuệ.
- Nhưng đã có Tình cờ!
- Ô! Hoan hô, cháu vẫn chờ đợi ngài Tình cờ! Cậu ơi, tình cờ
chẳng là cái gì hết và nó chẳng làm phát sinh ra được cái gì hết.
Tình cờ chẳng qua là một danh từ người ta nặn ra để che đậy cái
15
dốt nát của mình, hoặc để gỡ mình khỏi những cái làm mình
phiền. Một lần nữa, cậu này, cháu bám lấy (như nguyên tử có móc
mà người ta nói ấy) cháu bám lấy khối tinh vân nguyên thuỷ in
như cậu trình bày và cháu xin cậu nói cho cháu biết nó từ đâu
đến.
- Dễ thôi, nó phát xuất từ những vi thể ê-te lúc đầu còn rải
rác trong khoảng không gian vô hạn. Đến một lúc nào đó, chúng
qui tụ vào trung tâm của chúng, thành ra khối tinh vân.
- Nhưng những vi thể ê-te kia do đâu mà có?
- Do...do...
- Phải, xin cậu cho cháu biết những vi thể ê-te, cái khối tinh
vân nguyên thuỷ kia do đâu?
- Chà! Do...do...
- Trong khi chờ đợi câu trả lời do đâu mà có, cháu xin phép
tóm tắt luận cứ của cháu thế này:
1/ Vật sống chỉ có thể do vật sống mà có. Đó là cái công thức
mà nhà đại bác học La-voa-di-ê năng nhắc đến.
2/ Để kiện chứng định tắc đó, cháu đã nói rằng thuyết tự sinh
đã bị khoa học lên án, sau những thí nghiệm thời danh của Patxtơ.
Hồi đó, Hàn lâm viện đã cử một tiểu ban duyệt lại và họ đã chỉ có
thể kiện chứng rằng thí nghiệm của Pat-xtơ hoàn toàn đúng.
3/ Đã có một thời kì mà những bằng cứ của khoa học hiện
đại vẫn quyết là có như thế, đã có một thời kì trên quả đất ta đang
ở không có một vật sống nào có thể tồn tại, vì quả đất vừa nguội
đi sau một thời kì nóng chảy.
4/ Vậy mà vật sống đã xuất hiện trên mặt đất và xuất hiện
dưới những hình thái khác nhau. Một lần nữa, vật sống đó do đâu
mà có?
Nếu cậu bảo rằng nó từ chính bản thân nó mà có, nghĩa là nó
tự ban sự sống cho mình theo thuyết tự sinh, thì khoa học chứng
minh cho cậu thấy rằng việc đó là không thể.
- Do đó, phải công nhận rằng vật sống đã nhận sự sống từ
một vật sống khác đã có sự sống đó trước nó và chỉ vật sống có
thể ban sự sống. Không thể tưởng tượng ra một giả thuyết thứ ba:
hoặc là vật sống tự ban sự sống cho mình; hoặc là nó nhận sự
sống từ vật khác. Mà vì nó không thể tự mình ban sự sống cho
16
mình, nên phải kết luận rằng nó đã nhận sự sống từ hữu thể khác,
hữu thể này không nhận sự sống từ đâu cả. Đó là Thiên Chúa.

Chương III.
II. Chuyển động

- Nào! Cậu, cậu có thông tin gì về khối tinh vân nguyên thuỷ
chưa?
- Chưa có gì. Thú thật vấn đề hôm trước làm cậu phải suy
nghĩ ghê gớm. Dầu vậy, hệ thuyết của cậu hay lắm.
- Hay, nhưng không giải thích được cái gì cả.
- Có chứ. Do lai các vật.
- Có đâu! Đành rằng thuyết đó cũng có giải thích được phần
nào cách thức biến hoá của vật chất, nhưng vấn đề do lai vẫn chưa
được giải quyết. Đàng khác, những sự biến hoá kia cũng đòi có
một người lãnh đạo chúng. Để mặc nó, vật chất làm được gì!
- Sao nó lại không tìm được ngay trong nó bản nguyên của
mọi sự biến hoá?
- Cậu thấy cái đồng hồ kia chứ? Thật ra người ta cũng bảo là
nó tự động, nghĩa là tự mình chạy được. Nhưng nếu cậu không
lên dây lại, thì rồi nó đi làm sao được. Vũ trụ cũng vậy. Do đó,
cháu thấy cần đề ra với cậu một vấn đề khác, cũng cấp thiết như
vấn đề trước. Đó là chuyển động.
- Nói rõ hơn xem nào!
- Thế này: trong vũ trụ, mọi cái đều chuyển động. Hạt lúa có
chuyển động riêng của nó. Mầm cây trổ thành bông hoa, rồi kết
quả; mà trong bông hoa nhỏ bé nhất cũng có cả một chuỗi những
hoạt động không ngừng. Trong thế giới động vật còn lí thú hơn
nữa: hô hấp, tuần hoàn, đồng hoá, sinh trưởng; ngày đêm, chuyển
động cứ tiếp diễn, ngưng là chết. Sau hết, hãy nhìn vũ trụ thiên
hà. Vì muốn nói chuyện với cậu, mà cháu vừa mới đọc lại tậpvũ
trụ hoc. Cháu thấy rằng quả đất ta nặng 5.875 tỉ tỉ tấn. Muốn kéo
nó đi, phải dùng sức của 10 tỉ đoàn ngựa, mỗi đoàn gồm 10 tỉ con
ngựa. Vậy mà trong không gian, quả đất cứ mỗi giây đi được
55km, đồng thời nó xoay trên trục của nó với vận tốc là 375
17
dặm/giờ. Mỗt trời (chỉ là ngôi sao lớn thứ 6), nặng hơn quả đất
35 vạn lần, mỗi năm nó đi được 74 triệu dặm, kéo cả các vệ tinh
của nó đi theo. Ngôi sao số 1830 trong sổ Gơ-rum-bơ-rit-giơ, mỗi
ngày đi được 3 triệu dặm. Vậy mà còn có hàng triệu mặt trời khác
như mặt trời chúng ta, với hàng triệu ngôi sao khác đi theo chúng.
Và tất cả đạo binh tinh tú vô số đó, chuyển động trong không gian
vô hạn theo những vận tốc kinh khủng.
- Đồng ý!
- Thế, cậu có thể nói cho cháu biết ai làm chúng chuyển động
như vậy không? Cháu thiết tưởng cậu cũng thừa nhận mọi chuyển
động đều đòi phải có một động cơ đầu tiên chứ?
- Không cần động cơ đầu tiên. Vật chất tự nó làm cho nó
chuyển động.
- Chà! Nói như thế, các nhà bác học mà nghe được, thì họ
phải thét lên. Cậu chủ trì vật chất không phải là trơ trơ bất động,
nó tự làm cho mình chuyển động được, tức là cậu phi bác tất thảy
mọi tính toán của môn cơ học.
- Cậu không cần những thứ đó!
- Hơn nữa, cậu còn phỉ nhổ cả lương tri của con người. Vật
chất mà chuyển động được, thì chúng ta sẽ thấy những pho tượng
nhảy nhót trên bệ, sách vở trong thư viện xoay tít và đá gạch nhà
ta ở chạy ngang chạy dọc làm chúng ta vô cùng vướng trở.
Không, không có cái gì tự chuyển động cả. Ngọn đèn đang đỏ tắt
phụt đi, nó có tự làm cho mình đỏ lại không? Viên đạn không có
thuốc nổ đẩy đi, liệu nó có ra khỏi nòng súng được không?
- Tất thảy những hiện tượng đó liên hệ với nhau. Chẳng hạn
trong một nhà máy, bánh xe này làm cho bánh xe khác chuyển
động, rồi các dây chuyền làm công việc của chúng, thế là toàn hệ
thống máy chạy đều.
- Đúng thế! Nhưng xem xét một lúc, chúng ta thấy ngay là có
một động cơ hoạt động nhờ hơi nước. Bánh xe nhiều mấy, nhưng
một mình chùn không thể chuyển động được. Do đó, cháu xin
nhắc lại câu hỏi ban nãy: trong vũ trụ có một chuyển động vĩnh
cửu, vậy động cơ ở đâu?
- Cháu không biết lực hấp dẫn làm các phân tử tự chuyển
động hay sao?
18
- Nhưng nếu vậy tại sao những phân tử hiện tại làm nên
những vật thể trước mắt ta, như cái bàn này chẳng hạn, lại không
thể tự mình chuyển động được nữa? Chúng mệt mỏi quá rồi hay
sao?
- Không. Nhưng chúng đã phát triển đến độ trọn vẹn rồi.
- Ô! cháu thì khi nào cháu phát triển hơn cả mới chuyển
động nhiều nhất?! Không đâu! Cậu ạ, nói gì thì nói, chuyển động
không phải là yếu tính của vật chất. Nếu chuyển động là yếu tính
của vật chất thì mọi vật thể đều chuyển động. Vậy mà chúng ta
thấy hầu như mọi vật thể đều im lìm.
- Cháu quên mất khối tinh vân nguyên thuỷ rồi sao?
- Lại thế nữa à? Lại những vi thể ê-te à? Khối tinh vân tự nó
xoay vần ư?
- Đúng thế, nhờ nó có một cơ cấu đặc biệt và nhờ chuyển
động riêng do các vi thể tách biệt qui tụ lại làm nên nó.
- Nếu các vi thể đó chuyển động, thì ai làm chúng chuyển
động? cháu xin nói lại: mọi chuyển động đòi phải có một động cơ
phát động. Cháu nhất định dựa vào các nguyên tắc của cháu, mà
chúng không yếu ớt đâu. Một phân tử nhỏ bé nhất cũng không
bao giờ tự làm cho mình chuyển động được.
- Chính thời gian đã thực hiện công việc lạ lùng đó.
- Phi lí! Cậu có thể chồng chất hàng tỉ thế kỉ, nhưng thời gian
không thể làm được gì, không bao giờ nó làm được cho một
nguyên tử từ trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Thời gian chưa
và sẽ không bao giờ làm phát sinh năng lượng, dù ở dạng tiềm
tàng. Nếu xưa kia, các phân tử đã có thể chuyển động, thì nay
chúng vẫn có thể làm việc đó. Vậy mà thực tế chúng không còn
chuyển động được nữa. Chuyển động hiện thấy trong vũ trụ nhất
định đã có lúc bắt đầu. Vậy thì ai đã búng cái búng đầu tiên?
- Nếu không phải thời gian, thì có thể là tính vĩnh cửu. Cháu
căn cứ cái gì mà quyết rằng chuyển động không phải là vĩnh cửu?
- Vĩnh cửu hay không vĩnh cửu thì chúng cũng đều nhận từ
cái khác mà có; dù thời gian, dù tính vĩnh cửu cũng không làm
thay đổi vấn đề. Bài toán vẫn chưa có đáp số: những chuyển động
kia phát xuất từ đâu? Một chiếc đầu máy xe hoả chạy qua, cháu
hỏi cậu: sức đẩy của nó từ đâu mà có? Và cậu trả lời: từ đàng xa
19
kia! Trả lời như thế tồi quá. Cháu không có ý hỏi chuyển động từ
nơi nào đến. Cháu hỏi ai đã có thể gây nên chuyển động.
- Như thế nghĩa là theo cháu chỉ cần nhận có một động cơ
đầu tiên?
- Hoàn toàn như thế. Nhất định phải có một động cơ đầu
tiên, cố định bất động, độc lập, làm mọi vật chuyển động mà
không nhận chuyển động từ đâu cả.
- Các sự vật cứ kích động nhau; có thể lần qua nhiều nguyên
nhân trung gian, lần đến vô cùng.
- Thế cậu không thấy rằng với giả thuyết đó, cậu chỉ càng
làm vấn đề thêm phức tạp, mà không tìm ra một nguyên nhân nào
gây nên nó; cậu chỉ kéo dài con sông, mà không bao giờ lên tận
nguồn mạch ư? Chủ trì rằng con số vô tận những nguyên nhân
trung gian có thể miễn cho ta khỏi phải tìm ra một nguyên nhân
đầu tiên, cũng chẳng khác gì nói một cái bút có thể tự mình vẽ
nên bức tranh, miễn là nó có một cái cán rất dài. Dứt khoát phải
quyết rằng mọi chuyển động, mọi hoạt động đều đòi phải có một
nguyên nhân tác thành đầu tiên, từ đó phát xuất mọi chuyển động
và làm cho mọi nguyên nhân trung gian có hiệu lực. Đừng kể khi
chúng ta không chịu hiểu, còn thì chúng ta phải tìm mãi cho đến
nguyên nhân tuyệt đối đó, cho đến động cơ đầu tiên độc lập, bất
đi bất dịch và khác biệt vũ trụ. Nguyên nhân đó, động cơ đó,
chính là Đấng mà đạo cháu gọi là Thiên Chúa.
-...
- Cậu không trả lời cháu thế nào cả sao?
- Cậu đang suy nghĩ.
- Thế thì xin cậu hãy suy đến câu lưỡng đao luận này: hoặc
là nơi khối tinh vân nguyên thuỷ, chuyển động gắn liền với vật
chất; hoặc là chuyển động được truyền vào cho vật chất nhờ một
nguyên nhân khác biệt với vật chất.
- Đồng ý!
- Có phải cậu quả quyết rằng chuyển động gắn liền với vật
chất; nói khác đi, đâu có vật chất đó nhất thiết có chuyển động
không?
- Sao lại không ?

20
- Thế nhưng, một lần nữa (xin cậu thứ lỗi, nếu cháu nói lặp),
cơ học cho chúng ta thấy vật chất hoàn toàn bất động; cơ học dựa
trên nguyên lí đó, mọi dữ kiện của nó cũng vậy. Ngoài ra, định
luật quán tính của vật chất là điều kiện tuyệt đối phải có để có thể
áp dụng toán học vào các hiện tượng vật chất. Nếu vật chất có thể
xuất kì bất ý cử động một cách nào đó, thì không phải là mọi phán
đoán sẽ không còn chắc chắn gì nữa ư? Vậy mà, vì môn vật lí
ngày càng dùng những lí giải toán học, nên có thể quyết rằng định
luật quán tính của vật chất đã được chứng minh chắc chắn như
toán học. Do đó, vật chất bất động không thể tự mình làm mình
chuyển động và nhất định cậu phải nhận có động cơ đầu tiên.
- Rơ-năng nói , và cậu nghĩ cậu có thể tán đồng ý kiến ông
rằng: “bắt đầu sự chuyển động trong vũ trụ, là việc phá vỡ thế
quân bình, mà phá vỡ không vì một sự không-thuần-nhất; vì một
vũ trụ thuần nhất thì không bao giờ cử động. Tại sao vũ trụ không
ở yên? Tại sao nó cứ muốn lao mình vào con đường mạo hiểm,
thay vì nghỉ yên trong sự bất biến tuyệt đối? Là vì có một cái gì
đã thúc đẩy nó. Một băn khoăn thầm kín làm nó chuyển động. Cái
làm nên sự sống bao giờ cũng là một sự đột nhiên rời khỏi trạng
thái ù lì, một ước muốn, một chuyển động mà không ai đề xuất
cả, một cái gì ra lệnh: “Tiến lên!”
- Phải, cháu đã đọc câu đó trong “ Đối thoại triết học” của
Rơ-năng. Cháu đã chẳng đếm xỉa gì đến nó và hiện giờ cháu vẫn
thế. Câu nói hoa mỹ đó không che nổi cái nhu cầu của ông ta là
muốn gỡ mình khỏi cái động cơ đầu tiên hình như làm phiền ông
ta lắm. Bởi vì nói như thế chưa đủ: vật chất để mặc nó sẽ vĩnh
viễn im lìm.
- Không!
- Một là cậu phải thừa nhận ngay trong bản thân vật chất có
chứa một năng lực, điều này trái với đinh luật quán tính; hai là
chủ trì có sự đề xuất một chuyển động không có nguyên nhân;
điều này lại là phủ nhận cơ sở của mọi khoa học. Trong cả hai
trường hợp, cậu đều bị khoa học và lí trí phi bác.
Bây giờ cháu đi xa hơn. Hãy giả thiết ngày nào đó vật chất tự
làm cho mình chuyển động, thì cậu lại chạm trán với một khó
khăn oái oăm hơn nữa.
21
- Khó khăn gì?
- Đây: cậu bắt buộc phải thẩy rằng chuyển động hoạt hoá vật
chất đó hoàn toàn có trật tự hẳn hoi: nó vâng theo những định luật
toán học, không bao giờ nó đi trệch ra ngoài.
- Đồng ý!
- Vậy thì cái trật tự ấy do đâu? Cái gì làm phát sinh nên
những định luật huyền bí, những năng lực chi phối vật chất đó:
định luật hấp dẫn, chuyển động xoay tròn trong không gian? vật
chất tự nó có hiểu biết không?
- Không.
- Nếu nó không hiểu biết gì cả, thì làm sao cái khối hỗn
mang sơ thuỷ mà các nhà bác học mô tả, lại đi đến một trật tự
huyền diệu hoàn toàn chính xác như toán học, đến nỗi những Cô-
pec-nic, những Ke-pơ-le, những Niu-tơn cũng phải sửng sốt?
Đến đây, cậu cho phép kết luận như Kant trong cuốn “Tự
nhiên thông sử” rằng: “ Tôi sung sướng được thấy từ khối hỗn
mang xuất hiện cả một toàn bộ có trật tự hẳn hoi. Đó là chứng
minh hùng hồn nhất cho thấy rằng nó lệ thuộc vào một hữu thể có
trước nó, hữu thể này chứa ngay trong mình do lai của hết mọi vật
và mọi qui luật sơ khởi qui định hoạt động của mọi vật đó.”
Luận chứng đó, hôm nay cháu chỉ mới bước đầu đề cập thôi.
Hôm khác, cháu sẽ xin quãng diễn.

Chương IV: III. Trật tự trong vũ trụ


- Nào! Cậu đã tìm được một giải đáp cho những vấn đề hôm
trước chưa?
- Để suy nghĩ đã. Vấn đề quan trọng, hậu quả lớn lắm!
- Để giúp cậu dễ suy nghĩ, cậu có thể cho phép cháu dẫn ra
đây một chứng cứ không ạ?
- Cháu vẫn chưa hết chứng cứ kia ạ?
- Chưa.
- Thế hôm nay, cháu định dẫn những gì nào? Thú thật, cháu
làm cậu sửng sốt đấy. Cho đến nay, cậu chỉ biết cháu là một đứa
cháu gái xinh xắn, thích chơi đùa, hay làm dỏm một ít...
- Rất ít thôi!

22
- Nhưng từ hôm chúng ta mở đầu cuộc tranh luận, thì cậu
không nhận ra cháu nữa.
- Có gì lạ! Điều cháu hết sức mong muốn, là đưa cậu trở về
với Thiên Chúa. Vì thế, cháu thấy cần phải thuyết phục cậu.
Chính vì mục đích đó, mà cháu nghiên cứu nhiều hơn bao giờ
hết... Bàn viết của cháu đầy những pho sách khổng lồ...má lo cháu
đến điên mất.
- Ô! Không đâu cháu ạ. Đàng sau địch thủ, mặc dù đôi lúc dữ
tợn, nhưng cậu vẫn có gan đương đầu đó, cậu cũng thấy được tất
cả linh hồn của cháu.
- Nó không đên nỗi dữ tợn như cậu thấy đâu. Xin cậu biết
cho rằng chính vì cháu mến cậu, mà cháu khó nhọc nghiên cứu
như thế. Hôm nay cháu xin trình bày một luận cữ mới: không có
trật tự nào mà không có một ai thông minh sắp đặt nên trật tự đó.
Vậy mà nhìn vào thiên nhiên, chúng ta thấy có một trật tự hoàn
bị, lạ lùng, kì diệu. cho nên...
- Cho nên có Thiên chúa?
- Hoàn toàn đúng như thế. Cháu xin nói rõ. Cháu không
muốn yêu cầu cậu dùng một kính hiển vi hoàn chỉnh để tìm hiểu
các vật vô cùng nhỏ. Nhưng thật ra, trong đó có những sự kì diệu,
ai nghiệm xét cũng phải say mê.
-
Chẳng qua đó là những qui luật của tự nhiên thôi!
- Ta xem một bông hoa, một bông hồng. Trong bông hoa
nhỏ bé đó, có những tế bào hợp thành những mô; có sinh ra, có
phát triển, có truyền sinh, rễ cây hút chất nuôi, lá cây hô hấp, có
sự tinh luyện và vận chuyển nhựa sống,v.v...cả một hoạt động hài
hoà, không ngừng nghỉ.
- Đó là những qui luật của tự nhiên!
- Cái đó khoan đã. Đây một con vật, một con ruồi chẳng hạn.
Cậu có để ý đến vô số cơ quan, vô số yếu tố làm nên con sâu nhỏ
đó cũng như sự phức tạp lạ lùng trong đó không?
- Đó là những qui luật của tự nhiên!
- Khoan đã! Đây thân thể con người. Thật là kì diệu. Kể sao
xiết vẻ đẹp của nó. Nghiên cứu các cơ quan lần lượt từng cái một,
ai cũng phải sửng sốt. Dạ dày để tiêu huỷ thức ăn, nó chứa những
23
chất dịch để tiêu hoá, vậy mà chính nó lại không bị những chất
dịch đó tiêu huỷ. Quả tim là một máy bơm hạng nhất, dùng để
làm cho máu lưu thông trong cơ thể; máu trong tim từ ngăn này
chuyển sang ngăn khác, rồi chảy qua các ống dẫn để đến tưới cho
các cơ quan, lấy chất dinh dưỡng nuôi sống mọi phần cơ thể.
Nhưng cái mà cháu cho là kì thú nhất, đó là cấu trúc của tai. Cháu
vừa đọc đoạn sách mô tả nó. Lạ lùng quá! Cậu cũng biết rằng
trong chỗ sâu nhất có một bộ phận nhỏ gọi là ốc nhĩ. Vậy mà cách
đây không lâu, một nhà bác học thời danh đã tìn được nơi ốc nhĩ
lí do cuối cùng của hệ thính giác: ở một điểm nhỏ xíu của cái bộ
phận gồm 8.000 phần chính đó, trong đáy ốc nhĩ, có một màng
nhỏ; trên màng nhỏ ấy, là một chiếc thụ cầm huyền diệu có 6.000
dây. Dây vắn nhất dài 1 phần 20 mm và dây dài nhất để thu âm
thanh trầm nhất, dài một nửa mm. Tất thảy các dây đó, người ta
phỏng đoán là chúng nối liền với 6.000 dây thần kinh nhỏ, dẫn
đến một trung tâm duy nhất, trung tâm này thu lấy những tiếng
động từ bên ngoài. Cậu ạ, không biết cậu có cho cái đó là kì thú
không. Còn cháu, nhìn cái cơ quan nhỏ xíu nhưng kì diệu đó,
cháu cứ muốn phục gối uống mà cám tạ Thiên chúa.
- Đó cũng chỉ là những qui luật của tự nhiên thôi!
- Cậu nói như thế, thì cháu có thể trả lời cậu như Pơ-ru-đông,
ông tổ của thuyết xã hội Pháp thế này: “Bảo rằng cái hệ thống vũ
trụ này là do những qui luật vật lí, mà không đếm xỉa gì đến cái
Bản ngã sắp đặt nên nó, thì cũng phi lí không kém gì nói rằng
chiến thắng Ma-ren-gô chỉ là kết quả của những sự phối hợp
chiến lược, chứ không phải là do mưu trí của Na-pô-lê-ông.”
- Sao? Pơ-ru-đông mà cũng cho là có “Bản ngã sắp đặt?”
- Phải. Chỉ vì lẽ này, là chỉ có một nguyên nhân có trí không
là có thể bố trí một phương thế dẫn đến một mục đích.
- Thế còn qui luật của tự nhiên thì sao ?
- Ô! Những qui luật mà cậu khư khư bám lây đó, nhất định
chúng cũng phải do một nhà lập luật sáng nghĩ ra mới có, duy trì
cho chúng tồn tại, lãnh đạo và coi sóc chúng. Cháu nghĩ rằng cậu
sẽ không cho những qui luật đó, kể cả những qui luật của tự
nhiên, là tự mình mà có?
- Tất nhiên!
24
- Thế nghĩa là cậu thừa nhận?
- Rằng...rằng...tình cờ có thể giải thích đầy đủ tất cả.
- Tình cờ ư? Cậu cũng biết rằng Vých-to Huy-gô đã định
nghĩa tình cờ chỉ là “món ăn mà bọn bịp bợm dọn cho tụi khờ
dùng”.
- Đây không phải là tên bịp bợm.
- Mà cháu cũng không phải là một đứa khờ. Vì cháu sẽ
chứng minh cho cậu thấy rằng tình cờ không giải thích được cái
gì hết...Cậu cứ cầm một triệu chữ in, ném bừa xuống nền nhà này,
tình cờ có làm chúng xếp lại in thành một cuốn sách không? Cậu
cứ cho tất thẩy các bộ phận rời của một chiếc đồng hồ vào trong
cái hộp nhỏ này; liệu tự mình chúng, chúng có biết sắp lại, cái nào
chỗ nấy, cho thành chiếc đồng hồ không? Không bao giờ! Vậy
cháu xác nhận rằng nếu muốn có chiếc đông hồ, phải có thợ làm
đồng hồ, thì cho được có trật tự trong vũ trụ như thế này, cũng
phải có một trí năng vô cùng thông minh sắp đặt nên.
- Nhưng có những tình cờ hoàn chỉnh.
- Xin cậu đừng đùa như thế! Tình cờ không tổ chức nên cái
gì cả, ngay một bông hoa nhỏ cũng vậy. Thế thì làm sao nó lại có
thể thiết lập nên trật tự kì diệu trong tự nhiên? Xin cậu theo dõi
lời cháu nói nhé! Người đã tính rằng 12 hòn bi có thể được sắp
thành 479.001.600 hình khác nhau. Vậy, nếu có thể, cậu cứ hình
dung trong trí là các thành phần của cơ quan nhỏ nhất có thể sắp
thành hàng tỉ hình thái khác nhau. Trong tất thảy các hình thái đó,
chỉ có một hình thái là thực hiện được cân bằng. Mà thực ra, chỉ
có hình thái đó là tốt thôi. Chà! Anh chàng tình cờ của cậu tài
chưa!
Chẳng hạn, lấy thí dụ con mắt. Con số tế bào làm nên nó,
thật là kinh khủng. Muốn những tế bào đó được sắp đặt ổn, phải
có một sự cân bằng vô cùng chính xác. Nếu một tế bào của giác
mạc lại nằm ngay trước con ngươi, những cơ của thuỷ tinh thể lại
tác động trên dây thần kinh thị giác, thế là con mắt cậu rối loạn.
Cậu không thấy gì nữa (...)
Nếu từ một bộ phận, chúng ta suy đến tất thảy mọi bộ phận
của một vật thể; từ một vật thể, suy đến hàng tỉ vật thể, khoáng
vật, thực vật và động vật đã và sẽ xuất hiện trên mặt địa cầu này,
25
nào cậu không thấy rằng muốn giải thích trật tự kì diệu trong từng
vật thể đó, cậu phải dùng đến không biết bao nhiêu là “vận may”
mà cậu gán cho tình cờ, con số “vận may” này phải là một con số
không thể tin được, vì nó lớn quá lẽ! Không. Lối giải thích đó quá
trẻ con! Hiệu quả nào cũng đòi một nguyên nhân tương ứng; vậy
mà anh chàng tình cờ của cậu không giải thích được gì hết.
- Nhưng, như thế mà mọi sự ổn cả. Và, như lời Rơ-năng...
- Lại cái gì nữa?
- Phải. Rơ- năng nói: “Cứ làm đi làm lại vô số lần, cuối cùng,
những tình cờ, kết quả đạt được sẽ xem chừng được như ý
muốn!”
- Rơ-năng của cậu thật kì quái! Nhận có Thiên chúa thì ông
ta lấy làm phiền, thế là ông ta quay lại với tình cờ!
- Đó là một cách giải thích.
- Để khỏi phải nhậnThiên chúa.
- Không thế.
- Nhưng cậu ạ, cậu nghĩ lại mà xem: nếu thỉnh thoảng tình cờ
có may mà đạt kết quả, thì cũng có biết bao nhiêu lần nó không
đạt được! Vì cậu đừng quên rằng tình cờ là anh mù, tình cờ vẫn là
tình cờ. Trở lại với giả thuyết các chữ cái của mẫu tự: cậu có biết
với 26 chữ cái đó, người ta có thể sắp thành 2 tỉ tỉ kiểu khác nhau
không? Hai người chơi cờ đô-mi-nô, mỗi người điều khiển 7 con
cờ, có thể chơi thành 137 tỉ ván khác nhau. Một nhà hộ giáo nói:
“Nếu muốn tính được các nguyên tử trong riêng một quả đất này
có thể xếp thành bao nhiêu kiểu, thì tất cả các toà nhà trên 5 châu
này cũng không đủ để số giấy phải dùng để tính toán.”
- Cháu cứ lấy những con số của cháu để áp đảo cậu!
- Là vì những con số đó có ý nghĩa lắm!
- Nhưng những nguyên tử kia có cả một cõi vô cùng để mà
tìm vận may!
- Cái quãng thời gian từ khi quả đất chúng ta hiện ở còn
trong trạng thái bạch nhiệt và do đó chưa thể có sự sống trên đó
được, (cho đến lúc sự sống xuất hiện, là một quãng thời gian hoàn
toàn có hạn, hơn nữa cũng tương đối vắn. Chhắc cậu đã biết điều
đó. Nhưng không phải chỉ có thế. Hãy giả thiết rằng tình cờ đã có
thể hoàn thành cái cơ cấu nhất định mà ta hiện thấy nơi một tế
26
bào. Nhưng hỏi rằng tế bào đó có sống không? Không. Nó chỉ
mới có khả năng đón nhận sự sống mà thôi.Tình cờ của cậu
không thể làm nên sự sống được. Nó có thể làm nên một tế bào,
nhưng tế bào đó không có sự sống.
- Vấn đề sự sống, khoan đã! Cậu cầm trong tay một bộ xúc
xắc. Cậu muốn tung một cái mà được 3 và 5 chẳng hạn. Cậu tung
lên. Chưa kết quả. Cậu làm lại. Mãi cho đến khi đạt kết quả. Các
nguyên tử cũng đã có thể làm như thế.
- Nhưng, cậu ơi! Cậu thì có trí khôn. Chứ những nguyên tử
bé tí kia, chúng chỉ là vật chất vô tri vô giác. Nếu chính tình cờ đã
kích cho chúng chuyển động, thì khi làm lại lần khác, tình cờ làm
thế nào mà kích động nữa? Ai bảo cho nó biết lần trước chưa đạt?
Sau mỗi lần hỏng việc, làm sao các nguyên tử lại có thể lìa nhau,
rỗi lại tìm gặp nhau để chẩn bị cho cuộc phối hợp khác? Chúng
không có sự sống. Cũng không có trí khôn. Sao cậu lại nghĩ
chúng có thể thực hiện được một công việc như thế?
- Cháu thật ghê gớm!
- Ô! Cháu chỉ suy luận thôi mà! Phần cậu, nếu cậu chịu suy
luận một ít, cậu sẽ thấy ngay rằng nói tình cờ, không có nghĩa là
không có nguyên nhân nào.
- Sao thế?
- Đơn giản thôi. Cậu đi qua phố. Một miếng ngói rơi nhằm
đầu. Do đâu? Tình cơ phải không?
- Nhất định rỗi!
- Nhưng chính cái tình cờ đó cũng có một nguyên nhân.
chẳng hạn một hụt gió thổi qua làm ngói rơi. Không cái gì không
có nguyên nhân cả. Những cái huyền hoặc nhất cũng có một
nguyên nhân. Dẫu thế giới này có được do tình cờ, dẫu hàng tỉ tỉ
nguyên tử đó trước kia được sắp xếp lại do tình cờ, thì cũng còn
phải tìm cho ra nguyên nhân; rồi từ nguyên nhân này sang nguyên
nhân khác, lần mãi đến Nguyên nhân đầu tiên, túc là Thiên Chúa.
- Nhưng thiếu gì cái ngoại thường!
- Đồng ý! Nhưng tất thảy cũng do một nguyên nhân mà ra.
Giả sử cậu đến một hải đảo hoang vắng. Cậu gặp thấy nơi đây
một lâu đài tráng lệ, với tất cả sự xa hoa lộng lẫy hiện đại: piano,

27
ôtô, thư viện, tranh ảnh, Tivi...thử hỏi cậu có dám quyết rằng tất
thảy những cái đó gặp nhau trên đảo là do tình cờ không?
- Phải mất trí mới quyết như thế!
- Thế thì, bảo rằng trật tự hài hoà của vũ trụ chỉ là sản phẩm
của tình cờ, cũng mất trí không kém. Trong phạm vi thuần lí
thuyết, cậu có thể tìm được những lí lẽ tinh vi để chống đỡ một
điều nghịch lí như thế. Nhưng trên thực tế, cậu không thể chủ trì
điều đó mà không bị người ta nghi là trí khôn không bình thường.
- Cháu lại cứ như thế!
- Thì cậu cũng vậy! Làm sao cậu lại muốn cháu tin phục các
luận cứ của cậu, khi cháu thấy cậu cứ che đậy những lí lẽ non nớt
của mình dưới những danh từ trống rỗng? Đứng trước con số
nguyên tử nhiều không thể đếm trong toàn bộ thiên nhiên, nếu
quyết rằng mọi cái được sắp đặt lại do tình cờ, rằng chúng tự đi
tìm lấy vị trí của chúng do tình cờ, rằng chúng giữ được trật tự
bền bĩ và nhất mực đó do tình cờ, thì...
- Phải, cháu nói đúng. Thôi, đừng nói đến tình cờ nữa!
- Có thế chứ!
- Nhưng sao lại không nói được là thiên nhiên chứa sẵn trong
mình nó bản nguyên làm nên trật tự trong nó?
- Nếu thế, ai đã đặt bản nguyên đó vào trong nó?
- Thì một hạt lúa cũng chứa sẵn mầm mống của tất cả tổ
chức đẹp đẽ mà ta thấy nơi cây lúa.
- Giả thuyết đó không chứng minh được cái gì hết, bởi vì bố
trí một hệ thống chính xác để tự nó thu lấy kết quả định trước,
đúng thời đúng lúc, thì cũng tài khéo không kém trực tiếp làm nên
từng kết quả đó. Cây do hạt mà ra thật lạ lùng. Nhưng chính hạt
cũng lạ lùng không kém. Ai đã làm nên cái trật tự cơ cấu đầu tiên
trong hạt lúa?
- Những năng lực của tự nhiên.
- Những năng lực thế nào?
- Những năng lực bí nhiệm.
- Ô! Cám ơn các năng lực bí nhiệm! thế này, cậu nhé! Một
chiếc máy bay đang bay. Có lẽ cậu tưởng rằng người ta chế tạo nó
để bay chăng? Không. Một ngày nào đó, tình cờ nó tự mình mà
có. Rồi người ta dùng nó để bay lên không trung.
28
- Đồ điên!
- Không! Thì cháu cũng chỉ ứng dụng những lập luận của
cậu thôi. Này cậu, cháu xin hỏi thế này: từ sở làm việc, cậu muốn
về nhà, cậu lên xe điện. Cậu cứ bảo người lái xe: ông bạn ơi! cứ
thả tay lái mà ngồi xuống đây. Xe sẽ tự nó chạy thôi mà! Không
cần động cơ gì cả. Tình cờ sẽ làm cho xe chạy. Ông sẽ thấy tự
mình nó, tình cờ có thể làm mọi cái chuyển động...Cậu cứ bảo
như thế, rỗi cậu sẽ thấy người lái xe và hành khách trả lời cậu như
thế nào!
Thôi, xin chào cậu nghỉ!

Chương V:
IV. Những câu hỏi bỏ lửng
Cậu thân yêu,
Hôm trước cậu cháu chúng ta chia tay nhau, sau khi đã hành
quyết cái anh chàng tình cờ. Từ đó đến nay, cậu có vẻ buồn cháu,
ra như vì cháu mà các nguyên tắc của cậu đổ vỡ, luận cứ của cậu
trở thành quái dị. Dễ chừng cậu tưởng cháu đã quyết định có lập
trường hiếu hoà hơn ư? Không đời nào! Cháu thấy như cháu đã
nhảy lên được mấy bước vào trận tuyến của cậu; đã chiếm được
mấy công sự rồi. Cuộc chiến đấu chưa kết liễu đâu. Cháu định
đánh cho tơi bời tất thảy mọi lập luận. Cháu biết có những lập
luận con nằm ngủ đang chuẩn bị chặn lối cháu. Cháu sẵn sàng
đón tiếp chúng, dẫu sao, trong khi chờ đợi cuộc gặp gỡ sau, hôm
nay cháu muốn trình bày với cậu thêm mấy vấn đề, mong cậu giải
đáp cho. Nhưng xin cậu trả lời rành mạch hơn, đừng khất “rồi sẽ
biết” nữa. Cho đến nay, cháu nghĩ là cậu chưa nắm được vấn đề gì
cả...mà cháu cũng thế. Đáp lại những vấn đề mà cháu đưa ra, cháu
thấy ra như chỉ được một giải đáp này: cậu chưa nhận gì cả, còn
cháu thì vẫn giữ lấy tất cả.
1/ Quả trứng hay con gà? Cậu cứ bảo cháu rằng mọi sự hằng
có luôn luôn. Cậu cũng biết rõ nói như thế là không đúng. Nhưng
nếu luôn luôn đã có những vật thể như chúng ta thấy hiện nay, thì
xin cậu cho biết: trong hai vật là quả trứng và con gà, vật nào đã
có trước? Có phải cậu nói quả trứng không? Thế thì con gà do
29
đâu mà có? Hay là cậu bảo con gà có trước? Nếu vậy quả trứng
đầu tiên do đâu? Hỏi như thế hơi ngớ ngẩn đấy. Nhưng xin cậu cứ
trả lời cho.
2/ Xin thử làm cho một con ruồi! Không phải là cậu cứ bắt
một con ruồi có sẵn rồi đem tới cho cháu đâu. Nhưng như thế này:
vì theo cậu, vật chất rất có năng lực, tài tình, muốn thế nào là biến
hoá được ra thế ấy (theo cậu thì vật chất cứ biến hoá liên tục mà
làm cho khối tinh vân nguyên thuỷ phát sinh ra sự sống, con
người với trí khôn), nên cháu không xin cái gì to tát. Cháu chỉ
xin cậu bảo vật chất mà cậu nói có tài biến hoá như thế, chế tạo
nên một con ruồi cho cháu vui lòng!
3/ Những quan năng tinh thần của cậu. Thưa cậu, cậu có một
linh hồn. (Cháu cũng hiểu rằng cậu quyết đoán trái lại thế; nhưng
cháu xin “biếu” cậu linh hồn đó, trong khi chờ đợi chứng minh
được cho cậu thấy là nó có thật). Như thế, cậu là một vật thể biết
tư duy, hồi cố, so sánh, lí luận và ước muốn. Cái đó, cậu sẽ không
phủ nhận. Không lẽ lại chính vật chất sản sinh ra tư tưởng, tinh
thần, lí trí, ý chí của cậu sao? Không bao giờ. Thật. Không bao
giờ một bản nguyên vật chất lại sản sinh một vật thiêng liêng. Nếu
xảy ra điều phi thường, là vật chất lại sản sinh những quan năng
của linh hồn cậu, thì linh hồn cậu phải là vật chất. Như thế, lại
không phải là vật chất. Hay là một loài thiêng liêng? Nhưng loài
thiêng liêng thì bản tính nó là đơn nhất và không chia sẻ được.
Vậy thì cái gì đã làm nên linh hồn cậu? Tình cờ ư?
4/ Những ước mơ của cậu. Cậu muốn biết, muốn yêu, muốn
được hạnh phúc. Đó là một khuynh hướng không thể cưỡng lại
được. Con người có thể lầm “địa chỉ”, tìm hạnh phúc ở nơi không
có hạnh phúc. Nhưng không bao giờ nó thoát ra khỏi cái nhu cầu
gắt gao nó cẩm nhận trong mình. Cái dạ dày no căng rỗi thì không
thèm ăn gì nữa. Nhưng trí óc cậu thì không biết khi nào nó no
chán: càng biết, càng muốn biết thêm và càng thấy mình chưa biết
gì hết. Tâm hồn cậu cũng thế, nó không bao giờ thoả mãn. Cậu
mơ một chân lí, một tình yêu vô hạn. Phải, thưa cậu, cậu vươn tới
vô hạn với tất cả mọi thớ sợi của con người cậu. Thiếu những
khuynh hướng cao quí đó, cậu chỉ là một con vật không hơn
không kém. Vậy mà có những ước mơ về một đối tượng vô hạn,
30
tất nhiên phải có một đối tượng vô hạn. Thiên nhiên không hề tạo
nên một nhu cầu mà đồng thời không đặt ra bên cạnh đó một đối
tượng khả dĩ làm thoả mãn nhu cầu đó. Cây cối cần gì có nấy.
Con vật cũng thế. Không lẽ chỉ con người là đầu tạo vật, lại thua
thiệt dở dang sao?
5/ Đứng riêng một mình? Nếu có một sự kiện được chứng
minh rõ ràng hơn cả, đó là tất thảy mọi dân tộc thuộc mọi thời đại
đều tin có một Đấng Tối cao. Nếu họ không biết Thiên Chúa thật,
thì họ tự tưởng tượng ra. Đó là trường hợp người Rôma thời suy
vong: trong các đền chùa của họ, có đến hơn 3 vạn vị thần. Vậy
mà không thể nào tất thẩy mọi người xưa nay đều đã luôn luôn sai
lầm về một chân lí mà hậu quả thực tiễn rất nghiêm trọng và đầy
những nhiệm vụ lắm lúc thật phiền toái. Khảo sát, phê phán, kiêu
ngạo, dục tình tất cả đã từng nỗ lực đả phá niềm tin đó, nhưng
chưa bao giờ đã có thể thủ tiêu nó. Vậy niềm tin đó do đâu?
Nếu cậu có muốn dẫn thí dụ một số người vô thần có tên hay
không tên để phi bác lời cháu, thì cháu sẽ xin cậu cho thấy những
người nào thật là vô thần thành tâm thành ý và nhất là vô thần có
xác tín, sẵn sàng chết để duy trì niềm xác tín của họ, như người
kitô hữu dã từng hi sinh hàng triệu để chứng minh niềm tin của
mình. Hãy giả thiết một điều không thể có, là nếu cậu có tìm ra
một vài người như thế, thì cháu xin thưa cậu rằng: nếu có những
người cụt tay, thì không phải vì thế mà kết luận rằng người lành
mạnh không có hai tay.
6/ Con chim: Thưa cậu, hôm qua đây, khi nhìn tốp máy bay
vút qua bầu trời, cháu thấy nảy một ý kiến mà cháu muốn trình
bày ra đây với cậu luôn thể. Những chiếc máy bay đó phải có
một trí óc đã sáng chế nên chúng, cũng như phải có một trí óc để
điều khiển chúng.Cậu không thể chủ trì ngược lại.
Vậy mà, cháu thấy có những chiếc máy bay nhỏ khác,
thường gọi là chim. Hẳn là cậu cũng nhất trí với cháu rằng loài
chim chúng hơn máy bay về 3 điểm: đơn giản, an toàn và ổn định.
Do đó, cháu nghĩ thế này:
Phải có một trí óc để sáng chế nên máy bay, thì cũng phải có
một trí óc để tạo nên con chim. Do đó, cháu đặt cậu trước một
lưỡng đao luận: hoặc con chim bay được là nhờ người ta đã chế
31
tạo nên bộ máy cho nó bay (nếu thế, xin cậu cho biết địa chỉ hãng
ché tạo đó!), hoặc nó do Thiên Chúa sáng tạo nên như thế. Xin
cậu trả lời cho.
7/ Những anh chàng bán thuốc rong: Chắc cậu đã thấy những
anh chàng như thế trên các ngả ba đường, những ngày chợ phiên.
Họ rùm beng quảng cáo cho những hàng hoá của họ. Thưa cậu,
một số nhân vật thời danh mà cậu sùng bái, cũng đã làm như thế.
Rơ-năng bảo : “Có ngày nhân loại sẽ không tin nữa. Nó biết
thôi”.
Béc-tơ-lô: “Thế giới ngày nay không còn cái gì là mầu
nhiệm nữa. Quan niệm duy lí quả quyết soi sáng tất cả, hiểu tất cả
và vĩnh viễn lật đổ ý niệm siêu nhiên.”
Phải chăng đó là lời quảng cáo cho một chương trình khoa
học? Không. Đó là một lời thách thức! Là khai chiến với Thiên
Chúa!...là cái khẩu lệnh kế tiếp một cách lô gích câu hò hét: “ Hãy
tiêu diệt tên xấu xa” của Vôn-te. Nhưng rồi sự việc đã xảy như thế
nào? Nào không phải là Vôn-te đã chết như một kẻ tuyệt vọng
sao? Phải chăng nhân loại ngày nay không tin nữa, mà chỉ biết
thôi? Như thế, những chấm hỏi khổng lồ hiện rõ trước mắt con
người biết suy nghĩ, những chấm hỏi đó đã bị xoá đi hay chỉ càng
thêm rõ? Phải chăng những triết gia kia đã có thể soi sáng tất cả,
hiểu biết tất cả?
Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: “ Điều trái lẽ nhất của đầu óc
con người, là cái gì mình muốn có thật, thì cứ tin trước đi, là nó
có thật”. Chính vì thế mà những người tự xưng là vô thần, khi
chân họ không bị xiềng, thì mắt lại có vải bịt lại. Nhiều người chỉ
xếp cánh lại là để dễ đặt chân trên mặt đất hơn và ra thực hành, họ
biết khôn khéo bỏ qua những suy luận trừu tượng rắc rối, để tìm
những luận điểm dễ dàng hơn.
Sau vô thần luận cổ lỗ, nhất nguyên luận và phiếm thần luận,
khoa học tìm ra một thuyết mới: thuyết tiến hoá. Nó chạy hỏi hết
mọi loài trong tự nhiên, nó sục sạo lòng đất và đáy biển, nó cúi
mình trên những dạng thức sơ thuỷ thô sơ nhất của vật chất hữu
cơ để tìm chỏa một phôi bào đang thối rữa để tôn lên làm Tác giả
sự sống. Nhưng rồi bài toán vũ trụ vẫn chưa có đáp số.Tiếp đến,
thuyết tự sinh xuất hiện, để rồi bị chứng minh là bất thể. Đến lượt
32
con “vượn người” cũng đã được thấy những ngày vẻ vang: con
người ngày nay được kể là cháu chắt của con vượn, hay con đười
ươi. Nhưng không may, là người ta đã chẳng tìm được mẫu “vượn
- người” và cái khâu trung gian vẫn cứ là một bóng ma. Triết học
vô thần thua trận trên mọi chiến tuyến, liền bám lấy một chất ở
dưới đáy biển, một chất keo vô định hình, đặt tên cho là Ba-thi-bi-
ôt (có nghĩa là chiều sâu của sự sống). Đó là vật chứng cho thấy
việc sự sống xuất hiện trên mặt đất. Người ta hoan hô. Nhưng 11
năm sau, chính con người đã nặn ra chất Ba-thi-bi-ôt, đã làm các
nhà bác học phải cười nhạo cả y cả điều sai lầm của y.
Cái ngày mà Bơ-ruy-nơ-chi-e hỏi khoa học vô thần xem đã
giữ lời hứa chưa, ông chỉ thấy một sự thiếu hụt khổng lồ và ông
ghi vào đó hai tiếng: Phá sản!
8/ Những câu nói chân thật: Thôi, ta hãy bỏ mặc những anh
chàng bán thuốc rong kia. Hãy để ý tới những bậc thức giả, đồng
thời là những bậc thầy tiên tổ của thuyết tự do tư tuởng ngày nay.
Ten-nơ, năm 1855, tuyên bố: “nhân đức và nết xấu chỉ là
những sản phẩm hoá học, không khác gì đường và lưu toan diêm.
Tư tưởng là một chất do óc tiết ra. Sự sống là rung động của
nguyên tử bị cuốn đi trong cơn lốc vĩnh hằng của các vật thể”.
Nhưng câu nói cuối cùng của ông là gì? - “ Nếu Giáo hội
không làm sao chinh phục lại được những đại khối vô đạo kia để
biến họ thành một dân có tín ngưỡng, thì nền văn minh nước Pháp
sẽ biến mất!”
Lit-tơ-rê, năm 1673, tính đến chuyện “đẩy Thiên Chúa cũ
rích của siêu hình học ra ngoài biên giới, rồi cám ơn vì những
công ơn nhất thời Thiên Chúa đã làm cho nước nhà”. Nhưng rồi
khi hấp hối, miệng ông sốt sắng thầm thĩ kinh “Kính mừng” và
tay ông đấm ngực ăn năn.
Bec-tơ-lô, ban đầu cả quyết sẽ soi sáng mọi bí nhiệm và
“vĩnh viễn lật đổ ý niệm phép lạ và siêu nhiên”. Nhưng rồi ông
chết như một kẻ tuyệt vọng. Bằng chứng là lời cuối cùng của ông:
“Tôi càng giác ngộ về nhân vị của tôi, thì những điều tôi không
chắc càng tăng thêm. Chính vì lẽ đó mà tôi đã luôn luôn ẩn thân
trong hành động để chống lại những tuyệt vọng của tôi”.

33
Hê-bớc Xpen-xơ, cha của tiến hoá luận, khi chết đã thú nhận
“sách vở ông viết một đàng, mà tin tưởng tôn giáo của ông một
nẻo!” Như thế, tất cả phái tự do tư tưỏng đã phải kêu lên ở mức
này hay mức khác, như lời Thánh kinh: “Chúng ta đã lầm!”
Thưa cậu, cháu dẫn ra đây những sự kiện đó để cậu tự rút ra
những kết luận.
9/ Đòn trí mạng: Để kết thúc lá thư quá dài này, cháu muốn
trích dẫn ra đây mấy câu cháu ghi lại để tặng cậu. Bởi vì, thưa
cậu, cậu không thể hiểu được cháu nghĩ đến cậu nhiều như thế
nào đâu! Cháu bỏ qua những tác giả mà cậu không ưa. Nhưng vì
cháu biết rằng Vôn-te (Vôn-te đại danh, như cậu vẫn gọi ấy mà!)
là thần linh của cậu (kìa, cậu xưng là vô thần mà cũng kiếm ra
được một thần đấy chứ!), nên cháu muốn trích dẫn mấy câu nói
của ông ta:
“ Người ta chưa bao giờ dẫn được một bằng chứng nào
chống lại sự hiện hữu của Thiên Chúa!”
“ Người vô thần xảo quyệt, bội bạc, lừa đảo, tàn bạo, họ lí
luận và hành động ra như họ thoát được khỏi sự trừng phạt của
loài người. Nếu không có Thiên Chúa, thì con quái vật đó chính là
thiên chúa của bản thân họ”.
- Chà! Anh chàng Vôn-te xử tệ với cậu quá nhỉ! Sau hết, câu nói
rõ ràng này cũng là của ông ta: “Vô thần luận là tật xấu của bọn
ngốc”.
Thật là miếng đòn trí mạng. Cậu có đáng chịu miếng đòn đó
hay không? Tuy cậu có nhiều câu nói huyênh hoang, nhưng cháu
vẫn chưa tin là cậu đến nỗi như thế. Mặc dầu cậu ngoan cố, cháu
chỉ mong Thiên Chúa sẽ bức cậu không những không dám phủ
nhận mặt trời nữa, mà còn để ánh sáng nó lọt vào soi chiếu linh
hồn cậu.
Cậu rất mến của cháu, tuy cháu tấn công cậu có phần căng
đấy, nhưng xin cậu cứ tin ở tất cả lòng yêu mến của đứa cháu gái
đã thề sẽ hoán cãi cậu.
Mác-đa.

34
Chương VI:
V. Ông cậu tấn công

- Này, Mác-đa! Cậu có tiếp thư cháu. Nó đã làm cậu phải suy
nghĩ. Nhưng phải như thế nào nứ, mới hòng quật ngã được con
thú da dày cao niên này. Vì thế, hôm nay, cậu chuẩn bị trận chiến,
lòng đầy hăng hái.
- Ô! thưa cậu, thế thì hay lắm, vì cháu cũng vậy, chưa bao
giờ cháu thấy nhất quyết lao mình vào trận chiến như hôm nay, và
cháu sẵn sàng, cậu nghe rõ chưa?- Cháu đã sẵn sàng mọi sự...để
đưa về với Thiên Chúa linh hồn vốn tốt đẹp như thế của cậu.
- Cháu làm cậu cảm động. Nhưng không thể thuyết phục
được cậu đâu!
- Cháu cũng đã phần nào nghĩ đến điều đó. Vì thế, giờ đây,
cháu hiên ngang chờ đợi những luận cứ cậu đưa ra nhằm phi bác
tin tưởng của cháu. Do đó, cháu xin nói trước là tất thảy những “lí
cụt” cậu có thế sẽ đưa ra...
- Sao lại “lí cụt”?
- Thì thôi vậy. Phải, tất thảy những lí lẽ cậu đưa ra sẽ không
chứng minh được cái gì cả. Còn cháu, cháu đề xuất cái gì, cháu
đều chứng minh được hết. Vô thần luận chưa bao giờ dẫn ra được
một bằng chứng nào... Họ chỉ phùng mang trợn má lên; họ sừng
sộ “ta đây”, huênh hoang khoác lác, tung ra những lời kêu mà
rỗng tuếch; họ nhai lại những câu khẳng định đã ngàn lần bị chỉ
trích, ngàn lần bị đánh đổ. Còn chứng cứ, những chứng cứ đích
thực. Chưa bao giờ!
- Còn cháu, cháu cũng đã có bao giờ đưa ra được những
chứng cứ sờ đến được, những chứng cứ toán học đâu!
- Trước hết, cháu xin nói để cậu rõ: đây là một vấn đề không
có gì là trực tiếp liên hệ đến toán học cả.
- Nhưng nếu cháu có thể chứng minh được cách nào như 2
cộng 2 là 4, thì có lẽ người ta phải nhận mình thua cuộc.
- Được rồi! Vì cậu cứ bám lấy toán học, mà cậu vốn sành
lắm, nên cháu xin nói nhé!
- Nói đi nào!

35
- Thời gian tồn tại của vũ trụ tất nhiên có thể phân tích ra
thành từng khoảng khắc kế tiếp. Hãy tạm cho khoảng khắc đó là
giây.
- Được. Phân tích ra thành từng giây.
- Như thế, chúng ta sẽ lấy giây làm đơn vị thời gian. Có thể
biểu thị thời gian tồn tại của vũ trụ bằng một con số giây khổng
lồ, không đếm được, nhưng thế nào cũng có hạn. Bởi vì con số
nào nhất thiết cũng có hạn, vì lớn mấy thì lớn, nó cũng phải bắt
đầu bằng 1 và bao giờ cũng còn có thể thêm vào đó một đơn vị
nữa. Cậu đồng ý?
- Tất nhiên phải thế.
- Do đó và hơn nữa, có sự ưng nhận của cậu khích lệ, cháu đi
đến lết luận chặt chẽ này: thời gian tồn tại của vũ trụ tất nhiên
phải có cùng có hạn, nên vũ trụ đã có lúc bắt đầu. Và mọi cái gì
đã có lúc bắt đầu, thế nào cũng có ngày chấm tận. Một vật thể
không thể có hạn ở phía này, mà không có hạn ở phía khác. Nếu
vậy, lẽ ra phải nói: nó vừa có hạn, lại vừa vô hạn: phi lí quá!
- Nhưng tính ngược thời gian qua các thời đại, phải chăng
người ta không nói được rằng chúng ta đứng trước một khoảng
khắc vô hạn ư?
- Không. Bởi vì nói một chuỗi khoảng khắc đã qua, tức là
nói nó có hạn định và bất cứ một chuỗi nào cuối cùng cũng phải
có một khởi điểm. Do đó, vũ trụ đã có lúc bắt đầu. Vì thế, vũ trụ
phải đã do một ai đó đã sáng tạo nên nó... Do đó...
- Nhưng, một lần nữa, (thôi, ta đừng nói chuyện toán học
nữa), cái gì chứng minh cho cháu biết vũ trụ nhất định đã có lúc
bắt đầu?
- Một ngành khoa học gọi là nhiệt động học nhận xét rằng
năng lượng rải rác trong vũ trụ cứ hao hụt dần mà không có gì bù
lại. Đó là định luật của Các-nô, gọi là định luật giảm năng lượng.
- Cậu mà biết điều đó thì đã không tấn công cháu hôm nay.
- Nhưng cháu lại tấn công cậu. Cháu nhận thấy rằng mặt trời
cũng như mọi tinh tú đều nguội giận. Người ta tìm thấy ở các
miền địa cực có hoá thạch của những loài cây chỉ sống ở miền
nhiệt đới. Điều đó cho thấy rằng xưa kia mặt trời cũng đã đốt
nóng cả hai địa cực. Vậy mà những loài cây đó mất hẳn, không
36
thấy trở lại các miền địa cực nữa. Hiện nay, ở đó, người ta sống
dưới những hầm tuyết. Như thế là năng lượng mặt trời đã giảm;
mà một cái gì cứ giảm luôn một mực, thì chỉ có thể tồn tại một
thời gian nhất định. Vậy là việc “giảm năng lượng” đã bắt đầu.
- Nhưng nào vũ trụ không thể tự làm cho mình có được hay
sao?
- Không. Vì muốn làm cho mình có, thì phải có đã. Vậy mà
như Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: “Nếu một lúc nào đó đã không
có cái gì cả, thì đời đời sẽ không có cái gì cả”. Thế nghĩa là bắt
buộc phải có một Hữu thể tất yếu và vĩnh cửu.
- Nhưng, nếu vũ trụ không phải là “tất yếu”, thì nguyên tử,
cái nhân tố của vũ trụ, có thể vĩnh cửu. Và vũ trụ gồm những
nguyên tử vĩnh cửu, cũng sẽ vĩnh cửu.
- Nhưng như thế thì cái anh chàng nguyên tử kia do đâu mà
có? Nó tự mình mà có sao?
- Sao lại không?
- Thưa cậu, ta nghiêm chỉnh một tí! Không hiệu quả nào mà
không có nguyên nhân. Nào cậu có dám quyết rằng chiếc đồng hồ
của cậu tự nó mà có, chứ không cần thợ đồng hồ nào làm nên nên
cả không?
- Phải. Nguyên tử vĩnh cửu. Cậu thấy như thế đúng hơn.
- Ô! Như thế nghĩa là cậu tưởng tượng ra cái nguyên tử thô
sơ, bé tí đó, nó lơ lửng trong chân không, nó tìm một anh bạn nào
để bám vào, cuối cùng nó làm nên vũ trụ? sự sống? con người với
lí trí và tâm hồn sao? Nhỏ mấy thì nhỏ, nó cũng không thoát
ngoài định luật chung và phổ cập. Cháu xin nói lại lần nữa: không
hiệu quả nào mà không có nguyên nhân. Cái hạt bụi tí ti gần như
không đó, cũng phải có ai đã sáng tạo nên nó.
- Nhưng, như Rơ-năng viết: “thời gian là nhân tố phổ cập và
hệ số khổng lồ của sự chuyển thành vĩnh cửu!”
- Chà! Như thế nghĩa là thời-gian-nhân-tố, không có vũ trụ
thì không làm gì có nó, vậy mà chính nó lại sinh ra thời gian?
Thôi đi, cái vòng luẩn quẩn đó!
- Này cháu, cũng có thể là do “xu hướng tới Tiến bộ”, là cái
“lò xo thầm kín đẩy tất cả tới một cuộc sống ngày càng phát triển
và làm cho cái “có thể” thành “có thật”.
37
- Lại Rơ-năng nữa, phải không cậu?
- Đúng!
- Con người mới lạ chứ! Hư vô làm sao đã có thể có một xu
hướng trong khi chưa có gì cả?
- Đó là một cái lò xo.
- Cậu chắc như thế? Nhưng thử hỏi làm sao một cái lò xo lại
hoạt động được, nếu ít ra nó không gắn liền vào một cái gì vững
chắc và có thật?
- Quả cháu giỏi thật! Cái gì cũng trả lời được hết. Nhưng
này, cháu không thấy rằng khối tinh vân xoay tít của La-pơ-la-xơ
cũng đủ để giải thích tất cả sao?
- Không hơn gì nguyên tử của cậu. Nó không giải thích được
cái gì hết, vì chính nó còn cần được giải thích. Nó do đâu mà có?
- Do những hạt hơi nước, những bụi bặm, những nguyên tử
nát vụn mà làm thành.
- Nhưng những hạt hơi nuớc và các đồng chí của chúng đó
do đâu? Khốn thay, chính những vật này cũng chỉ là những “món
hàng chế tạo”
- Thế cháu đã suy nghĩ kĩ về Tiến hoá chưa?
- Kĩ lắm. Cái thuyết đó cũng ít sức chứng minh như những
thuyết khác.
-Nhưng nó giải thích được tất cả! Sự biến hoá của khối tinh
vân cho ta hiểu tại sao lại có những biến chuyển khoa học trong
những thời đại đầu tiên; rồi sự biến chuyển hoá học mang lại sự
sống, sự sống làm ra con người và có con người là có xã hội.
Không cần Thiên Chúa cũng hiểu được vũ trụ.
- Gì cũng muốn chứng minh cả, thì rốt cuộc chẳng chứng
minh được gì hết. Thật thế, cháu xin nói lại lần nữa: khối tinh vân
do đâu mà có? Làm sao vật chất vốn bất động, lại có thể chuyển
động được? Làm sao vật chất vô sinh, lại phát sinh sự sống? Làm
sao vật chất thô lổ lại sản sinh trí tuệ? Nói một vật gì tiến hoá, là
nói một cái gì có khả năng tiến hoá và một tác nhân có khả năng
làm cho tiến hoá. Tiến hoá là một thủ thuật, không phải là một
nguyên nhân. Cái mà cháu yêu cầu cậu chỉ cho cháu chính là
nguyên nhân, nguyên nhân đầu tiên. Nhưng vì cậu không chỉ ra

38
được, nên cháu yêu cầu cậu cho biết nguyên nhân của chính sự
tiến hoá thôi.
- Vũ trụ hiện nay như thế này và nó đang tiến hoá, vì nó
mang sẵn trong mình những qui luật chi phối nó.
- Ai đề ra những qui luật đó?
- Nguồn gốc của tất cả tổ chức đó là “một định tắc được công
bố thuở sơ thuỷ của muôn loài; chính tiếng vang dậy kéo dài của
định tắc được công bố đó, thông qua những đợt sóng vô tận của
nó, đã sản sinh nên vũ trụ bao la”.
- Ai mà hiểu được! Câu nói đó sặc mùi triết lí Đức, cả triết lí
Đức, cả sự ngu đần. Cậu ạ, thưa thật với cậu, cậu càng nói, cháu
càng ít phục cậu.
- Thiên Chúa chưa có, nhưng đang chuẩn bị để có. Thiên
Chúa ở ngay trong con người, ở mút cuối của tiến hoá: vật chất,
sựu sống, con người, Thiên Chúa! Đó cũng là ý kiến của Rơ-
năng.
- Nhưng nếu từ đầu chưa có Thiên Chúa, thì cuối cùng cũng
sẽ không có Thiên chúa. Cậu ạ, qua những lời phi lí của cậu, cháu
thấy cậu đang ở vào một tình trạng lúng túng không lối thoát. Xin
cậu cho phép cháu tóm tắt:
Cậu nói: 1/ vũ trụ tự mình mà có. Thật là ngớ ngẩn hết chỗ
nói.
Cậu nói: 2/ Khối tinh vân nguyên thuỷ giải thích được tất cả.
Nhưng cậu nói cho cháu biết: nó do đâu mà có?
Cậu nói: 3/ Thuyết tự sinh giải thích được sự sống. Nhưng
khoa học đã chứng minh rằng không làm gì có hiện tượng tự sinh.
Cậu nói: 4/ Tiến hoá! Nhưng vấn đề không phải là tìm cho
biết vũ trụ có được như thế nào, mà vấn đề chính là tìm xem
nguyên nhân của vũ trụ là gì. Điểm này cậu chưa bao giờ trả lời
cháu.
Cậu nói: 5/ Vật chất vĩnh cửu. Nhưng nào cậu không thấy 2
tiếng đó đang tru trếu lên, vì bị cậu xếp cho đi đôi với nhau sao?
Cậu nói: 6/ Riêng đối với định tắc “được công bố thuở sơ
thuỷ của muôn loài”, cháu nghĩ là cậu nói đùa thôi, chứ nếu cháu
cho là cậu nói thực, thì cậu sẽ đến đánh cháu, vì như thế nghĩa là

39
cháu tin rằng cậu bị tật thiếu não do di truyền, thiếu hẳn và không
thể chữa được.
La Bơ-ruy-e nói: “ Tôi rất ước ao được thấy một người nào
đó tuyệt đối tin là không có Thiên Chúa. Tôi sẽ bảo họ, ít ra, nói
cho tôi biết cái lí do gì mạnh đến nỗi đã làm họ tin như thế”.
Cháu cũng thế, cháu rất ước ao được biết cái lí do gì mạnh
đến nỗi giúp cậu lại trọng thuyết vô thần. Cháu đã luôn luôn
mong chờ lí do đó và cháu sẽ còn mong chờ nó lâu nữa. Cháu đã
dẫn ra cho cậu những chứng cứ.
- Chứng cứ gì?
- Chứng cứ của cháu là: cần phải có một nguyên nhân đầu
tiên, chuyển động, trật tự vũ trụ,v,v... Hơn nữa, cháu cũng đã đề
cập một chứng cứ toán học, chứng cứ này, cháu thấy nó đã làm
cậu sửng sốt. Cháu đã đánh, đã hạ, đã phi bác, đã huỷ hoại tất
thẩy các vấn nạn và giả thuyết vô bằng cứ và đầy mâu thuẫn của
cậu.
Hôm nay, những tấn công, những vấn nạn của cậu đã buộc
cháu phải trở lại với những luận cứ mà cháu vẫn nghĩ là đã ổn
định, đã hiểu, đã lĩnh hội và nắm vững. Cháu đã đẩy lùi được
những tấn công đó, đã phi bác được những vấn nạn đó. Cậu đã bắt
cháu phải nói lại những vấn đề mà một em bé cũng hiểu được.
Thật là đáng tiếc.
Dẫu sao, trong khi chờ đợi những chứng cứ của cậu, những
chứng cứ sẽ không bao giờ có, cháu cố thủ trong lập truờng này:
- Không có cái gì tự dưng do hư vô mà có;
- Không hiệu quả nào mà không có nguyên nhân;
- Không chuyển động nào mà không do một động cơ kích
động;
- Không có trật tự nào mà không do một ai đó sắp đặt nên;
- Không có luật nào mà không có người lập luật.
Khoa học đã chứng minh rõ rằng vũ trụ đã có lúc bắt đầu; mà
bởi chúng ta đứng trước vũ trụ là một hiện tượng lớn lao và kì
diệu như thế, nên cháu kết luận rằng để sản sinh ra vũ trụ, phải có
một năng lực kì diệu, năng lực này đã có thể một mình làm cho từ
hư vô xuất hiện vô vàn yếu tố để làm nên vũ trụ.

40
Chương VII :
Trước không gian bao la vô hạn
Cậu rất mến
Hôm trước, thái độ của cháu làm cậu phần nào khó chịu và
trong khi say sưa tranh luận, cháu đã lỡ thốt ra những lời không
được từ tốn lắm. Nhưng xin cậu biết cho là hễ có ai động đến
Thiên Chúa, đến Đạo mà cháu đã ghi tạc vào lòng, cháu cứ thấy
như máu trong mình nó sôi lên. Chẳng qua cũng vì cậu thôi. Bởi
vì rút cuộc, cháu thấy cậu vẫn cố sống cố chết bám lấy những cái
cũ rích của cậu; cậu không chịu trả lời cho những câu cháu đặt ra.
Thấy bận tâm, là cậu lẩn tránh; rồi không kể gì lịch sự, cậu lại rút
ra một mũi tên khác. Cháu hi vọng rằng từ đây những mũi tên của
cậu đã cùn đi nhiều, không hiệu lực gì nữa. Như thế, để cậu khỏi
tính đến chuyện rút những mũi tên khác. Thôi, cho chúng an giấc
ngàn thu đi!
Vì thế, hôm nay, cháu sẽ hãm tính hiếu chiến của cháu lại.
Và xin mời cậu ra vườn thưởng ngoạn với cháu. Đêm đẹp quá!
Không biết cơ man nào làm sao nhấp nháy trên không trung.
Cháu chỉ xin mời cậu ta cùng cháu đọc trong cuốn sách khổng lồ
đó: cháu thấy ở đó ghi rõ tiếng Thiên Chúa.
Một buổi tối, nhà bác học Niu-tơn và một người bạn thân
cùng dạo chơi. Người bạn xin nhà bác học cho một chứng cứ vắn
tắt về sự có Thiên Chúa. Niu-tơn liền giang hai tay lên trời mà
nói: “ Kìa!”
Phải, thưa cậu, theo như cháu nghĩ, cảnh tượng cõi bao la vô
hạn mở ra trước mắt, nó áp đảo ta, làm ta phải kinh ngạc và thét
vào tai ta hai tiếng: Thiên Chúa!
Quả đất ta ở chẳng hạn, nó chỉ là một vật bé tí trong cõi bao
la thôi, vậy mà đường bán kính của nó đến 6.371km. Cái bầu tròn
khổng lồ đó lao mình trong không gian như một viên đạn đại bác,
với một tốc độ kinh khủng ta mà thấy được thì phải đến thất kinh
bạt vía.
Mặt trời mà ta thấy như một chiếc điã cỡ trung bình, theo
thiên văn học (cháu có sách đây) nó lớn hơn quả đất ta 1.310.000
41
lần. Vậy mà cái khối khổng lồ đó cũng chỉ nhỏ xíu bên cạnh
những ngôi sao to lớn khác, như sao Arcturus và sao Bételgeuse,
có khối lượng lớn gấp hơn một triệu lần mặt trời.
Phải. Mặt trời to vào hàng thứ 6, nhưng chỉ là một mảnh tíu
ti trong giải Ngân hà, những kính viễn vọng lớn nhất cũng chịu
không trông rõ được. Nếu đem đặt nó vào vị trí của quả đất, thì
quĩ đạo của nó sẽ vượt quá mặt trăng hàng ngàn dặm.
Không biết có cần phải nói với cậu về những sao chổi quái
dị, chỉ xuất hiện trên vòm trời chúng ta một thời gian vắn, thân
mình chúng to lớn ghê gớm, đuôi dài đến 300 triệu km.
Và cậu cũng đừng quên rằng thái dương hệ gồm hơn 5 ngàn
ngôi sao, nhưng đó cũng chỉ mới là một phần nhỏ trong vô số
thiên thể khác.
Ngày nay, nhờ kính ảnh nhạy, người ta đã tìm ra hơn một tỉ
ngôi sao. Khắp bầu trời, rải rác những chòm sao, như chòm Vũ
tiên (Hercule) có đến 3 vạn sao.
Riêng một giải Ngân hà đã gồm hàng trăm triệu sao. Đám
mây khổng lồ của nó, làm thành bởi hàng trăm chòm sao, và với
máy ảnh chụp xa, người ta đã đếm được trong một chòm như thế
có đến 30 vạn mặt trời. Kính viễn vọng còn cho thấy trong cõi
bao la vô hạn những đoàn lũ vô tận hàng triệu mặt trời khác
nữa.... Nào trước cảnh tượng tinh tú bao la huyền bí đó, cậu
không thấy mình thất điên bát đảo sao? Cháu thì cháu hoảng hốt
lên mà kêu: Lạy Chúa, xin tha cho con! Và cháu lấy làm lạ không
hiểu tại sao, trước một cảnh tượng như thế, người ta lại có thể nói
đến chuyện những nguyên tử có móc và bảo: “Tất cả những cái
đó là tự mình mà có!?”
Bây giờ, sau khi nhìn cõi bao la vô hạn của thế giới thiên hà,
cũng như tốc độ kinh khủng của chúng trong khoảng không gian
vô tận, nếu chúng ta để ý tới khoảng cách giữa các thiên thể đó,
chúng ta cũng phải ngẩn người.
Sao Thuỷ cách mặt trời 58 triệu km. Sao Kim 108 triệu. Sao
Hoả 227 triệu. Không phải là ghê rợn sao? Dầu vậy, đó chỉ mới là
những ngôi sao ở gần ta hơn cả.
Vì thế, muốn biểu thị khoảng cách giữa các ngôi sao, người
ta đã phải lấy vận tốc ánh sáng trong một giây, tức là 30 vạn km,
42
làm đơn vị. Một thí dụ đủ làm ta rởn tóc gáy: ánh sáng từ mặt trời
chiếu đến tận chúng ta chỉ mất 8 phút rưỡi. Vậy mà từ sao Anpha
của chòm Nhân mã đến chúng ta, nó phải đi mất 4 năm. Từ sao
Thiên lang (Sirius) mất 14 năm. Từ sao Bắc cực 46 năm. Như thế,
sao Bắc cực ta thấy đó, nếu ta muốn biết nó xa ta bao nhiêu, phải
lấy 300.000km(tức vận tốc ánh sáng trong một giây) nhân với
87.039.360.000(số giây trong 46 năm), tức là
26.111.808.000.000.
000km. Kinh khủng chưa! Nhất là khi nghĩ đến còn có vô vàn
ngôi sao khác cách xa chúng ta hơn sao Bắc cực đó hàng tỉ dặm,
thì đầu óc nhỏ bé của cháu như bị dìm vào trong cõi bao la vô hạn
đó. Cái không gian vô hạn, thăm thẳm mịt mù mà Lô-ti đã gọi
một cách lí thú là “cõi kinh ngạc”, không ai có thể nhìn bằng cặp
mắt hững hờ!
Chưa hết. Hãy xem quả đất ta ở. Nó nhỏ bé thật đấy, nhưng
cũng đã làm ta ngẩn người, khi biết nó lao mình trong không gian
với một vận tốc kì diệu, trong khi đó, nó lại xoay tít trên trục của
nó như con cù, cuốn theo hàng tỉ sinh vật sống trên mình nó.
Cảnh tượng hùng vĩ thay! Sức mạnh thần kì thay! Quĩ đạo nó đã
được vạch sẵn, bao giờ cũng thế, đồng đều nhất mực, có qui cũ.
Và từ bao thế kỉ nay, nó xoay như thế mà không trục trặc,
không va chạm, không hề xảy tai nạn gì. Và rồi, quả đất là gì so
với vô vàn ngôi sao đang lao vút trong không gian vô hạn, không
ngừng rơi vào cõi vô viên, vô đáy! Và trong cái cơ chế đó, chúng
ta thật không tài nào hiểu được nó chính xác, ăn khớp, trật tự, hoà
hợp biết bao! Tất cả được bố trí hoàn hảo đến độ nhìn vào đó,
chúng ta không những được thấy một cảnh tượng uy nghiêm hùng
vĩ, mà cả một địa bàn và một đồng hồ vô cùng chính xác, đúng
đắn như toán học. Như thế là có cả một trật tự kì diệu. Nhà bác
học nghiệm xét vũ trụ, họ biết được cái “tại sao” và cái “thế nào”
của những qui luật phát sinh trật tự đó: luật hút và đẩy giữ các
ngôi sao trong thế cân bằng, luật hấp dẫn lực, luật biến đổi ánh
sáng,v.v...và thế nào họ cũng phải tự hỏi ai là người đã có thể đề
ra những qui luật đó cho vật chất và bảo đảm sự thi hành nhất
mực những qui luật đó. H.Poăng Ca-rê thú nhận rằng “tất cả cái
đó không thể là kết quả của tình cờ”. Nhưng ông không dám kết
43
luận phải có một Đấng Tối Cao sắp đặt nên. Tuy nhiên, thánh Tô-
ma nói: “Mọi trật tự đều là công trình của lý trí và trật tự vĩnh cửu
chỉ có thể giải thích bằng một nguyên nhân vĩnh cửu”.
Vì thế, thưa cậu, để kết thúc, cháu lại xin hỏi cậu mấy câu:
Ai đã sáng tạo nên vật chất kinh khủng đó?
Làm sao những khối lượng khổng lồ đó có thể tự mình đứng
trong không, nếu không nhờ một năng lực vô hình choán đầy
không gian nâng đỡ chúng?
Tại sao chúng xoay tít kinh khủng như thế mà không vỡ ra?
Tại sao không bao giờ chúng lạc lối, trệch đường?
Tại sao mỗi ngôi sao chạy theo một hướng và với vận tốc
khác nhau, mà không bao giờ chúng gặp nhau, va chạm nhau?
Ai đã làm nên tất cả những cái đó?
Người ta thì không phải.
Cậu không phải.
Mà cháu cũng không phải.
Thế thì ai?
Mác-đa
T.B. Thưa cậu, nếu có thể, xin cậu cứ tung lên trong phòng cậu ở
1,2,3,10,100,1.000,10.000 hòn bi, sao cho chúng không bao giờ
chạm nhau cả. Làm được như thế là một phép lạ to tát bậc nhất
rồi. Cuộc cậu làm đấy! Vậy mà, theo các nhà thiên văn học, thì
con số ngôi sao hiện biết được, có chừng 100 tỉ. Tất nhiên 100 tỉ
sao ấy chạy và xoay trên mình, ngôi này xung quanh ngôi khác,
chạy với vận tốc kinh khủng như thế mà không bao giờ va chạm
nhau, bao giờ cũng đúng đường. Nào cậu không thấy ở đó có sự
hiện diện của một động cơ đầu tiên có trí tuệ và toàn năng sao?

Chương VIII:
Thiên Chúa với đau khổ

- Này, Mác-đa, hôm nay thì cậu đã trang bị sẵn một vấn nạn
mà cháu sẽ không tài nào giải đáp được, và dù có tập trung tất
thảy mọi luận cứ cũng không thể bẽ gãy được. Đó là vấn đề đau
khổ. Có đau khổ. Do đó, không có Thiên Chúa.
- Cháu lạ gì vấn nạn đó!
44
- Phải, cậu cũng biết thế. Đây, cậu nói thế này: hoặc là Thiên
Chúa muốn thanh toán đau khổ đi, nhưng không làm được; hoặc
làm được, nhưng lại không muốn làm. Trường hợp thứ nhất,
Thiên Chúa bất lực. Trường hợp thứ hai, Thiên Chúa độc ác.
Trong cả hai trường hợp, Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa.
- Kí tên: Ê-pi-cuy-rơ.
- Cháu cũng biết?
- Vâng, cháu biết lắm. Và cháu vẫn chờ cậu đưa ra vấn nạn
đó. Cháu đã chuẩn bị để đối phó với nó rồi, và cháu sẽ thẳng thắn
trả lời cậu, chỉ đứng trên quan điểm triết học mà thôi. Nhưng cháu
cần nói trước với cậu rằng vế vấn đề oái oăm này, chúng ta sẽ
không bao giờ làm sáng tỏ hoàn toàn được.
- Nhưng đây là vấn đề cậu muốn thấy rõ hơn cả.
- Thiên Chúa bước vào đâu, là mang theo vào đó những mầu
nhiệm của Người. Người là vô hạn. Những điều chúng ta biết
được không đáng kể gì. Vậy mà không lẽ chúng ta lại lấy trí óc
nhỏ hẹp của chúng ta mà do lường sự Khôn ngoan và lòng Nhân
hậu của Người sao?
- Nhưng cháu cũng phải nhận rằng một Thiên Chúa mà để
cho đau khổ xảy ra, thì thật là khó hiểu.
- Muốn hiểu Thiên Chúa, phải là Thiên Chúa. Chúng ta sống
giữa những mầu nhiệm; ngay bản tính con người chúng ta cũng
đầy dẫy những mầu nhiệm. Sao cậu lại muốn không được có mầu
nhiệm nơi Thiên Chúa?
- Lẽ ra Người có thể miễn cho ta khỏi phải đau khổ và chết!
- Nếu Thiên Chúa để đau khổ xảy ra, là vì Người có thể để
nó xảy ra. Tầm mắt chúng ta thiển cận lắm, không thể phê phán
sự việc một cách đúng đắn được. Dẫu sao, cháu xin dẫn ra đây
một cách vắn tắt theo triết học, những câu trả lời độc nhất mà tí óc
nhân loại có thể đưa ra trước bài toán oái oăm đó. Rồi mầu nhiệm
vẫn còn. Nhưng giữa đêm tối mịt mù đó, sẽ loé lên những tia
sáng, đủ làm cho cậu thấy rằng dầu sự dữ, đau khổ cũng không
thể là một vấn nạn chống lại sự có Thiên Chúa. Luận đề của cháu
thế này:
Thiên Chúa đã có thể không sáng tạo nên cái gì cả. Như thế,
sự dữ sẽ không có. Nếu Người đã sáng tạo, nếu Người để cho có
45
sự dữ trong công trình của Người, thì tất nhiên Người đã có
những lí do cao cả để làm như thế.
- Để xảy ra sự dữ, tức là muốn có sự dữ.
- Thật ra có một sự khác biệt rõ rệt giữa để cho xảy ra và
muốn cho xảy ra. Chẳng hạn các cháu của cậu muốn chơi. Đôi lúc
có thể quá trớn một ít: chúng cãi nhau, đanh nhau...những cái tai
hại đó, cậu có muốn thật không? Không. Nhưng khi muốn cho
các cháu chơi, tức là cậu cũng thấy trước và để cho tính hăng hái
của tuổi trẻ có thể đi đến những quá trớn đó.
Hiểu như thế, xin cho phép cháu nói rõ thêm bằng cách phân
tích rành mạch:
1/ Thiên Chúa không muốn sự dữ nào cách trực tiếp và muốn
sự dữ vì sự dữ, dù là sự dữ vật lí. Thiên Chúa không thể muốn sự
dữ. Vì như thế trái với bản tính và mọi hoàn hảo của Người.
2/ Thiên Chúa có thể muốn sự dữ vật lí, nhưng muốn cách
gián tiếp mà thôi, nghĩa là Người muốn sự lành, nhưng sự lành
này lại có sự dữ đi kèm không tách ra được.
- Chẳng hạn?
- Người có thể muốn cậu bị một chứng bệnh làm cậu đau
đớn, nếu cái “đau đớn hồng phúc” đó có thể dắt cậu trở về đường
lành, trở về với nghĩa vụ, với Người. Những khi mà sự dữ vật lí
gắn liền với sự lành tâm lí hay vật lí có giá trị hơn giá trị sự lành
ta mất đi vì sự dữ đó, làm sao Thiên Chúa lại không thể muốn sự
dữ nói đó (bệnh tật) vì sự lành sẽ do đó mà ra (trở lại) Khi muốn
cho có sự bền vững trong các qui luật tự nhiên, Thiên Chúa cũng
đã vì muốn có một sự lành cao hơn, mà gián tiếp muốn có nhiều
sự dữ sẽ tất yếu do sự bền vững đó mà có. Trong khi muốn bảo
tồn con người, Thiên Chúa cũng muốn con người giết một số loài
vật để ăn thịt chúng, một số loài cá nuốt cá khác nuôi thân. Có
phải là sự dữ không?
- Đó là đối với loài vật. Với loài người thì không thế.
- Chà! Phán đoán của cậu cứ thay đổi luôn khi thế này khi
thế khác, tuỳ cậu nhìn lên hay nhìn xuống. Nếu cậu nhìn xuống,
thì cậu cho việc chúng ta ăn thịt loài vật là điều tất nhiên, không
có gì đáng lấy làm lạ và loài vật không có quyền kêu ca ai oán gì
hết. Nếu cậu nhìn lên, thế là cậu không hiểu nữa. Cậu oán trách
46
Thiên Chúa sao lại làm những việc mà chính bản thân cậu làm thì
cậu cho là bình thường! Cháu xin nói tiếp.
3/ Sau hết, đối với sự dữ luân lí, tức là sự tội, thì Thiên Chúa
không bao giờ muốn, dù là gián tiếp cũng vậy. Người chỉ để
nó xảy ra; nghĩa là Người không muốn ngăn cản không cho ý
muốn thong dong phạm nó. Tuy nhiên, trong ý định để cho người
ta phạm tội đó, Thiên Chúa chỉ nhằm vào sự lành.
- Sự lành gì?
- Tự do của con người, công phúc, hoán cải, cơ hội biểu
dương lòng nhân ái hay sự công chính của Người,v.v...
- Những cái đó có bàu chữa cho sự dữ được không?
- Cháu thấy ở đây sự lành lấn át sự dữ.
- Ô! Chính Thiên Chúa làm nên sự dữ!
- Không. Người để nó xảy ra. Hai đàng khác nhau một trời
một vực. Bây giờ cháu thấy cần dẫn ra đây một số trong những lí
lẽ cao cả vì đó Thiên Chúa để sự dữ xảy ra.
- Được. Nói đi!
- 1/ Sự dữ vật lí gắn liền với mọi bản tính thụ tạo. Điều đó là
do chỗ những sự vật nó chứa trong mình căn bản là bất toàn.
Thiên Chúa sáng tạo nên chúng ta có thể xác và cảm giác.
Do đó, chúng ta có khả năng đau cái đau, cái đau này chỉ là hậu
quả của bản tính ta bất toàn. Muốn ở trên địa cầu này không có
một sự dữ nào, thì Thiên Chúa phải đã sáng tạo nên một thế giới
thập toàn.
- Sao không sáng tạo nên nó như thế?
- Vì một thế giới hết sức hoàn hảo là điều không thể có. Bao
giờ sự hoàn hảo của nó cũng phải có giới hạn, đừng kể sự đòi hỏi
một thế giới vô cùng hoàn hảo như chính mình Thiên Chúa. Do
đó, một thế giới thụ tạo thì tất yếu phải là bất toàn, vì nó không
thể hoàn hảo như Đấng Hoá Công đã sáng tạo nên nó. Vậy nếu
thế giới nhất thiết phải bất toàn, thì có sự dữ trên thế giới nào có
lạ lùng gì?
- Lẽ ra Thiên Chúa cho có nhiều sự lành hơn nữa!
- Xin hỏi cậu: một người cha có dốc tất cả gia tài cho con
tiêu phí vào những thú vui nhỏ không?
- Cha không bắt con chịu khổ.
47
- Thế, khi cha bắt con phải để người ta mổ một cái nhọt?
- Khi đó là để làm ích cho con.
- Thì Thiên Chúa cũng làm như vậy.
- Dù sao, trong công trình của Thiên Chúa cũng có quá nhiều
bất toàn!
- Thế mà nhiều! Những bất toàn người ta nhận thấy nơi từng
phần, thật ra đều góp vào việc làm cho toàn bộ được đẹp đẽ. Xem
một bức tranh, tại sao cậu chỉ ngắm những chỗ tối, không để ý gì
đến những chỗ sáng sủa, rực rỡ? Thật ra những sự dữ kia chỉ ít
thôi, nếu đem so với những sự lành đầy dẫy trong cuộc sống, mà
ta quá quen thuộc đến độ không để ý tới nữa. Ta chỉ đau ốm mấy
ngày, nhưng ta khoẻ mạnh sung sức biết bao nhiêu năm!
- Còn sự chết?
- Nếu không ai chết cả, thì quả đất này đủ chỗ cho người
sống thế nào được?
- Nhưng dù sao, thế giới này quá nhiều hỗn loạn!
- Muốn phê phán một công trình, không phải cứ tỉ mỉ xem
xét từng bộ phận tách rời!
Chúa mới làm được. Không ai yêu một người đã chết; tôn kính thì
có, chứ yêu thì chỉ đến mộ là hết. Đức Giêsu thì trái lại, Người
chết đã hai ngàn năm, mà vẫn được người ta yêu. Vậy mà ai làm
được cho người ta yêu mình bằng một tình yêu lớn như thế nào,
thì người đó cũng lớn như thế. Tình yêu của người ta đối với Đức
Giêsu lớn đến nỗi chúng ta có quyền kết luận rằng Đức Giêsu
còn hơn là một con người.
- Nghĩa là Đức Giêsu là Thiên Chúa?
- Vâng, nếu cậu phản đối ý kiến đó, thì xin làm chứng.
- Cứ sự thực mà nói, thì luận cứ của cháu tài đấy. Nhưng tại
sao cháu không nói đến lòng ghét nữa?
- Đó là phần hai của luận cứ.
- Đức Giêsu có bị người ta ghét không?
- Ô! Yêu chừng nào thì ghét chừng ấy, ít ra về cường độ.
- Cháu nói lạ quá!

48
- Lạ chỗ nào? Cậu là người biết Vôn-te lắm, lẽ nào cậu
không thuộc lòng câu khẩu hiệu ghê gớm của ông ta: "Hãy tiêu
diệt tên xấu xa!" Tên xấu xa ông ta nói đây là Đức Giêsu. Trong
khi Ma-hô-mét không bị người ta thù ghét, những con quái vật
Nê-rô, Ti-bê-ri-ô, Ca-li-gu-la chỉ bị ghét khi còn sống, thì chỉ có
Đức Giêsu được cái vinh dự là bị người ta ghét cay ghét đắng,
ghét mãi không nguôi, ghét khủng khiếp, độc địa. Đối với những
kẻ gây hoạ cho nhân loại, ta chỉ khinh dể họ là đủ, thù ghét họ là
quá. Đức Giêsu thì trái lại, chưa bao giờ bị khinh dể, mà luôn luôn
bị thù ghét.
- Tại sao vậy?
- Dễ hiểu thôi. Là vì Người luôn luôn còn đó với thần tính
của Người, với tín lí mà trí óc kiêu căng của con người không thể
chấp nhận được, với nền luân lí cao quí có một không hai, nhưng
đồng thời cũng vô vàn khắc khổ. Người cản trở dục vọng của
người ta. Chính vì thế mà người ta không ngừng thù ghét Người .
Nào chính Et-ga Ki-nê đã không viết thế này sao: " Đây là
một cuộc chiến đấu nghiêm trọng, một mất một còn.Vấn đề không
phải chỉ là bài xích bọn theo giáo hoàng" (người Anh giáo dùng
cụm từ này chỉ người công giáo Rôma. N.D.), mà còn là nhổ bật
chúng, bêu xấu chúng, gìm chúng tận bùn đen". Thù ghét ư? Thế
cậu không biết câu nói của Giăng Giắc Rút-xô sao: "Hỡi Thiên
Chúa, cám ơn Ngươi đã dựng nên ta có tự do, vì ít ra ta cũng được
tự do thù ghét Ngươi!?"
Thù ghét ư? Thì đây, vì không thể đánh vào con người Đức
Kitô, người ta tìm cách giết Người trong linh hồn những em bé
mà người ta định biến thành những "thiếu nhi vô thần", trong
linh hồn kẻ nghèo, trong linh hồn người phụ nữ. Chạm trán với
Người ở đâu, người ta thù ghét bách hại Người ở đó; người ta
dùng đến cả xiềng xích, nhà tù và cái chết. Giáo hội Đức Giêsu ra
đời nói được là trong một biển máu; từ ấy đến nay, không phải là
có đến mấy chục triệu tử đạo đó sao? Như vậy có phải là bị thù
ghét không?
- Thế là, ở đây cũng vậy, cháu định kết luận ...

49
- Rằng: không người nào chết rồi mà còn bị người ta thù
ghét. Vậy mà Đức Giêsu chết đã hai mươi thế kỉ, vẫn còn bị truy
lùng, lăng mạ, thù ghét, căm tức. Do đó, Giê-su là Thiên Chúa.
- Chưa dễ kết luận như vậy đâu!
- Và để cho xong vấn đề ở khía cạnh đó, hãy xem vị Thiên
Chúa mà người ta xua đuổi khắp nơi đó, Người thống trị vẻ vang
biết dường nào!
Người thống trị trí óc nhân loại, đòi trí óc nhân loại phải tin
một cách chắc chắn hết sức vào giáo lí vừa có những điểm sáng
sủa lạ lùng, vừa có điều bí nhiệm không thăm dò nổi. Người đời
có thể áp bức tư tưởng, nhưng không thể khuất phục nó. Đức
Giêsu đã làm được như thế. Và những bậc thiên tài lỗi lạc nhất,
như Pat-xcan và bao nhiêu người khác, đều đã hàng phục và đã
tin, bởi lẽ chính Đức Giêsu phán dạy họ.
Người thống trị ý chí nhân loại. Khuất phục được trí óc
người ta là tài giỏi, khuất phục được ý chí người ta càng tài giỏi
hơn. Vậy mà tự do là của quí làm con người tự hào hơn cả.
Người ta có thể hành hạ, giết chết con người, nhưng bức một
người thuận theo ý mình, thì không thể, trừ khi người đó tự ý
thuận theo. Đức Giêsu đã làm được như thế. Người bức ý chí
nhân loại phải tuân cứ luật Người, thi hành huấn lệnh Người, giữ
một thứ luân lí truyền phải thắng mình và giết chết những khuynh
hướng mình.
- Thế người ta không chống lại sao?
- ồ! Có chứ. Đạo Đức Giêsu luôn luôn bị bách hại, bị tấn
công bởi những người vô đạo, bởi người Do thái, bởi các triết gia,
các kẻ lạc đạo, các bạo vương bạo chúa, nhưng nó vẫn đứng
vững. Đạo Đức Giêsu đã kinh qua hai mươi thế kỉ liên lỉ đấu tranh
và luôn luôn chiến thắng. Như thế không phải là thống trị sao?
Sau hết, Đức Giêsu thống trị tâm hồn nhân loại. Người rời
khỏi sân khấu thế giới này 20 thế kỉ rồi, nhưng trong suốt 20 thế
kỉ đó, Người đã làm được cho người ta yêu Người, yêu bằng tâm
hồn dơ như bùn hôi của dân ngoại xưa, yêu bằng tâm hồn cứng
như sắt như đá của dân man-di, mọi rợ; yêu bằng tâm hồn nhạy
50
cảm của những người phụ nữ cũng như tâm hồn dũng mạnh của
nam giới. Mỗi sáng, hàng triệu người cất tiếng biểu lộ lòng mình
yêu Người .
Cậu ạ, luận cứ tâm lí của cháu đến đây là hết. Có lẽ luận cứ
cháu trình bày hôm nay không mạnh như những luận cứ cháu sẽ
trình bày sau. Nhưng đối với cháu thì luận cứ này cảm kích hơn
cả.
- Đó chỉ mới là những khẳng định. Cậu cần kiểm tra xem đã.
Nhưng có điều này đánh động cậu hơn hết, là đối với Đức Giêsu
mà cậu thấy còn xa cách như thế, cậu thấy cháu yêu Người một
cách say sưa nồng nhiệt lạ lùng!
- Ô! Phải rồi, cháu yêu Người với cõi lòng sâu kín nhất của
cháu.
- Chính điều đó làm cậu cảm động.
- Dù sao, đối với kẻ tìm kiếm Người trong tinh thần và trong
sự thật, thì Người không ở xa đâu. Cậu ạ, rồi cuối cùng thế nào
cậu cũng gặp được Người. Và vì cậu có một tâm hồn cao thượng,
nên thế nào rồi cậu cũng phục gối xuống như bao người khác để
thờ lạy và yêu mến Người .

Chương IV
Hai khẳng định vô cùng quan trọng

- Thưa cậu, hôm nay, chúng ta tiếp tục cái chuỗi chứng cứ
về thần tính của Đức Giêsu. Cháu sẽ đặt cậu đứng trước hai câu
khẳng định mà cháu dám nói là vô cùng quan trọng...
- Nói cho to chuyện đấy chứ!
- Cái đó, xin để tuỳ cậu phê phán. Chúng ta đứng trước:
1/ Một khẳng định của toàn thế giới kitô giáo;
2/ Một khẳng định tích cực, khẳng định của chính mình Đức
Giêsu.
- Khẳng định thì dễ thôi.
51
- Xin cậu khoan đã nói như thế. Đây, khẳng định thứ nhất:
cậu cứ rảo cho cùng mặt đất này, hàng triệu người sẽ bảo cậu rằng
họ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa.
- Hàng triệu kia à?
- Nếu cậu muốn con số chính xác, thì đây: hiện nay, cả thế
giới có đến 304 triệu người công giáo,157 triệu người li giáo và
212 triệu người Tin lành. Li giáo và Tin lành đã đổi khác giáo lí
Người. Trong số công giáo, không phải tất cả đều thật xứng với
danh hiệu của mình. Dù sao, chúng ta cũng đứng trước một khối
to lớn 673 triệu người tin Chúa Giêsu.
- 673 triệu người đó khẳng định cái gì?
- Khẳng định Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Khẳng định đó
phổ biến, trường cửu, suốt từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ
chúng ta lần ngược lên tận các Tông đồ. Người ta đã luôn luôn
duy trì một niềm tin xác định, một tín lí kèm theo nhiều hậu quả
thực tiễn và cam go.
- Nhưng khẳng định đó có giá trị gì?
1/ Đó là một khẳng định có hiểu biết. Tất thảy những nhân
vật thời danh và thiên tài lỗi lạc đều phục gối thờ lạy Người. Họ
đã tỉ mỉ xem xét các sách vở, xác minh cả ngày tháng, họ đối
chiếu, kiểm nghiệm những dấu hiệu của Thiên Chúa, đã bàn cãi,
đã nói như thánh Tôma: "không thấy phải tin, thì không đời nào
tôi tin".
2/ Khẳng định đó chính trực và có lôgích, khẳng định của
một thánh nhân sống đúng như mình tin, cách ăn nết ở rập khuôn
đức tin, thực hiện những đức tính cao quí nhât.
3/ Khẳng định đó hào hiệp và anh hùng, thúc đẩy hàng triệu
người nam,nữ,già,trẻ chết cho Đấng mình tôn thờ. Thật ra, một
khẳng định hoàn toàn của con người , không thể đi xa hơn thế
- Nhưng ai làm chứng cho cháu thấy rằng tất thảy những
người đó không lầm?
- Chỉ cái lôgích thôi. Nếu tin tưởng đó chỉ là do hiểu sai về
một sự kiện lịch sử, thì đã không địch được với ngần ấy tấn công;
bao nhiêu thánh nhân đã không dại gì mà sống nhân đức, nếu chỉ
52
để phục vụ một sai lầm; bao nhiêu tông đồ đã không mất công phí
sức xông pha nguy hiểm, nếu chỉ để truyền bá một điều mê tín
khả ố!
- Nói như thế để kết luận?
- Rằng: hoặc là điều mà cả thế giới kitô giáo 20 thế kỉ nay
khẳng định về Đức Giêsu là đúng thật; hoặc là Thiên Chúa đánh
lừa chúng ta, vì đã dung túng cho một sự bịp bợm thắng thế nhất.
Như một giáo phụ đã nói: "Nếu những điều chúng tôi tin là sai,
thì lạy Chúa, chính là vì Chúa đã đánh lừa chúng tôi!" Cậu xem,
đó là khẳng định thứ nhất với những hậu quả mà cậu không thể
trốn tránh được.
- Thật ra đó cũng là một điều lạ lùng: một người thì có thể
sai lầm, chứ đàng này cả một tập thể sai lầm và sai lầm đã hai
mươi thế kỉ!...Cháu cứ nói tiếp đi...
- Cháu xin nói sang khẳng định thứ hai: khẳng định của
chính mình Đức Giêsu. Chính Người nói và khẳng định Người là
Thiên Chúa.
- Nê-rô xưa cũng đã làm như thế.
- Không thể đem Đức Giêsu sánh với Nê-rô.
- Vì hai bên cũng khẳng định như thế cả.
- Phải. Nhưng cần tìm hiểu giá trị của nhân vật và giá trị của
điều mà nhân vật đó khẳng định. Vậy mà có đến 74 chỗ trong Tin
mừng, Đức Giêsu xưng mình là Thiên Chúa, hoặc Con Thiên
Chúa, tuy về mức độ rõ ràng có khác nhau.
- Cháu nói rõ hơn nữa.
- Dễ thôi. Người đã khẳng định thần tính mình:
1/ Trước mặt cha mẹ Người. Hôm ông bà tìm thấy Người
trong Đền thờ,Người nói: "Nào ông bà không biêt rằng con phải
quan tâm đến những công việc của Cha con hay sao?”
2/ Trước các tông đồ và môn đệ: Khi thánh Phê-rô động lòng
tin mạnh thưa rằng: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng
sống", thì không những Người ưng nhận sự tuyên xưng đó, mà
còn cho vị Tông đồ là "có phúc". Sau nữa, nào không phải chính
53
Người nói rõ như thế này với Phi-li-pê: "Này Phi-li-pê, ai thấy
Thầy là thấy Cha Thầy; chúng con không tin rằng Thầy ở trong
Cha Thầy và Cha Thầy ở trong Thầy sao?"
3/ Trước đám đông. Mat-ta khóc em, Người bảo: "Thầy là
sự sống lại và là sư sống; ai tin Thầy, dù có chết cũng sẽ sống".
Hôm khải hoàn vào thủ đô, Người xưng mình là: "Sự Sáng chiếu
soi thế gian". Lần khác, Người nói trước có ngày Người sẽ xét xử
kẻ sống và kẻ chết.
4/ Trước người nước ngoài. Trước mặt thiếu phụ đất Xa-ma-
ri, Người không ngần ngại tiết lộ một điều lớn lao: "Đấng Cứu thế
ư ? Này Tôi đây !"
5/ Trước người Do thái: Người Do thái muốn biết chắc về
Người; họ bức Người phải tuyên bố rõ mình có phải Đấng Cứu
thế, là Thiên Chúa không? Người trả lời: "Các việc Tôi làm, làm
chứng về Tôi. Cha Tôi và Tôi là một". Lần khác, Người bảo họ:
"Khi Ap-ra-ham chưa có, Tôi đã có". Người hỏi một người bệnh
vừa được Người chữa khỏi: "Con có tin Con Thiên Chúa không?
-"Thưa Thầy, ai là Con Thiên Chúa? -"Con đã thấy Người rồi;
Con Thiên Chúa chính là Tôi đây!"
6/ Trước nhà chức trách: Thượng tế Cai-pha "nhân danh
Thiên Chúa hằng sống" buộc Người phải nói rõ Người có phải
là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" không? Người chỉ trả
lời: "Ông nói đúng. Tôi là Con Thiên Chúa hằng sống".
7/ Trước những người bị thập hình: sắp chết, Người hứa với
người kẻ trộm lành rằng chính ngày hôm đó, anh sẽ ở với Người
trên thiên đường.
Đó là những lời khẳng định của Người. Cậu cứ đọc lại sách
Tin mừng, cậu sẽ thấy có rất nhiều những lời như vậy.
- Cho đi là ông Giê-su đã thật có nói như thế. Nhưng ông có
biết mình có thần tính không? Có hành động như Thiên Chúa
không?
- Người nói và làm như Chúa Tể của Lề luật; Người đặt
mình trên mọi ngôn sứ; Người xưng mình có quyền đối với lương
tâm người ta và có quyền xét xử kẻ sống người chết. Người có tin
54
ở thần tính mình không ư? ồ! Tin ở thần tính mình, đó là linh hồn
của cuộc sống của Người và cũng chính đó là nguyên nhân dẫn
đến cái chết của Người. Hãy hỏi các pháp sư Do thái. Tất thảy sẽ
trả lời cậu rằng: sở dĩ ông cha họ trong Hội đồng Cộng toạ Giê-
ru-sa-lem đã lên án giết Người, là vì họ cho rằng Người đã cướp
quyền Thiên Chúa. Chối Người không phải là Thiên Chúa, đó là
một sự vi phạm đức tin. Chối Người không xưng mình là Thiên
Chúa, đó là thiếu thiện chí.
- Ừ! Cho đi là ông Giêsu đã khẳng định. Nhưng khẳng định
như thế có thế lực gì?
- Ồ! Lời khẳng định này có biết bao hậu quả: vì khẳng định
như thế, Người đòi người ta phải thờ lạy Người, Người đòi một
đức tin trọn vẹn và mù quáng, một lòng mến có nhiều yêu sách,
bởi vì Người muốn mọi người yêu mình và yêu trên hết mọi sự.
Một hậu quả khác: đã khẳng định mình là Thiên Chúa, thì
Người phải cho rằng mình có khả năng không những thực hiện
nơi mình tất thảy mọi lời tiên báo về Đấng Cứu thế, mà còn thiết
lập vương quốc vĩnh hằng của công chính và thánh thiện mà Đấng
Cứu thế có nhiệm vụ chấn hưng.
- Nhưng, nào ông ta không nói: "Sự sống vĩnh hằng ở tại
chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa độc nhất chân thật và Giêsu
Kitô Cha đã sai đến" sao?
- Điều đó dễ hiểu thôi! Khi gọi Cha Người là "Thiên Chúa
độc nhất chân thật", Người muốn làm nổi bật sự đối lập giữa
Chúa Cha với các thần giả mà dân ngoại thờ, chứ không phải đối
lập giữa Chúa Cha với chính mình Người, vì ngay sau đó, Người
nói: "Chúa Cha và Tôi là một".
- Nào ông ta không thú nhận rằng "Cha" của ông ta "trọng
hơn" ông ta sao?
- Phải, trọng hơn nếu kể về tư cách một con người. Điều đó
đúng.
- Dẫu sao, ở đây cũng như ở mọi vấn đề khác, có thể đặt ra
những giả thuyết, như: ông ta khẳng định như thế, nhưng liệu ông

55
có tin điều mình khẳng định không? Ông không thể lầm sao? Nào
ông không thể chỉ là một "người mơ màng" sao?
- Nếu không tin điều mình khẳng định, thì chỉ là kẻ bịp bợm.
Nếu Người lầm về thần tính mình một cách tồi tệ như vậy, thì
cháu sẽ chẳng gọi Người là một kẻ mơ màng, mà gọi là một anh
điên. Nhưng nếu Người thật lòng tin điều mình nói, thì phải nhận
Người là thành thật.
- Đồng ý.
- Do đó, cậu chỉ có thể giải quyết khó khăn gây nên do lời
khẳng định của Đức Giêsu bằng một trong ba cách này: gian dối,
điên rồ hay là sự thật.
- Cho là gian dối thì sao?
- Đức Giêsu không thể gian dối. Một người đã dám nói:
“Chân lí là Tôi đây", một con người như thế không thể cả đời lừa
dối. Hơn nữa, ai lại có gan nói dối, nếu biết vì nói dối sẽ mất
mạng?
- Thôi, bỏ giả thuyết nói dối đi. Ở đây, giả thuyết đó không
hợp lí. Nhưng ông ta không thể bị một chứng điên nhẹ, có tài
thuyết phục người ta, năng gặp nơi những người bề ngoài tưởng
như bình thường, nhưng thật ra...
- Cậu không được nói nữa. Như thế nghĩa là cậu bảo Đức
Giêsu là một người điên, một người ảo tưởng?
- Không! Chỉ là một "người mơ màng", như Rơ-năng nói.
- Vấn đề này, cần phải thành thật. Một là điên, hai là thật.
Nhưng bảo rằng vì kém trí mới sai lầm trong một vấn đề lớn như
vậy, thì thế nào cũng phải sai lầm trong nhiều vấn đề khác nữa.
Đàng này, cậu nói cho cháu xem những vấn đề mà cậu có thể cho
là Người sai lầm nào! Xta-phơ, một đại diện hạng siêu của Tin
lành, có viết thế này: "Đức Giêsu đã xưng mình là Đấng Cứu thế.
Điều đó đã rõ. Điều đó chắc chắn. Làm sao Người nói được như
thế? Một là điên, hai là không điên. Từ đây, giữa người tin và
người không tin, chỉ có một trong hai đàng đó. "Có thật cậu nói
Đức Giêsu điên không?
- Không.
56
- Nếu cậu dám nói, thì cháu sẽ yêu cầu cậu phải giải thích
cho cháu hiểu làm sao điên mà lại có một tinh thần siêu thoát, một
trí thông minh sâu sắc thể hiện qua ngôn ngữ của Người như thế;
làm sao một người đầu óc mất thăng bằng, mà lại tìm ra một học
thuyết tôn giáo vượt xa những triết thuyết cao nhất và một nền
luân lí đã trở thành lí tưởng của nhân loại như thế?
- Cũng có thể là vì ông ta sẵn tính nhạy cảm, nên dễ làm theo
sự kích thích của môi trường, của đám đông.
- Trái lại thế. Người phũ phàng chống lại những nhiệt hứng
thiếu suy nghĩ của đám đông; Người bỏ trốn khi người ta định tôn
vua; Người nói cho mọi người biết vương quốc Người không ở
trần gian này; chính Người năng nói đến những nhục nhã đang
chờ đợi mình.
- Cũng có thể là ông ta có những triệu chứng kích phấn bệnh
hoạn!
- Ồ! Nếu thế thì sau những giờ khắc khủng hoảng, thế nào
cũng có những lúc suy nghĩ lại, bị day dứt và sửa chữa sai lầm. Ít
ra cũng có sự do dự ngập ngừng. Đàng này không có như thế.
- Mà ông ta duy trì khẳng định đó mãi đến tận cùng?
- Phải. Và đó là điều cho thấy rõ sự thành thật của Người
hơn cả. Người ta có thể sa vào ảo tưởng, hơn nữa, có thể làm gan
làm liều; nhưng chỉ khi sống thôi; còn khi sắp chết, ai thế nào là
lộ rõ thế ấy. Vậy mà, như cháu đã nói, khẳng định đó, Đức Giêsu
đã duy trì mãi cho đến cái chết khốc liệt nhất, kinh khủng nhất,
cái chết thập hình. Cậu thấy không, tuy bị treo trên khổ giá thảm
hại như thế, Người vẫn nắm chắc thắng lợi của mình, đến nỗi hứa
ban thiên đường cho người kẻ trộm đang hấp hối bên mình. Cậu
có nghe không, sau ba giờ hấp hối, Người thốt lên: "Lạy Cha,
con xin phó linh hồn con trong tay Cha" Như thế không phải là
một cái chết xứng bậc Thiên Chúa sao? Một lần nữa, có thể coi
Người như một gã điên không?
- Không. Ông Giêsu lớn quá!
- Lại nữa, một người điên, làm sao gây được một ảnh hưởng
suốt hai mươi thế kỉ, thiết lập được một công trình vĩ đại và tung
57
vào thế giới một Giáo hội chính Người sáng lập, bảo toàn và giúp
Giáo hội chiến thắng như thế? Rơ-năng nói: "Một người điên
không thể thành được". Vậy mà Đức Giêsu đã thành công lạ lùng.
Xin để cậu kết luận.

Chương V
Những câu nói siêu nhân của Đức Giêsu
( Những nét lớn ở chương này lấy của J.Barat
"Gửi những người vô tín ngưỡng")

Thưa cậu,
Vì tuần này cháu không thể gặp cậu, nên cháu biên thư trao
đổi với cậu câu chuyện hôm truớc. Cháu đã đọc đi đọc lại Tin
mừng, cuốn sách mà cháu xin cậu cứ kể như một cuốn sử; và vì
quá say sưa với cuộc tranh luận giữa cậu với cháu, nên cháu đã
gạch dưới những đoạn có thể nói là đã cho một cảm giác vật lí về
thần tinh Đức Giêsu. Đó cũng chỉ là những tia chớp loé lên rồi lại
vụt biến đi, nhưng chúng soi sáng vấn đề chúng ta đang bàn đây
biết dường nào! Đây:
1/ Cậu hãy xem Đức Giêsu trên biển hồ nổi sóng. Người
đứng thẳng lên, đe doạ gió bão và ra lệnh cho biển: "Im đi! Lặng
đi!" Liệu cậu không sửng sốt mà nói như các Tông đồ lúc đó:
"Người là ai mà sóng gió phải vâng lệnh!" sao ?
2/ Hãy nghe cậu nói cảm kích của Người: "Hỡi tất thảy
những ai nặng gánh cuộc đời, đến đây, Tôi sẽ cất nhẹ cho!" Một
người thường đâu dám nói như thế!
3/ Cuối bữa Tiệc li, Người trối lại cho các Tông đồ mấy tiếng
làm toát lên lòng từ ái: "Thầy sẽ không bỏ chúng con mồ côi;
Thầy sẽ đến với các con". Lời đó, nếu một người thường nói, thì
không thể hiểu được.

58
4/ Người nói thêm: "Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy và
Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến và ở lại trong
kẻ ấy". Như thế không phải là tuỳ ý sử dụng sự phù trợ của Thiên
Chúa Cha đó sao? Lại là một lời hứa. Nguyên một ý tưởng, mà
hiện nay là điều có thật trong đạo Kitô, rằng một vị Thiên Chúa
có thể trú ngụ, có thể ở trong linh hồn chúng ta, một người
thường có thể đề xuất ý đó không? Hay là chỉ có Thiên Chúa?
5/ Khi Ma-đơ-len đổ dầu thơm xức chân Chúa, Người sung
sướng vì cử chỉ của chị. Người nói: "Tôi nói thật với ông, Tin
mừng rao giảng tới bất cứ nới nào trên thế giới,thì người ta đều
kể lại việc người phụ nữ này vừa làm". Như thế là nói tiên tri! Là
thấy rõ tương lai! Như thế không phải là báo trước việc Tin mừng
được rao giảng cách diệu kì, lạ lùng trên khắp thế giới đó sao?
Như thế không phải là lời của Thiên Chúa đó sao?
6/ "Con Người là Chúa cả ngày hưu lễ".Câu nói làm thất
kinh bạt vía người Do thái vốn coi ngày hưu lễ là ngày của Chúa.
Ai không giữ ngày đó, người ta đem ném đá. Đức Giêsu không lùi
bước trước khẳng định to tát đó. Tôi là Chúa ngày hưu lễ, nghĩa là
Tôi là Đấng Lập luật tối cao, đặt ra lề luật và biết mình muốn giữ
hay không tuỳ ý.
7/ Đây, lời tuyên bố oai nghiêm trang trọng tột bực: "Trời
đất rồi sẽ qua, nhưng lời Tôi sẽ không qua". Và thật ra hai ngàn
năm sau Người, chúng ta có thể thấy rõ lời đó vẫn y nguyên, vẫn
được người ta sống, vẫn sinh động, có sức sinh hoá và choán đầy
thế giới. Cử chỉ oai vệ thay! Chỉ một liếc mắt mà bao quát mọi thế
hệ tương lai. Ồ Câu nói toát lên phong thái của Chúa tể thời gian
và vĩnh hằng!
8/ "Không ai lên trời, nếu không phải chính Đấng đã từ trời
xuống, là Con Người ở trên trời". Ở trên trời mà vẫn ở dưới thế.
Thật đúng vừa là Người vừa là Thiên Chúa, là Người-Thiên-
Chúa. Có lẽ không lúc nào Người tiết lộ tính chất lưỡng tính và
tính chất phổ tại của mình bằng ở đây. Mà câu nói trọng đại đó,
Người nói ra một cách bình tĩnh, giản dị biết bao! Câu nói thốt ra
từ miệng Người như nước từ mạch vọt ra. Rất tự nhiên, không
trau chuốt cầu kì chút nào.
59
9/ Giọng Người cũng bình dị biết bao, khi tuyên bố mình có
quyền xét xử: "Thiên Chúa đã ban cho Người quyền xét xử, vì
Người là Con Người". Xét xử! Nào Thiên Chúa không dành cho
một mình Người quyền đó sao? Nào Thiên Chúa không phải là
Thẩm phán tối cao xét xử kẻ sống kẻ chết sao? Thế mà Đức Giêsu
tuyên bố rành mạch, thẳng thắn, không quanh co uẩn khúc: "Tôi
đã được ban quyền xét xử!"
10/ Và đây, chúng ta đứng trước mầu nhiệm dịu hiền nhất
mà cũng làm chúng ta băn khoăn nhất: phép Thánh Thể. Không
những Người báo trước, làm các môn đồ cũng lấy làm chướng
mà kêu: "Câu nói cứng cỏi, ai mà nghe được!". Người còn minh
định nó, Người đập lại mọi dị nghị có thể có và kêu lên: "Tôi nói
thật với anh em, nếu anh em không ăn Thịt Con Người và uống
Máu Người, anh em sẽ không có sự sống trong mình anh em!"
Phần chúng ta, chúng ta quá quen với sự lạ đó, chúng ta sống
bằng sự lạ đó. Nhưng chúng ta dễ thông cảm sự cứng lòng tin của
những người đầu tiên nghe câu nói lạ lùng đó. Vậy thì, nếu không
phải Thiên Chúa, ai là người có thể thai nghén ý tưởng về mầu
nhiệm lạ lùng đó? Nếu Đức Giêsu chỉ là một con người, thì câu
nói đó vô ích biết bao, kì cục biết bao, mà cũng phạm thượng biết
bao! Nhất là khi người ta thấy Người đặt việc chịu lấy, ăn lấy
chính mình Người làm một điều kiện sinh tử. Chúng ta chỉ biết
rằng mầu nhiệm đó lạ lùng, làm người ta sửng sốt bỡ ngỡ.
11/ Đây, Người ở trên khổ giá. Kề bên là hai người kẻ trộm
đang ngắc ngoải. Sửng sốt vì thấy Chúa quá nhân hậu, một trong
hai nhận ra Người là Thiên Chúa. Thế rồi, Chúa bảo anh: "Thật
hôm nay, anh sẽ được ở nơi vui vẻ cùng Tôi". Nói vậy nghĩa là gì,
nếu không phải rằng thiên đường là vương quốc của Người,
Người muốn cho ai vào đó tuỳ ý Người?
12/ Người Do thái quấy nhiễu Người, bắt bẻ Người, bẫy
Người, Người chỉ nói với họ một lời: "Ai trong anh em bắt lỗi Tôi
được điều gì nào?" Nói như thế không có gì là kiêu căng. Người
vốn hết mực khiêm tốn. Đây là một sự quả quyết chắc chắn, một
khẳng định đơn giản mà đầy đủ, kẻ thù không dám phi bác, vì

60
không thể phi bác được. Một người thường, bẩm tính yếu đuối,
đâu dám thốt ra một lời như thế!
13/ Sau khi sống lại, Chúa dịu dàng trách các Tông đồ cứng
lòng tin: "Điều đó, Thầy đã nói với các con, hồi Thầy còn ở với
các con; vì mọi lời viết về Thầy trong sách Môsê, các Ngôn sứ và
Thánh vịnh, đều phải được thực hiện". Đây, như chúng ta đã nói,
Người tuyên bố mọi lời tiên tri về Đấng Cứu thế đều trọn vẹn
thực hiện nơi mình. "Hồi Thầy còn ở với các con!" Câu nói đó,
cũng là một bằng chứng rõ ràng, cụ thể biết bao về việc Người
sống lại. Thật là tuyệt vời! Thật là thần linh!
14/ Đây, bên giếng Gia-cóp, Người đang truyện vãn với
thiếu phụ đất Xa-ma-ri. Đáp lại câu nói của chị: "Tôi biết Đấng
Cứu thế đã gần đến", Người dám tuyên bố: " Chính là Tôi đây,
Tôi đang nói với chị đây!" Đấng Cứu thế là Tôi đây ! Câu nói dứt
khoát, mạnh mẽ, bình dị, ý nghĩa rõ ràng không thể chối cãi đàng
nào hết.
15/ "Cha Tôi và Tôi là một". Như thế không phải là xưng
mình là Thiên Chúa, qua câu nói vắn gọn, trang trọng và quả
quyết sao?
16/ "Tôi là sự Sáng thế gian, Tôi là sự Sống lại và sự Sống.
Tôi là Đường, là sự Thật và sự Sống". Sự Sáng thế gian, chính là
Tôi đây! Sự Sống lại, chính là Tôi đây! Đường đi, là Tôi đây! Sự
Thật, là Tôi đây! Sự sống, là Tôi đây! Nào những câu khẳng định
đó không mở ra những viễn cảnh vô tận sao?
17/ "Chúng con sẽ bị thế gian bách hại; nhưng hãy tin tưởng,
vì Thầy đã thắng thế gian!" Chắc chắn mà thản nhiên, bình tĩnh.
Loan báo một chiến thắng sẽ đạt và sẽ kéo dài mãi. Loài người ai
dám nói thế? Ai nói như thế mà không sợ tình thế dễ dàng xoay
ngược lại tức thì?
18/ Đức Giêsu đã sống lại. Người sắp về với Cha của Người
Đây, hãy nghe Người nói: "Mọi quyền phép đã ban cho Thầy
trên trời dưới đất. Các con hãy đi khắp thế giới, giảng Tin mừng
cho mọi người!" Mọi quyền phép ! Trên trời dưới đất ! Nói như
thế nghĩa là gì, nếu không phải vì Người là Thiên Chúa toàn
năng?
61
19/ Sau cùng, vì không thể kể hết (kể hết thì phải đọc cả Tin
mừng) nên cháu dẫn ra đây một tiếng đơn giản, một động từ vắn
gọn, nhưng rõ ràng nhất: "Tôi nói thật, Tôi nói thật, khi Ap-ra-
ham chưa sinh ra, Tôi vốn có!" Người không nói: "Tôi đã có";
nhưng nói: " Tôi vốn có". Đối với Thiên Chúa là Đấng muôn đời
hiện diện, thì không có thời gian kế tiếp. Người không đã có,
Người không sẽ có. Người vốn có. Nếu không phải Thiên Chúa
mà dám quyết như thế, thì ai nghe mà không rùng mình! Vậy mà
Đức Giêsu đã quyết như thế.
Thưa cậu, cháu xin tạm ngừng ở đây. Xin để cậu đọc đi đọc
lại, phân tích, mổ xẻ những câu nói cháu đã rút trong Tin mừng
đó. Ai đào bới, tìm hiểu đến nơi đến chốn, một cách trực diện,
những câu nói đó, thế nào cũng phải trở lại với câu lưỡng đao
luận hôm nọ: một là điên, hai là Thiên Chúa. Cậu đã đồng ý rằng
không thể bảo là điên, thì cậu hãy có lô-gích, hãy nghiệm xét thần
tính xem!
Pát-xcan nói: "Thay vì phàn nàn rằng vì Thiên Chúa tự giấu
mình đi, nên ta không thấy được,thì hãy cám tạ Người vì đã tỏ
mình rõ ràng như thế". Phải. Thần tính của Đức Giêsu rực lên
trong Tin mừng. Không hề có một cái gì làm ta ngờ rằng Đức
Giêsu không phải là Thiên Chúa .
Do đó, cậu hãy nói như người Do thái hôm nào, lúc họ khâm
phục Chúa tột độ: "Chưa ai nói hay như Người này!"

Chương VI

Đức Giêsu sống lại

- Cậu ạ, cháu xin phép dẫn ra đây một chứng cứ mới nữa làm
chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa, đó là việc Người sống lại.
62
- Đây cũng thế, cháu cứ để cậu đi từ từ. Trước hết, cho được
sống lại, phải đã. Ông Giêsu có chết thật không?
- Cháu có thể nhắc lại việc người lính lấy đòng đâm thủng
trái tim Người, việc người ta xức thuốc thơm vào xác nằm trong
huyệt, nếu chưa chết, lúc đó cũng phải chết ngạt. Nhưng cháu
muốn chứng minh cho cậu thấy bằng hai lí chứng đơn giản: yêu
và ghét. Cậu có thể tin rằng các kẻ thiết nghĩa của Người đã chôn
Người trong huyệt đang lúc ngực Người còn hoi hóp, nghĩa là tỏ
dấu còn sống không? Cậu có thể tin rằng kẻ thù của Người ăn
chờ nằm chực bên thập giá, lại chịu bỏ miếng mồi của chúng mà
về, khi chưa nắm chắc được rằng con người mà chúng ghét cay
ghét đắng đã chết thật rồi không?
- Người Do thái không thể lấy trộm xác ông ta sao?
- Ồ! Nếu thế thì 50 ngày sau đó, khi các Tông đồ bắt đầu
giảng việcThầy mình sống lại, thế nào người Do thái cũng lợi
dụng cơ hội đó, đem xác Đức Giêsu ra ánh sáng, để người ta tin
chắc các ông bày đặt, gian dối. Sở dĩ họ không làm như thế là vì
họ không làm được.
- Cũng có thể ông Giêsu mới ngất đi, chưa chết thật.
- Nếu chỉ mới ngất đi, thì thuốc thơm trong mộ cũng làm
chết ngột luôn. Cậu ạ, giả chết cũng khó lắm!
-Thôi, cho đi là ông Giêsu đã chết thật. Nhưng làm sao
chứng minh được rằng ông ta sống lại? Cái nút của vấn đề là ở đó.
-Trước hết, một sự việc không thể chối cãi, kẻ thiết nghĩa
cũng như kẻ thù của Người đều nhận thấy, đó là: sáng ngày thứ
ba, người ta thấy mộ trống, tấm đá đậy mộ cất sang một bên, lính
canh bỏ trốn.
- Các đồ đệ có thể lấy trộm xác chứ!
- Lấy thế nào? Bằng vũ lực ư? Thì lính canh đó; hơn nữa, các
ông vốn rất nhát! Tất cả đều bỏ trốn, hất vọng, sợ sệt, ngã lòng,
tan tác. Bằng đút lót ư? Các ông nghèo quá, mà có đút lót người ta
cũng biết. Bằng mưu chước ư? Lừa được bọn lính ư? Lấy xác
giấu đi ư? Nhưng làm sao họ biết mình làm một điều gian dối như
thế, mà rồi lại lấy việc Thầy sống lại làm cơ sở cho việc thuyết
63
giáo của mình, và rồi tất thảy đã chết cái chết đẫm máu, nhằm
khẳng định sự sống lại của một con người mà từ đây họ không
còn hi vọng gì nữa ?
Đàng khác, việc lấy xác như thế giúp ích gì cho các ông? Chỉ
làm cho các ông bị truy tố trước pháp luật thôi! Nguyên một việc
nghĩ đến điều đó, cũng đã làm các ông thất kinh bạt vía. Khi phải
chứng minh Thầy đã sống lại, các ông làm thế nào được?
- Giả sử lính canh ngủ: lấy trộm xác cũng dễ thôi!
- Ồ! Chính người ta đã đút tiền cho bọn lính bảo phải nói
như thế. Nhưng, này cậu, chắc cậu cũng phải nhận rằng dựa vào
chứng của những người ngủ, thì thật không gì chán bằng chứ!
- Cũng có thể có thủ đoạn gian manh, có đồng mưu chứ!
- Đây, trước việc Đức Giêsu sống lại, các người phụ nữ
hoảng hốt bỏ về, họ "không dám nói ra với ai, vì họ kinh khiếp
quá". Khi họ kể lại việc đã thấy cho cácTông đồ nghe, thì các ông
không tin; các ông tưởng họ "nói sảng". Khi Đức Giêsu hiện đến
với các đồ đệ "họp nhau trong phòng kín vì sợ người Do thái"
(chà! Đồng mưu mà nhát như thế thì làm nên trò trống gì!), Người
đã phải chỉ các vết thương cho các ông! Hai đệ tử trên đường Em-
mau, "đôi mắt nhắm lại", nghĩa là họ không nhận ra Chúa, Chúa
phải chứng minh là chính Người đó! Giữa một lớp người như thế,
thì làm gì có thể có gian trá, đồng mưu!
- Nhưng cũng có thể đây là một trường hợp ảo tưởng tập thể.
Cũng có thể là sức tưởng tượng mạnh của một Ma-đơ-len, đã làm
cho
cả thế giới tin một Thiên Chúa sống lại!
- Ma-đơ-len mà ảo tưởng ư? Không thể, vì khi Đức Giêsu
hiện đến với chị trong vườn, chị có nhận ra Người đâu, chị tưởng
đó là người làm vườn, nên chị hỏi: "XácThầy ở đâu, xin chỉ cho
biết". Đức Giêsu phải tỏ mình, chị mới nhận ra. Như thế mà bảo
là ảo tưởng sao?
- Tất thảy những điều đó chỉ là những lời giải thích bông lông.
Cháu có thể dẫn những sự kiện không?
- Đây, một sự kiện: việc Đức Giêsu sống lại đã được khắc sâu
64
vào tâm trí cácTông đồ, đến nỗi các ông lấy đó làm cơ sở cho cả công
cuộc thuyết giáo của mình. Thánh Phaolô tin chắc đến mức đã có thể
nói: "Nếu Đức Giêsu không sống lại, thì việc chúng ta tin đạo là luống
công vô ích và chúng ta là những kẻ khốn khổ nhất loài người!" Mặt
khác, sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện đến với 12 Tông đồ, với trên
500 người một lúc. Không những các người đó chưa tin ngay, mà phần
đông cũng đã làm như Rơ-năng, nghĩa là cho những người phụ nữ đạo
đức ở mộ thánh về kể lại, là ảo tưởng, là nói sảng. Các ông chỉ đầu
hàng trước một thực tại rõ ràng, đủ sức thuyết phục. Cậu cũng biết thánh
Tôma đòi phải có như thế nào mới tin...
- Phải, vì đòi như thế nên ông ta bị coi là điển hình cứng lòng
tin.
- Cứng lòng tin, nhưng rồi đã phải đầu hàng trước sự thật và
về sau đã đổ máu làm chứng việc đó. Không lẽ cậu cho 11 Tông
đồ, 500 người đã thấy Đức Giêsu, cũng như thánh Phaolô là một
tập thể ảo tưởng sao? Nào cậu có nhận thấy nơi những người đó
một dấu vết trí óc mất thăng bằng không?
- Nhưng trí óc người ta dễ bị ảo tưởng lắm.
- Cậu này, cậu có học tâm lí một ít, thế nào cậu cũng phải
biết rằng muốn có ảo tưởng, thì trước hết phải có những hình ảnh
đã được ghi vào não đã; rằng bao giờ thì điểm xuất phát của ảo
tưởng cũng là những hình ảnh đã biết, chính mình đã sống những
cái đó. Vậy mà nơi các Tông đồ và môn đệ, không có sự chuẩn bị
trực tiếp cần cho ảo tưởng đó.
- Dầu sao, có phải cháu tin ông Giêsu sống lại là dựa vào
chứng của các Tông đồ và môn đệ không?
- Đúng thế.
- Cháu cho chứng đó đã đủ?
- Hoàn toàn đủ.
- Cậu thấy cháu dễ tin quá!

65
- Nhưng cháu xin hỏi cậu: khi một sự kiện đã được những
nhân chứng trực tiếp nhất trí khẳng định, thì có thể coi là nó đã
được chứng minh đầy đủ chưa?
- Trường hợp này có phải như thế đâu!
- Phải chứ! Những chứng đó, chúng ta biết được nhờ các Tin
mừng. Mà Tin mừng được viết vào những thời kì khác nhau, bởi
những người có chủ đích riêng, kể lại các sự việc theo cách thế
riêng, dường như chỉ có mình họ mà thôi. Vậy mà nội dung hoàn
toàn hợp nhau: việc thấy mộ trống, việc xác chết sống lại và các
lần hiện hình. Sau hết, các Giáo hội Kitô đều đã nhất trí ưng nhận,
tin, dùng 4 Tin mừng, công nhận một cách tự phát, không ai tính
chuyện bắt bẻ, công kích cách nào.
- Phải chăng người ta không thể thừa nhận giả thuyết cho là
lừa dối hay gian lận?
- Nếu chỉ có một nhân chứng thôi, thì điều đó cũng có thể;
dù vậy, cũng còn phải kiểm tra kĩ lưỡng. Còn ở đây làm sao cả
500 người lại có thể đồng tình với nhau bịa ra một việc gian dối
như thế, mà rồi về sau không bị tiết lộ cách nào cả? Mà lừa dối
làm gì? Chỉ để được cái kết quả là bị bách hại thôi.
- Nhưng việc ông Giêsu sống lại đã gây được hậu quả thực
tiễn nào chưa?
- Có chứ! Hậu quả của niềm tin đó, là cũng một trật xảy ra ba
sự biến đổi: biến đổi nơi các Tông đồ, biến đổi nơi cư dân
Giêrusalem và biến đổi nơi kẻ thù của Đức Giêsu (Luận cứ cuối
cùng này rút ở các bài diễn thuyết của Cha Pi-na đơ la Bu-
lay,1930).
- Nói như thế có nghĩa là thế nào?
- Biến đổi nơi các Tông đồ: mới hôm qua, các ông rã rời
tuyệt vọng; thế mà hôm nay, các ông bắt đầu rao giảng việc Thầy
sống lại. Suốt 12 năm, các ông đem công bố tại chỗ sự kiện đó,
công bố trước mặt những quan toà có khả năng bắt bẻ phi bác các
ông hơn cả, công bố trước mặt những kẻ đã nhúng tay vào cái
chết của Đức Giêsu; và các ông làm như thế với một thái độ kiên

66
cường đến mức dù tù tội, dù cái chết, dù voi giày ngựa xé cũng
không thể bắt các ông thinh lặng được.
Biến đổi nơi cư dân Giêrusalem. Hôm Đức Giêsu chết, đám
đông nhát đảm, để mặc người ta thực hiện tội ác tầy trời đó. Năm
mươi ngày sau, ngay giữa Thành thánh, có hàng ngàn người trở
lại, một Giáo hội được hình thành, làm hạt nhân cho Kitô giáo.
Biến đổi nơi kẻ thù của Đức Giêsu. Mới hôm qua, họ liều
lĩnh đòi Philat trao nạn nhân cho họ; vậy mà sau lễ Năm Mươi, họ
chỉ còn là những con người yếu đuối sợ sệt. Họ im hơi lặng tiếng.
Họ cảm thấy mình bại trận.
Ba sự biến đổi đó, nếu Đức Giêsu không sống lại, thì cậu
giải thích thế nào được? Các đồ đệ Đức Giêsu lấy lại can đảm,
quần chúng trở lại, kẻ thù của con người bị thập hình bổng trở
thành bất lực, dù họ rất để tâm vạch trần sự gian dối. Đó là ba sự
kiện không ai phủ nhận được.
- Bị kích thích thần kinh một lúc, cũng có thể biến dổi như
thế.
- Một sự kích thích thần kinh chốc lát không thể làm được
như thế, vì nó vắn vỏi quá. Đàng khác, các Tông đồ không phải là
những người nóng nảy; bản tính các ông bình tĩnh, ôn hoà, thiếu
tự tin. Đã 19 thế kỉ nay, người ta nêu hết giả thuyết này đến giả
thuyết khác để tránh khỏi phải đi đến kết luận. Nhưng không giả
thuyết nào đứng vững được. Và nếu cậu cho phép, cháu sẽ kết
thúc bằng nêu lên đây một lưỡng đao luận để cậu suy nghĩ: hoặc
là Đức Giêsu đã sống lại thật và như thế thì Người là Thiên Chúa
và đạo Người bởi Thiên Chúa; hoặc là Người không sống lại và
như thế sự kiện việc tôn thờ Người được truyền bá khắp thế giới,
mặc cho những trở lực xét về mặt loài người là không thể lướt
thắng được, cũng như bao mưu mô thủ đoạn xảo quyệt nhất, chỉ
riêng việc đó đã là một phép lạ lớn lao nhất. Đàng nào cậu cũng
không phủ nhận được yếu tố thần tính.

67
Chương VII
Việc thiết lập đạo Kitô

- Hôm trước, cháu đã để cậu ra về với vẻ đăm chiêu suy


nghĩ. Hôm nay, cháu sẽ làm cậu phải suy nghĩ nhiều hơn, bằng
cách dẫn ra đây một sự kiện phi thường, không thể giải thích
được, nếu không nhận là phép lạ, nghĩa là việc do Thiên Chúa
thực hiện.
- Lại phép lạ! Cháu cũng biết cậu không thừa nhận phép lạ.
- Sẽ có ngày chúng ta trở lại vấn đề đó. Hiện giờ, luận cứ của
cháu thế này: hoặc là đã có những phép lạ rõ ràng, được thực hiện
để hoán cải thế giới, và như thế thì đạo Kitô là bởi Thiên Chúa;
hoặc là không có phép lạ và như thế thì việc hoán cải thế giới mà
không cần đến phép lạ lại là phép lạ lớn hơn mọi phép lạ, vì trái
hẳn qui luật của trật tự tinh thần.
- Bao giờ cháu cũng cố đẩy cậu vào kẹt giữa những lưỡng
đao luận!
- Sao cậu lại lẩn tránh những câu lưỡng đao luận?
- Thế nghĩa là cháu quyết rằng việc thế giới theo đạo Kitô là
một phép lạ?
- Có lẽ là phép lạ lớn nhất. Ở đây không cần lập luận theo
triết học, chỉ cần mở mắt nhìn và giở xem lịch sử.
- Cứ nói đi nào!

68
- Trước tiên, việc đạo Kitô được truyền bá là một sự kiện
không thể chối cãi. Ngay từ thế kỉ đầu, người ta đã thấy nó du
nhập vào Pa-let-xtin, vào Tiểu á, Xi-ri, Rôma, Hi lạp, Ma-sê-đô-
ni-a. Năm 250, chỉ riêng thành Rôma, đã có 30 ngàn tín đồ; 50
năm sau, có 90 ngàn. Quãng 197, Téc-tuy-liêng viết: "Chúng tôi
chỉ mới xuất hiện hôm qua, mà chúng tôi đã choán khắp đế quốc
của Bệ hạ, choán khắp các đô thị, công viên, phòng họp, chiến
trường, lâu đài, nghị trường, Nguyên lão viện; chúng tôi chỉ để lại
các chùa chiền cho Bệ hạ. Nếu chúng tôi rút khỏi nước của Bệ
hạ, thì Bệ hạ sẽ phải khủng khiếp vì thấy mình cô độc; Bệ hạ sẽ
rùng mình kinh hãi ra như cả thế giới đã chết."
Nếu tính ở thế kỉ 20 này, thì hiện có gần 700 triệu kitô hữu
(kể cả lạc giáo). Việc đạo Kitô được truyền bá là một sự kiện
không thể chối cãi được.
- Được, hãy thừa nhận điều đó.
- Nhưng đối với một sự kiện, chỉ thừa nhận thôi chưa đủ; còn
phải tìm hiểu những nguyên nhân gây nên sự kiện đó nữa.
- Dễ hiểu thôi! Một cái mới; một nền luân lí đẹp, tự nhiên
người ta chạy theo ngay.
- Không. Xin để cháu sắp đặt cho thứ tự xem. Những trở lực
đạo Kitô gặp phải trên đường tiến, thật là bao la to tát.
1/ Người Do thái không thích. Đạo Kitô nên như cái bia
cho cho họ vấp phạm. ồ! Người ta định bắt họ thờ ông Giêsu mà
họ đã đóng đinh. Vì thế, họ truy lùng người kitô hữu một cách
như điên như dại.
2/ Người ngoại giáo thì cho Kitô giáo là một "sự điên rồ".
Đạo Kitô bắt họ tin những cái họ không thể quan niệm được: các
mầu nhiệm. Đạo Kitô muốn rằng chính họ cũng phải thờ lạy một
người Do thái, một người thợ mộc bị nhà chức trách trong nước
mình giết chết; rằng Xêda phải kể mình ngang hàng với nô lệ
trước mặt Thiên Chúa; đạo ấy bắt các đam mê phải tuân cứ
những luật lệ luân lí khắc khổ, kêu gọi người ta đấu tranh với tính
kiêu căng, tính hà tiện, tính ham mê nhục dục, là 3 tên trùm của
thế giới. Như thế nghĩa là đối lập với nó, là những mê tín dị đoan
69
trong quần chúng, là sự hăm hở chạy theo những sai lầm, là lòng
kiêu căng của các triết gia, sự phóng túng về phong hoá, uy lực
của Xêda, lòng độc ác của các bạo vương. Tóm lại, là tất thảy mọi
lực lượng của trần gian và hoả ngục hợp lại.
3/ Nhìn qua tình hình thế giới ngoại giáo hồi đó, người ta
thấy gì? Một Vạn-thần-miếu đầy ắp thần tượng; gia đình đồi truỵ;
thói mãi nô tàn bạo; những tục tế tự dâm ô nghe mà nôn mửa;
những trò chơi ở hí trường. Chính Rơ-năng cũng đã viết: "ở Rôma
hồi đó, tất thảy mọi nết hư được phô trương một cách trơ trẽn đến
làm người ta nổi tức không chịu được; những trò vui đã làm đồi
bại phong hoá một cách gớm ghiếc. Những tầng lớp đê tiện trong
nhân loại chiếm ưu thế. Tinh thần thác loạn và độc ác tràn ngập
nơi nơi, khiến Rôma hồi đó không khác gì một cống rãnh hôi thối,
một trung tâm đầu độc, một địa ngục!"
Thế mà chính trong cái cống rãnh hôi thối đó, trong địa ngục đó,
đạo Kitô đã có thể nảy mầm, phát triển và từ đó lan tỏa khắp thế
giới.
- Cũng vì sống ở một xã hội gớm ghiếc như thế, nên người
ta hồi đó mới mơ một tôn giáo tốt hơn.
- Cậu ạ, cậu lí luận như một người mang 20 thế kỉ Kitô giáo
trong mạch. Nhưng dễ chừng cậu tin rằng những con người đã đồi
truỵ, đã hư hỏng vì một nết hư như thế, lại sẵn sàng theo một tôn
giáo khắc khổ như đạo Kitô sao? Cậu hãy chọn lấy một người
trong xã hội hồi đó, rồi bảo họ từ bỏ nết hư, sân khấu, trò chơi,
đoạn tuyệt với dĩ vãng mình, với môi trường mình đang sống và
thực hành những đức tính anh hùng vượt quá sức loài người, ăn ở
thanh tịnh, khiêm tốn, dịu hiền, tha thứ kẻ thù và vì đạo mới đó
mà đương đầu với những cực hình ghê tởm nhất, cả cái chết
nữa.... Cậu có đoán được họ sẽ trả lời cậu thế nào không?
- Ai mà biết được!
- Thế thì xin cậu hãy thử xem! Cậu hãy ra bãi biển, chọn lấy
12 người đánh cá, sống với họ 3 năm, dạy cho họ một đạo mới,
đến một ngày thứ sáu nào đó liệu cho người ta giết mình đi; đến
chủ nhật, cậu hãy làm cho mình sống lại; rồi cậu phái 12 người
70
đánh cá đó đi tuyên truyền đạo của cậu trong thủ đô Pa-ri này, sau
đó trên khắp thế giới. Cậu sẽ thấy!
- Cháu nhạo đấy chư!
- Không, cháu chỉ lấy những sự kiện xảy ra hồi đầu mới có
đạo Kitô đem đặt vào thế kỉ hai mươi này thôi.
- Nhưng 12 Tông đồ của ông Giêsu là những bậc thức giả.
- Cậu cũng biết là không phải như thế. Đó chỉ là 12 người
đánh cá, như mọi người thường dân khác, thô lỗ, dốt nát, nghèo
xác xơ, không có tài hùng biện, không một chút ảnh hưởng,
không được hưởng một sự bảo trợ riêng nào, không thế lực nào!
Phê-rô chối Thầy, Giuđa bán Thầy; các ông khác thất kinh bạt
vía, bỏ chạy mỗi người một ngả! Trên đường tới Vườn Dầu hấp
hối, họ còn cãi nhau ai là người trọng nhất. Như thế mà cậu cho
rằng họ có khả năng đảm đương cái công tác kinh thiên động địa,
siêu nhân loại như chúng ta thấy sao?
- Cũng có thể vì say mê mà họ làm được như thế.
- Nếu say mê thì lúc đứng trước những khó khăn không thể
khắc phục trong công tác, trước những cực hình và cái chết, họ
cũng không thể say mê được nữa. Đừng phủ nhận, cậu ạ. Tốt hơn,
cậu hãy khâm phục Đức Giêsu, Đấng coi khinh sự khôn ngoan
loài người, muốn làm tất cả mọi sự mà không cậy dựa vào cái gì
cả và để tỏ rõ thần tính mình hơn, đã sử dụng những phương thế
trái ngược hơn cả với mục tiêu định đạt cho được. Khi Thiên
Chúa định làm một cái gì, Người liệu cho mọi sự bất lực, rồi
Người mới ra tay hành động.
- Nhưng tình hình xã hội Rôma hồi đó cũng tạo nên những
vận may cho sự thắng lợi đó. Phải. Nền chính trị thống nhất trong
cả đế quốc, khắp nơi thái bình an lạc, mọi miền nói một tiếng Hi
lạp như nhau, đường sá vô số: tất cả những cái đó rất thuận tiện.
- Nhưng chưa đủ để bắt đầu óc người ta cúi mình trước
những mầu nhiệm của Tín lí, nhất là bắt tâm hồn và lòng muốn
người ta tuân cứ những khắc khổ của luân lí Kitô giáo.
Bây giờ như thế là chúng ta đã thấy sự kiện rồi, thì xin cậu
giải thích cho cháu xem: làm sao những người đánh cá tồi tàn kia
71
lại trở thành những Tông đồ chinh phục linh hồn người ta? Giăng
Giắc Rút-xô sẽ trả lời cậu: "Lịch sử những thời kì đầu của đạo
Kitô là một sự lạ liên lỉ". Bay-lơ thì nói: "Việc đạo Kitô bành
trướng trên thế giới là việc của Thiên Chúa".
- Nhưng chính Ma-hô-mét đã chẳng truyền bá đạo của ông ta
với một tốc độ ghê gớm đó sao?
- Giữa hai trường hợp có những điểm khác nhau rất rõ. Đức
Giêsu truyền kẻ tin đạo Người phải giữ một thứ luân lí khắc khổ;
Ma-hô-mét, trái lại, cho người ta giữ một thứ luân lí phóng túng...
Đức Giêsu truyền bá đạo Người bằng hiền hoà; Ma-hô-mét, bằng
vũ lực: "Một là tin, hai là chết". Đức Giêsu đã gặp phải một nhân
loại rơi tận đáy vực thẳm ti tiện và phản động; Ma-hô-mét gặp
được một môi trường đã chuẩn bị sẵn. Sau hết, Ma-hô-mét truyền
đạo bằng vũ lực; còn Đức Giêsu, Người truyền đạo bằng hi sinh
mạng sống mình và liều mạng sống những người thuộc về mình.
Khác nhau như vậy thì so sánh làm sao được!
- Nhưng tâm hồn người ta hồi đó cũng đã tương đối sẵn
sàng để tiếp thụ một giáo lí mới khả dĩ giải thoát họ khỏi sự trống
rỗng trước mắt chứ!
- Thì hãy giả sử có một người Rôma đã được chuẩn bị sẵn
sàng về tâm lí. Anh nghe thánh Phê-rô giảng. Anh thấy đạo Kitô
đẹp đẽ. Anh theo đạo. Nhưng cho được theo đạo, anh phải hi sinh
cả sự độc lập suy nghĩ của anh, vì rồi nó phải tiếp thụ các mầu
nhiệm, cả sự tự do ý chí, vì phải ưng nhận những yêu sách của
một nền luân lí cao cả nhưng khắc khổ. Trở lại đạo Kitô không
phải là cởi áo cũ để mặc áo mới; mà chính là suốt một đời, phát
động một cuộc cách mạng thực sự, kéo theo những hậu quả rất
sâu đậm, nói được là như tạo nên trong mình một bản tính thứ hai.
Mọi người trở lại Kitô giáo đều mang dấu vết của sự đoạn tuyệt
với cái cũ, để chiết ghép vào đạo mới đó. Vậy xem xét tất thảy
những cái người Rôma đó phải từ bỏ và tất thảy những cái mới
anh phải tạo nên trong mình, liệu cậu có tin rằng sẽ có đủ vận
may để đưa anh ta đến với đạo Kitô không?
- Kể thì cũng gay đấy!

72
- Vậy mà, - và đây là điều cháu có ý nói, - việc mà người ta
khó mà làm được nơi một người có nhận thức cao như thế, các
tông đồ đã làm được nơi một đại khối chưa được chuẩn bị gì cả:
đó là những người Do thái vừa giết hại Chúa, những người Hi lạp
kiêu căng và hay thay đổi, những người Rôma đắc chí vì uy
quyền của mình, những người ngoại giáo đã rơi xuống hàng thú
vật...
Nếu cậu để ý thêm điều này, là đạo Kitô đã phải trong cũng
một trật vừa đánh bại những thói mê tín dị đoan ngàn đời nơi dân
hèn, vừa lấn át những thành kiến ngoan cường nơi hạng thượng
lưu; thuyết phục cả người tự do lẫn người nô lệ, người thức giả
cũng như kẻ dốt nát, người văn minh cũng như dân man di, thì
không những cậu sẽ phải bỡ ngỡ, mà cậu còn thất kinh bạt vía
nữa. Ở đây, hiệu quả vượt quá những nguyên nhân tự nhiên mà
con người tưởng tượng ra và nghiệm xét. Nếu tập họp tất thảy các
trở lực lại trong một cái nhìn bao quát, như đã có trong thực tế, thì
người ta thấy rằng đạo Kitô đã phải đương đầu với sự liên minh
của tất thảy mọi lực lượng trong xã hội: quyền bính và dư luận,
học thức và thành kiến, chính trị và triết lí. Bên cạnh những sức
lôi cuốn mạnh mẽ, đạo Kitô còn mang ngay trong mình không
biết bao nhiêu căn cớ yếu đuối nơi những kẻ truyền bá nó, cũng
như không biết bao nhiêu lí do làm người ta gớm ghét trong giáo
lí và luân lí của mình. Xin cậu hãy kết luận đi. Đây cũng vậy,
chúng ta đứng trước một công trình siêu nhân loại, một công trình
mà chỉ mình Thiên Chúa thực hiện được .
- Cháu có tài làm đảo lộn tư tuởng người ta!
- Ồ! ước gì cháu có thể làm đảo lộn cả những vật cản cuối
cùng và làm lung lạc cả những vấn nạn còn lại của cậu. Bởi vì cậu
nên biết: một con người có thể tin rằng tất cả những cái đó đã xảy
ra mà không cần một sự can thiệp siêu nhân nào, con người đó có
lòng tin mạnh hơn là lòng tin cần có để tin đạo Đức Giêsu. Con
người như thế chỉ vì quá dễ tin mà không chịu tin đạo.

73
Chương III
Chứng máu

- Nào cậu, cậu suy nghĩ như thế nào rồi?


- Cháu đã phần nào làm lung lạc những nguyên tắc của cậu.
Tuy chưa phục lẽ, nhưng cậu đã thấy rõ hơn; cậu tìm hiểu, cậu
còn đọc sách nữa; không phải để tìm vũ khí cho bằng để thông tỏ
vấn đề. Ô! Giá mà tất thảy những người vô tín như cậu đều có bên
mình một đứa cháu gái hiếu chiến như cháu, dũng cảm như cháu
và nhiều hiểu biết như cháu (cậu không nói thông thái), thì chắc là
không mấy kẻ chịu nằm khèo trong cuộc sống vô vị và rỗng tuếch
của những người tự xưng là vô thần có xác tín như thế!
- Ồ! Cám ơn cậu. Như thế là cháu đã bõ công vất vả lắm rồi,
vì thú thật với cậu, từ ngày cậu cháu chúng mình mở đầu cuộc
tranh luận về tôn giáo này, để tìm chứng cứ, cháu đã phải đọc lại
các tài liệu ghi được hồi ở học hiệu, rồi bổ sung vào (vì những tài
liệu đó sơ sài quá); cháu đọc sách, cháu nghiên cứu, làm việc cả
ngày, có khi suốt đêm. Cậu đừng nói với ai nhá, nhất là với ba
cháu!
- Dại gì thế! Vì chẳng qua cũng vì cậu, vì lợi ích của cậu, mà
cháu làm việc nhiều như thế.
- Hôm nay, cháu thêm một luận cứ nữa về thần tính của Đức
Giêsu. Luận cứ này cũng mạnh lắm và cậu có thể gặp ngay trong
lịch sử. Đó là chứng của các Đấng Tử đạo. Đối với một đầu óc
không bị vẫn đục vì thành kiến, thật là một phép lạ tinh thần rất
có sức thuyết phục, cảnh tượng một đại khối hằng hà sa số trẻ em,
phụ nữ, đàn ông, cụ già, binh lính, kẻ nghèo, người giàu, hăm hở
chạy ra đón lấy những cực hình ghê rợn nhất, với một thái độ anh
74
hùng trước sau như một. Phải, họ xông vào cái chết như đàn ong
bay về tổ, đến nỗi đôi lúc, các linh mục phải ngăn họ lại. Và cháu
xin nói thế này: 1/ Nếu không có một phép lạ hiển nhiên, thì đã
không có những anh hùng tử đạo; 2/ Máu các anh hùng tử đạo đã
thành hạt giống trổ sinh tín hữu Kitô. Điều này cũng làm đảo lộn
những qui luật tâm lí.
- Có thật đông như thế không? Phải chăng người ta đã
không lấy một vài trường hợp cá biệt mà khái quát lên?
- Cậu nên biết rằng những cuộc bách hại đầu tiên đã kéo dài
gần 3 thế kỉ, tuy mức độ mạnh yếu có khác nhau tuỳ giai đoạn và
tuỳ vùng; rằng những cuộc bách hạị đó diễn ra khắp nơi trên thế
giới mà người ta biết được hồi đó; rằng sắc lệnh bắt bớ kitô hữu
mà các Xê-da ban hành, chưa bao giờ bị bãi bỏ hẳn; rằng ngay cả
những thời kì bách hại tạm ngưng, hễ có ai nộp một tín hữu Kitô,
thì buộc các quan toà phải thi hành sắc lệnh đó. Như thế, cậu có
thể kết luận rằng con số đó nhiều vô kể.
- Chừng mấy trăm?
- Theo các văn sĩ trong Giáo hội, chỉ tính 3 thế kỉ đầu, đã có
hàng triệu.Và đây, cháu xin dẫn chứng của những nhà văn ngoại
giáo. Ta-xit nói: Thời Nê-rô, có vô vàn tín hữu Kitô phải chết".
Pơ-lin Lơ Giơn nói: "Có đông đảo người, già có, trẻ có, giàu có,
nghèo có, nam có, nữ có, bị gọi ra toà vì thứ tà giáo Kitô mà họ
theo". Sen-xi-ô viết: "Thời Mác-cô Au-rê-li-a-nô, người ta truy
lùng tín hữu Kitô mọi nơi trong đế quốc, để giết chết". Lăc-tăng-
xơ: "Chính mắt tôi đã thấy cả một thành phố Kitô giáo bị thiêu
huỷ, mọi người trong đó đều chết". Chắc cậu còn nhớ đạo binh
Tê-ba-it: cả một vạn lính bị giết một trật. Thời Đi-ô-cơ-lê-xiêng,
số tử đạo đông đến nỗi sau này người ta tìm được một đồng tiền
có khắc mấy tiếng: "Ghi nhớ việc hủy diệt danh từ kitô hữu".
Muốn huỷ diệt như thế, nhất định người ta đã phải gây ra những
vụ tàn sát máu chảy thành sông, xương chất thành núi, tuy rồi
cũng chả kết quả gì.
- Thời gian đó là bao lâu?
- Người ta đã tính những vụ bách hại đó kéo dài 6 năm trong
thế kỉ đầu, 86 năm trong thế kỉ II, 24 năm trong thế kỉ III và 13
75
năm đầu thế kỉ IV. Như thế nghĩa là hồi đó, Giáo hội trải qua 129
năm bị bách hại.
- Người ta chịu được như thế là vì cuồng tín.
- Không. Các anh hùng tử đạo đã giữ được mức trung dung:
không sợ hãi đâm ra bạc nhược, cũng không liều lĩnh hoá say mê.
Nét đặc trưng của tử đạo Kitô giáo là ngược lại với cuồng tín: các
ngài bình tĩnh, chín chắn, sẵn sàng tranh biện về đạo mà mình tin.
Nơi các ngài, không hề có dấu vết gì là bệnh hoạn hay bị kích
thích quá độ. Đồng ý là có một ít kẻ vì nhiệt tín mà sa vào tình
trạng cuồng tín đáng trách đó; nhưng cả cái đại khối bao la không
hề vì cuồng tin mà hi sinh như thế. Cậu chỉ cần đọc bài kể việc
các ngài chịu chết vì đạo thì rõ. Kẻ cuồng tín là kẻ kiêu căng, sắp
chết còn kêu gọi trả thù; là kẻ bạo động, kẻ phản loạn dã man; kẻ
cuồng tín hăng hái vì một ý đồ đen tối và tàn bạo. Người cuồng
tín, nếu có thể, họ sẵn sàng giết chết kẻ khác để tự vệ; còn vị tử
đạo Kitô giáo sắp tắt thở vẫn cầu cho kẻ giết mình.
- Biết đâu là lòng ham danh vọng!
- Ồ! Thôi, đừng nói đến chuyện đó. Tất thảy các vị tử đạo
đều chết như những người dân thường, nhiều khi chết âm thầm
trong ngục tối, không ai biết. Thử hỏi những em bé kia, những
người đàn bà thấp hèn kia, những cụ già lụ khụ kia có thể cầu cái
danh vọng gì? Cậu vào các hang Toại đạo mà xem: trong 20
trường hợp, có đến 19 trường hợp chỉ có một cành dừa, một lọ
máu cho biết đó là mộ một vị tử đạo. Không có tên tuổi gì hết.
- Thì chẳng qua cũng chỉ phải khổ trong giây lát thôi.
- Chà! ước gì cậu lâm vào cảnh đó, thì cậu sẽ biết! Đành rằng
cũng có người phải cực hình không lâu; nhưng trong vô số
trường hợp, cực hình kéo dài, dữ dằn, ghê gớm, khủng khiếp. Chỉ
nghe kể lại thôi, cũng đã rởn cả tóc gáy lên. Cậu muốn rõ những
điều đó, xin đọc lịch sử giáo hội những thế kỉ đầu.
- Nhưng tất thảy mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, dù là tôn giáo
chủ nghĩa kém giá trị, cũng đều có thể có những "tử đạo" của họ:
Hồi giáo, Ấn độ giáo,Tin lành, Hư vô thuyết...

76
- Vấn đề không phải ở đó. Cái hiện tượng tâm lí và xã hội
độc nhất, dị thuờng, đòi phải do Thiên Chúa mà ra mới hiểu được,
cái hiện tượng đó không ở tại một ít trường hợp cá biệt, như gặp
thấy nơi các tôn giáo khác; mà ở nơi hằng hà sa số con người chịu
đựng những cực hình ghê gớm nhất với một chí nhẫn nại anh
hùng. Chưa hề có đạo nào cho thấy một đặc điểm anh hùng chủ
nghĩa thuần tuý, hào hùng, phổ biến, lạc quan, dẻo dai, bền bĩ như
thế để toàn bộ những tính chất đó làm thành một bằng chứng cho
tính siêu việt của giáo lí đạo mình.
- Tất thảy những chuyện đó toàn là chuyện xưa cả!
- Ồ! Sau 3 thế kỉ bị dìm trong máu, cuối cùng đạo đã có thể
thở ra khoan khoái, thì lúc đó thời kì bách hại cũng chấm dứt.
Nhưng từ ấy đến nay, trong Giáo hội không bao giờ thiếu vắng
bằng chứng của máu. Khi nơi này, khi nơi khác trên mặt địa cầu.
Thế kỉ 5, tử đạo ở Ba tư: trên 16.000; tử đạo do tất thảy các lạc
giáo, không biết bao nhiêu mà kể; rồi tử đạo trong các cuộc bách
hại ở Xcăng-đi-na-vi, ở Iêc-lăng-đơ; tử đạo do bè Can-vanh; tử
đạo do các cuộc bách hại của Anh giáo; tử đạo thuộc dòng Phan
sinh ở Ma-rốc năm 1220; ở Pa-let-xtin, ở Tuếc-két-tăng năm
1342; tử đạo nô lệ Kitô giáo ở Bác-ba-ri; tử đạo Ba lan thế kỉ 19;
tử đạo linh mục thời kì Téc-mi-do và Chấp chính viện; 8.000 tử
đạo Triều tiên giữa 1866 và 1870; 3 vạn tử đạo Nhật bản năm
1624; tử đạo Việt nam từ 1745 đến 1883: 15 thừa sai, 123 thày
giảng, 270 nữ tu và 37.784 giáo hữu; 10 vạn tín hữu bị thảm sát ở
Mi-do-rơ; tử đạo ở A-bit-xi-ni thế kỉ 18; tử đạo ở U-găng-đa năm
1855; hàng ngàn tín hữu Trung hoa bị giết trong cuộc khởi nghĩa
Nghĩa hoà đoàn năm 1900...
Kể như thế, tuy chưa thấm vào đâu, nhưng cũng đã đủ để
cho thấy rằng máu tiếp tục chảy và sẽ còn chảy mãi, như Đức
Giêsu đã tiên báo; đồng thời cũng đủ để bức cậu phải thừa nhận
rằng: "chỉ có những chủ nghĩa nào không có người chết cho, mới
diệt vong!"
- Nhưng chết như thế là điên!
- Đúng là điên! Mà đây lại là một phép lạ nữa, vì cái qui luật
của mọi công trình loài người, là muốn thành đạt, thì những kẻ
77
chủ trương phải sống để nâng đỡ, bảo vệ chúng. Chỉ có đạo Kitô
vẫn sống, trong khi những tay thợ xây nên nó đã chết; nó được
thiết lập chính trên cái chết của họ; nó nảy mầm và phát triển
chính trong máu họ. Hiểu thế nào được việc những người vô đạo,
vì thấy các vị tử đạo chịu những cực hình ghê tởm mà theo đạo?
Làm sao tất thảy những vị tử đạo đó đã có thể chiến thắng trong
khi ngã xuống?
- Nhưng bí quyết của những chiến thắng siêu nhân đó là gì?
- Nếu cậu hỏi các vị tử đạo, các ngài sẽ bảo đó là vinh quang
Đức Giêsu. Cậu hỏi các tín hữu thời đó ư? Họ sẽ trả lời cậu như
Téc-tuy-liêng: "Trong vị tử đạo, có Chúa Kitô!" Hỏi những người
ngoại giáo tham dự những vụ hành quyết ư? Họ sẽ khó mà phủ
nhận có một sức diệu kì nào đó thu hút họ khi trông thấy những vị
anh hùng đó. Dù sao, họ cũng đã không thể không tôn trọng một
tín ngưỡng mà vì đó một người vui lòng hi sinh tính mạng mình.
Tính chất công khai của việc tử đạo không những không làm
người ta mất nhuệ khí, mà trái lại, chỉ có thể đánh động và cải
hoá tâm trí mọi người. Riêng về những kẻ hành hình các tử đạo,
đôi lúc nhân đức và dũng khí của các ngài làm họ thất điên bát
đảo và trở lại đạo. Sự kiện lịch sử là như vậy. Nó chứng tỏ có một
sự can thiệp siêu nhiên.
- Nhưng sức loài người lên đến độ chót cũng có thể làm
những việc phi thường.
- Dù sao, anh hùng bao giờ cũng là đặc hữu của một số ít
người; anh hùng không phải tự nhiên ai cũng có. Vậy một khi
người ta đã nhận thấy có anh hùng nơi những đại khối đông đảo,
nơi hàng triệu con người, thì muốn giải thích, phải chạy đến một
cái gì không phải là một mình sức lực con người. Do đó, cậu ạ,
cậu hãy hình dung cái "đại khối nhân chứng" đó đang diễu qua
trước mắt cậu, cậu sẽ nghe từ môi miệng đẫm máu của các ngài
thốt ra câu nói sau đây, đánh tan mọi vấn nạn, dẫu bề ngoài có lí
mấy: "Phải tin một tôn giáo mà những người làm chứng tôn giáo
đó để người ta giết đi vì tôn giáo mình".

78
Chương IX
Giáo hội vẫn đứng

Thưa cậu, vì hôm nay cháu không thể đến gặp cậu, nên cháu
xin gửi thư này đến với cậu. Trong thư này, cậu sẽ thấy một luận
cứ cuối cùng làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa và Giáo hội
Người là bởi Thiên Chúa.
Luận cứ thế này: Trải 20 thế kỉ, Giáo hội đã kinh qua những
tai biến nghiêm trọng, không còn hi vọng thoát khỏi; Giáo hội đã
bị tấn công trong ngoài bởi tất thảy mọi lực lượng hợp lại; Giáo
hội đã chịu những cuộc bách hại, những quấy phá của các li giáo,
lạc giáo và những xâm phạm của phần đời. Vậy mà cũng đã 20
thế kỉ, Giáo hội vẫn đứng, vẫn tồn tại, không nhờ một sức nâng
đỡ nào bên ngoài, trái với mọi dự đoán của loài người. Nếu không
thừa nhận có một Thiên Chúa bảo vệ Giáo hội, duy trì, làm cho
Giáo hội "đứng" được, thì phải nói sự vững bền kì diệu đó là một
điều không thể hiểu.
Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu thiên anh hùng ca bất hủ là lịch
sử tồn tại của Giáo hội đó.
1/ Giáo hội đã gỡ mình thoát khỏi ảnh hưởng của Do thái
giáo, hòng nuốt chửng nó ngay trong trứng nước. Biết rõ Giáo
hội phôi thai có nguy cơ bị Do thái giáo thôn tính, tất thảy các
Tông đồ đều từ bỏ đạo đó, theo lời yêu cầu của hai thánh Phê-rô
và Phaolô.
79
2/ Giáo hội còn măng sữa, phải trôi nổi trên một biển máu
ròng rã 3 thế kỉ. Những cuộc bách hại nói trên thỉnh thoảng xảy
đến nhằm dìm nó, tiêu diệt nó bằng mọi giá. Thế nhưng, rồi
Công-xtăng-ti-nô đã cho thêu huy hiệu của Giáo hôị từng bị hạ
nhục lên cờ hiệu của mình! Và nhà vua trở thành người bảo hộ
các tín hữu Kitô.
3/ Sự liên đới không như ý. Thừa hưởng những di sản to tát
của ngoại giáo thuyết và được sự bảo trợ của đế quốc, Giáo hội
tiến tới. Thế nhưng một nguy cơ đang chờ đón Giáo hội. Là người
liên đới với đế quốc, liệu Giáo hội có sụp đổ cùng với đế quốc
hay không? Không. Các giáo hoàng cảnh giác, liều quyết tách
mình khỏi đế quốc trước khi nó sụp đổ. Nó sụp đổ...nhưng Giáo
hội vẫn sống ngay trên tất thảy những đổ vỡ đó.
4/ Chế độ phong kiến định quốc hữu hoá Giáo hội. Không
còn phương thế nào người ta không dùng nhằm đạt mục đích đó,
đặc biệt là ban cho các vua chúa "quyền trao nhẫn gậy" (tức là
quyền ban các chức tước trong Giáo hội). Do đó, của cải gia tăng
mà lòng đạo thì suy đồi. Có những giám mục, những tu viện
trưởng sa vào tội mại thánh và hàng giáo phẩm dưới quyền các
ngài cũng lao mình theo con đường dốc đó. Người ta thấy có
những chủ chiên, vì miếng mồi đó mà lên chức thầy cả và rồi
sống một cuộc sống xa hoa, sung túc. Các giáo hoàng thấy rõ
nguồn gốc của tệ nạn đó là việc phần đời trao ban các ân bổng
Giáo hội. Làm thế nào được? Chống lại ư? Thì tức là gây nên một
cuộc giao tranh khủng khiếp giữa Giáo hội với Nhà nước, là làm
cho cả cái xã hội giàu sang, có thế lực và dường như nâng đỡ
Giáo hội đó trở thành thù địch với mình. Là mở đầu một cuộc
chống đối về phía những giám mục thấy Giáo hội mặc nhiên phi
bác quyền sở hữu của mình. Vì thế, việc thanh lọc đó cơ hồ chỉ là
một ảo tưởng. Vậy mà năm 1122, Thoả ứớc Worms cho phép tự
do tuyển chọn các cấp bậc trong Giáo hội. Thế là Giáo hội thoát
nạn.
5/ Những giáo hoàng ở A-vi-nhông. Thế rồi xảy đến một thời
kì rối ren, chính ngôi giáo hoàng cũng ra như bị lâm nguy. Châu
Âu chia thành hai trận tuyến, nhận hai giáo hoàng. Ngay các vị
80
thánh cũng không còn nhận ra đàng nào nữa. Hai giáo hoàng ra vạ
tuyệt thông lẫn nhau. Lại thêm một giáo hoàng thứ ba nữa: A-lec-
xăng-đơ-rơ V. Thế không phải là sụp đổ đến nơi sao? Không.
Dưới triều đại Đức Mác-tanh V, toàn thể Giáo hội thế giới phục
quyền một chủ chiên duy nhất.
6/ Sự bảo trợ của thế quyền. Lu-i XIV, Na-pô-lê-ông I muốn
độc chiếm giáo hoàng. Nhưng họ không đạt ý nguyện. Tiếp theo
là cuộc "Phân quyền" ở Thuỵ sĩ và cuộc "Chiến đấu vì văn minh"
ở Đức. Nhưng những cái đó qua đi mà Giáo hội vẫn còn.
7/ Các triết gia, đứng đầu là Vôn-te, đã thề tiêu diệt Giáo
hội và "đè bẹp tên xấu xa". Năm 1758, y viết: "hai mươi năm
nữa, Giáo hội công giáo sẽ hết đời". Nhưng đến năm 1778, y chết
(đúng 20 năm sau!). Vôn-te không còn nữa, Giáo hội vẫn còn.
8/ Đến lượt Cách mạng Pháp cũng tìm cách bóp chết Giáo
hội. Cách mạng đã làm mưa làm gió. nhưng rồi nó cũng đã qua đi,
mà Giáo hội vẫn còn.
9/ Bè Tam điểm đã thề ra tay tiêu diệt Giáo hội. Những tên
trùm: Găm-bet-ta, J.Fe-ri, Pôn-be, Công-bơ cũng tham lam không
kém những bậc tiền bối của chúng thời Cách mạng Pháp. Nghị sĩ
Đen-pếch kêu lên: "Người xứ Ga-li-lê đã thắng hai mươi thế kỉ
nay, đã đến lúc nó diệt vong, tên Chúa gian dối!" Tất cả những
tay đó đã qua và sẽ qua hết. Và Giáo hội kêu mời họ suy ngắm
câu nói của cha Ô-li-vi-ê: "Nếu Giáo hội cần có một cái bệ để
đứng, thì Giáo hội chỉ cần bước chân lên trên những quan tài mà
suốt thế kỉ này thế kỉ khác, Giáo hội đã dùng để chôn thây nhưng
người bách hại mình".
10/ Các lạc giáo. Nhưng bên cạnh những tấn công từ bên
ngoài đó, còn có những tấn công nghiêm trọng hơn, vì do tự bên
trong mà ra. Các li giáo và lạc giáo sớm xuất hiện, mang theo
những làn khí độc hại. Nhưng các lạc giáo A-ri-ô, Nét-xtô-ri-ô,
Eu-ti-ke, Pê-la-gi-ô và Đo-na-tô chỉ gây được một công hiệu là
làm cho giáo lí của Giáo hội mạnh hơn và nhất quán hơn. Thế kỉ
11, li giáo bên Đông; thế kỉ 14, li giáo bên Tây; thế kỉ 16, lạc giáo
Tin lành là những cơn bão táp làm rối loạn các quốc gia, các tổ
chức, các xã hội. Chỉ Giáo hội là không hề bị lung lay.
81
Như con tàu kiên cố dìm mình theo làn nước đang vồ vập, để
rồi ngoi lên cao hơn trên ngọn sóng, Giáo hội Đức Giêsu đã thắng
mọi cơn bão táp.
Rồi, các ngành khoa học đứng lên. Triết học vay mượn ở
khoa học những giả thuyết, những kết luận vội vàng và những
khái quát quá trớn. Thế rồi nổi lên những ông trùm, họ tuyên bố
rằng thế là hết mầu nhiệm và tôn giáo tương lai sẽ là vô tôn giáo.
Nhưng đây, đến lượt các nhà bác học Kitô giáo cũng đứng lên và
thế là lại một lần nữa, người ta chứng minh được rằng tôn giáo rất
am hợp với khoa học và những dữ kiện khoa học chỉ có tác dụng
làm cho những dữ liệu của Đức Tin thêm mạnh mẽ!
Cuối cùng, gần chúng ta hơn cả, là thuyết Duy tân, kết tinh
của tất thảy mọi lạc giáo xưa nay; nó xuất hiện ngay trong ruột,
trong mạch máu của Giáo hội. Trước cảnh tượng đó, người vô tín
ngưỡng đã tỏ vẻ hả hê, vì cho rằng cái ngày mà họ báo trước rằng
Giáo hội sẽ bị tiêu diệt, cái ngày đó đã đến. Thế nhưng, chỉ một
lời của Đức Giáo Hoàng đã đủ hạ được cơn sốt đó và thuyết Duy
tân hết đời! Tại sao Giáo hội bị tấn công như thế mà chưa bao giờ
ngã thua? Làm sao Giáo hội đã có thể kinh qua ngần ấy tai biến
tưởng chừng không sao thoát khỏi, mà chỉ một trong những tai
biến như thế thôi đã đủ tiêu diệt cả đế quốc? Vậy đâu là mãnh lực
đã giúp Giáo hội chiến thắng và sau mỗi cơn bão táp lại vươn lên,
trẻ hơn và sống động hơn bao giờ hết? Không phải là, như Trét-
xtớc-tơn nói, "một cuộc mạo hiểm quay cuồng" sao? Suốt dòng
thời gian, đã 20 lần, 100 lần, Giáo hội phục hưng một cách lạ
lùng. Mà phục hưng như thế giữa lúc rối ren nhất, trước những
địch thù tài giỏi và tinh vi ghê gớm! Mới nhìn qua, có thể cho
rằng sự phục hưng như thế sở dĩ có được là nhờ một thời cơ, một
việc bất ngờ thuận lợi nào đó. Thế nhưng, chính cái chiến thắng
trong hết mọi giao tranh trong cũng như ngoài đó, đã bắt buộc
Vôn-te phải thốt ra lời thú nhận đáng ghi nhớ nầy: "Giữa những
thăng trầm, hưng phế, giữa tiếng ồn ào của bao nhiêu đổ vỡ, chỉ
có đạo Kitô là vẫn đứng vững, bất biến như Thiên Chúa là Đấng
đã sáng lập nên nó. Tôi buộc lòng phải tin và ca tụng!" Cũng theo
một ý ấy, Na-pô-lê-ông nói lên câu nói rõ ràng này: "Các dân tộc
82
qua đi, các ngai vua sụp đổ, chỉ Giáo hội còn mãi!" Như vậy là
ông vua tù ở Xanh-tê-len cũng hiểu ra điều đó ít nhiều. Nào
chúng ta không thể kết luận rằng tính vững bền về hai mặt lịch sử
và tín lí đó, là như hai con dấu Thiên Chúa đóng vào, đảm bảo và
chứng minh rất đầy đủ rằng Giáo hội Đức Giêsu là bởi Thiên
Chúa sao? Bền là gì? là còn mãi, bất chấp mọi cái. Những đế quốc
mênh mông to lớn nhất đều đã suy sụp thất bại với thời gian. Còn
Giáo hội trái lại vẫn đứng. Giáo hội sống đã hai ngàn năm. Hơn
nữa, Giáo hội còn nâng đỡ cho mọi sự tồn tại, vì kinh nghiệm đã
chứng minh rằng cái gì không tựa trên Giáo hội, thì không thể
đứng vững được. Chính Giáo hội là người bảo vệ gia đình, trật
tự, lao động và quyền sở hữu.
Thưa cậu, đó là một sự kiện mà cháu dẫn ra để cậu suy
ngắm. Thời gian phá hủy tất cả, các đế quốc sụp đổ, các triết
thuyết không sống lọt 50 năm, những triết thuyết khác đã đến
thay thế. Tóm tắt, tất thảy mọi công trình loài người sinh ra và
chết đi, lần lượt, kế tiếp nhau. Chỉ Giáo hội công giáo, nhờ sức
nâng đỡ của Đấng sáng lập là một vị Thiên Chúa, nên kháng cự
được tất cả, kinh qua tất cả, mà vẫn giữ được toàn vẹn sức sống
mình, không tỏ dấu gì là già lão, tàn tạ. Như thế không phải là
"một lí do khả tín lớn lao và vĩnh hằng" sao?
Phần IV

Giáo hội công giáo bởi Thiên Chúa

Chương I
Bức thư thứ I : Dọn đường
Thưa cậu,
Đối với vấn đề chúng ta sắp đề cập đây, cháu thiết nghĩ rằng
tạm thời chúng ta đừng đấu tay đôi với nhau nữa. Vì thế, mặc dầu
cháu đang nghỉ hè, cháu muốn nhân cơ hội viết nhiều thư quấy
rầy cậu. Mà cách này cũng lịch sự hơn.
Trước hết, cháu muốn làm công việc dọn đường. Trước khi
chứng minh cho cậu thấy Giáo hội công giáo là Giáo hội duy nhất
83
và chân thật, cháu có ý quét dọn các ngả lối của vấn đề cho sạch
sẽ, bằng cách loại ra ngoài vòng chiến những tôn giáo mà nếu
cháu không bỏ ra ngoài trước, thì thế nào cậu cũng nói đến,
những tôn giáo đó không có quyền nại đến Đức Giêsu. Cháu xin
bắt đầu.
I. Đa thần giáo. Hiện nay vẫn còn. Nhưng nguyên một việc thờ
nhiều thần, tức nhiều thiên chúa như thế đã là một mâu thuẫn kì
quái, nên cháu thấy không cần nói dài làm gì nữa. Hoặc là có
một Thiên Chúa mà thôi, hoặc là chẳng có Thiên Chúa nào hết.
Thôi, ta cho qua!
II. Bái hỏa giáo (Zoroastrisme). Đạo này tin hai vị Tối cao: một
dựng nên sự Thiện, một dựng nên sự ác. Như thế vẫn là hai
Thiên Chúa. Thừa một. Ta cho qua!
III. Khổng giáo. Cậu cũng biết Khổng Phu Tử là người khí khái. Vì
khiếp sợ trước những tệ lạm thời đó (551 - 479 tcn), ông muốn
đưa người đồng thời trở lại với những tín ngưỡng cổ truyền. Có
những tin tưởng tốt đẹp, thí dụ có một Thiên Chúa độc nhất...
nhưng ông chết được 1.000 năm thì người ta bắt đầu tôn ông
làm thần mà thờ. Học thuyết của ông trở thành một hổ lốn kì
quái, làm thành bởi 3 thứ đạo khác nhau; không bao lâu về sau,
lại thêm cả đạo Phật nữa. Trải qua những biến đổi không thể
tránh khỏi, Khổng giáo đã rơi vào chủ nghĩa duy vật thuần tuý
nhất.
IV. Đạo Ba-la-môn. Đạo này còn hơn là một tập hợp mâu thuẫn,
một hỗn hợp những khẳng định rối rắm, không thể phô diễn có
đầu đuôi được. Người ta thấy trong đó có đa thần giáo pha trộn
với độc thần giáo, vô thần luận kề cạnh với phiếm thần luận; tư
tưởng luân hồi lẻn vào khắp nơi và một thuyết siêu hình hồ đồ
hỗn độn phủ lên tất cả. Các thần khi nào cạn nhựa thần của
mình thì chết (thần mà như thế cũng thật tội nghiệp!). Xiva, vị
thần tối thượng, là một nhà ẩn sĩ, lại vừa là một tên cuớp và một
kẻ dâm đảng: ba điều chẳng hợp tí nào với một vị thần cả.
Ngưòi ta đã có thể nói rằng các thần của đạo này làm thành một
tập hợp (...) mà người ta có thể bày đặt ra". Thôi, đừng dài lời
nữa. Ta cho qua!
84
V. Phật giáo. Đạo Phật tuy dạy một thứ luân lí cao hơn, nhưng chỉ
dành cho những người bất toàn. Đối với những người đã hoàn
toàn, thì qui luật phải cứ để nên hoàn thiện, là không làm gì hết,
không ao ước gì và không suy nghĩ gì. Bao trùm lên tất cả, là
chủ nghĩa bi quan yếm thế... Cuộc sống là một sự dữ. Lí tưởng
là vào cho được Niết bàn, tức là một cõi hư vô, nhưng lại là một
cái gì đó; là hạnh phúc tột bực trong đó người ta không còn ý
thức về cái gì nữa. Đàng khác, lí tưởng bi luỵ đó cũng chỉ dành
cho một mình các tăng lữ; còn bao người trong nhân loại đều bị
lên án phải trải qua những cuộc lộn kiếp may rủi, đầy khổ não
và mung lung vô định, ròng rã ngàn vạn năm, trước khi được
vào cõi Niết bàn chưa có gì là chắc thực.
Luân hồi là cơ sở của đạo Phật, nghĩa là linh hồn tuần tự
nhập vào những xác người hay súc vật, mãi cho đến khi tới cõi
Niết bàn. Thích-ca Mâu-ni, tức là Đức Phật, sau khi lộn kiếp làm
ngưạ, làm khỉ, làm sóc, làm công, rồi còn thác đi sinh lại 550 kiếp
khác nữa! Ô! Ngán quá!
Về luân lí, đương nhiên đạo Phật có dạy nhiều điều hợp với
luật tự nhiên. Đạo đó cấm sát sinh, cấm ăn trộm, cấm say sưa,...
Cấm thì có, nhưng không truyền phải làm gì cả. Theo lời các nhà
du lịch, thì không đâu phong hoá suy đồi cho bằng ở một số vùng
quê hương đạo Phật. Ngay trong việc tế tự cũng lắm chuyện... Mà
để thưởng nhân đức, chỉ có Niết bàn, tức là cõi hư vô!
VI. Đạo Hồi. Đạo này có cao hơn ít nhiều. Ma-hô-mét chọn 3 tín
điều đơn giản và rõ ràng làm vốn liếng tinh thần: một Thiên
Chúa, linh hồn bất tử và việc thưởng lành phạt dữ trong cõi vô
cùng. Thế nhưng, ông chỉ thêm vào đó mấy điều mà chính mấy
điều này lại làm đổ vỡ tất cả. Ông tự xưng là người kế tục Đức
Giêsu; vậy mà Đức Giêsu đã tuyên bố rằng Giáo hội Người còn
mãi cho đến tận thế. Vả chăng, luân lí của Ma-hô-mét so với
luân lí của Đức Giêsu, thật là một bước thụt lùi nghiêm trọng.
Chỉ cần xem những gì liên hệ đến hôn nhân, chế độ nô lệ, cuộc
"thánh chiến". Riêng về thiên đường, thì Ma-hô-mét cho rằng ở
đó phần thưởng cao nhất để thưởng nhân đức, là tự do thoả mãn
tình dục. Chừng ấy đã đủ để phê phán một học thuyết. Trong
85
kinh Co-ran, chính Ma-hô-mét đã chép nhiều điều mâu thuẫn
được chính thức công nhận và duy trì. Trong đó, có 200 câu bị
93 câu khác phi bác. Những mạc khải bị phi bác đó được thay
thế bằng những mạc khải khác thích hợp hơn, cho phép Vị
Ngôn sứ được vi phạm luật lệ chính mình đã ban hành về hôn
nhân (...)
VII. Đạo Do thái. Xưa kia, căn bản nội dung đạo này là độc thần
và trông chờ Đấng Cứu thế. Nhưng từ 19 thế kỉ nay, đã có một
sự kiện mới, đó là Đức Giêsu Kitô. Trước sự kiện này, đạo Do
thái không còn lí do tồn tại. Những người Do thái thành tâm đôi
lúc cũng thú nhận điều đó. Các ngôn sứ đã báo trước thời gian
Đấng Cứu thế xuất hiện là trước khi Đền thờ Giêrudalem thứ
hai phải phá. Vậy mà Đền thờ này phải phá năm 70 kỉ nguyên
này. Nếu Đấng Cứu thế đã đến rồi thì cần gì chờ đợi nữa; còn
nếu chưa đến, thì ấy là các ngôn sứ đã nói sai. Trước kia đạo Do
thái có thể đúng. Ngày nay, chỉ có thể là một sai lầm.
VIII. Giáo hội chính thống. Đây là một đạo tự xưng là của Đức
Giêsu. Đạo này chủ trương rằng, qua nhiều thế kỉ, họ và Giáo
hội công giáo là một Giáo hội duy nhất, nhưng Phô-xi-ô, rồi
Mi-ca-e Xê-ru-la-ri-ô đã tách họ ra. Vì muốn làm thượng phụ
Công-xtăng-ti-nô-pơ-lơ, Phô-xi-ô thừa nhận tối thượng quyền
của Đức Giáo Hoàng, hi vọng nhờ Người che lấp những mưu
đồ đen tối của ông. Không đạt ý nguyện, ông đứng lên phản
kháng và nhờ đến Hoàng đế. Vì Đức Giáo Hoàng không cho
ông làm Thượng phụ, nên ông xin Hoàng đế cho ông làm
giáo hoàng. Cuối cùng ông đuợc như ý và ông phạt vạ tuyệt
thông Đức Giáo Hoàng Rôma. Về sau, ông bị vua mới truất
phế, lại được phục chức, nhưng cuối cùng bị đày biệt xứ năm
886.
Hai thế kỉ sau, cũng tấn tuồng đó diễn ra với Mi-ca-e Xê-lu-ra-
ri-ô. Cùng với Phô-xi-ô, đây là hai nhà sáng lập đạo Chính thống
(nói đúng ra, đây là hai người tự xưng là người sáng lập đạo
Chính thống), cả hai đều nhờ vào thế lực Hoàng đế để làm giáo
hoàng và cả hai đều đã bị chính thế lực hoàng đế truất phế. Vậy
mà Đức Giêsu chỉ hứa quyền tối thượng cho một mình Phê-rô; và
86
nhờ ơn Chúa, các vua chúa đã không thể chuyển quyền đó từ toà
này sang toà khác được.
Đức Giêsu nói: "Cái gì của Xêda, hãy trả về Xêda, cái gì của
Thiên Chúa, hãy trả về Thiên Chúa". Phô-xi-ô thì trả tất cả cho
Xêda.
Đức Giêsu nói trước rằng Giáo hội Người sẽ chỉ có một và sẽ
lan khắp thế giới. Phô-xi-ô đem đóng khung nó trong đế quốc
Rôma, như vậy là bỏ mất tính độc lập, tính duy nhất và tính phổ
quát mà Đức Giêsu đòi phải có. Đế quốc không bao lâu đã tan rã,
thế là các vua chúa nhặt được những mảnh vỡ của đế quốc đó, thì
cũng đem theo mỗi người một phần Giáo hội.
Bị cắt xẻo mọi phía, Giáo hội Con-xtăng-ti-nô đành co lại
xung quanh kinh đô. Rồi quân Thổ xuất hiện, thế là từ đây bàn
tay vua Thổ nắm quyền điều khiển giáo hội đáng thương nhưng
quá tự hào nên không thể phục quyền Đức Giáo Hoàng này. Hiện
nay Giáo hội đó chưa đầy một triệu tín đồ.
Nga hoàng thừa kế một phần những mảnh của Giáo hội lâu
đời đó. Phê-rô đại đế đặt một Thánh-vụ-viện (Saint-Synode) đứng
đầu Giáo hội Nga, do một người trong triều vua trông coi. Các
Giám mục yêu cầu vua cho một Thượng phụ thay thế thượng phụ
Ni-con đã bị Nga hoàng A-lec-xix bắt giam. Nhà vua trả lời: "Vì
các ngài không chịu thừa nhận vị thượng phụ độc nhất hợp thức là
vị thượng phụ ở Rôma, nên các ngài phải vâng phục một mình
Tôi đây mà thôi!" Rồi nhà vua đặt tay vào thanh kiếm bên mình:
"Đây là thượng phụ của các ngài!" Họ không có thượng phụ nào
khác, mãi cho đến năm 1917. Còn hiện tình Giáo hội Nga dưới
chế độ xô viết, thì cậu đã thừa biết (...).
Những giáo hội khác bởi Phô-xi-ô mà ra thì tự hào mỗi giáo
hội có cơ quan lãnh đạo riêng. Phải. Nhưng Nhà nước nắm quyền
điều khiển mỗi giáo hội đó. Tất cả đều thuộc về Xêda. Đã thế thì
không còn là công giáo nữa, vì mỗi giáo hội có biên giới riêng.
Dù có hiệp nhất với nhau thì cũng không thành một khối đơn
nhất. Đâu có nhiều đầu, đó không thể có một thân xác duy nhất.
Một vấn đề nào đó tranh luận mà không đi đến thoả thuận, thì
được đệ lên xin chính quyền Thổ quyết định. Nhìn vào Giáo hội
87
chính thống này, người ta chỉ còn thấy một chút tàn dư của các
Giáo hội xưa kia hiện đang bị làn gió chính trị mặc sức trà trộn
hay làm tan rã. Ngày nay trong Giáo hội Chính thống này, ít ra có
đến 23 giáo hội tách biệt nhau, ở kề cạnh nhau nhưng không tuỳ
thuộc nhau, không liên kết gì với nhau và chỉ sống yên hàn nếu
không tiếp xúc gì với nhau cả.
Ở Hi lạp cũng như ở Nga, khắp nơi thịnh hành tệ mua quan
bán chức, sự dốt nát và việc thường xuyên bị bách hại, nhất là ở
Nga.
Hãy xem người ta tuyển hàng giáo phẩm như thế nào, đặc
biệt là ở nông thôn. Khi một giáo xứ khuyết linh mục, thì hễ
người nào đến trước tiên, bất kì thợ thủ công, lính thuỷ, anh hàng
thịt hay anh đóng giày, miễn là biết đọc các kinh trong thánh lễ,
thế là người ta phong chức ngay và người đó thành kẻ chăn giữ
linh hồn người ta. Và người đó vừa cứ tiếp tục làm nghề thông
thường vừa thi hành các thánh vụ.
Dù vậy, cuốn "Sách bổn chi tiết của Giáo hội Chính thống
bên Đông đã được Thánh-vụ-viện Nga kiểm tra và phê chuẩn" có
câu này: "Chỉ có trong Giáo hội Công giáo và tông truyền mới có
thể rỗi linh hồn".
Thưa cậu, xin cậu miễn thứ cho cháu, nếu cậu thấy cháu
muốn tỏ vẻ ta đây biết nhiều, hoặc bắt cậu phải đọc một bức thư
hệt như một "bài làm giáo lí". Dù sao, cháu tin chắc những điều
đó sẽ đưa lại hứng thú cho cậu, vì cháu đã liệu cho trí não cậu đi
theo hướng mới. Đối với những tôn giáo khác nhau đó, cháu chỉ
cần bày ra trước mắt cậu, cháu không có ý vạch trần những chỗ
mâu thuẫn, điên rồ hay sai lầm.
Xin để cậu bình tĩnh phê phán và đặt chúng đúng vào vị trí
của chíng. Nhờ đó, chúng ta vẫn luôn luôn hoà thuận với nhau, cả
chính lúc chúng ta tranh luận với nhau. Cháu nghĩ không cần
công khai bàn cãi để phi bác một vấn đề chỉ cần phớt qua và loại
trừ ngay. Cậu với cháu cũng đều tìm xem trên thế giới này đâu là
Giáo hội đích thực của Đức Giêsu, tôn giáo đích thực do Người
mạc khải và sáng lập. Nếu trung thực, chúng ta không thể nhận
một đạo nào là đạo đích thực trong những đạo cháu vừa sơ lược
88
trình bày hôm nay. Cháu đinh ninh rằng lần này cậu sẽ tán đồng ý
kiến của cháu.

Mac-đa

Chương II

Những mâu thuẫn


của
giáo phái Tin Lành

Thưa cậu,
Hôm nay, để làm vui lòng cậu và để cậu thấy rằng cháu đang
tập và đã biết sử dụng những vũ khí khác, chứ không phải chỉ có
lối "nói cạnh nói khoé và tinh ranh", thì cháu sẽ xin làm một triết
gia. Phải. Cậu đừng cười. Xin cậu nhớ cho điều đó. Cháu sẽ đặt
cậu trước một luận cứ dựa trên một lô-gich rất chặt chẽ.
Cháu vốn biết ý kiến cậu về phái Tin lành. Phần cháu, càng
nghiên cứu, càng thấy giáo phái đó kì.... Cháu cũng thấy cần nói
ngay ra rằng cháu tôn kính những người Tin lành thành tâm, họ
có nhiều lắm; nhưng họ tốt hơn giáo lí họ chủ trì. Sau khi trình
bày điều đó, bây giờ cháu xin đi vào luận cứ.
Mâu thuẫn là dấu chắc chắn có sai lầm. Hễ là lời cậu nói có
chứa mâu thuẫn, tức là cậu nói sai. Đâu cũng vậy, hễ có mâu
thuẫn là có sai lầm hoặc gian dối. Vậy mà giáo lí giáo phái Tin
lành chứa nhiều mâu thuẫn hiển nhiên rõ ràng... Sự thật quá rõ.
Cháu chỉ xin chứng minh câu trên: giáo lí giáo phái Tin lành chứa
nhiều mâu thuẫn. Còn kết luận, xin để cậu tự rút lấy.

89
I. Trước hết ta xem Luy-te.-rô: Ông tuyên bố mình được uỷ
thác một sứ mạng đặc biệt là "cải cách" Giáo hội. Ông nói giáo lí
của ông là giáo lí mạc khải: " Giáo lí tôi chủ trì là giáo lí của
Thiên Chúa, không phải tôi bày đặt ra". Ông nói như thế năm
1522. Cũng năm đó, ông viết cho Phê-đê-rích ở Xavơ: "Tin mừng
tôi giảng không bởi người ta, mà từ trời ban xuống qua Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta". Ông còn viết : " Luy-te là một kẻ (...)
hay một vị thánh, cái đó không hệ gì. Có điều là giáo lí tôi dạy
không phải là của tôi, mà của chính Đức Giêsu ".
Nếu thật giáo lí của Luy-te-rô là do Thiên Chúa như ông quả
quyết nhiều lần như thế, nhưng giáo lí đó lại chứa những mâu
thuẫn, thì nhất định ông là kẻ thíếu thành thật. Vậy mà giáo lí của
ông hệt như một mớ hỗn độn, như một thách thức đối với lô gích
và lương tri. Hãy lấy vài thí dụ: con người làm gì cũng có tội cả.
Tội trà trộn vào mọi việc ta làm, dù là việc tốt, tất cả đều là tội lỗi.
Ông viết: "Anh làm gì thì làm, anh chỉ phạm tội thôi". Đối với
ông, không có tội nào nhẹ; tội nào cũng nặng cả. Việc vâng giữ
các luật điều, không thuộc khả năng của chúng ta. Con người
không có tự do. "Nó bị động. Nó không làm gì. Nó không hành
động, nó chịu hành động." Đối với việc rỗi linh hồn hay phải luận
phạt, con người không được tự do quyết định; nó là tên tù, là bầy
tôi và kẻ nô lệ của ý muốn Thiên Chúa hoặc ý muốn sa-tăng".
Chiến công của đức tin, chính là ngợi ca Thiên Chúa "dù Người
thưởng kẻ bất xứng hay trừng phạt kẻ vô tội."
Thật là bức tranh bi thảm và tuyệt vọng. Đây một bức tranh
khác: "Chính đức tin làm người ta nên công chính". Anh cứ tin là
được rỗi: "Anh cứ tin chắc là anh đã được khỏi tội, thế là anh
thực sự khỏi tội, dẫu lòng thống hối của anh như thế nào, mặc".
Không cần những việc lành: "Việc lành cũng xấu và đều là tội lỗi
như mọi việc khác". Nguy cơ lớn, chính là những việc lành. Trái
lại, những người tội lỗi chính cống, sa đà, những người "sống
trong tình trạng tội lỗi rõ ràng, nặng nề và công khai", những
người đó mới có điều kiện rỗi linh hồn hơn ai hết. "Đối với họ,
đường lên Trời dễ hơn, chắc hơn". Và đây là câu kết luận thực
hành Luy-te-rô viết cho Mê-lăng-tông trong một bức thư kinh
90
khủng (ngày 21.8.1521): "Cứ phạm tội và phạm tội mạnh đi;
nhưng lại hãy tin cậy và vui mừng trong Chúa Kitô mạnh hơn
nữa". Còn lương tâm thì đừng nghe nó làm gì! Cứ phạm một tội
nào đó cho thật nặng nề để đuổi nó đi. Lương tâm là tiếng nói của
sa-tăng. Mọi sự vốn xấu tự thân; nhưng "đối với kẻ tin, mọi sự
đều tốt cả".
Như thế mà bảo rằng mọi cái trong giáo lí của Luy-te-rô là
mâu thuẫn, thì có gì là lạ? Phải chăng đó là những gì mà Đức
Giêsu đã mạc khải cho ông ta?! Những điều (....) như vậy mà ông
dám bảo là do Đức Giêsu sao? Thiên Chúa chân thật mà lại lừa
phỉnh tạo vật mình và tước mất sự tự do ý chí của nó sao? Thiên
Chúa thông minh mà lại để mình sai lầm sao? Đức Giêsu công
chính mà lại luận phạt kẻ vô tội và ban thưởng người bất xứng
sao? Thiên Chúa khôn ngoan mà ban hành những luật lệ không
thể giữ được sao? Thiên Chúa thánh thiện mà âu yếm kẻ tội lỗi
sao? Những điều như thế làm sao hoà hợp nhau được? Trước cái
mớ mâu thuẫn tỏ tường như vậy, lí trí làm sao có thể không nhảy
lồng lên phản kháng được? Vả chăng, chính Luy-te-rô cũng nói: "
Giáo lí của tôi thật nghịch lí, lạ lùng, phi lí; nó cực kì mâu thuẫn
với lí trí con người". Chính ông thú nhận như vậy.
II. Can-vanh. Can-vanh có một phong cách khác. Thế nhưng,
ông này cũng kể mình là được uỷ thác mang tới nhân loại tiếng
nói xác thực của Thiên Chúa. Ông tự xưng là đồ đệ của Luy-te-rô,
nhưng lại mâu thuẫn với Luy-te-rô, chẳng hạn trong giáo lí về
giáo hội và các bí tích. Hai người đã mâu thuẫn nhau, thì tất nhiên
một trong hai người phải được kể là sai lạc. Lấy giáo lí Luy-te-rô
thêu dệt thêm vào nữa, Can-vanh biến Thiên Chúa thành con quái
vật gở lạ nhất, vì: "Người định cho kẻ này được sống muôn đời,
kẻ khác phải phạt muôn kiếp", vì " Người chọn lấy một số người
nào đó mà yêu thương, chứ không yêu thương hết mọi người" Tác
phẩm của Can-vanh đầy dẫy những đoạn nói lên quan điểm của
ông về sự thưởng phạt tuỳ tiện đối với loài người như thế. Đàng
khác, khi một người đã được tiền định được rỗi linh hồn, thì
người đó cứ lành thánh suốt đời này cũng như đời sau, dù anh ta
làm gì. Hơn thế nữa, ngay cả các con cháu dòng dõi người đó
91
cũng được tiền định rỗi linh hồn nhờ người đó. Như vậy, có thể
nói thêm, để kết luận, rằng nếu một người chết trong tội, thì tổ
tiên người đó đều bị trầm luân hết cả. Chính Đức Giám mục Bốt-
xuy-ê vạch rõ điều đó. Không! Không hơn gì Luy-te-rô, Can-vanh
không phải là sứ giả của Thiên Chúa.
III. Anh giáo. Theo Gio-dép đơ Met-xtơ-rơ thì trong tất thảy
các môn phái Tin lành, môn phái này là "gần chân lí hơn cả,
nhưng cũng rõ ràng là sai lạc hơn cả. Việc nó sai lạc cũng như
mặt trời chói chang sự sáng. Chỉ cần nhìn vào nó đủ biết". Giáo
hội Anh tự xưng là "Giáo hội được thiết lập". Mấy tiếng đó nói
lên tính chất của nó. Giáo hội này do Hăng-ri VIII thiết lập năm
1534. Có thể nó là của nhà vua, không phải của Thiên Chúa.
"Đây là một tổ chức có tính cách điạ phương, đối lập hẳn với tính
cách phổ quát là dấu chứng của chân lí. Hoặc là đạo này sai;
hoặc là Thiên Chúa chỉ nhập thể cứu người Anh mà thôi". Sau
khi phi bác Luy-te-rô, Hăng-ri VIII thấy giáo hoàng cản trở không
cho mình tha hồ trong việc lấy vợ, thế là vua đánh đổ Người, rồi
tôn mình lên thay thế, tự xưng là "vua độc nhất của vương quốc
về mặt đạo cũng như về mặt đời". Các vua sau, thấy mình thu
phục được nhân tâm, liền nắn nót tô vẽ giáo hội theo sở thích
mình. Et-đuốt VI tiếp thêm giáo lí Luy-te-rô vào đó; E-li-da-bét,
giáo lí Can-vanh; Giắc I, giáo lí phái Ac-mê-ni-a-nô; Uyn-liêm II,
giáo lí phái phóng nhiệm và cứ thế... Và tất thảy những ý tưởng
lai tạp đó cùng tồn tại làm thành một học thuyết nhiều mâu thuẫn,
nhưng đã phần nào dịu đi.
Đã có những nhà thần học Tin lành hí hửng vì thấy trong các
học thuyết của Cải Cách, có "hàng ngàn màu sắc khác nhau của
cầu vồng". Như thế không phải là thú nhận có vô vàn mâu thuẫn
sao? Chân lí không đời nào có ngần ấy sắc thái một trật. Chân lí
chỉ một.
Chưa hết. Giáo hội Anh nhận Giám mục là đầu và kể các
giám mục như do Thiên Chúa đặt lên; bên cạnh đó, giáo hội Ê-cốt
lại cho linh mục là đầu, còn giám mục thì họ nói là bởi quỉ đặt
lên.

92
Một giáo hội do một ông vua thiết lập và lập cho một nước
mà thôi, lại xưng mình là công giáo và bởi Thiên Chúa, vừa quyết
vừa chối về những vấn đề cơ bản trong cùng một kinh Tin kính;
một giáo hội che dưới cánh mình những tín đồ không có cùng một
đức tin, như thế không phải rõ ràng là mâu thuẫn sao?
IV. Tự do giải thích Kinh thánh. Nhưng ba ngành của Tin
lành đó có chung một cội. Luy-te-rô, Can-vanh, Anh giáo đều dạy
rằng đức tin của mỗi tín đồ chỉ dựa trên sự tự do giải thích Kinh
thánh. Nhưng nếu Kinh thánh bảo đảm tất cả, thì cái gì bảo đảm
Kinh thánh? Chỗ nào trong Kinh thánh nói rõ tín điều đó? Chỗ
nào trong Kinh thánh kể mình là qui luật đức tin độc nhất? Chỗ
nào Kinh thánh khẳng định mình là người độc nhất có quyền giáo
huấn?
Kinh thánh là cuốn sách có lắm chỗ tối nghĩa, khó lĩnh hội.
Vậy mà phó mặc nó cho mỗi người tự ý suy nghĩ, người thông
cũng như người dốt, như thế không phải là điên rồ sao? Như thế
chính là ngông cuồng bất chấp mọi bằng cứ của tâm lí học cũng
như của kinh nghiệm. Hãy lấy bộ dân luật, bãi bỏ đi mọi chức
quan toà và bảo quần chúng: "Đây là tất cả quyền lợi và nghĩa vụ
của anh chị em. Ai muốn giải thích thế nào tuỳ ý và chúng tôi
chắc chắn rằng anh chị em sẽ luôn luôn hoà hợp với nhau, không
hề có kiện cáo, ai có gì phải kiện cáo kẻ khác, chỉ việc mở bộ Dân
luật này mà dàn xếp với nhau là xong !"
Chức năng phi lí đó, phái Tin lành muốn gán cho một cuốn
sách đề cập những vấn đề siêu việt nhất, được chép bởi những tác
giả khác nhau nhất, đầy dẫy những điều liên hệ những sự kiện,
những ngạn ngữ, gợi lại tâm trạng và nền văn minh của một dân
tộc khác và thuộc một thời đại khác, chép bằng một ngôn ngữ xa
lạ, muốn nghiên cứu đến nơi đến chốn đòi cả đời một người thức
giả, thông thạo nhiều cổ ngữ. Như vậy không phải là điên sao?
Dẫu Luy-te-rô có nói: "Thánh kinh chính là sự sáng tỏ, là sự sáng
láng vượt hơn mặt trời nhiều" thì chỉ 4 tiếng "Này là Mình Thầy",
năm 1577, các người Tin lành cũng đã giải thích 200 kiểu khác
nhau. Như thế đúng là mâu thuẫn khắp nơi, ở cội cũng như ở
cành.
93
V. Những câu lưỡng đao luận. Dẫu một người Tin lành ngày
nay xưng mình thuộc ngành ngọn nào của giáo phái họ, thì ta
cũng có thể đặt người đó vào giữa những câu lưỡng đao luận sau
đây, mà người đó không làm sao thoát khỏi:
1/ Các nhà Cải Cách có được Thiên Chúa soi dẫn hay không?
Nếu có, tại sao các đồ đệ lại bỏ không còn theo họ nữa? (Vì ngày
nay không có tín đồ Tin lành nào còn giữ nguyên vẹn giáo lí của
những người khởi xướng nữa). Nếu không, làm sao họ biết được
rằng Cải Cách là hợp ý Chúa, là do Chúa truyền?
2/ Họ quả quyết rằng sự soi dẫn của Thiên Chúa được thông
ban cho từng tín đồ một. Nhưng thử hỏi Thiên Chúa có thể nói
dối không? Nếu Thiên Chúa có thể nói dối, sao lại tin lời Người?
Nếu Thiên Chúa không thể nói dối, sao Người lại soi dẫn người
ta tin những điều mâu thuẫn như vậy?
3/ Đức Giêsu đã hứa ở với Giáo hội Người cho đến tận thế.
Vậy xin hỏi Giáo hội của Đức Giêsu đó, ở thế kỉ 16 có còn nữa
hay không? Nếu còn, thì các nhà Cải Cách Tin lành phải ở lại đó
mới đúng; nếu không còn, thế nghĩa là Đức Giêsu đã để Giáo hội
Người diệt vong và như thế là không giữ lời hứa, là lừa dối và
toàn bộ đạo Kitô sụp đổ.
Đến đây, cháu xin nhắc lại luận cứ của cháu. Đâu có mâu
thuẫn, đó có sai lầm. Vậy mà đạo Tin lành đầy những mâu thuẫn
rõ ràng. Do đó, đạo Tin lành là sai lầm.
Cậu không thể cho rằng cháu thiếu lô-gích. Lô gích của cháu
ở đây vững chắc, không thể phi bác được. Vả chăng, trong một
thư sau, cháu sẽ trình bày một luận cứ khác mạnh hơn nữa, nhằm
tăng cường luận điểm của cháu.
Đứa cháu triết gia của cậu

Chương III
94
Những thay đổi
của
giáo phái Tin lành

Thưa cậu,
Hôm nay, đứa cháu triết gia của cậu đánh liều gửi cậu một
thư thứ ba nữa, mặc dầu hai thư trước chưa được cậu hồi âm. Thì
xin cậu cứ nghiền ngẫm cho kĩ những gì cháu viết cho cậu. Cháu
vẫn thích như thế hơn. Và để giúp cậu suy nghĩ, cháu xin trình
bày với cậu một luận cứ nữa, mà cháu hi vọng sẽ đánh động cậu
rất nhiều. Cháu biết rằng hiện giờ cậu đang đi tìm sự sáng. Ước gì
cháu có thể mang lại cho cậu một vài tia yếu ớt, trong khi chờ
ngày mặt trời chân lí chói chang tỏa chiếu tràn ngập tâm hồn cậu.
Bây giờ chúng ta đi vào vấn đề.
Đã là chân lí thì không thay đổi. Một tôn giáo mạc khải phải
bất biến. Nếu nó biến đổi, thay đổi, thì có thể nói về nó như Đức
Giám mục Bôt-xuy-ê: "Anh thay đổi, nên anh là giả hiệu". Vậy
mà giáo phải Tin lành đã thay đổi nhiều lắm; đến độ người ta đã
có thể viết nên "Lịch sử những thay đổi" của nó. Cho nên nó là
giả, là sai.
Câu đại tiền đề không thể chối cãi. Chỉ cần chứng minh câu
tiểu tiền đề.
1/ Luy-te-rô đã thay đổi. Trong 24 năm, 14 lần thay đổi về
hệ thuyết. Năm1520, Luy-te-rô nhận 7 bí tích; vài tháng sau, bỏ đi
4. Năm 1523, bỏ bí tích Hoà giải. Ông giữ lại phép Thánh tẩy,
nhưng bảo là nó không xoá nguyên tội. Về phép Thánh thể, ông
cứ do dự, khi thì nhận 2 bản thể cùng tồn tại, khi lại nhận sự biến
thể. Ngay trong nội dung cơ bản của giáo lí, đặc biệt về sự công
chính hoá, đòn bẩy của công cuộc cải cách mà ông chủ trì, nhiều
điểm ông tự phi bác mình, khi trực tiếp, khi gián tiếp. Thậm chí
ông còn thay đổi các bản văn Kinh thánh để phục vụ ý đồ mình.
Riêng việc công chính hoá bằng đức tin, là viên đá góc của học
95
thuyết ông, thì trước khi ông chết, các đồ đệ đã nhận nơi ông 20
lối giải thích khác nhau.
2/ Can-vanh đã thay đổi. Từ 1554 đến 1557, ông thảo ra hai
bản tuyên tín khác nhau và phê nhận một bản thứ ba nữa. Ba bản
không hợp nhau. Các đồ đệ của ông không nhận tín điều của ông
về sự công chính hoá nữa. Tín điều về sự tiền định và về sự biết
chắc rỗi linh hồn hay không, cũng giảm giá trị đi. Dân thành Giơ-
ne-vơ, giáo đô của ông, đã bỏ ông để tôn G.Giắc Rút -xô lên thay.
Từ Can-vanh đến Rút-xô, biết bao là thay đổi!
3/ Anh giáo đã thay đổi. Từ Hăng-ri VIII đến Uyn-liêm III,
bảy vua lần lượt thay đổi giáo lí trong những điểm cơ bản. Năm
1840, xảy ra cuộc tranh luận ở Thượng viện về 39 điều trong bản
Tuyên tín của Anh giáo. Một mục sư quyết rằng toàn thể hàng
giáo phẩm đều tin những điều đó; một mục sư khác lại cãi là
không ai tin; mục sư thứ ba rằng không thể nào thừa nhận những
điều đó; sau cùng một mục sư thứ tư thêm rằng nếu cả đại khối có
thừa nhận, thì những người biết điều cũng chỉ tin cái gì mình
thích thôi.
4/ Thế giá Kinh thánh. Cơ sở của toàn bộ giáo lí Tin lành là
thế giá duy hữu của Kinh thánh. Ban đầu, họ lấy ở đó những gì
phục vụ cho nhu cầu của giáo thuyết họ; về sau, họ xuyên tạc các
bản văn và rồi, vì cứ thêm bớt cho vừa sở thích mình, nên cuối
cùng chính họ làm sai lạc hết tất cả. Các nhà thần học Tin lành
hiện nay, phần đông không còn nhận thế giá thần linh của Kinh
thánh nữa. Và Rơ-năng phi bác Kinh thánh chính là bằng những
vũ khí thu thập được ở trường học Tin lành.
5/ Tự do xác tín. Ban-me (Balmès) nói: "Sai lầm hay di
chuyển". Vậy mà chưa có học thuyết nào "di chuyển" nhiều như
Tin lành. Đây là một học thuyết phiêu lưu. Đức Giám mục Bốt-
xuy-ê viết cả một cuốn "Lịch sử những biến đổi" của học thuyết
này. Khoa phê bình hiện đại không thể phi bác được cuốn sách
này. Cái phá hoại học thuyết Tin lành hơn cả, chính là giáo lí tự
do xác tín. Luy-te-rô nói: "Mỗi người có toàn quyền phê phán
những kẻ định dạy mình". Chính nguyên tắc đó đã mở đầu cho
tình trạng hỗn độn kéo dài mãi tới ngày nay. Đem tự do xác tín áp
96
dụng vào giáo lí mạc khải, như thế không phải là bảo rằng con
người có quyền thừa nhận, phi bác, nhồi nặn bằng chứng của
Thiên Chúa một cách tuỳ tiện đó sao? Chính vì thế mà có đầy dẫy
những giáo phái đối lập nhau, chính vì thế mà học thuyết Tin lành
xuống dốc một cách kinh hồn, từ phủ định này đến phủ định khác,
để đi tới hoài nghi luận, duy lí luận và tự do tư tưởng.
6/ Các giáo phái. Các giáo phái Tin lành nhiều không kể
xiết. Ở Pháp có 9 nhóm khác nhau, với 850 mục sư và 65 vạn tín
đồ. Ở Đức, trước thế chiến nhất, có 26 giáo hội Tin lành, chưa nói
đến vô số "hội" rất khác biệt nhau. Tại Anh, có đến hàng trăm; chỉ
riêng 9 quận của vùng Ơn-xtơ, gồm 891.000 tín đồ, mà hiện nay
cũng có đến 316 giáo phái khác nhau. Tờ "Thông lịch Uy-têch-
cơ", năm 1921, tính rằng chỉ trong hai giáo phái, đã có 4.742
"nhóm" biệt lập. Tại Mỹ, tờ "Thông lịch thế giới" năm 1921, kể ra
184 giáo phái đông nhất và có thế lực nhất. Những giáo phái nhỏ
không kể.
Tại các miền Truyền giáo cũng vậy. Chỉ riêng Ma-đa-gat-
xca, có đến 54 giáo phái khác nhau. Đâu cũng vậy cả. Những con
số đó làm ngẩn người. Thế mới hiểu câu nói của A.Xă-ba-chi-ê:
"Nói đến chuyện có một tín điều nào bất di bất dịch và vô ngộ
trong đạo Tin lành, thì thật là một điều vô nghĩa lí. Không có
giáo hội Tin lành nào có thể cho mình là vô ngộ, mà không tự phi
bác mình!" Rồi ông kết luận: "Đạo Tin lành cho ta thấy rằng
một tôn giáo tự xưng là siêu nhiên, nhưng lại để mất cái đặc
quyền vô ngộ, một tôn giáo như thế có thể đi đến tình trạng nào.
Tôn giáo đó không phải là một tôn giáo đã suy đang được cải
lương, cũng không phải là một tôn giáo trước vốn thuần khiết nay
đã đồi trụy đi; thực tế mà nói, đó chỉ là sự phủ nhận hoàn toàn
mọi mạc khải". Than ôi! ý kiến đó thật quá đúng!
7/ Còn lại gì trong đạo Tin lành nữa? Điều đó không ai
biết. Những người Tin lành không còn biết lấy giáo lí nào góp
chung lại để làm nên một đạo. Con số những "kinh Tin kính" Tin
lành mà họ gọi là "những bản tuyên tín", thật là kinh khủng.
Nguyên một việc kiểm kê lại cũng không thể. Chính Luy-te-rô
cũng đã phàn nàn rằng thời ông "có bao nhiêu nhà giảng đạo thì
97
hầu như có bấy nhiêu hệ thuyết". Huống nữa là ngày nay! Ra vạ
tuyệt thông cho nhau đã chán, các người Tin lành giữa thế kỉ 17
lại cố tìm cách phân biệt giữa các tín điều với nhau; đàng nào
cũng phải có những tín điều chính, những tín điều phụ... Nhưng ai
có thể quyết định một tín điều nào đó là chính, và một tín điều
khác là phụ? Thế là lại cãi nhau, lại chia rẽ.
Vì không thể nghe nhau, cuối cùng họ định thỏa thuận cùng
nhận một tín điều độc nhất như nhau. Phải, chỉ một thôi. Nhưng
biết chọn tín điều nào? Ai chọn và ai bảo đảm điều đó? Làm thế
nào chính thức hoá tín điều đó? Vì không thể nhất trí với nhau,
nên họ đành thú nhận rằng thỏa thuận là vô ích, hơn nữa là không
nên. Và đạo Tin lành tiếp tục phiêu lưu.
8/ Chung cục. Cái chung cục không thể tránh khỏi của giáo
phái Tin lành, là đi đời tín lí, đi đời mọi tín điều minh xác. Một
trong những nhà thần học của họ, Ni-cô-la Ha-mơ nói: "Tôi có
thể viết ra hết cả trên ngón tay cái của tôi mọi cái gì là tín điều
còn được mọi người tin trong giáo phái Tin lành". Thật ra, giáo
phái Tin lành tuyệt nhiên không còn giữ được một cái gì trong
toàn bộ Mạc khải Kitô giáo, trong tất thảy những tín điều có thể
làm di sản của họ xưa nữa.
Tin vào Tin mừng, họ cũng không còn tin nữa! Tất cả những
cố gắng tài tình của những bậc thầy thợ trong giới chú giải Kinh
thánh của Tin lành, rút cuộc chỉ làm Tin lành mất hết cả ý nghĩa
của nó. Đến thần tính của Đức Giêsu cũng không còn nữa. Giáo sỉ
Piếc-xơn (Parsons) cho Đức Giêsu là "một người Do thái Pa-lét-
xtin rất đáng kính". Đa số các người Tin lành hoặc chối Đức
Giêsu không phải là Thiên Chúa, hoặc cho rằng thần tính của
Người chỉ là "nhờ ban cho mà có, hạn chế và tạm thời". Hơn nữa,
năm 1906, nào không phải là một người Tin lành Mỹ đã cho xuất
bản một cuốn sách để chứng minh rằng Đức Giêsu không bao giờ
có đó sao?
Vậy thì còn tin cái gì nữa? "Người ta có giảng giáo lí Phật
Thích ca trên toà giảng chúng ta, thì chúng ta cũng không lấy gì
làm lạ". Đó là lời của H. Xê-cơ-rê-tăng (Sécrétan), mục sư Tin
lành ở Giơ-ne-vơ viết năm 1899. Đúng là Tin lành đã rơi đến chỗ
98
đó, đến chỗ không còn có thể phân biệt giữa Tin lành với thuyết
tự do tư tưởng nữa. Họ đã đi đến chỗ "kinh miệt chân lí". Phec-đi-
năng Buýt-xông viết: "Kinh tin kính độc nhất của chúng ta, là
không có kinh Tin kính nào cả"; vì bất cứ kinh Tin kính nào cũng
là một sự giam hãm trái phép tư tưởng con người không cho nó
hoạt động".
9/ Khẩu hiệu của Tin lành. Khẩu hiệu đầu tiên và khẩu hiệu
cuối cùng của Tin lành đã được công bố tại Đại hội Ma-nem,
Đức, năm 1914, bởi một nhà thần học Tin lành, Ec-netx Tơ-ru-en-
xec (Er.Troeltsek): "Ngày nay, về giáo lí, chúng ta chỉ biết chắc
và chính xác một điều mà thôi, đó là chúng ta không phải công
giáo".
Không giáo hoàng gì hết! Đó là khẩu hiệu tập họp của họ.
Chính Niu-man, trước khi trở lại, cũng cho sự thù địch với giáo
hoàng là "một nhiệm vụ nghiêm nhặt". Chính vì thế mà một liên
đoàn ở Mỹ, năm 1920, đã quyết nghị bỏ ra 100 triệu đôla, nhằm
"hoán cải" người công giáo ở Pháp, Bỉ và I-ta-li-a. Hoán cải ở đây
có nghĩa là là làm cho người công giáo bỏ những điều họ vốn tin,
sao cho chính họ cũng "phản đối" (Thệ phản) một điều nào đó.
Ngoài cái nguyên lí phủ định: tự do xác tín, thì có mối thù là giáo
hoàng.
Nói thù ghét, không phải là quá đáng. Luy-te-rô xưa cũng có
"lòng thù ghét giáo hoàng". Chỉ có điều đó là ông không hề thay
đổi. Di chúc của ông là: "Uớc gì Chúa cho bạn căm thù mãnh liệt
đối với giáo hoàng!" Bài viết cuối cùng của ông năm 1545, có
đầu đề là "Chống ngôi giáo hoàng do quỉ lập nên ở Rôma".
Người ta nói trước ngày chết, ông lấy phấn viết lên vách: "Khi
sống, ta làm khổ ngươi; khi chết, ta sẽ đánh chết người, hỡi giáo
hoàng !"
Tiên báo là nguy hiểm, dẫu khi người ta là Luy-te-rô. Luy-te-
rô không còn nữa. Giáo lí ông đã tiêu tan. Nhưng giáo hoàng còn
đó. May thay, đồ đệ lại hơn thầy và nhiều khi con người giá trị
hơn là học thuyết. Đa số tín đồ Tin lành giá trị hơn thuyết Tin
lành.

99
Mọi tâm hồn có thiện ý, được những ơn bí ẩn. Chỉ Thiên
Chúa có thể phê phán linh hồn người ta. Nhưng để phê phán học
thuyết, thì chỉ hai tiếng: "Anh tự mâu thuẫn, anh biến đổi, do đó
anh là học thuyết sai lạc".
Mác-đa

Chương IV

Không có mâu thuẫn, thay đổi


Trong đạo công giáo

- Này Mác-đa, cậu sung sướng được gặp cháu để tặng cháu
một lời khen.
- Khen gì thưa, cậu?

100
- Khen vì ba bức thư cháu gửi cậu gần đây thật là đẹp đẽ.
mạnh mẽ, có lô-gích và chúng đã làm cậu nao núng. Nhưng cháu
có biết chắc những lời cháu trích dẫn kia là thật cả không? Cháu
có các sách vỡ để tham khảo đó không? Cậu muốn kiểm tra xem.
- Đúng lắm. Chính vì thế mà hôm nay cháu mang đến cho
cậu cuốn sách của A.Ê-mi-ơ đã giúp cháu trong công việc này.
Cháu đã mượn ở đó nội dung và tất thảy những viễn ngữ của
cháu. Xin cậu cứ kiểm tra. Đây!
- "Hai luận cứ biện hộ cho đạo Công giáo". Sao? Tốt quá!
Thế ra chính hai luận cứ này cháu đã lấy để tấn công cậu một cách
tàn nhẫn đến như thế...
- Và đúng đắn như thế nữa!
- Ô! Đúng đắn, phải, đối với các giáo phái khác. Nhưng nếu
đem áp dụng hai luận cứ đó vào cho đạo Công giáo, liệu cháu có
chắc Đạo cháu sẽ đương nổi không?
- Thì ta vào vấn đề đi thôi. Cháu sẵn sàng cả rồi. Cậu sẽ thấy
đây là một sự kiện chứng và một chứng cứ tích cực thêm nữa,
trong khi chờ những chứng cứ khác.
- Được. Có thật trong đạo Công giáo, cháu không thấy có
mâu thuẫn nào cả không?
- Cậu thấy thì xin cậu vạch ra đây. Cổ nhân nói: "Ai quyết
thì kẻ đó phải làm chứng"
- Thật ra thì cậu cũng chưa có thời giờ nghiên cứu đến nơi
đến chốn vấn đề đó.
- Tiếc quá! Nhưng cậu có điều gì thật sự thắc mắc về đạo
Công giáo không?
- Nào không phải là đã có một công đồng, cậu nhớ là công
đồng Macông, đã đặt vấn đề nghi nan không biết phụ nữ có linh
hồn hay không đó sao?
- Phải rồi, một số báo chí mới đây đã đặt lại vấn đề đó.
Nhưng công đồng này họp năm 585, không phải là công đồng
chung, nên không có hệ đến toàn thể giáo hội. Đàng khác, các văn
kiện của công đồng này còn đó, mà không thấy nói gì đến vấn đề
cậu đề cập đó. Ngoài lề công đồng, một giám mục có nêu một vấn
101
đề về ngữ vựng, về từ la tinh "homo" (là người), mà theo vị giám
mục đó, từ này không được dùng để chỉ cả hai phái nam, nữ. Thế
thôi.
- Nhưng không phải là cháu lấy làm nguyên tắc câu nói "Tôi
tin vì điều đó phi lí" đó sao?
- Chính cậu phi lí, vì cậu tin điều đó!
- Nhưng đó là học thuyết của các thầy Dòng Tên kia mà!
- Không đâu. Câu nói ngộ nghĩnh đó là của Tec-tuy-liêng,
nhà hộ giáo hăng say. Mà cũng còn phải đặt câu đó trong mạch
văn của nó mà hiểu. Đàng khác, Tec-tuy-liêng không phải là Giáo
hội. Ông rối đạo trong một quãng đời ông.
- Bảo rằng có ba Thiên Chúa, không phải là mâu thuẫn sao?
Thiên Chúa Ba ngôi! Ba = một!
- Cậu này, cháu cứ nghĩ cậu nghiêm chỉnh hơn thế đấy. 3=1,
thì rõ ràng là mâu thuẫn rồi. Nhưng ba ngôi vị làm thành một
Thiên Chúa duy nhất, đó là một mầu nhiệm. Chỉ có thế thôi. Ba
đường thẳng, mỗi đường cắt hai đường kia, làm thành một tam
giác; cha, mẹ, con làm thành một gia đình duy nhất. Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Linh làm thành một Thiên Chúa duy
nhất. Mâu thuẫn chỗ nào? Đó là mầu nhiệm của khoa tâm lí học
Thiên Chúa. Tâm lí học nhân loại không đầy những bí nhiệm đó
sao?
- Qua các thời đại, đã có những lạc giáo.
- Và hiện nay vẫn còn. Nhưng Giáo hội đã phi bác những bè
lạc giáo đó và loại những người khởi xướng ra khỏi lòng mình.
- Vì thế mà Giáo hội đã mất đi hàng triệu người.
- Nhưng đã duy trì được đức tin thuần khiết.
- Giáo hội không hưởng ứng sự tiến bộ, ngay cả học thuyết
Tiến hoá, Giáo hội cũng chẳng thừa nhận.
- Giáo hội chỉ phi bác thuyết Tiến hoá triệt để, nghĩa là
thuyết Tiến hoá không thừa nhận hiện tượng tiến hoá xuất phát từ
Thiên Chúa và không nhận linh hồn con người do Thiên Chúa
sáng tạo trực tiếp.
102
- Thế mới sai lầm.
- Cậu ạ, muốn tiến hoá, phải hiện hữu đã. Nhận có hiện hữu
đã rồi mới tiến hoá, thì như thế tiến hoá không thay thế Tạo hoá là
nguyên nhân đầu tiên. Lamắc, cha đẻ của thuyết biến chủng
(transformisme) đã nói đi nói lại mãi điều đó. Và năm 1884, một
nhà tiến hoá luận hăng hái là Et-mông Pe-ri-ê có viết: "Hoá học,
vật lí học, thiên văn học, sinh vật hoc không phạm gì đến bản
nguyên đầu tiên, không chối bỏ Thiên Chúa. Các ngành khoa học
đó nhìn Thiên Chúa xa hơn và nhất là cao hơn".
- Vậy có biết bao vấn nạn đả kích đạo Công giáo thì sao?
- Nhưng thử hỏi có cái gì mà không bị đả kích: sự hiện hữu
của vật chất bị đả kích, ngay cả hình học cũng bị đả kích.
- Thôi. Đừng nói đến mâu thuẫn nữa. Thế nhưng, hẳn là cháu
không dám quả quyết rằng đạo Công giáo chưa hề thay đổi chứ?
Tại sao kinh Tin kính các Tông đồ lại được thay thế bằng kinh
Tin kính Ni-xê và sau này bằng kinh Tin kính thánh A-tha-na-dơ?
Cháu công kích các "bản tuyên tín" bên Tin lành, nhưng đây cũng
có đến 3 kinh Tin kính!
- Cậu lẫn lộn thay đổi với tiến bộ rồi.
- Cũng khó mà phân biệt.
- Cậu cứ so sánh hai kinh đầu: kinh sau không bỏ đi một
tiếng nào của kinh trước; thêm vào ít nhiều tiếng để làm thành
kinh thứ hai, nên kinh thứ hai chỉ là bản quãng diễn kinh trước.
- Tại sao mãi về sau mới quãng diễn như thế?
- Vì những bè lạc giáo tấn công các tín điều. Kinh Tin kính
thứ nhất nói: "Tôi tin Chúa Giê-su Kitô Con Một Thiên Chúa".
Nhưng năm 325, A-ri-ô chối Đức Giêsu không phải là Thiên
Chúa. Vì thế công đồng Ni-xê thêm vào kinh đầu để khẳng định
thần tính mà A-ri-ô phi bác.
- Còn kinh Tin kính thánh A-tha-na-dơ?
- Kinh này được đặt ra nhằm trả lời các lạc giáo Net-xto-ri-ô
và Eu-ti-ke. Bởi vì Giáo hội cũng tiến triển và trưởng thành như
thân xác người ta, năm này qua năm khác, chi thể lớn lên, dài ra,
dù vậy vẫn cứ là những chi thể trước kia. Do đó, có những tín
103
điều xưa kia mới nảy mầm, về sau đã mọc lên và lớn mạnh;
những tín điều xưa kia còn bị bóng tối che khất, về sau được đưa
ra ánh sáng rõ ràng. Nhưng một khi đã được nghiệm xét và được
định tín rồi, thì những tín điều đó cứ như thế mãi, không hề thay
đổi nữa. Phải, đã có sự tiến bộ rộng rãi, cả sự tăng tiến nữa, trong
việc hiểu biết có lí luận về các tín điều đó và như thế tuỳ theo sự
phát triển của các thời đại, các thế kỉ. Một lần nữa, đã có tiến bộ,
quãng diễn, tăng tiến, phải, nhưng biến đổi thì chưa bao giờ. Đã
có thêm hằng trăm định tín mới vào kinh Tin kính các Tông đồ,
như những búp non mùa xuân thêm vào thân cây vốn đã sung sức.
Đạo Công giáo chưa hết tăng tiến; nhưng thực tế, nó chưa hề thay
đổi.
- Nó đã già đi.
- Tức là nó đã trưởng thành, nó đã tăng tiến; nhưng chú ý
quan sát, cậu sẽ không khám phá ra một dấu gì là hư huỷ, già cỗi
hay biến đổi.
- Cháu nói thế để kết luận?
- Rằng đó là công trình của Thiên Chúa. Bởi lẽ nếu nó là do
bàn tay con người làm nên, thì lẽ ra cậu phải gặp thấy trong đó
những dấu vết sự yếu đuối loài người, hơn cả trong đạo Tin lành
nữa. Phải, trải qua 19 thế kỉ như thế, mặc cho mọi cố gắng điên
cuồng nhất của lạc giáo và vô tín ngưỡng, những tấn công do các
thế lực bên ngoài, lòng thù ghét của những kẻ địch không thể cảm
hoá và hùng mạnh, thế mà bao giờ cũng như bao giờ, tiến bộ thay
vì nằm ì như giáo hội Chính thống, hoặc phân huỷ hay phai lạt
như giáo hội Tin lành; Thưa cậu, như thế, thật là do Thiên Chúa .
Chỉ Thiên Chúa mới làm được phép lạ đó.
- Đạo công giáo không cắt bỏ, không thay đổi, không thêm
gì vào giáo lí của Đức Giêsu và các Tông đồ sao?
- Không cắt bỏ gì hết. Nó "đã bảo vệ kho tàng được giao
phó". Nó không thay đổi gì. Những tiếng, những công thức đã có
thể, hơn nữa đã phải thay đổi, nhưng ý tưởng thì vẫn y nguyên.
Giáo hội không hề sửa đổi cách nào cả. Đó là tính bất biến của
giáo lí. Thêm vào, cũng không.
104
- Nhưng Lộ đức? Pa-rê-lơ-mô-ni-an với những cuộc hiện
hình, với việc tôn thờ Thánh tâm, không phải là mới sao?
- Giáo hội đã tuyên bố rằng việc Thiên Chúa mạc khải cho
loài người đã kết thúc khi vị Tông đồ cuối cùng qua đời. Nếu có
khi nào Giáo hội thừa nhận và phê chuẩn những mạc khải riêng
tư, thì Giáo hội chủ ý hiểu rằng những mạc khải đó không trái với
đức tin hay phong hoá, nhưng Giáo hội không cho mình có quyền
buộc tín hữu phải tin những điều đó. Chẳng hạn những lời Đức
Giêsu phán ở Pa-rê-lơ-mô-ni-an sẽ không bao giờ thành những tín
điều. Như vậy, Giáo hội không cắt bỏ, thay đổi, thêm thắt gì vào
kho tàng mạc khải Kitô giáo. Tuy vẫn thừa nhận, cổ động sự tiến
bộ, nhưng không hề thay đổi gì. Chưa hề có, và sẽ không hề có ai
nghĩ đến chuyện viết một cuốn sách về đạo Công giáo tương tự
cuốn "Lịch sử những biến đổi của đạo Tin lành". Chính L. đơ
Phông-ta-nơ, chủ tịch Hội đồng lập pháp, năm 1804, đã nói lên ý
đó trong bài diễn văn của ông về Đức Giáo Hoàng: "Tất cả đã
thay đổi xung quanh Giáo hội. Chỉ có Gíáo hội là chưa hề thay
đổi gì hết!"
- Nhưng đã có những giáo hoàng xấu!
- Cháu biết thế nào cậu cũng nói tới chuyện đó. Ô! Giáo
hoàng là một con người. Có thể có những tính mê. Đã có những
giáo hoàng dở, đã có những vị xấu. Phải. Đã có những giáo hoàng
xấu. Giáo hội không phủ nhận điều đó. Đã có A-lec-xăng-đơ-rơ 6,
không ai bênh vực được; Giăng 22 và Bơ-noa 9 có hơi khả nghi;
và cho đi là đã có 2 hay 3 vị khác nữa có lẽ để mà ngờ. Cộng lại
nhiều lắm là 5 hay 6 trên tổng số 261 vị. Trong đó có 76 vị đã
được phong hiển thánh. Hơn 1 phần 3! Chỉ 2% là xấu, 34% là
thánh!
- Phải. Nhưng nếu những giáo hoàng xấu đã sai lầm, thì luận
cứ của cháu đổ.
- Đức Giêsu không bao giờ nói rằng giáo hoàng sẽ vượt trên
những sai lỗi của loài người. Nhưng Người đã hứa rằng giáo
hoàng sẽ không thể sai lầm khi công bố những định tín " do
thượng giáo toà" (ex cathedra). Vậy mà trong số gíáo hoàng xấu
đó, không ai sai lầm về giáo lí. Người ta đã có thể công kích
105
những sai lầm về phẩm hạnh các ngài, không bao giờ người ta nói
các ngài đã sai lầm về đức tin. Trong khi, như người ta thường
nói, "không ai đúng 50 năm liền", thì 261 giáo hoàng đã đúng
suốt 19 thế kỉ và chưa hề sai lầm về những vấn đề đức tin và
phong hoá.
"Thế kỉ 19, tín điều giáo hoàng không thể sai lầm đã được
công bố. Như thế là nói rằng ngài đã không thể sai lầm trong dĩ
vãng và ngài sẽ không thể sai lầm trong tương lai. Như thế là thừa
nhận rằng những định tín của tất thảy các giáo hoàng suốt 19 thế
kỉ nay đều hoà hợp nhau. Tại công đồng Vatican I, mọi cái gì là
nhân tài và vật lực trên thế giới này đều được huy động để bênh
vực hoặc công kích ơn không thể sai lầm đó, nhất là để công kích.
Và trong cái chuỗi dằng dặc những định tín của các giáo hoàng,
người ta chưa có thể khám phá ra dù chỉ một biến đổi rõ ràng
nào!"
Bơ-rô-gơ-li nói: "18 thế kỉ có lô gích, thật là một điều đáng
kể!" Không những thế, đây còn là một lí chứng rất mạnh, phải cho
là có sự can thiệp trực tiếp của Thiên Chúa mới hiểu được. Xin
để cậu kết luận.

106
Chương V
Bốn đặc điểm
của
Giáo hội thật

Thưa cậu, sau tất thảy những điều chúng ta đã nói về những
giáo hội tự xưng là của Đức Giêsu, chúng ta đã có thể tổng kết
được rồi. Tuy nhiên, còn một luận cứ cuối cùng, cũng rất rõ ràng,
cháu dành lại khi kết thúc. Cậu đồng ý là Đức Giêsu đã thiết lập
Giáo hội chứ?
- Phải như thế, vì nếu không, sự nghiệp Người cũng chết
luôn theo Người.
- Mặt khác, chính Người báo trước điều đó khi bảo thánh
Phêrô: "Con là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy".
Chủ ý: "Giáo hội của Thầy". Người không nói "những giáo hội
của Thầy". Vậy mà Tin lành, Chính thống và Công giáo đều tự
xưng là của Đức Giêsu .Thì không thể cả ba đều đúng.
- Phải. Chân lí có một. Chỉ có thể có một Giáo hội thật mà
thôi.
- Chà! Hôm nay cậu lí luận tuyệt quá!
- Tiếp xúc với cháu, thì cuối cùng cũng phải thành thạo hơn
tí chứ!
107
- Cháu sung sướng về điều đó lắm!
- Nhưng ai cho phép cháu kết luận rằng Giáo hội của cháu là
Giáo hội thật?
- Đơn giản thôi. Cháu sẽ đưa ra 4 đặc điểm hay dấu chỉ để
phân biệt. Chúng ta đem áp dụng vào 3 giáo hội, xem giáo hội
nào có đủ 4 đặc điểm đó.
- Đồng ý!
- Đặc điểm thứ nhất: Giáo hội thật thì nhất thiết phải duy
nhất. Vì chỉ có một đức tin.
- Cậu cũng đoán trước được ý cháu.
- Phải lắm. Và cháu xin hỏi cậu ngay rằng: căn cứ tất thảy
những gì chúng ta đã nói về Chính thống và Tin lành, cậu có đồng
ý rằng hai giáo phái đó không có đặc điểm thứ nhất này không?
- Phải. Đối với Tin lành, vì họ thiếu duy nhất tính đến mức
sinh ra hỗn độn trong tín lí cũng như giữa các nhóm. Nhưng
Chính thống Hi lạp và Nga có duy nhất tính về giáo lí lắm.
- Lẽ ra cháu có thể cãi lại đấy. Nhưng hãy tạm cho đi là họ
có duy nhất tính giáo lí. Về duy nhất tính quản trị thì chắc chắn họ
không có, vì mỗi nhóm trong 23 nhóm làm thành những giáo hội
đó đều có một thủ lĩnh riêng. Đó là những nhóm tự trị.
- Thế còn Giáo hội công giáo, có duy nhất tính không?
- Rõ quá rồi. Duy nhất tính giáo lí khắp nơi. Cả duy nhất
quản trị nữa, vì chỉ có một Thủ lĩnh duy nhất là Đức Giáo Hoàng.
- Điều đó, cậu đồng ý với cháu.
- Đặc điểm thứ hai để phân biệt là thánh thiện. Đức Giêsu
đến nhằm thiết lập sự thống trị của Thiên Chúa trên mặt đất. Để
đạt mục tiêu đó, Người đã lập các bí tích như nguồn sự thánh
thiện hay trọn lành. Ban đầu, danh từ "Kitô hữu" đồng nghĩa với
"thánh". Dù chỉ xét theo quan điểm thuần lí, thì Giáo hội sở dĩ có
ý nghĩa là vì Giáo hội là một phương thế thánh hoá. Vậy mà Tin
lành không có thánh thiện.
- Coi chừng! Vấn đề gay đấy!

108
- Cậu sẽ thấy rằng không gay tí nào cả. Tin lành không có
những vị sáng lập thánh thiện. Dẫu Luy-te-rô, dẫu Can-vanh, dẫu
Hăng-ri VIII...(...)
- Phải. Với khẩu hiệu "Cứ phạm tội đi, nhưng hãy tin mạnh
hơn!" thì làm gì mà đi tới sự thánh thiện được? Nhưng nào cháu
đã không nhận rằng đa số người Tin lành tốt hơn là giáo lí của họ
sao?
- Đúng. Và may mà còn được như thế. Dù họ không muốn,
họ cũng đã giữ được chút ít nhựa sống Tin mừng. Nhưng chút ít
nhựa sống đó, họ đã phung phí quá nhiều vì quan niệm thần bí
lỏng lẻo của họ. Phải. Bên họ có những người có trình độ luân lí
khá cao, những đức tính quí, có khi ở mức độ anh hùng nữa.
- Thế thì?
- Sở dĩ những người đó đạt được trình độ như thế, nào không
phải chính là vì họ không thực hành những nguyên lí của đạo họ
đó sao? Có thể có những người Tin lành rất tốt, nhưng giáo lí của
họ không có cái gì có sức thánh hoá.
- Còn người Chính thống, cháu cũng chê cả họ nữa sao?
- Họ đã làm cho tôn giáo của họ chỉ còn là việc phụng tự bên
ngoài. Họ không có hoạt động xã hội hay hoạt động tông đồ nào
cả (...)
- Kết luận: chỉ mình cháu là thánh thiện thôi?
- Cháu phải thánh, nếu hiện giờ chưa thánh. Thế nhưng chỉ
có Giáo hội công giáo có sự thánh thiện mà thôi, mặc dầu có
những nhược điểm mà Giáo hội cũng không phủ nhận. Thánh
thiện trước hết là ở trong giáo lí: tín lí, luân lí, phụng tự của Giáo
hội là những nguyên lí của sự thánh thiện. Rồi thánh thiện trong
pháp chế: mọi luật lệ của Giáo hội công giáo đều có tính xây
dựng và cải thiện. Giáo hội còn thánh thiện trong các tổ chức về
đời sống chung cũng như riêng. Cậu thử đếm xem có bao nhiêu
nam tu nữ tu trong Giáo hội. Sau hết, thánh thiện trong kết quả:
một tập hợp những kitô hữu tốt và một lớp ưu tú gồm những
thánh nhân và đại thánh nhân.
- Nhưng cũng có những người công giáo xấu!
109
- Cũng như có những người Tin lành tốt. Cái đó không tránh
khỏi được, cậu ạ. Bên cạnh lúa miến, bao giờ cũng có cỏ lùng!
- Dù sao, một Giáo hội tự xưng mình đáng gọi là thánh thì
không thể bày ra trước mắt người đời gương mù của những tín
hữu xấu như thế.
- Này cậu, nếu cậu thấy cháu đĩ xem trụ quan ở viện bảo tàng
Lu-vơ-rơ mà tay cứ cầm kính lúp ghì sát vào từng viên đá để tìm
cho ra những chỗ rỗ nhỏ xíu, chắc thế nào cậu cũng chê cháu.
- Đúng. Một công trình kiến trúc lớn thì phải phê phán cách
khác.
- Thì đây cũng thế cậu ạ, Cháu cũng muốn cậu làm như thế:
khi cậu định phê phán sự thánh thiện của Giáo hội công giáo, cậu
đừng căn cứ vào một số trong các thành phần của Giáo hội. Ai
cũng có thể có những sai lỗi. Nhưng hãy căn cứ vào cái toàn bộ
huy hoàng mà phê phán. Không thế, cậu sẽ như chàng công tử nọ
xem một bức hoạ kiệt tác, mà lại lật ra sau lưng tấm lụa để xem
những mạng nhện ở đó.
- Cháu lí luận đúng lắm. Còn "đặc điểm" nào nữa không?
- Còn hai nữa: tính công giáo và tính tông đồ.
Giáo hội của cháu là Công giáo, đó là một sự kiện. Mặt khác,
đó là tên riêng của nó. Hơn nữa, nhờ 45.000 thừa sai, nam, nữ,
Giáo hội đã lan khắp tận cùng thế giới.
- Tin lành cũng có thừa sai.
- Cháu cũng biết điều đó. Thừa sai của Tin lành nhiều, có thế
lực, có tổ chức, được giúp đỡ và nuôi nấng bởi một ngân quĩ
khổng lồ. Nhưng con số thừa sai đó lại chia làm nhiều phe phái
khác nhau, không phe phái nào có tính phổ quát cả. Phân tán thì
có; chứ công giáo, tức là phổ cập thì không.
- Còn phái Hi lạp và Nga?
- Cũng thế thôi. Tại đó chỉ có những giáo hội quốc gia, hạn
chế và son sẻ một cách kinh khủng. Cậu có khi nào gặp những
thừa sai của họ trên thế giới không?
- Không. Đúng lắm.
110
- Còn tông đồ tính, tức là xét những tương quan của Giáo hội
đối với dĩ vãng, thì nó đáp ứng với nguyên tắc truyền thống và
làm thành một đảm bảo cho tính liên tục. Đức Giêsu đã đặt các
tông đồ làm người thay thế mình và các Tông đồ luôn luôn kể
mình là những người độc nhất nắm giữ các quyền hành mà các
ngài lại trao cho các giám mục của mình. Do đó, muốn cho có lô-
gích, phải tìm hiểu công trình của Đức Giêsu trong cái chuỗi
những người kế vị chính thức của Người. Vậy mà Giáo hội công
giáo thực hiện tính tông đồ đó. Các Giáo hoàng đúng là những
người kế vị hợp thức của thánh Phê-rô; các ngài kết thành một
dây chuyền liên tục, lên mãi tận Đức Giêsu. Hơn nữa, các giám
mục khác, rải rác trên thế giới, là những người kế vị hợp thức các
Tông đồ, do việc các ngài đã được phong chức và ban quyền bởi
Thủ lĩnh Giáo hội.
- Thế có phải các giáo hội khác không làm gì có "đặc điểm"
đó, cũng như không có ba đặc điểm kia không?
- Không làm gì có được. Tin lành ra đời do một sự nứt rạn,
một sự li khai. Họ phải lấp đầy 15 thế kỉ mới nối liền với các
Tông đồ được. Còn Chính thống, họ có thể có tông đồ tính chất
thể, nhưng vì họ đã li khai với trung tâm của tính duy nhất, nên
chuỗi giám mục kế tiếp nhau của họ không còn hợp thức nữa.
- Cậu đọc một cuốn sách Tin lành, thấy nói rằng theo họ, còn
có một giáo hội vô hình. Trong Giáo hội Đức Giêsu xưa nay vẫn
có một số người lành vô danh âm thầm tin theo những giáo lí của
Tin lành Cải Cách.
- Phát kiến mới kì chứ! Ô! Phải rồi, cái hố sâu 15 thế kỉ đó
làm bực bội, người ta thấy cần lấp cho đầy. Nhưng người ta
không làm được như lòng mong muốn. Cậu xem, nếu những
người gọi là lành, tổ tiên vô ý thức của Tin lành ẩn náu giữa
chúng ta kín đến nỗi không ai nhận ra dấu vết của họ cả, thế thì
làm sao những người Tin lành biết có những người đó? Làm sao
họ biết cách chính xác ý kiến thầm kín của những người mà chưa
ai biết cả?
- Hoan hô! Thua trận như thế này thú quá!
- Và phục lí nữa, cháu mong thế.
111
- Cái đó rồi có ngày.
- Dẫu sao, thưa cậu, cháu hi vọng cậu sẽ không theo Tin
lành, phải không ạ? Nếu những tín đồ Tin lành có thiện tâm đều
đáng kính (đa số như thế), thì trái lại giáo hội của họ chỉ còn là
một công trình đổ vỡ, đầy những bè phái không bao giờ có thể
hòa hợp nhau. Giáo hội thật có từ Đức Giêsu; Tin lành chỉ mới có
gần đây và chính họ thú nhận họ không kế tục ai hết. Cháu nói
lại: suốt 15 thế kỉ, họ không tìm được một người nào có cùng một
đạo như họ. Chừng ấy đã đủ phê phán họ.

Chương VI

Nói tiếp
về
giáo phái Tin lành

- Này Mác-đa, có lẽ rồi cháu sẽ cho cậu là hơi tỉ mỉ đây.


Nhưng thế này: mặc dầu cháu đưa ra những lí chứng mạnh như
thế, cậu vẫn thấy thích Tin lành một cách nào đó.
- Thích các tín đồ Tin lành, được. Nhiều người bên họ thành
tâm thành ý. Cháu đã nói rồi. Còn thích giáo lí họ, không thể.
Không thể được (...).
- Nhưng họ có thật chia rẽ như cháu nghĩ không?
- Vì cháu thấy những con số cháu đưa ra về các môn phái và
các bản tuyên tín của họ, hình như chưa thuyết phục được cậu, thì
đây, cháu sẽ dẫn ra một lời của Giăng Giắc Rút -xô.
112
- Ông ta phải không thiên vị chứ!
- Thế, cháu thiên vị sao?
- Nghĩa là....
- A, phải, cháu hiểu ra rồi. Xin cậu nghe nhé: "Người Tin
lành không biết mình tin gì, muốn gì hay nói gì. Có hỏi họ Giê-su
Kitô có phải Thiên Chúa không, họ không dám trả lời. Họ nhận
bao nhiêu mầu nhiệm, không trả lời. Người ta không biết họ tin
gì, những gì họ không tin. Ngay những cái mà họ dường như tin,
cũng chả ai biết là cái gì (...).
- Tuyệt quá!
- Cậu cũng thấy chứ?
- Nhưng trong họ, có những người tốt lắm!
- Phải. Có cả những kitô hữu rất tốt nữa. Cháu đã nói với cậu
và đây là một sự kiện: đa số người Tin lành tốt hơn giáo lí họ...
Thế nhưng làm sao phẩm hạnh họ đi đôi với những nguyên lí của
họ được?
- Chẳng hạn?
- Chẳng hạn phẩm hạnh của Luy-te-rô mà cháu phải xịn lỗi
cậu khi phải dẫn ra đây lần nữa: "Cứ phạm tội đi, nhưng hãy tin
mạnh hơn nữa (...) Sự tội không thể làm ta xa rời Thiên Chúa,
dẫu mỗi ngày chúng ta có phạm (...) trăm ngàn lần!" Đã thanh
nhã chưa!
- Và những người Tin lành sống theo nguyên lí đó?
- Cháu hi vọng rằng không! Thế nhưng, sống hay không
sống, như thế, thử hỏi họ có nhận ra người sáng lập đạo mình
không? Nếu họ bất nhận, thì họ là ai? Họ từ đâu mà ra? (...) thế
đã đủ chưa, thưa cậu?
- Đúng như cháu nói, như thế chả có gì là thanh nhã! Tuy
nhiên, những người Tin lành vẫn cứ sống và chết Tin lành.
- Cháu xin giải thích. Hằng ngày, đạo Tin lành mất đi nhiều
tín đồ lắm.
- Ô!

113
- Đúng thế. Thật là cái bể chứa rỉ nước. Có hai loại lỗ rỉ. Một
lỗ những thành phần trong họ thoát qua để rời Tin lành, mất hết
đức tin rơi vào vô thần và duy lí. Một lỗ khác, những người rời
Tin lành sang Công giáo.
- Cháu làm cậu sửng sốt.
- Từ phong trào ốc-xphớt mà cả thế giới đều biết, những
Niu-man, Trét-xtớc-tơn và nhiều người khác, vì muốn hợp lô gích
đến cùng, đã theo Giáo hội công giáo. Chỉ tính trong nưóc Anh,
đã có 10.000 người trở lại Công giáo mỗi năm (...).
- Dù sao, cậu vẫn thấy thích thứ đạo đó. Nó không nghiêm
nhặt bằng. Nó nhân đạo hơn Công giáo.
- Ô! Đạo Hồi còn hơn thế nữa! Cậu nói điều đó tự đáy
lòng sao? Thế cậu không nhận thấy cái gì lôi kéo một số tâm hồn
bạc nhược chạy theo Tin lành sao?
- Cám ơn cháu!...
- Chính là thứ phong hoá thấp và dễ dãi (...) Đạo Công giáo
yêu sách nhiều, bắt người ta phải tin nhiều điều, giữ nhiều huấn
lệnh, thực hiện những việc kiềm chế óc độc lập và ý chí ngông
cuồng. Tin lành chỉ tin những gì họ muốn tin; không có xưng tội,
giữ chay, kiêng thịt và nếu không dự nghi lễ ngày Chủ nhật cũng
không tội lỗi gì. Một tôn giáo tha hồ muốn tin gì thì tin và không
bắt buộc làm một việc gì, có thể là lí tưởng của sự dễ dãi; còn
phải xem nó có phải là lí tưởng của sự trọn lành thánh thiện và là
con đường Chúa muốn ta qua để về trời hay không nữa. Chính
Luy-te-rô trả lời: "Đạo của tôi thích hợp hơn để sống, nhưng đạo
của giáo hoàng thích hợp hơn để chết". Và Mê-lăng-tông không
ngần ngại nói với mẹ đang hấp hối: "Giáo lí mới dễ giữ, nhưng
giáo lí kia bảo đảm hơn".
- Như thế có nghĩa là người Tin lành không thể rỗi linh hồn?
- Chỉ có Thiên Chúa là Thẩm phán tối cao xét xử mọi linh
hồn người ta. Có điều là người Công giáo không bỏ sang Tin
lành, nhất là trong giờ chết; trái lại, có hàng ngàn người Tin lành
bỏ sang Công giáo.

114
- Nhưng bên Tin lành sống yên hàn, còn bên Công giáo đã
trải qua những cơn sóng gió kinh khủng.
- Cậu bỡ ngỡ về điều đó sao? Người ta chỉ công kích chân lí
thôi. Đối với sai lầm thì chỉ cần khinh bỉ là đủ. Đừng quên rằng
đạo Công giáo đặt Thiên Chúa lên trên tất cả, trên cả quyền bính
phần đời; chính vì thế mà Nhà nước nhiều khi chống lại Công
giáo. Đạo Công giáo trấn áp những đam mê của con người, làm
chúng không chịu nổi, phải làm loạn. Còn đạo Tin lành thì không
làm vướng trở một tình dục nào cả. Vua Bác-bơ-rút-xơ bên Đông
nói: "Hồi vương thật là sung sướng! Không có giáo hoàng nào để
cấm chỉ những tự do phóng đãng của nhà vua cả!"
- Được rồi. Cậu đã hiểu. Thế nhưng tại sao những nước Tin
lành như Đức, Mỹ, Anh, Thuỵ sĩ... lại phồn vinh, trong khi những
nước Công giáo lại sa sút như thế?
- Trước tiên, xin cậu cho cháu thấy căn cứ đâu mà nói họ
phồn vinh là nhờ tôn giáo của họ? Đàng khác, - và đây là điều cậu
thích thú, - nhiều khi những nước đó Kitô giáo hơn là một số
nước Công giáo. Tại những nơi đó, Nhà nước chính thức là Nhà
nước có đạo Kitô, thừa nhận và thỉnh cầu Đức Kitô; tại những nơi
đó, bao giờ người ta cũng giữ ngày Chủ nhật. Sau hết, tôn giáo
không nhằm trực tiếp lợi ích trần tục, mà phục vụ lợi ích thiêng
liêng. Mặt khác, thử hỏi người Công giáo Đức và Anh không
phồn vinh như đồng bào Tin lành của họ sao? Nước Pháp giá mà
được là một nước Kitô giáo chính thức và thành tâm thành ý, thì
cậu sẽ thấy nó phồn vinh đến mức nào!
- Nhưng người Tin lành không cảm thấy mình thua kém về
giáo lí sao?
- Có chứ. Hơn nữa, họ còn nuối tiếc mọi cái họ thiếu: Thánh
thể, Đức Trinh Nữ Maria, Đức giáo hoàng và, - điều mới lạ lùng
chứ! - họ nhớ tiếc cả phép giải tội nữa! Họ không còn biết xin ai
tha tội cho. Nhưng họ không tài nào thoát khỏi con đường mòn.
Năm 1903, các mục sư họp Công đồng ở Đơ-rét-đơn, đã thú nhận
như bao lần khác: "Chúng ta không thể nằm lại tình trạng này
mãi. Trong chúng ta, tất cả đang sụp đổ. Chúng ta chẳng còn cái
gì làm nền tảng, chẳng biết lấy gì làm biểu tượng, cũng chẳng
115
còn việc Tế lễ nữa. Kìa Giáo hội Rôma dù không ngừng bị bách
hại, vẫn trước sau như một, anh dũng và sung sức; dòng nhựa
thần linh chu lưu trong lòng và trong các chi thể của giáo hội đó,
mãi mãi trẻ trung, mãi mãi vô tận, mãi mãi phong phú".
- Phải, lời thú nhận đó bộc lộ sự hối tiếc, có thể nói là chứa
những giọt nước mắt nữa.
- tóm tắt: Tin lành là công trình của loài người; vì thế mà có
những nhược điểm, những mâu thuẫn. Đạo Công giáo do Thiên
Chúa lập, vì thế có sức mạnh và tính duy nhất đẹp đẽ. Bên các
cháu, một lâu đài lộng lẫy, hoàn bị, nguyên tuyền, cao trọng hệt
như lúc ban đầu. Bên họ, một toà nhà xiêu vẹo. lung lay, chỉ còn
giữ được mấy chân lí rời rạc, bị bóp méo, bị cắt xén. Hai đường,
dễ mà chọn một!
- Cậu đã chọn.
- Vậy cháu xin mừng cho cậu. Thật ra, cậu ạ, hiện nay, cháu
không còn thấy cậu lang thang trên những đổ vỡ nữa, vì, như Đức
Cha Bô-na nói: "Đạo Tin lành chỉ cho thấy những cái gì còn lại
cảu Đức Giêsu sống lại: những mảnh vải vấn thân và một khăn
liệm. Và linh hồn người kitô hữu bỏ về, khóc lóc như Ma-đơ-len:
"Họ lấy mất xác Thầy tôi rồi, mà tôi không biết họ để Người ở
đâu mà tìm!"

Phần V
Những vấn nạn
phi bác
đạo Công giáo

Chương I
Vấn nạn dồn dập
116
- Này cháu, như vậy là cậu cháu chúng ta vẫn cứ đối diện
nhau, không khác nào hai địch thủ đã từng quần nhau lâu ngày,
không chịu buông tha nhau trước khi đấu trận cuối cùng.
- Còn hơn thế nữa. Cháu cứng cổ như mọi người đàn bà
khác, và cháu nhất quyết đuổi theo cậu, mãi tận cứ điểm cuối
cùng của cậu.
- Hẳn là cháu muốn làm được cho cậu giữ đạo.
- Trọn vẹn!
- Kể cả xưng tội?
- Hơn thế nữa!
- Ô! Thế thì cháu mất công vô ích thôi. Tin đạo ư? Phải.
Nhưng giữ đạo? Không!
- Chà! Cái lô-gích gì vậy?
- Tại sao cháu lại muốn bắt cậu phải tuân phục tất thảy
những giới luật Thiên Chúa và Giáo hội?
- Vì tin thì phải giữ. Tin mà không làm như mình tin, không
phải là tin chân thành.
1. Tại sao phải có tôn giáo?
- Vì chúng ta là những thụ tạo, mà thụ tạo thì có những
nghĩa vụ đối với Đấng Tạo hoá đã sáng tạo nên mình.
- Riêng cậu, cậu chẳng lệ thuộc ai hết!
- Cả Thiên Chúa nữa?
- Sao lại không?
- Như thế là điên! Tác phẩm lệ thuộc kẻ làm nên nó. Đứa con
ngộ nghịch mấy, muốn hay không muốn, nó cũng có những nghĩa
vụ đối với cha mẹ nó chứ?
- Nhưng cậu không yêu cầu ai sinh ra cậu. Tại sao Thiên
Chúa lại kéo cậu ra khỏi hư vô? Cậu có yêu cầu gì ở Người đâu!
- Thì cha mẹ của cậu cũng có yêu cầu được sống đâu. Có
điều là Thiên Chúa đã gieo sự sống vào trái đất và Người muốn
nó được truyền bá mãi. Nào cậu có quyền gì trong việc đó? Mà
117
thử hỏi: "không hiện hữu" thì tốt hơn "hiện hữu" được sao? Sự
sống không là một ân huệ đối với cậu sao?
- Nhưng như vậy là Thiên Chúa bất công: cậu có thể không
hiện hữu, mà Người tước mất cái khả năng đó!
- Khi cậu không hiện hữu, thì không làm gì có cái khả năng
không hiện hữu, cũng như không làm gì có cái khả năng hiện
hữu. Muốn có quyền thế nọ thế kia, trước hết phải hiện hữu đã.
- Thôi, cãi nhau làm gì chuyện đó. Chẳng qua chỉ là để nhập
đề thôi mà. Chúng ta bàn về tôn giáo. Nào, cháu nói xem!
2. Tôn giáo mà làm gì?
- Tôn giáo là để người ta nhìn nhận chủ quyền tối cao của
Thiên Chúa đối với mình. Ta nhờ Thiên Chúa mà có được mọi
sự. Do đó, Người có quyền đòi ta phải tôn kính, luỵ phục và biết
ơn.
- Nhưng xét về thực tiễn, tôn giáo ích gì?
- Mới đây, một vị danh y vừa công bố một báo cáo, theo đó
thì trong số 342 gia đình bất hạnh, có 320 gia đình không theo
một tôn giáo nào; trong số 417 thanh thiếu niên làm điếm nhục
gia đình, chỉ có 12 người lui tới thánh đường; trong số 25 người
con bất hiếu với cha mẹ, chỉ có một người có đạo.
- Đó chỉ là những con số. Cậu muốn có những sự việc.
- Thì đây là một sự việc. Vừa rồi, có hai thiếu nữ 16 tuổi
nhảy xuống sông Xen tự vẫn. Một người có để lại mảnh giấy ghi
mấy chữ: "Tôi chết vì tôi đã chán sống!"
- Cháu đọc đâu chuyện đó?
- Trên một tờ báo. Ở đó còn có cả mấy cảm nghĩ của Vô-ten
(Vautel) như thế này: "Không có một tôn giáo, một luân lí nào để
chặn bước họ cả. Cuộc sống không thấy thích thú nữa, thế là họ
tự sát. Để đi đâu? Cái đó chẳng hệ gì. Đó là tất cả triết lí của hai
con bé kia. Nếu họ tin ở một cái gì cao hơn bản tính con người
chúng ta, thì chắc chắn niềm tin đó đã giữ được họ lại trên bờ
vực thẳm".
Tôn giáo mà làm gì ư?
118
Trước hết tôn giáo là để con người được hạnh phúc. Thiếu
nó, người ta thấy lương tâm day dứt, cắn rứt, lòng đầy nghi nan,
chán chường, rên xiết. Thừa nhận Thiên Chúa mà lại muốn không
cần đến Người cũng hạnh phúc, như thế là điên rồ, là xúc phạm
đến bản tính tự nhiên, xúc phạm đến cả kinh nghiệm nữa.
Tôn giáo mà làm gì ư? Tôn giáo là để con người nên lương
hảo hơn, tốt hơn, nên đức độ. Muốn chiến thắng bản tính tự
nhiên, phải có cái siêu nhiên. Sở dĩ các tôn giáo khác không nhận
một động lực siêu nhiên, là vì họ đã cắt bỏ những đức tính gay go
để khỏi phải thực hiện chúng; là vì họ đã hợp pháp hoá những nết
hư sức loài người không thể thắng nổi, để khỏi phải bận tâm
chống đánh chúng.
Không phải hễ muốn nên người đức độ, chỉ cần ở thế nào
không có gì đáng trách đối với hình luật. Rõ ràng là nếu tham lam
trở thành cái cao quí nhất của con người đoan chính, mê dục trở
thành một nhu cầu khí chất, báo thù trở thành một sự tự vệ chính
đáng, nếu nhân đức bị tục hoá đi, bị tiêu huỷ đi như thế, thì việc
tập luyện nó không còn gay go gi nữa. Đúng là: "Cái gì kiếm
được không khó khăn gì, thì cũng không có giá trị gì", như ngạn
ngữ nói. Cậu ạ, “con người là một con vật có tôn giáo”. Nếu tôn
giáo không có thật, nó cũng bịa ra cho có. Khi con người không
biết Thiên Chúa thật, nó bịa ra một Thiên Chúa vừa tầm mình.
Như Ben-gia-manh Công-xtăng nói: tôn giáo là "một nhu cầu sâu
kín và cần thiết như nhu cầu tự vệ".
Chỉ tôn giáo cho cuộc đời một ý nghĩa. Huênh hoang tự phụ
mấy, cũng có những giờ khắc nhất định chúng ta chạm trán với
những câu hỏi oái oăm: "Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi đang đi
về đâu?" Chỉ tôn giáo nắm giữ chìa khoá bí mật.
Con người vừa bắt đầu suy nghĩ, đã thấy có những cái mốc
giới hạn cuộc sống mình cả mọi phía. Trí băn khoăn vì bức tuờng
bí nhiệm, lòng khổ cực vì những cay cú của tình yêu, lương tâm
đau đớn vì những nhu nhược cũng như những hư đốn của bản
năng mình. Muốn xây toà nhà đạo đức, cũng phải có một cơ sở
làm nền móng. Thiếu tôn giáo, người ta xây đạo đức trong chân
không... nó đổ vỡ. Chính vì thế mà Đi-đơ-lôt nói: "Kiến thức căn
119
bản đầu tiên phải có là kiến thức về tôn giáo, cơ sở độc nhất của
đạo đức. Để giáo dục con gái tôi cho tốt, tôi thấy không gì bằng
cuốn sách giáo lí".
Tôn giáo là để làm như thế. Tôn giáo là nghĩa vụ buộc nhặt
đối với Thiên Chúa; nhưng đôi lúc nó cũng là chiếc phao cứu
mệnh. Cũng có thể ví nó như cái thắng xe. Không phải có nó là
tránh được hết mọi tai nạn, nhưng có nó cũng tránh được khá
nhiều. Và như thế cũng đã là một cái gì có ích rồi.
3. Nhưng Thiên Chúa không cần đến chúng ta. Ta tôn
thờ Người thì Người được gì?
- Đồng ý là Thiên Chúa không cần đến chúng ta; nhưng
chúng ta lại cần đến Thiên Chúa. Của cải tràn trề của chủ nợ
không làm giảm sút nghĩa vụ của con nợ. Cha không cần được
con tôn kính; nhưng nếu cha không đếm xỉa gì đến điều đó, thì có
đáng là cha thật không?
4. Cậu theo phái tự nhiên thần luận ( Déisme).
- Ban-dắc mà nghe, ông ta sẽ trả lời cậu rằng người theo tự
nhiên thần luận chỉ là người vô thần để có lợi cho mình.
- Cháu ạ, nhìn kĩ thì tôn giáo chỉ là "thuốc phiện nhân
dân"...là cái "ru ngủ" như Giô-re nói, vì nói cho cùng thì...
5. Chính sự sợ hãi làm phát sinh tôn giáo.
- Ô! Không phải, cậu ạ. Người có đạo là một người giữ đạo
vì đó là một nghĩa vụ của họ. Chỉ có thế. Họ không như con vật
bất kham, chỉ đi vì sợ roi; họ là người có lương tri, coi việc chu
toàn nghĩa vụ là một việc tăng thêm phẩm giá và hạnh phúc cho
mình.
- Con người tự nhiên có cái khunh hưóng muốn khuất phục
những sức mạnh tự nhiên: mà vì nó sợ những sức mạnh đó, nên
nó coi chúng là thần linh.
- Đối với một số bộ tộc man di nhất định, thì có lẽ có như
vậy. Nhưng riêng về đạo công giáo thì cậu đã rõ vì câu từng đọc
Tin mừng, đạo công giáo dựa trên cơ sở là lòng mến Chúa yêu
người.
- Bên cháu không có gì là sợ hãi cả sao?
120
- Nếu đôi lúc có sợ hãi, thì sự sợ hãi đó chỉ chi viện cho
lòng yêu mến mà thôi.
- Hoả ngục chẳng hạn, thì sao?
- Ô! Cậu ạ, sự sợ hãi, "khởi đầu của khôn ngoan" nhiều lúc là
một nhân tố của lòng nhân hậu. Thiên Chúa muốn cứu rỗi ta và
muốn ta được hạnh phúc đời sau; nhưng đối với những kẻ mà
lòng yêu thương thôi chưa đủ để cứu rỗi, Người phải dùng một sự
sợ hãi để đưa họ đến với mình. Sự sợ bệnh tật làm ta biết dè giữ
không phung phí sức khoẻ và thể lực. Sợ ngã đau, ta cẩn thận
khỏi trượt chân; sợ quở mắng, ta cố tránh lỗi lầm. Nhưng sự sợ
bệnh không tạo nên sức khỏe; sự sợ ngã đau không tạo nên thế
cân bằng; sự sợ quở mắng không tạo nên nghĩa vụ. Đồng ý là
trong cơ sở của tôn giáo, có một sự kính sợ nào đó, nhưng nó chỉ
là cơ sở thôi. Đạo thật phát triển chính trong niềm tin cậy và yêu
mến. Có phải sự sợ hãi làm nên những vị thánh, những vị thừa
sai, tử đạo, đồng trinh, những nữ tu bác ái, những "Chị em người
nghèo" không? Không, đạo không phải là sự sợ hãi; đạo là sức
mạnh, là nghĩa vụ, là danh dự và yêu mến.
6. Tôn giáo không hợp đạo đức, vì người có đạo chỉ làm
việc thiện để được thưởng.
- Cậu không nghiêm chỉnh. Chứ thực ra, người có đạo yêu
mến Thiên Chúa vì chính mình Người. Thiên đường và hoả ngục
có thật. Đạo dạy như thế. Nhưng ý tưởng về phần thưởng có thể là
một sự hậu thuẫn, một sức chi viện trong đấu tranh, chứ nó không
bao giờ là động lực độc nhất thúc giục người ta hành động. Đàng
khác, nào sự thưởng phạt đời sau không phải là một phương thế
thông thường và cần thiết để khôi phục công chính sao?
7. Cậu đây, cậu có đạo gì đâu, mà cậu không vì thế mà
ốm yếu.
- Con cún của cậu cũng vậy!
- Mày đáo để nhỉ!
- Nhưng, thưa cậu, tôn giáo đâu phải một liều thuốc nội trị!
Cậu đừng coi đó là một cái đưa lại sức khoẻ. Cậu có nói: "Cậu
không yêu nước, mà vẫn không vì thế mà khổ hơn" thì điều đó
121
cũng chả chứng minh được cái gì phi bác lòng yêu nước và những
nghĩa vụ phải làm đối với tổ quốc.
Nhưng cậu cứ vào các bệnh viện mà xem những người bệnh
tật vì sớm hư hỏng; nếu họ có đạo, họ đã khá hơn thế. Tôn giáo
nhiều khi chỉ là thứ thuốc thơm để ướp sức khoẻ cho khỏi hư,
khỏi thối rữa.
Kìa, anh chàng nghiện ngập! Anh ta mà có đạo, phải chăng
anh đã không sa đọa như thế?
Kia, những dân tộc không tôn giáo. Không sớm thì muộn rồi
họ cũng bị tiêu diệt vì sự son sẻ và nội loạn. Không sinh con nữa,
người ta chỉ còn lo thoả mãn những thèm muốn của con thú.
Cậu ạ, xin cậu hủy bỏ vấn nạn đó đi, vì nó làm cháu nghĩ
rằng cậu không có những tư tưởng cao siêu, không có sự thanh
nhã tâm hồn, cũng chả có một lương tâm cao quí.
An-phơ-rét đơ Muyt-xê đã chẳng viết mấy câu thơ tuyệt cú
này sao:
"Rảo bước như đàn cừu, mặt cắm xuống đất
Không biết gì nữa hết. Như thế phải chăng là hạnh phúc?
Không! Như thế không còn là người nữa!?"
8. Tôn giáo thích hợp với đàn bà.
- Nhưng cũng không đến nỗi xấu đối với đàn ông, như cậu
nghĩ. Chứng cớ là trong nhà tù số đàn ông gấp 3 số đàn bà và
trong nhà thờ số đàn bà gấp 3 số đàn ông. Phải nói rằng điều đó
cũng nói lên một cái gì. Phải chăng Thiên Chúa đã không sáng tạo
nên đàn ông như đã sáng tạo nên đàn bà? Hình như cậu coi bọn
chúng cháu như những loài thấp kém. Thật ra về điểm này đàn bà
chúng cháu hơn bọn đàn ông như cậu, vì chúng cháu chính trực
hơn, mà cũng giàu đại độ hơn đàn ông.
- Đại độ hơn, đồng ý. Còn chính trực hơn sao?...
- Đúng thế, vì trước nhiệm vụ này, chúng cháu trọn vẹn thi
hành, còn đàn ông như cậu thì lại sao nhãng, cho nhiệm vụ đó làm
vướng trở mình. Đàng khác, hoặc là tôn giáo do Thiên Chúa, hoặc
là tôn giáo không do Thiên Chúa. Nếu không do Thiên Chúa, thì
122
nó không hợp với đàn bà cũng như với đàn ông. Nếu nó do Thiên
Chúa, thì ai nó cũng buộc nhặt cả, buộc đàn bà chúng cháu cũng
như buộc đàn ông các cậu. Không lẽ cậu dám quyết 2 + 2 = 4 đối
với đàn bà, mà 2 + 2 = 5 đối với đàn ông sao?
Tôn giáo chỉ hợp cho đàn bà sao? Nhưng như thế là cậu lạc
hậu rồi! Cậu không biết rằng trong năm 1932, có thêm 1.300 sinh
viên Đại học tại thủ đô này xưng tội rước lễ mùa Phục sinh. Như
thế nghĩa là trong các trường Đại học chúng ta, có chừng 2 vạn
thanh niên giữ đạo, tức chừng 69% trong số những người ngày
mai sẽ là thành phần ưu tú trong xã hội chúng ta!
Tôn giáo chỉ hợp cho đàn bà thôi sao? Hợp cả cho đàn ông
các cậu nữa, vì đàn ông cần tôn giáo hơn đàn bà. Nhưng đây lại là
một địa hạt dành riêng; và trên điểm thiết yếu đó, phái yếu lại
luôn luôn mạnh hơn cả phái "mạnh"!
9. Với cậu, một mình lí trí đã đủ.
- Xin lỗi cậu, dẫu trong lĩnh vực tự nhiên, một mình lí trí
cũng không đủ cho cậu. Có hàng ngàn câu hỏi, hàng ngàn vấn đề
mà một mình nó không bao giờ giải đáp được. Trong lĩnh vực
siêu nhiên, lí trí ta càng dốt nát hơn nữa. Ta từ đâu đến? Ta đang
đi về đâu? Sự sống là gì? Chết là gì? Tại sao ta khổ? Trước
những vấn đề đó và bao vấn đề khác, một mình lí trí loài người
với sức riêng của nó, không thấu suốt được, hoặc phải câm bặt.
Đàng khác, cứ nguyên tắc của cậu, có bao nhiêu người, cũng có
bấy nhiêu ý kiến. Như thế thì thật rắc rối!
- Nhưng lí trí con người tinh tường lắm chứ!
- Phải, cậu cũng biết rằng một triết gia đã định nghĩa con
người là "một ống tiêu hóa để hở hai đầu". Một triết gia khác
quyết rằng nết hư và nhân đức chỉ là "những sản phẩm như đường
và lưu toan diêm". Nhân danh lí trí, người ta đã cổ xuý những hệ
thuyết phi lí chỉ tổ xô người sáng nghĩ ra chúng tới tai hoạ!
- Như thế nghĩa là lí trí bất lực và vô dụng sao?
- Không, cháu đâu nói thế! Pat-xcan nói: "Loại trừ lí trí và
chỉ nhận lí trí mà thôi, đó là hai cái thái quá nguy hiểm. Lí trí là
có ích, hơn nữa là không thể thiếu và nó dẫn ta tới niềm tin. Thế
123
nhưng, một mình nó không bao giờ đủ được. Và người nào tin,
người đó ngàn lần có lí hơn và thông giỏi hơn người không tin".
Đa số nhân loại bao giờ cũng bắt buộc phải dựa vào thế giá và
bằng chứng của người khác. Nhân loại sống bằng những điều tin
tưởng.
- Nhưng có những bậc thiên tài lỗi lạc...
- Cháu xin ngắt lời cậu và xin trích dẫn ra đây mấy câu nói
đủ để thuyết phục cậu. Bây-cơn: "It khoa học làm xa tôn giáo,
nhiều khoa học xích lại gần". Pat-can: "Thái độ cuối cùng của lí
trí, là thừa nhận có vô số điều quá sức nó". Pat-xtơ: "Khi người
ta đã nghiên cứu đến nơi đến chốn, người ta trở lại với niềm tin
của người đàn ông nông dân xứ Bơ-rơ-ta-nhơ. Và nếu trước đây
tôi đã nghiên cứu nhiều hơn, thì tôi đã có niềm tin của người phụ
nữ Bơ-rơ-ta-nhơ". Ti-e (Thiers):"Nếu tôi được nắm giữ những
kho tàng của niềm tin, thì tôi sẽ phân phát cho quê hương tôi".
Đó là câu trả lời của những bậc thiên tài mà cậu hỏi ý kiến.
- Thôi, đủ rồi!
- Chưa, đây nữa, một người mà cậu coi là danh nhân, người
mà cháu nghĩ là ông ta không ưa gì hàng giáo sĩ, đó là Mi-sơ-lê.
Ông viết thế này: "Hạng triết gia hay suy luận chúng ta cứ tha hồ
mà tự đắc! Nhưng, hỏi rằng ai trong ta không phát ghen lên, khi
nhìn những lớp tín đồ từ thánh đường cuồn cuộn đổ ra, họ trẻ
lại, họ đổi mới, sau khi từ bàn rước lễ ra về. Thật ra lí trí vẫn
cương quyết, nhưng tâm hồn chúng ta không khỏi ủ ê rầu rĩ".
Như cháu đã từng thưa với cậu, lí trí dẫn chúng ta đến với niềm
tin. Muốn quan sát các thiên thể, phải có kính viễn vọng. Nhưng
có kính viễn vọng mà không có con mắt để nhìn qua kính viễn
vọng, thì cũng chả thấy được cái gì. Cũng vậy, tôn giáo cho ta
thấy xa hơn lí trí; thế nhưng không có lí trí, thì tôn giáo cũng bất
lực, không khác nào kính viễn vọng mà không có con mắt sử
dụng nó.
- Cậu hiểu rồi!
- Thế thì?
10. Nhưng, cậu là một con người chính trực, thế là đủ!
124
- Cậu hiểu người chính trực là người như thế nào?
- Là người chu toàn mọi nghĩa vụ của mình.
- Thế cậu quyết là cậu chu toàn hết cả?
- Cho đến khi có chứng ngược lại.
- Cậu có những nghĩa vụ nào đối với Thiên Chúa không?
- Không biết.
- Nhưng vì Người là Đấng đã sáng tạo nên chúng ta, là Chúa
tể chúng ta, Cha chúng ta, tất nhiên chúng ta có những nghĩa vụ
đối với Người. Vậy mà tôn giáo chính là ở tại chu toàn những
nghĩa vụ đó. Chưa chu toàn, cậu chưa phải là người chính trực
trọn vẹn.
- Không. Như thế đã trọn vẹn.
- Ăn ở chính trực, phải, như thế đã đủ để được kể là không bị
truy tố trước pháp luật, nhưng chưa đủ để lên thiên đường đâu.
Thử hỏi một kẻ không giết người, không trộm cướp, cũng không
có gì phải cãi nhau với cảnh sát và toà án, một người như thế
không phải thanh toán gì với Thiên Chúa nữa sao? Một tôn giáo
cho phép tất cả, chỉ trừ trộm cướp và giết người, cậu cho như thế
là đủ sao? Cậu dễ tính quá! Cậu cũng biết rằng trong một nước
mà tôn giáo đã giảm sút, thì luân thường cũng suy vong. Chính
trực và tôn giáo đi đôi với nhau.
- Giữ được danh thơm tiếng tốt là quí lắm rồi!
- Đồng ý. Nhưng vấn đề không phải ở chỗ đó. Giữ được
danh thơm tiếng tốt chưa đủ. Ra-xin viết cho con trai ông thế này:
"Cha hi vọng rằng trong khi dốc hết nỗ lực để trở nên một con
người chính trực, con sẽ thấy rằng người ta không thể nên chính
trực, nếu không chu toàn nghĩa vụ đối với Thiên Chúa." Cháu
hiểu sự chính trực là như thế.
Ăn ở chính trực là: tuân thủ những qui luật của đức hạnh,
nhận rõ thiện ác và dốc toàn tâm toàn lực để đạt điều thiện, giữ lời
đã nói, không hề phạm đến thanh danh, danh dự, sự sống, của cải
kẻ khác, trung thành với lương tâm mình, vượt lên trên tất cả để
làm tròn nghĩa vụ, hi sinh thời giờ, thú vui, của cải và cả mạng
sống mình vì nghĩa vụ; sau hết là làm tròn mọi nghĩa vụ đối với
125
Thiên Chúa, với đồng loại, với chính mình. Cậu có chắc rằng
không có tôn giáo, cậu vẫn làm được như thế không?
Cháu cũng biết có con người chính trức theo quan điểm
người đời. Người đó có thể có một dáng dấp tốt đẹp, lịch sự bề
ngoài, nhưng lại dung túng cho những thói hư tật xấu, miễn là vô
tai lặng tiếng, kẻ khác không biết; người kẻ trộm chẳng may bị sa
lưới, thì họ bêu nhục; nhưng anh bợm sành nghề, thì họ tấm tắc
khen ngợi; họ tha hồ nói dối; nợ nần do cờ bạc thì họ coi như nợ
thần nợ thánh, nhưng nợ của bà con bạn bè... thì họ cho là có thể
bỏ qua; họ giập tắt tiếng nói lương tâm; những nghĩa vụ đối với
Thiên Chúa, họ kể như những chuyện tầm thường, không đáng
quan tâm.
Nếu cậu quan niệm sự chính trực là như thế, thì cháu không
hề khen ngợi cậu!
11. Nhưng mỗi người có thể phụng sự Thiên Chúa theo
cách thế của mình.
- Thật không? Giả sử người giúp việc của cậu nói với cậu:
Thưa ông, tôi xin phục vụ ông theo cách của tôi và theo ý muốn
của tôi, cậu có đồng ý không?
- Ô! Không!
- Thiên Chúa là Chủ của ta và cậu phải phụng sự Người như
Người muốn được phụng sự. Cách thế phụng sự của cậu có thể là
không như Người muốn.
12. Cậu có tôn giáo riêng của cậu.
- Tôn giáo nào? Cậu thờ thần tượng? Thờ Thích ca? Thờ
Ma-hô-mét? Cậu theo đạo Do thái? Tin lành? Công giáo?
- Không.
- Như thế có nghĩa là cậu đã phát minh ra một tôn giáo mới?
- Có lẽ.
- Ô! Thế thì cậu phải xin đăng kí công nhận đi. Nhưng cậu
nói cho cháu xem: cậu tin những gì? Bản tuyên tín của cậu là gì?
Bộ luật luân lí của cậu gồm những giới luật nào? Về nghi lễ thực
hành, có những gì? Thánh đền của cậu ở đâu? Ai là linh mục?
126
Một tôn giáo phải có tất cả những yếu tố đó. Nếu cậu chưa có gì
cả, thì tôn giáo của cậu là không có thật.
- Chưa chắc!
- Riêng cháu, một điều cháu thấy rõ là cách thế cậu phụng sự
Thiên Chúa chỉ là không phụng sự Thiên Chúa. Dễ dàng chưa!
Người ta tự đặt cho mình một bộ luật luân lí "bỏ túi", thu gọn hết
sức; người ta kính chào Thiên Chúa, nhưng không giao tiếp gì với
Người; người ta tự làm lấy một toà cáo giải để rồi tự mình giải tội
cho mình; một bàn thờ ở đó người ta tự tôn thờ mình, vì không có
ai hơn mình nữa. Thật đơn giản và rẻ tiền!
- Cháu lại mỉa mai rồi!
- Thì lỗi tại cậu thôi! Cậu nói như thế, chẳng khác gì anh bộ
đội có thể bảo vệ tổ quốc theo cách thế của anh; một người công
nhân bảo chủ: tôi làm việc theo cách thế của tôi, tôi không phải
nhận mệnh lệnh gì nơi ông cả; một người giúp việc: tôi sẽ phục
vụ ông tuỳ ý tôi; một người con bảo cha: con sẽ vâng lời cha theo
sở thích của con!
- Cháu chưa hiểu ý cậu.
- Ô! Cháu hiểu rõ quá, cậu ạ. Cậu muốn chủ trì một tôn giáo
"tạp phẩm", bỏ đi những giới luật gây phiền cho cậu, cái gì thích
thì giữ, cái không thích thì bỏ, nhất là bỏ...
13. Tôn giáo nào cũng tốt cả!
- Có lẽ cậu muốn nói: đạo nào cũng có cái tốt cả?
- Không. Ý cậu muốn nói mỗi đạo tốt theo cách của mình.
- Nếu trả nợ cho cậu, mà người ta đem những tờ bạc giả, cậu
có bằng lòng không?
- Cậu không hiểu ý cháu định nói cái gì.
- Nếu có những tờ giấy bạc giả, đó không phải là bằng chứng
rằng có những tờ giấy bạc thật, nghĩa là giấy bạc tốt không? Nếu
mỗi đạo, đạo nào cũng quyết rằng đạo mình là đạo thật, thì điều
đó có nghĩa là ai cũng đồng ý có một đạo thật và chỉ một đạo
thật. Vậy nếu người ta đã có thể làm cho các dân tộc tin 100 thứ

127
đạo ngông cuồng, thì điều đó quả quyết 100 lần mạnh mẽ rằng
mọi người đều nhất trí có một đạo thật.
- Đây, lập luận của cậu thế này: hình thái đâu tiên của tôn
giáo là bái vật giáo; sau đó, xuất hiện đa thần giáo; đa thần giáo
giản lược đi thành độc thần giáo. Công việc giản lược còn tiếp tục
và rồi độc thần giáo sẽ thành...
- Sẽ thành vô thần luận chứ gì? Và con người sẽ là Thiên
Chúa của chính mình. Phủ nhận Thiên Chúa sẽ là bước kiện toàn
của việc tin có Thiên Chúa! Cháu không làm sao nhân ra một cái
gì tiến bộ trong cái mớ hỗ lốn đó, trong sự lần lộn giữa chân lí và
sai lầm đó. Chân lí tự bản chất nó là bất biến; trí khôn con người
phải suy phục nó, chứ không phải nó phải suy phục con nguười.
Muốn rằng người ngoại giáo thờ 20 thần cũng đúng như người
Kitô giáo chỉ thờ một Thần, thì thật là lầm lẫn các khái niệm, là
công nhận điều phi lí.
- Ở đây, có vấn đề kiện toàn.
- "Có" không bao giờ là kiện toàn của "không". Vậy mà giữa
câu "Giêsu Kitô là Thiên Chúa" bên công giáo và câu "Giêsu Kitô
không phải Thiên Chúa" của một số người Tin lành và Do thái,
không phải là có sự đối lập như giữa "có" với "không" sao?
Riêng cháu, không bao giờ cháu nhận rằng thật cũng là giả.
...................................................................................
14. Nhiều đạo, làm sao biết đạo nào là đạo thật?
- Lẽ ra, cháu chỉ cần xin cậu nhớ lại những cuộc trao đổi
trước kia. Những lần đó, cháu đã cố làm cho cậu thấy chỉ có đạo
Công giáo là đạo thật. Tuy nhiên, cháu thấy cần nhấn mạnh. Mỗi
đạo đều mang dấu ấn kẻ sáng lập nó. Có những đạo để lộ dấu ấn
loài người (...) Có một đạo, chỉ một đạo mang dấu ấn Thiên Chúa.
Cậu biết đạo ấy là đạo nào rồi. Phải. Trên các đạo khác, rõ ràng có
nhãn hiệu sản xuất của loài người. Đó là những giấy bạc giả. Để
tiêu dùng bạc giả, người làm bạc giả đã cố sức làm thật giống. Có
lúc họ còn giả cả chữ kí của Đức Kitô nữa. Thế nhưng không thật.
Cứ tìm hiểu kĩ, cứ so sánh, cậu sẽ nhanh chóng nhận ra chữ kí nơi
đạo công giáo (...).
128
15. Cậu thích đạo tự nhiên hơn.
- Vì như thế đơn giản, ít phiền phức hơn. Thật ra, nào đạo tự
nhiên không phải là đạo của những người không có đạo nào cả
đó sao? Vả chăng, đó cũng chỉ là một nhãn hiệu suông, chứ
không có việc làm nào hết, tín điều cũng không. Thật là đơn giản
mà cũng thật là rỗng tuếch. Giữ đạo đó, cậu có những nghĩa vụ
gì? Chả có nghĩa vụ gì hết. Cậu thờ gì? Tuỳ ý. Tư tế là ai? Nghi lễ
thế nào, đền thờ ở đâu, bản tín biểu, luân lí đâu? Phải nhận rằng
đó chỉ là một cái mung lung, gần như hư vô.
Với đạo tự nhiên đó, người ta tha hồ muốn làm gì thì làm,
muốn tin gì tuỳ ý. Đạo tự nhiên là đạo của những người không có
đạo nào hết.
- Nhưng nó do Thiên Chúa.
- Phải. Nhưng nó không còn đủ như xưa nữa. Từ khi Thiên
Chúa mạc khải một đạo khác hoàn hảo hơn, đầy đủ hơn, thì người
ta có nhiệm vụ phải tiếp nhận nó. Với đạo tự nhiên, người ta có
thể là một con người; nhưng không phải là một người kitô giáo.
Người ta là con tự nhiên, không phải là con chính thức. Đạo tự
nhiên không đủ. Thiên Chúa còn đòi hơn thế, cao hơn thế. Định
cho ta ở vị trí nào, đó là việc của Thiên Chúa, ta không có quyền
lựa chọn.
16. Theo cậu thì cứ làm việc thiện giúp đỡ người khác là đủ.
- Như thế cậu chỉ mới thực hiện được một phần chương
trình. Cậu đừng tách rời cái mà Thiên Chúa đã liên kết. Người
bảo cậu: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em". Cậu
chỉ đi có một chân. Thiên Chúa là tất cả, vậy mà cậu chả đếm xỉa
gì đến Người. Thuyết ái nhân, tên gọi tục hoá của bác ái, lắm khi
chỉ là một "con gà đẻ trứng vàng mà không bao giờ đẻ". Trái lại,
cậu hãy xem ảnh hưởng bao la, làn hương dịu dàng của đức bác ái
mà Giáo hội công giáo để lại đàng sau mình. Để yêu anh em, phải
là người kitô hữu tốt; và có những trường hợp người ta chỉ có thể
yêu anh em và làm sự lành cho anh em vì lòng yêu mến Thiên
Chúa. Lu-i Vơi-ô cũng phát biểu ý đó khi ông nói: “Lạy Thiên
Chúa cao cả, nếu người ta không yêu mến Chúa, thì hỏi ai sẽ giục
người ta thương yêu anh em?"
129
- Như thế nghĩa là cậu bắt buộc phải theo Công giáo và chỉ
đạo đó thôi?
- Phải, nếu cậu muốn đi đúng đường.
17. Đạo công giáo có nhiều tệ lạm quá!
- Trước hết, để trả lời câu vấn nạn đó, cháu có thể nói với
cậu rằng người ta chỉ lạm dụng những cái tốt thôi. Nhưng cháu
thấy nên trưng dẫn ra đây câu nói của Vôn-te, ông bạn ngày xưa
của cậu. Ông nói: "Phải yêu thích tôn giáo, mặc dầu người ta gặp
thấy trong đó những tệ lạm. Người ta không vì chỉ một người lính
hèn nhát mà cho rằng cả đạo binh là xấu. Thế thì tại sao một lối
kết luận mà ở đâu người ta cũng cho là vô lí, lại chỉ được công
nhận khi kết luận đó được áp dụng vào việc phi bác tôn giáo?"
Cậu ạ, Giáo hội gồm những con người, mà đâu có con người, đó
có sai lỗi.
Riêng về những tệ lạm, ngay cả những gương xấu (cháu
không phủ nhận), mà người ta gặp thấy trong đạo công giáo, thì:
1/ chúng không do đạo Công giáo mà ra, vì đạo lên án chúng,
mà do tính yếu đuối, sự dốt nát và những đam mê;
2/ Người ta tự do thổi phồng lên: chẳng hạn cậu để ý đến
một linh mục sa ngã, nhưng cậu không chịu nhìn đến cả một đạo
binh đông đảo những linh mục thánh thiện, nhân đức;
3/ Sau nữa, cũng chính Vôn-te đã nói: "Nhìn vào tệ lạm
trong đạo, các bạn chỉ thấy sự dại dột của con người; riêng tôi,
tôi thấỵ khôn ngoan của Thiên Chúa đã gìn giữ đạo tồn tại, mặc
cho những tệ lạm đó". Cậu có thể nói cho cháu biết trên thế giới
này ở đâu có một nhóm người nào đó không có những tệ lạm và
lầm lỗi kia? Đàng khác, nào một vài tệ lạm nhất thời kia có đáng
kể gì so với bao nhiêu cái tốt mà đạo thực hiện? Cho nên, thôi đi!
Đừng chỉ nhìn ở mặt trái của tấm thảm. Hãy nhìn ở mặt phải, thế
nào cậu cũng phải kết luận là nó đẹp!
18. Có nhiều người công giáo xấu quá. Như thế có nghĩa
đạo là sai.
Nếu có những người công giáo xấu, nào việc đó có phi bác
được đạo Công giáo đâu! Đừng lẫn lộn đạo với người có đạo.
130
Một ông thầy thuốc tư cách kém, có phải vì thế mà làm cho y học
xấu đi không? Có những người lính hèn nhát, có thể vì đó mà bảo
rằng cả đạo binh là hèn nhát và lòng yêu nước là sai không?
` 19. Nhiều khi cậu thấy có những người sùng đạo mà
không tốt gì hơn những người khác.
- Điều đó chỉ cho thấy rằng người đó không đem những giới
luật đạo buộc ra thực hành; như thế nghĩa là người đó không thật
là một người sùng đạo. Đàng khác, chỉ cần chủ ý rằng người ta
luôn luôn phê phán người giữ đạo nghiêm nhặt hơn người không
giữ đạo. Chính vì biết rằng đạo phải làm cho họ nên tốt hơn, nên
người ta mới bỡ ngỡ khi nhận thấy họ có những sai lầm; trong khi
đó, người ta không hề nghĩ đến chuyện khiển trách những sai lầm
ấy nơi người vô đạo hoặc người hư hốt.
Vả chăng, cũng mắc những đam mê như nhau, nhưng người
công giáo đích thực, đúng là một thiên thần, so với những kẻ
không theo một đạo nào cả. Vẫn hay, họ có những khuyết điểm;
nhưng những kẻ khiển trách khuyết điểm họ, lại nuôi trong mình
cả những nết hư. Nếu người công giáo giữ đạo mà không hoàn
toàn, thì không phải vì người đó giữ đạo, mà vì người đó giữ
không đúng, hoặc không giữ đủ.
Do đó, đừng căn cứ vào vật giả mà phê phán một sản phẩm,
cũng như đừng căn cứ những quả sâu mà cho là cây xấu; đừng vì
những người đào ngũ mà bảo cả đạo binh hèn nhát. Mặt khác,
người công giáo phải thực hiện cả một chương trình hoàn toàn
đẹp đẽ. Nếu họ không thực hiện được toàn bộ, ít ra họ thực hiện
được một phần.
Cũng một lầm lỗi, nơi họ thì người ta không tha thứ; chứ nơi
người vô đạo, thì người ta chả để ý gì hết. Như thế không phải là
đẹp mặt cho người công giáo sao? Như thế không phải là vô tình
ca tụng đạo công giáo sao? Một vết bùn trên chiếc áo bẩn, khó mà
nhận ra; nhưng trên chiếc áo trắng, thì hiện lên rõ ràng.
20. Có nhiều người vô đạo mà ăn ở tốt, họ sống trong
sạch lắm.

131
- Cháu không phủ nhận điều đó. Nhưng xin cậu nhìn cho kĩ
hơn. Trước hết, dù muốn hay không, những người đó cũng mang
trong mạch 20 thế kỉ Kitô giáo; không thể gột rửa hết đi được. Có
thể là họ không còn được hưởng sự sáng thuần tuý của mặt trời
nữa; nhưng dù thế nào đi nữa, họ cũng còn sống trong ánh sáng lờ
mờ. Và, dù muốn hay không, họ cũng đang hô hấp một bầu
không khí Kitô giáo. Nếu cậu khoe phong tục thanh khiết của họ,
thì cháu xin hỏi cậu: cậu có nắm chắc điều đó không? (...)
Cha Hô-na-e (Hoornaert) viết: "Những người tin có Thiên
Chúa, hoả ngục, thiên đường, mà còn có lúc lầm lỗi, thì làm sao
những người tự do sống theo ý mình, không cái gì hãm lại, không
có phần thưởng nào khích lệ, lại có được một tâm hồn trong
trắng như hoa huệ? Được vũ trang đầy đủ, mà người công giáo
còn có lúc thua trận, không lẽ những người vô đạo tay không mà
luôn luôn chiến thắng sao? Nói cho đúng, người vô đạo không
còn nghĩa vụ luân thường nào nữa. Nói luật là nói có người lập
luật truyền phải giữ và người dưới có nhịêm vụ giữ luật. Phần
chúng tôi, chúng tôi thừa nhận hai hạn điểm đó: Thiên Chúa và
con người. Có Thiên Chúa truyền khiến, có con người tuân
cứ...Người không tin nhận thần thánh mà lại thực hành nhân đức,
hi sinh xả kỉ thì thật là trâí lô-gích hết sức".
Đi-đơ-lô chẳng phải là thánh nhân mà cũng nói: "Một con
người đã rảy bỏ ách tôn giáo, thì không còn tìm đâu được một
động lực khá mạnh để ăn ở chính trực nữa".
21. Dẫu sao, cậu đồng ý là không nên đổi đạo này sang
đạo khác.
- Nói khác đi, nếu cậu đang ở trong hoả ngục, thì cứ phải ở
lại đó!
- Nguyên tắc của Tin lành như vậy.
- Phải. Cháu đã hơi ngờ ngợ. Thế những các vị lãnh tụ của
họ, Luy-te và Can-vanh, trước kia là công giáo, tại sao lại bỏ đạo
cha ông mà sang đạo khác? Cậu không thấy rằng chính nguyên
tắc đó làm tổn thương Tin lành sao?
- Nhưng...
- Nếu tất thảy các đạo đều xấu, thì phải phi bác tất thảy. Nếu
tất thảy các đạo đều tốt, thì ai muốn bỏ đạo này sang đạo khác tuỳ
132
ý. Trong cả hai trường hợp, nguyên tắc của cậu đếu hỏng. Càng
hỏng hơn nữa, nếu chỉ có một đạo là đạo thật, mà người ta lại
đang ở một đạo khác không phải là đạo thật đó. Lương tri, sự
chính trực, lòng yêu chân lí đòi phải bỏ đạo giả để sang đạo thật.
- Cậu thấy cháu tin đạo một cách có xác tín, cậu hài lòng
lắm!
- Tất nhiên, khi có ai phi bác đạo trước mặt cháu, tâm hồn
cháu run bắn lên, khác nào người ta đánh má cháu.
- Vì cháu định thuyết phục cậu, thì cháu phải chịu đựng mọi
vấn nạn của cậu.
- Những vấn nạn đó có phải tự cậu nghĩ ra không?
- Một phần, cậu đọc ở sách báo, cậu nghe...
- Và cậu tin những điều đó?
22. Nhưng luật cấm-thư thì cậu chả phục tí nào.
- Cậu ghét luật đó lắm?
- Cậu cho việc cấm xem những cuốn sách người ta thích,
viện lẽ chúng nói xấu đạo, là đáng ghét. Dù sao thì người ta cũng
cần học hỏi, mà muốn thế, phải biết đâu phải đâu trái.
- Xin hỏi một người cha, một người mẹ có ý thức về nghĩa
vụ mình, chả lẽ không cảnh giác đề phòng con cái mình trong
việc đọc sách vở sao?
- Trẻ em thì cậu đồng ý phải làm như thế.
- Đối với việc đạo, nhất là đối với tín lí, chúng ta trọn đời là
trẻ em; và Giáo hội là mẹ cảnh giác, có nhiệm vụ bảo vệ đức tin
của con cái cho thuần khiết. Chân lí có những quyền lợi của nó,
mà khoan dung, nếu xét về tâm hồn là một đức tính, chứ xét về trí
khôn thì chỉ là một nết xấu.
- Nhưng cần phải khoan dung!
- Phải khoan dung trong thực hành; còn ở đây là lí thuyết, thì
phải cương quyết, không thể nhượng bộ.
-Sao vậy?
- Vì cần phải bảo vệ cho chân lí có qưyền phi bác sai lầm,
phải định rõ và vạch rõ phạm vi trách nhiệm của những người
cầm bút. Đồng ý là phải tự do báo chí và tự do ngôn luận, thế
nhưng cho những người gieo rắc tư tuởng mình khắp thế giới
được quyền bất khả xâm phạm hoàn toàn, việc đó có một cái gì
133
bất xứng. Do đó, cần chủ trì bất khả dung về học thuyết và cần
đòi hỏi các nhà văn nhà báo tuyên truyền cái xấu phải chịu trách
nhêịm về luân thường đạo lí.
- Sao lại cấm đọc sách nọ sách kia?
- Cấm là để tránh cho cậu khỏi nhiễm phải nọc độc của tà
thuyết, hoặc xem phải những trang sách dơ bẩn có thể làm cậu
mất sự thanh tịnh.
- Ở tuổi như cậu thì cấm gì nữa?
- Giáo hội lập luật thì không phải cho một mình cậu, mà cho
mọi người. Đàng khác, nào người ta không nói: "nhà bếp cũ dễ
cháy hơn nhà bếp mới" đó sao?
- Dẫu sao, cậu thấy hình như đàng sau sự không khoan
nhượng về học thuyết và vai trò bảo vệ mà Giáo hội tự gán cho
mình đó, Giáo hội còn đi xa hơn nữa, Giáo hội bắt người ta theo
mình, Giáo hội cưỡng bức người ta tuân cứ luật lệ mình.
- Giáo hội nhân danh Thiên Chúa mà buộc người ta giữ
những luật lệ mà chính Thiên Chúa truyền buộc Giáo hội, phải.
Đó là quyền và là nghĩa vụ của Giáo hội.
- Giáo hội có ý áp bức người ta!
- Không. Thuyết phục thì có.
- Cháu nghĩ rằng bao giờ Giáo hội cũng dùng chiến thuật đó?
- Đây: Thế kỉ 6, thánh Ô-guyt-xtanh ở Ken-tơ-bi-ri cấm chỉ
vua nước Anh không được dùng bạo lực bức dân theo đạo. Thế kỉ
9, An-quyn cũng lưu ý vua Sác-lơ-ma-nhơ điều đó trong vấn đề
đối với dân Xác-xông bại trận. Giáo hoàng Ni-cô-la 1 cũng dạy
vua dân Bảo là Mísen như thế. Thánh Bec-na và Đức In-nô-xăng
4 bênh vực người Do thái khi họ bị bách hại. Giám mục Phê-nơ-
lông viết cho vua nước Anh là Giắc 2: "Đừng bao giờ đức Vua
bức dân bỏ đạo này theo đạo khác. Không quyền lực nào của loài
người có thể xâm phạm đến sự tự do ý chí của người khác". Sau
hết, Đức Lê-ông 13 viết trong Thông điệp "Immortale Dei":
"Giáo hội xưa nay luôn hết sức đề phòng để cho không một ai bị
cưỡng bức theo đạo công giáo trái ý họ?"
23. Nếu đạo công giáo là đạo thật và tốt, tại sao có biết
bao người không theo đạo đó?

134
- Tại sao người ta không theo ư? Đơn giản thôi, cậu ạ. Có
hơn một triết gia hoặc người tự xưng là triết gia, khi gần chết đã
cho biết lí do điều đó. Bu-ghê (Bouguer) nói: "Trước đây tôi
không tin đạo, là vì tôi hư hốt". Tâm hồn nhiều khi có thể làm trí
óc người ta khó chịu. Người ta cứ muốn sống phóng đãng, không
muốn một thứ luân thường nghiêm nhặt nào chế ngự bản tính hư
hỏng của mình. Tin đạo, dù là những điều mầu nhiệm đạo dạy,
người ta cũng sẵn sàng thôi, nếu không vì tin như thế mà phải
thay đổi cách ăn nết ở mình cho hợp với điều mình tin. Vì thế mà
người ta cố tình sống như người vô tín ngưỡng, người tự do tư
tưởng. Làm như thế cho hợp thời, cho ra vẻ thông thái! Tưởng
như thế, công chúng sẽ hoan nghênh mình. Thật ra, như thế có thể
dễ sống hơn, nhưng xin cậu chớ thí nghiệm. Giờ chết mới biết
như vậy là khốn nạn,
- Như thế nghĩa là theo ý cháu, tất thảy những người không
tin đạo đều tất nhiên là những người hư hỏng cả?
- Không. Không tất nhiên như vậy. Nhưng lắm khi như vậy
đấy. La Bơ-ruy-e viết: "Uớc chi có một người tiết độ, thanh tịnh,
công chính nói cho ta nghe rằng không có Thiên Chúa!" Xanh-tơ
Bơ-vơ đi xa hơn: "Kẻ thù của tôn giáo ít có giá trị về khiêm
nhường và tiết dục". Thật ra, khi người ta đã khuấy động mặt hồ,
thì còn đâu mà in bóng trời cao nữa!
Cậu cũng nên biết lời thú nhận sau đây của Phơ-răng-xoa
Co-pê: "Thành thật mà nói thì chính cơn khủng hoảng của tuổi
trẻ và sự hổ thẹn không dám xưng thú một số tội đã làm tôi từ bỏ
một số việc đạo đức xưa kia tôi vẫn quen làm". Uớc chi nhiều
người khác, nếu họ thành thực, cũng nói lên được như thế!
Lit-tơ-rê sắp chết. Cha Ha-vơ-lanh đến thăm và thử nói
chuyện đạo với ông. Ông ngắt lời cha: "Cha không cần chứng
minh chuyện đạo với tôi. Thật ra, tôi vẫn hằng tin đạo như Cha.
Thế nhưng, bên cạnh lòng tin đó, còn có dục vọng, còn có tính sợ
dư luận và bao nhiêu cái khác!" Sau một phút suy nghĩ: "Nếu bây
giờ ai làm được cho tôi có một quá khứ vô tội, thì tôi sẵn sàng
biếu không cả bộ Từ điển tôi đã soạn".
Thật là những lời thú nhận hùng hồn!

135
Một số khác, không giữ đạo là vì họ kiêu căng. Họ không
chịu uốn gối trước Thiên Chúa... nhưng người ta lại thấy họ kín
đáo cúi mình trước con bò vàng, trước một thụ tạo, trước chính
mình họ.
- Nếu họ không có niềm tin, phải chăng là do lỗi họ?
- Thiên Chúa bao giờ cũng ban niềm tin cho những người
khiêm tốn cầu xin Người; cho những ai chưa có nó. Nhưng đối
với những ai đã có mà đã giập tắt đi, thì đôi lúc Chúa không ban
cho nữa. Muốn đi đến kinh "Tôi tin kính", trước hết phải "Tôi thú
nhận". Chừng nào khối đá kiêu căng còn chắn ngang cửa lòng,
chừng đó sự sáng không thể lọt vào đó được. Thiên Chúa không
hạ cố tới những tâm hồn...tự cao tự đại như thế!
24. Nhưng tại sao xưa nay đạo lại lắm kẻ thù như thế?
- Trong số kẻ thù của đạo, có rất ít kẻ thành tâm; đàng khác,
nào lòng thù ghét không phải một cách nào làm chứng cho chân
lí đó sao?
- Cậu chưa hiểu.
- Chỉ có đạo công giáo là đã bị bách hại và thù ghét. Các đạo
khác không ai để gì; người ta để họ tự do, vì họ tuỳ cơ ứng biến,
người ta không có gì phải sợ họ. Người ta chỉ sợ chân lí thôi.
Thù ghét ư? Cháu đã nói đến điều đó khi trình bày về Đức
Giêsu: lòng thù ghét độc dữ, quỉ quái, bám riết Người mãi hai
ngàn năm sau khi Người chết, nào không phải là một chứng cứ
hùng hồn bậc nhất cho sự trường tồn và do đó cho thần tính của
Người đó sao? Kẻ đã chết, ai lại thù ghét họ đến như thế!
- Nhưng một lần nữa, tại sao lại thù ghét như thế?
- Chỉ cần nhìn vào những mưu kế người ta dùng để phục vụ
cho sự thù ghét đó:
1/ Đặt điều nói dối: Cậu từng biết câu khẩu lệnh của Vôn-te:
"Nói dối, cứ nói đối; thế nào rồi cũng có một mối lợi nào đó.”
2/ Chế nhạo: Vì thiếu lí chứng, người ta phải dùng thủ đoạn
diễu cợt, nhạo báng. Chính Vôn-te (cháu thích dẫn ông ta) cũng
công nhận: "Những lời diễu cợt độc hại người ta dùng để công
kích đạo công giáo, thật là đáng xấu hổ. Lí lẽ không được mấy,
chỉ rặt những lời lăng mạ, nhiều vô kể."

136
3/ Bao giờ cũng cứ nhai đi nhai lại những vấn nạn đó, dù đã
trăm ngàn lần bị phi bác. Người ta cứ truyền cho nhau đời này
qua đời khác, mà không để ý xem chúng trống rỗng biết bao, sai
lạc biết bao. Phải nói toàn là lẩn thẩn. Thế thôi. Vôn-te còn nói:
"Trong luận điệu phi bác đạo, phái vô tín ngưỡng đã tỏ ra lẩn
thẩn quá lẽ, đến mức không biết lời lẽ họ có thể làm người ta phì
cười hay nổi xung lên".
4/ Dốt nát: Những người công kích đạo, đa số không biết gì
về đạo cả. Thật không khác nào những người mù cãi nhau về màu
sắc. Về các chân lí trong đạo, họ có một ý niệm sai lầm, không
đúng đắn, bất toàn, họ không biết gì hết. Họ làm người ta nhớ đến
những em bé muốn bàn luận về những môn học khó nhất, khi
chưa có một khái niệm nhỏ nào về chúng.
5/ Quan điểm sai lầm: Họ nhìn từ chỗ cao quá, hoặc thấp
quá, gần quá hoặc xa quá. Mắt người ta không thể thấy cái ở
ngoài tầm nó, cũng như cái áp sát vào nó. Họ có biết bao cái nhìn
sai lạc! Thay vì chú mắt vào một điểm nhỏ không quan trọng, có
phải cứ nhìn toàn bộ là hơn không? Đạo công giáo là một toàn bộ
hài hoà, một cơ chế bởi trời. Muốn có thể phê phán đúng, phải
hiểu biết mọi bộ phận.
6/ Thiếu chứng cứ: Ý tưởng họ không có gì là cố định. Vì
thế, La Bơ-ruy-e phải nói: "Những kẻ ‘thông giỏi’ (dịch từ esprits
forts, thường dùng để gọi những người vô tín ngưỡng hay phi bác
đạo, N.D.) họ có biết người ta gọi họ bằng danh từ đó là để chế
họ không?” Họ chối, hoặc quyết. Không bao giờ họ làm chứng
cái gì cả. Người công giáo thì trái lại bao giờ cũng đưa ra những
chứng cứ. Còn họ, không chứng cứ gì hết. Họ chỉ chối thôi. Chỉ
có thế. Nhưng như thế đã hết đâu. Cái lô gích của họ tóm tắt thế
này: Tôi muốn điều nọ điều kia không phải là thật; do đó, nó là
sai lạc.
- Chà! Hình tượng tuyệt quá! Hơn nữa, lại chính là Vôn-te,
ông bạn cố tri của cậu, như cháu nói, chính ông cung cấp tài liệu
cho cháu. Như thế, bản thân cậu đây, hồi còn vô tín ngưỡng, cậu
cũng có tất thảy những cái xấu đó cả sao?
- Một phần thôi. Nhất là cái tật nói quàng xiên bừa bãi về
những điều cậu chưa biết gì hết.
137
- Đúng. Cậu thú nhận như thế. Bây giờ đây, cậu đã thấy rõ
chứng cứ, tuy cậu vẫn còn một số thắc mắc (mà cậu dành lại đây
cho cháu), vẫn còn những do dự, những điểm cần soi sáng. Tuy
nhiên, cậu không còn tự mãn như lúc đầu nữa.
- Được như thế không phải là không vất vả. Thật là cám ơn
Chúa!
-Đây, hôm qua đọc báo, cậu thấy câu này mà cậu cũng chả
tán thành:
25. Đạo đã hết thời!
- Vì trước khi kết thúc, cậu lại đưa ra luận điệu điên rồ đó,
nên xin cậu cho phép cháu đạp tan nó đi. Nó bị đập tan, là hết mọi
vấn nạn. Đạo công giáo là cái đe đã từng làm vỡ mọi búa. Bao
nhiêu cuộc tấn công bằng miệng, bằng ngòi bút, bằng lưỡi rìu,
bằng gươm giáo, đều không làm được gì nó; trái lại, bao giờ cũng
giúp nó thêm mạnh hơn. Một em bé không thể lấy viên sỏi đá
đánh sập một đại thánh đường. Chết sao được, khi người ta hiện
có những 350 triệu con cái trên khắp thế giới. Nhất là ngày nay,
nào không phải là vấn đề tôn giáo đang xâm nhập vào hết mọi
tầng lớp xã hội, sách báo, hội nghị sao? Đâu đâu người ta cũng để
ý đến đạo; người thì để bênh vực, người thì để công kích. Sau 20
thế kỉ tồn tại, đạo công giáo hiện nay trẻ hơn và có sức chinh phục
hơn bao giờ hết.
Điều đó đã bắt buộc Mác-xen Xam-ba, một gã bài giáo sĩ độc
hại, phải thú nhận như thế này: "Chúng ta hãy mạnh dạn nói lên
rằng: việc phi bác tôn giáo làm cho lớp trai trẻ gớm tởm hết sức.
Thôi thì cứ mặc cho nhà chính khách ngu ngốc nhún vai lắc đầu,
đừng để ý gì đến cái điềm báo đó. Gà nhốt trong chuồng thì
không thể thấy gì ngoài phạm vi chuồng gà. Khi một hệ thuyết đã
thôi không làm bọn trẻ say mê nữa, là nó sắp tận số rồi"...
Năm 1923, hai chủng viện lớn ở Pa-ri, có đến 4 sinh viên
Bách khoa, 2 sinh viên Cao đẳng Sư phạm, 3 sinh viên Trung tâm
Cao đẳng, 2 thạc sĩ, 4 tiến sĩ luật, 23 cử nhân, 5 kỉ sư, 2 bác sĩ, 68
sĩ quan... Phải chăng đó là triệu chứng cho biết đạo công giáo
đang suy vong?!

138
Kìa! Tầng lớp thanh niên công nhân...hướng về đạo Công
giáo. Rồi, hãy xem những hội từ thiện, những tổ chức Hướng đạo
công giáo .
Chính phái Xã hội cũng coi thuyết bài giáo là "một lời nói
láo cũ rích", "một món ăn hâm lại", "một con ngựa đã mệt lữ". Ba
kiểu nói đó, cháu rút trong tờ Nhân đạo. Cũng trong tờ báo này,
ngày 23/10/1924, Mác-xen Ca-sanh viết: "Đã đến lúc phải xếp
cuộc chiến chống giáo hoàng và các cụ xứ vào kho dĩ vãng!" Do
đó, cậu hãy viết cho báo của cậu rằng nó đã lạc hậu lắm rồi và lấy
những sự việc, và những con số cháu vừa đưa ra cho nó làm tài
liệu.
- Được, rồi cậu sẽ viết.
- Sau cùng, cậu đừng quên điều này: ở đâu đức tin mất, thì ở
đó mê tín dị đoan xâm nhập và bành trướng. Con người là con vật
có tôn giáo. Nó phải tin một cái gì đó. Nếu tước bỏ Tin mừng của
nó, nó sẽ lao vào ma thuật; vì không có linh mục nữa, nó sẽ chạy
tìm những ông thầy bói.
- Cháu có chắc như thế không?
- Nhất định phải như thế. Con người cần cái siêu nhiên, đến
mức, nếu đạo mất đi, nó sẽ tìm một món siêu nhiên tạp loại, "pha
chế" nào đó. Chúng ta cần tin một cái gì; vì thế, mất đức tin, thì
cứ lô-gích, thế nào cũng sa vào dị đoan. Người ta không tin các
điều tín lí dạy nữa, cũ rích rồi! Hủ lậu rồi! Trẻ con quá! Khi người
ta đã là một "công dân giác ngộ và có tổ chức", thì người ta phải
nhanh chóng lột bỏ những cái đó. Nhưng rồi người ta sẽ tin hạt
muối lật ngược, hai cái dao chéo nhau, tin phù thủy, tướng tay,
tránh ngồi ăn 13 người một lúc. Người ta sẽ đi xem bói toán;
người ta sẽ xấu hổ khi mang một ảnh Thánh giá, nhưng lại đường
hoàng mang một con voi con hay một con heo con trước ngực.
Làm như thế, tâm hồn con người mới thoả.
Nô-đanh, một cựu viên chức ở Pa-ri, đã căn cứ tài liệu ở các
phòng bói toán mà tính rằng hằng ngày thành phố Pa-ri tiêu mất
chừng 20 vạn phơ-răng cho các thầy chiêm tinh, tướng tay, bói
quẻ... Trong thành và ở ngoại ô Pa-ri, có đến 34.600 phòng xem
bói. Phải. Pa-ri, thành phố ánh sáng, nuôi nhiều thầy phù thủy và
ma-cô hơn là y sỹ và dược sỹ.
139
- Ô!
- Cứ đọc thông lịch Đi-đô Bô-tanh, cậu sẽ thấy rằng chỉ riêng
thành Pa-ri, đã có 34.607 người làm thầy bói, bà đồng, bói quẻ,
xem tướng, thôi miên, phù thủy. Chưa nói đến những phụ nữ vừa
bói quẻ vừa làm gác cổng, hộ sinh, thợ may, bán y phục lông
chim,,,...
Ô! Cậu ạ, những người không tín ngưỡng, họ dễ tin nhảm
nhí biết bao! Họ chế nhạo Thiên Chúa và đạo công giáo; nhưng
họ lại xem bã ca-phê để đoán mệnh, xem bàn quay...Cháu thì cháu
thích tin Thiên Chúa hơn: như thế khôn hơn, cao thưọng hơn...mà
cũng được an tâm hơn, vì Thiên Chúa không lừa dối ai!

Chương II

Khoa học với tôn giáo

- Này Mác-đa, hôm nay thì cậu đến với một món khổng lồ,
cháu mà nhìn vào sẽ không dám múa men gì nữa.
- Cái gì vậy?
- Khoa học.
- KHOA HỌC viết hoa chứ gì?
- Đúng!
- Ô! Anh chàng này đến đúng lúc quá. Cháu vẫn có ý chờ y.
Cháu đã chuẩn bị đầy đủ, vũ trang từ đầu đến chân rồi đây này!
- Thế thì cuộc đấu càng đẹp!
- Vậy cậu định nhân danh Khoa học bắt bẻ cháu điều gì nào?
- Chỉ điều này thôi: Khoa học đã phá huỷ và thay thế tôn
giáo. Năm 1902, Béc-tơ-lô quả quyết: "Ngày nay khoa học đòi
nắm quyền lãnh đạo vật chất, lãnh đạo tinh thần và lãnh đạo cả
luân thường của xã hội." Rơ-năng viết trong “Tìm hiểu lịch sử
140
tôn giáo: "Qui luật của lịch sử là không có phép lạ; qui luật của
triết học là không có mầu nhiệm; qui luật của khoa học là không
có cái gì siêu nhiên cả". Và Ten, trong phần tổng kết cuốn "La
Phông-ten và những truyện ngụ ngôn của ông" đã không ngần
ngại nói rằng: "Con người là con vật cao cấp sản xuất ra những
hệ thuyết triết học, những thơ ca, một cách nào giống như con
tằm làm kén và con ong xây tổ".
- Chỉ thế thôi?
- Phải. Đập lại đạo của các dân tộc, Kitô giáo hay đạo khác,
các bậc thiên tài đó đề ra Đạo thờ Khoa học.
- Cháu đã rõ. Đó là mộng tưởng của Rơ-năng. Hồi 25 tuổi,
ông ta đã dám viết: "Đạo khoa học. Chỉ mình nó đủ làm động lực
cho luân thường! Nó vừa là nguyên động lực vạn năng, là cái
trau dồi văn minh, vừa là mục tiêu, là cứu cánh cao cả của mọi
việc loài người, vừa là lí do tồn tại của vũ trụ".
- Thế thì phải chăng hiện nay chúng ta chưa được mục kích
thứ đạo mới do Rơ-năng sáng lập đó sao?
- Mạt kiếp anh chàng Rơ-năng! Mạt kiếp thứ đạo đó! Mạt
kiếp thứ khoa học đó!
- Gì mà dữ vậy?
- Không may cho Rơ-năng, cho Ten, cho Béc-tơ-lô và đồng
bọn, cậu ạ, khoa học chân chính chẳng những không thủ tiêu tôn
giáo, trái lại, còn cậy dựa vào tôn giáo và chứng minh tôn giáo.
Cậu đã trưng dẫn những tác giả cậu thích. Hãy cho phép cháu
được trưng dẫn những tác giả của cháu. Lit-tơ-rê: "Khoa học chỉ
có thể trở thành phản tôn giáo, khi nào nó trở thành phản khoa
học". Lép-nitx: "Sở dĩ tôi có phần trọng khoa học, là vì nó cho tôi
quyền đòi người ta im lặng khi tôi nói về tôn giáo".
- Ô! Tôn giáo mà như thế sao?
- Không. Cháu chỉ có ý lấy những khẳng định của các nhà
khoa học Kitô giáo mà đập lại sự cao ngạo của những nhà khoa
học bài giáo.
- Các nhà khoa học Kitô giáo có nhiều không?
- Ngày 9/11/1891, ở Hạ nghị viện, Sác-lơ Duy-puy thuyết
trình về sự nghèo nàn của các Đại học công giáo. Một số nghị sĩ

141
phản đối nhận xét đó, viện lẽ công giáo cũng có nhiều nhà bác
học. Ông liền nói: "Được rồi. Chúng tôi sẽ thống kê con số đó".
- Ông ta đã thống kê chưa?
- Ông ta không dám làm, hoặc không có gan công bố.
- Thế thì?
- Đã có những người khác làm: một tiến sĩ Tin lành và một
triết gia công giáo.
- Chắc là lí thú lắm?
- Cả hai người đều điều tra về những nhà bác học thời danh
nhất của 3 thế kỉ vừa qua. Đen-ne (Dennert) thấy rằng trong số
235 nhà bác học, có 8 trung lập, 7 vô thần và 220 có tin ngưỡng.
Còn E-mi-ơ (Eymieu) thì thấy rằng trong số 398 nhà bác học, có
15 trung lập, 16 vô thần và 367 có tín ngưỡng. Theo ông trên, tỉ lệ
bác học có tín ngưỡng là 93%; theo ông dưới, 92%. Cháu nghĩ
con số đó quá hùng hồn!
- Kinh khiếp quá nhỉ! Cháu có nắm chắc những số liệu đó
không?
- Thì cậu cứ điều tra tận nguồn mà xem. Cậu có quyền làm
như thế.
- Dù sao, Khoa học thật là vạn năng!
- Cháu hết sức kính trọng nó. Nhưng cháu muốn rằng nó
cũng phải tôn trọng tôn giáo, không được đả phá tôn giáo.
- Ô! Họ lại là những bộ óc lỗi lạc, những bậc thiên tài, những
nhân vật vĩ đại, những nguồn sáng...
- Cậu muốn cho họ thế nào cũng được. Nhưng chúng ta đừng
phóng đại. Nào Niu-tơn không nói thế này sao: "Những gì chúng
ta biết, chỉ là một giọt nước; còn những gì chúng ta không biết, là
cả một đại dương!"? Pi-e Lô-ti, trong bài đáp từ sau bài diễn văn
nhận Giăng E-ca vào viện Hàn lâm, có nói: "Chúng ta không biết
và chúng ta sẽ không bao giờ biết được gì về bất cứ cái gì; đó là
điều độc nhất chắc chắn. Hiện nay Khoa học chân chính cũng
không còn có tham vọng giải thích mọi sự như trước đây. Mỗi khi
một bộ óc con người tiên tiến nào đó khám phá ra cái "tại sao"
của một sự gì, thì không khác gì người đó khó nhọc mãi, cạy được
một bộ cánh cưả sắt, nhưng để rồi chỉ mở ra một hành lang rùng
rợn hơn, tối tăm hơn, dẫn đến một cánh cửa khác khoá chặt hơn,
142
khủng khiếp hơn. Chúng ta càng tiến bước, thì bí nhiệm, đêm tối
càng dày đặc và khủng khiếp tăng thêm".
- Lô-ti là một anh chàng giác ngộ!
- Mác-xen Pơ-rê-vô (Prévost) nói: "Khoa học càng phát
triển, càng hướng tới chỗ khách quan hơn; do đó, ta thấy được
sự sai lầm của những kẻ nghĩ rằng khoa học có ngày sẽ giải đáp
được những bí ẩn của vũ trụ. Thật ra, chính nó lại làm cho số bí
ẩn tăng thêm".
- Đó là một viện sĩ Hàn lâm!
- Đây một nhà hoá học trứ danh: Giăng Ba-titx Đuy-ma trả
lời cho Ten, ngày 15/1/1880: "Những phát kiến mà các ngành
khoa học đã ghi được chứng tỏ chỉ có người ngu mới cho rằng
cuốn sách khôn ngoan đã hoàn toàn bị dưa ra ánh sáng. Chúng
ta hiện vẫn chưa biết gì hết về nguồn gốc sự sống và bản chất nó.
Chúng ta chưa nắm được sợi dây huyền bí nối kết thể xác với tinh
thần, làm cho con người thành một khối nhất thống. Sau hai ngàn
năm cố gắng, chúng ta vẫn chưa đạt đến đầu mút xa xôi của vũ
trụ ta ở; vậy mà vũ trụ ta ở chỉ mới là một điểm trong không gian
bao la và chúng ta dừng bước câm lặng và đầy kinh ngạc trước
ngưỡng cửa của cõi vô hạn mà chúng ta chưa hiểu gì".
Đây nữa, Đa-lăm-be, giữa hồi lừng lẫy tiếng tăm nhất: "Bản
chất con người, sự tồn tại của nó hiện nay và sau này, đó là
những bí nhiệm mà những bậc thiên tài lỗi lạc nhất cũng như
phần còn lại trong nhân loại, không ai hiểu được".
La-pơ-lat-xơ hấp hối: "Những gì chúng ta biết thật ít ỏi!"
Hăng-ri Bóoc-đô: "Không biết lí trí đã bao giờ cho chúng ta
một lời giải thích về vũ trụ, sự sống, sự chết và về bản thân chúng
ta chưa. Nó cứ từ nguyên nhân này lần đến nguyên nhân khác, để
rồi đi đến một bí nhiệm chìm ngập trong một đêm tối mà không
đèn pha nào soi sáng được."
Sau cùng, phải, vì cháu không muốn trích dẫn nhiều, mặc
dầu toàn là những lời nói chất đầy ý nghĩa, năm 1894, San-lơ-men
La-cua (Challemel-Lacour) phát biểu: "Khoa học có thể chồng
chất phát kiến này rồi phát kiến khác; sẽ không bao giờ xảy đến
cái ngày mà nhà bác học huênh hoang nhất có thể bảo vũ trụ:
Mầy chả có gì bí mật đối với ta nữa... Chính vì thế mà khoa học
143
hoàn bị mấy đi nữa, nó cũng vẫn để tôn giáo giữ nguyên địa vị
của mình. Địa vị nào? Địa vị vô cùng trọng yếu!"
Vì thế, đúng như cha Hô-na-e nói: "Hễ là khoa học muốn
vượt ngoài giới hạn của nó để thoa dịu lòng người, hoặc để giải
quyết những việc liên hệ định mệnh muôn đời của chúng ta, tức
khắc nó bị phá sản. Khoa học chưa tìm được dưới đáy ống
nghiệm của mình một thứ huyết thanh nào chống được nỗi buồn;
những thứ thuốc sát trùng của nó chưa hề giúp ta diệt cho được
độc tố thù ghét ẩn trong lòng quần chúng; tất thảy ánh áng của
những ngọn đèn Ê-đi-xơn cũng chưa thể soi sáng một phần nào
những vấn đề tâm linh và, dù có nhiều xe cộ tốt, con người vãn
chưa đến xứ sở hạnh phúc nhanh hơn được. Phi cơ đưa con
người lên đã khá cao; nhưng lí tưởng của cõi lòng chúng ta còn
lên cao hơn nữa, vượt muôn trùng tinh tú, lên tận cõi trời!"
- Nhưng khoa học đẹp đẽ và vĩ đại. Nó làm được biết bao
việc tốt!
- Ở đây, chính Rơ-năng sẽ trả lời chúng ta: "Nếu khoa học cứ
giữ nguyên tình trạng của mình, thì chúng ta phải cam tâm chịu
đựng vừa nguyền rủa nó; bởi lẽ nó phá huỷ mà rồi không xây
dựng gì cả; nó đánh thức con người, làm ta mất giấc ngủ ngon
lành, mà rồi không thoa dịu thực tế đau thương. Cái mà khoa học
đưa lại cho tôi, tôi chưa cho là đủ; tôi còn đói!" Rơ-năng đã đổi
khác, không như hồi 25 nữa!
- Khoa học cũng có những chỗ hở như thế!...
- Thì đây, Hăng-ri Poăng-ca-rê sẽ trả lời cậu: "Dù khoa học
tiến xa mấy, lĩnh vực của nó bao giờ cũng hạn chế; bí nhiệm chập
chờn khắp nơi trên biên giới nó, mà biên giới nó càng xa, lại
càng rộng". Không bao giờ tri thức nhân loại giải được một bài
toán, mà rồi ngay sau đó không nảy ra những bài toán mới. Nó
càng đi sâu tìm hiểu, càng làm xuất hiện nhiều câu hỏi hơn là
những giải đáp thu được. Không. Cậu ạ, khoa học không biết tất
cả vấn đề của bất cứ cái gì. Do đó, nó khó mà hiểu được mọi sự,
giải thích được mọi sự và nhất là khó mà không lầm lẫn.
- Ô! Nói lạ chưa!
- Cháu hạ bệ thần tượng của cậu thì cũng mất lòng cậu đấy.
Nhưng đây là những sự việc chắc chắn. Năm 1878, khi Duy
144
Mông-xen giới thiệu máy lưu thanh của Ê-đi-xơn tại viện Hàn
lâm Khoa học, thì tức khắc một nhà bác học, ông Bui-ô phản đối:
"Chúng tôi không mắc lừa một anh chàng nói tiếng bụng". Năm
1789, La-voa-di-ê và cả viện Hàn lâm Khoa học chối không nhận
có những vẫn thạch trong khí quyển. Phi-lip Lơ-bông, người phát
minh đèn hơi, bị chế nhạo, vì người ta nói "đèn không bấc sao mà
đỏ được!" A-ra-gô và Ti-e mãi đến năm 1838, vẫn không chịu tin
khả năng của đường sắt. Năm 1825, khi Xti-phen-xơn phát minh
ra đầu máy xe hỏa thì các nhà bác học Anh tuyên bố rằng đầu
máy đó, bánh xe phải có răng cưa, đường ray cũng thế, mới chạy
được. ở Hà lan, người ta không chịu cấp chứng chỉ cho người
phát minh ra kính viễn vọng "vì dùng kính đó, người ta chỉ nhìn
bằng một mắt!" Đã một thời gian lâu, người ta chủ trì rằng không
khí là một hợp chất không hoá lỏng được, gồm O-xy và Nitơ. Vậy
mà năm1878, Cay-ê và Píc-tê đã làm không khí hoá lỏng. Nguyên
tố radium do Qui-ri phát kiến, đã gây nên biết bao sự đảo lộn!
A.Yơng trong Nhật báo Giơ-ne-vơ, ngày 14/9/1907, có nói: "Có
biết bao khái niệm ta học cách đây 20 năm, mà hiện nay ta phải
quên đi!"
Cậu, cậu nghĩ thế nào khi thấy khoa học cứ cải chính mình
mãi như thế?
- Mày thật đáo để!
- Không. Đó là ý kiến chân thành của cháu. Và cháu xin kết
luận với câu nói mà Hác-đoanh viết trong tờ Buổi sáng: "Cho đến
nay, người ta vốn tin rằng ưu thế về mặt chân lí ở tại không bị
qui là sai lầm. Dường như điều đó đã thay đổi và người ta càng
lầm, lại càng chiếm ưu thế. Nói trắng ra thì điều đó có nghĩa là
cách tốt nhất để nắm được chân lí (khoa học) là đừng nắm được
nó và kẻ muốn có một ngôi nhà vững chãi, kẻ đó phải sống cả đời
trên toa xe hỏa. Nếu tôn giáo có được chân lí, thì nó không cần gì
thay đổi, vì chân lí không thay đổi. Nếu khoa học thay đổi, thì
chính là vì nó không có được chân lí. Khoa học có hơn được tôn
giáo ở chỗ nó không có tin lí bất di bất dịch".
Ý kiến trên đây, nhà bác học đã thốt lên trong dịp phát kiến
ra nguyên tố radium. Đành rằng nói như thế có phần độc ác,
nhưng ai chứng minh được rằng nói như thế là sai? Cháu cũng có
145
thể dẫn ra đây những giả thuyết như giả thuyết về vi trùng chẳng
hạn, mà y học xây dựng nên, rồi khẳng định, rồi lại bỏ rơi!...
- Như vậy, khoa học đã phá sản sao?
- Gần như thế. Chính Hăng-ri Bác-bu đã nói lên điều đó
trong phiên họp viện Hàn lâm ngày 20/2/1908, nhân nói về Bơ-
ruy-nơ-chi-e: "Nào các nhà bác học có cam kết cho ta một giải
đáp về chỉ một vấn đề đáng mất công bàn cãi, là vấn đề nguyên
nhân và cứu cánh con người không? Có. Các nhà triết học có
hứa tìm một cái làm cơ sở cho luân thường đạo đức ngoài tôn
giáo không? Có. Thế cả hai giới đã giữ lời chưa? Chưa! Vậy nếu
bây giờ ta tính sổ lời lỗ, cho những lời hứa là nợ mình mắc người
ta và những kết quả thu được là nợ người ta mắc mình, thì cán
cân nghiêng hẳn vì thiếu hụt. Như thế là phá sản."
Sau hết, để kết thúc những lời chỉ trích trên đây, chống lại sự
kiêu căng của khoa học, chứ không phải chống lại chính bản thân
khoa học, vì khoa học vĩ đại và đáng tôn trọng, cháu xin dẫn câu
nói của A-ra-gô: "Có ít chân lí khoa học đúng được quá một thế
kỉ; mà đó lại là những chân lí đúng hơn cả!"
- Thật là cay cú!
- Phải. Nhưng phải nhận rằng khoa học bài giáo muốn thay
thế Thiên Chúa và giập tắt sao trời, thật đáng cho những nhà bác
học vĩ đại nhất cũng cảm thấy cần nhắc nó ở khiêm tốn hơn một
tí. Như thế chỉ có ích cho khoa học thôi.
- Nhưng trong số những nhà bác học vô thần, có những vị
thành tâm.
- Rất ít, nhiều khi giờ chết làm họ hết là vô thần. Thay vì liệt
kê một danh sách dài gồm những tên tuổi minh hoạ cho điều vừa
nói, cháu chỉ dẫn ra đây lời thú nhận của Rơ-năng: "Lạy Thiên
Chúa của tuổi thanh xuân tôi! Tôi những mong có ngày trở lại
với Chúa...Có lẽ tôi sẽ trở về với Chúa, với tình trạng nhục nhã
và thất trận! Lạy Thiên Chúa của tuổi thanh xuân tôi, có lẽ Chúa
sẽ là Chúa của tôi khi tôi hấp hối!" Kể sao hết tên tuổi những
người từng phi bác đạo công giáo, những người vô thần, hoặc tự
xưng là vô thần, sống một đàng...mà chết một nẻo! Như thế có gọi
là thành tâm không?
- Có thể họ có lí của họ.
146
- Thì đây là lí mà Lơ Đăng-téc, anh chàng vô tín ngưỡng
kinh khủng nhất nuớc Pháp, đã có gan thú nhận: "Tại tôi vô thần,
tôi sẽ nói ra một cách vắn tắt, nhưng tôi không tự giấu mình tính
chất vu vơ của những lí lẽ đó. Tôi cũng khá khôn ngoan để tự nhủ
mình như Đơ La Pa-lit-xơ rằng sở dĩ tôi không tin Thiên Chúa, là
vì tôi vô thần; ai hỏi tại sao tôi không tin đạo, tôi chỉ có thể đưa
ra cái lẽ mạnh nhất đó."
- Xoàng quá!
- Mạnh lắm chứ!
- Nhưng các nhà bác học có tín ngưỡng thì lấy lí gì mà tin
đạo?
- Cậu có muốn nghe chứng của Cô-si không?
- Ông ta là một vĩ nhân!
- Thế này: "Tôi đi đạo với Ti-cô Bơ-ra-hê, Cô-pec-nic, Đê-
các-tơ, Niu-tơn, Lép-nít, Pat-xcan; với tất thảy các nhà vật lí học
và kỉ hà học đại danh các thế kỉ đã qua. Những xác tín của tôi là
kết quả không phải do những thành kiến cha truyền con nối, mà
do sự khảo sát kĩ càng. Đối với tôi, những chân lí trong đạo chắc
chắn hơn là định lí bình phương của đường huyền hoặc định lí
Mác-Lô-ranh". Đó là lời tuyên tín mà ông ghi vào trong bài tưạ
một cuốn sách ông viết.
- Ngang nhiên nhỉ!
- Phải. Cậu ạ, hễ có ai bảo cậu rằng tôn giáo kìm hãm trí tuệ
và người theo tôn giáo là người ngu si, cậu chỉ cần bảo họ rằng
tôn giáo xưa nay rất ít cản trở các nhà bác học, đến nỗi những bậc
lỗi lạc nhất trong họ, theo tỉ số 12 với 1, đều có tín ngưỡng. Cậu
hãy kể cho họ nghe kết quả của cuộc điều tra do báo Figaro tổ
chức năm 1926....
- Điều tra cái gì?
- Người ta muốn biết liệu khoa học có đối lập với tín ngưỡng
hay không. Và 73 thành viên của viện Hàn lâm KHoa học đã trả
lời.
- Trả lời thế nào?
- Không một ai kết luận là có sự đối lập. Không thể kể hết
những câu trả lời đó. Đây, chẳng hạn, có một vị trả lời: "Trước
đây và hiện nay có nhiều nhà bác học đại danh có tín ngưỡng
147
không? Có. Nhận xét đó phũ phàng như một sự việc không như ý.
Do đó, vấn đề đã được đặt ra rồi, không phải đặt ra nữa".
- Ai trả lời như vậy ?
- Ac-xen Đác-xông-van (Arsene d'Arsonval), nhà vật lí học
giáo sư ở Cao đẳng học viện Pháp
- Nếu tất thảy thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học đều
chống lại cậu, thì cậu còn tranh cãi, còn tự đắc tự mãn làm gì nữa!
Cậu chỉ có đầu hàng.
- Như thế mới khôn, cậu ạ. Như vậy là bó đuốc khoa học sẽ
không đánh tan được tăm tối của niềm tin như người ta quả quyết.
Tôn giáo và khoa học, cả hai đều do Thiên Chúa, thì không thể
mâu thuẫn nhau được. Trái lại, hai bên thâm nhập nhau, giúp
nhau; hai bên có thể và phải cầm tay nhau cùng tiến bước. Tôn
giáo không bao giờ ngăn trở tư tưởng của ai. Có chăng, cũng chỉ
ngăn trở kẻ không thể suy nghĩ được thôi. Vả chăng, mục tiêu hai
bên không giống nhau. Hăng-ri Bác-bu mà cháu vừa dẫn ở trên,
phát biểu như thế này, ta có thể lấy làm câu kết luận: "Thật là ảo
tưởng hết chỗ nói, nếu nghĩ rằng có thể hoán cải người ta bằng lí
luận. Tôi biết chắc rằng cái lô-gích mãnh liệt và có thế lực của
Bơ-ruy-nơ-chi-e đã đốt nóng nhiều người từ lâu vốn có xác tín;
tôi sung sướng khi nghĩ rằng cái lôgích đó đã làm xao động
hoang mang nhiều kẻ vô tín ngưỡng, thế nhưng tôi không chắc nó
đã khuất phục được họ. Sao thế? Vì tôn giáo nào cũng có sức yên
ủi, mà những câu tam đoạn luận thì chả yên ủi được ai. Nào Bài
Giảng trên Núi không phải là chỗ tập họp lạ lùng những mâu
thuẫn trí khôn người ta chưa hề gặp phải, không phải là cái chọc
tức lô-gích của loài ngưòi đó sao Vậy mà Bài giảng đó đã hoán
cải được thế giới, là vì đó là một dòng thác tràn đầy từ ái và yêu
thương".
- Như thế là giữa khoa học và đức tin không có mâu thuẫn
sao?
- Trong bài "Thách thức" hùng hồn của ông, Măng-xi-ông có
nói: "Thưa các ngài bác học vô tín ngưỡng, xin các ngài cứ viết
ra trên một tấm bảng, hai cột so sánh với nhau: ở cột thứ nhất,
hãy ghi những cái chắc chắn trong khoa học; tôi nói chắc chắn,

148
không nói giả thuyết; ở cột thứ hai, hãy ghi những cái chắc chắn
trong tôn giáo. Rồi cứ so sánh xem!"
Vả chăng, nói mâu thuẫn giữa khoa học với đức tin, nhưng
khoa học nào? " Khoa học thiên văn sao? Nếu có, thì La-pơ-lát-
xơ phải đã thấy. Y học sao? Nếu có, thì Pat-xtơ phải đã thấy. Vật
lí sao? Am-pe lẽ ra đã lưu ý. Hoá học sao? Không lẽ La-voa-di-ê
đã không thấy! Triết học sao? Nếu có, thì hẳn là thánh Tô-ma đã
mách cho chúng ta biết. Khoa học sẽ không bao giờ mâu thuẫn
với đức tin, chỉ vì lẽ là chân lí không thể mâu thuẫn với chân lí".
Cậu ạ, đối với những người tự xưng là bác học, muốn nhân
danh khoa học mà phi bác tôn giáo, thì chúng ta chỉ có thể đáp lại
bằng câu trả lời đích đáng của Niu-tơn khi thấy Han-lê chế nhạo
niềm tin: "Những cái đó, tôi đây đã nghiên cứu rồi; còn ông thì
chưa!"
Hẳn là cậu đã nghe nói về nhà địa chắt học thời danh P.Téc-
mi-ê. Trong tác phẩm của ông, cuốn "Niềm vui được biết", trang
291 và 312, ông nói thế này: "Khoa học có nhiệm vụ làm cho ta
có ý thức về bí nhiệm; nó gợi lên bí nhiệm, hơn là giải thích bí
nhiệm. Làm sao người tín đồ lại có thể sợ khoa học! Tôi từng
nghiên cứu các ngành khoa học, mà tôi chưa hề gặp một lẽ nào
thật mạnh để hoài nghi về đạo Kitô; Trái hẳn thế, tôi gặp được
trong đó những lẽ mạnh giúp tôi bám chắc hơn nữa vào những
điều tôi tin".

Chương III

Hỏa ngục muôn kiếp


149
- Trong đạo Công giáo, có một tín điều cậu không thể thừa
nhận, đó là hỏa ngục.
- Trước chân lí khủng khiếp đó mà chối suông như thế,
không đủ.
- Thì cháu có những chứng cứ gì nào?
- Có chứ!
- Đủ thuyết phục không?
- Cháu hi vọng là có, nhất là với một đầu óc trung thực,
không sợ ánh sáng.
- Nhưng, hỏa ngục, ồ, không thể thừa nhận được! Trí khôn
người ta có thể hiểu là có một hình phạt tạm thời; còn một hình
phạt vô cùng, một hình phạt vô cùng, một hình phạt trừng trị mãi,
không chút thương hại, kẻ mạnh trừng trị người yếu, Thiên Chúa
trừng phạt thụ tạo mình; cha trừng trị con mình! Thú thật, tín điều
đó không thể thừa nhận được. Lí trí cậu phản đối.
- Có lẽ cậu sẽ bỡ ngỡ, nếu cháu nói rằng chân lí đó có ngay
hồi mới có thế giới.
- Thật không?
- Nhất định phải là Thiên Chúa đã mạc khải chân lí đó ngay
từ đầu, vì rằng không một tôn giáo nào, thật cũng như giả, mà
không giữ lại dấu vết và nhiều khi trọn vẹn cả chân lí kì diệu đó.
Từ Đông sang sang Tây, ở Hi lạp, ở Rô-ma, cũng như tại ấn độ,
Ai cập, đâu đâu cũng thấy có giáo lí đó.
- Cháu làm cậu kinh ngạc quá! Cháu căn cứ sách vở nào vậy?
- Pơ-la-tông nói: "Những linh hồn đã phạm những tội ác
nặng nề, phải ném xuống vực thẳm gọi là hoả ngục, ở đó, họ phải
chịu những hìnhg phạt làm khổ họ trong một cõi vô cùng rùng
rợn". Tác-ta-rơ, nơi ở của những người khổng lồ quái dị là gì? Ti-
xi-ô luôn tái sinh, là gì? Tăng-tan-lơ, không bao giờ được tới gần
nước mà uống cho giãn khát, là gì? Xi-xi-phe, đời đời lăn một
tảng đá cứ rơi mãi, là gì? Tê-dê-a, phải phạt muôn đời ngồi trên
một tảng đá bất động, là gì? Cậu không thấy đó là hình ảnh những
cực hình muôn kiếp sao? Vậy, nếu cõi đời đời là không có thật,
thì hiểu sao được niềm tin ghê gớm khủng khiếp đó? Làm sao
nhân loại đã có thể tự mình nghĩ ra một sự kinh khủng như vậy?
150
Chính Vôn-te đã phải thú nhận: "Người Can-đê, người At-xi-
ri và người Ai cập xưa kia đều tin có những hình phạt muôn kiếp.
Nơi người Hi lap và người Rôma, chúng ta cũng thấy họ tin như
thế. Tóm lại, mọi dân tộc trên thế giới đều tin như thế."
- Ông ta có tin như thế không?
- Nào ông ta đã không trả lời một người vô tín ngưỡng tự
phụ mình đã chứng minh được không có hoả ngục, rằng: "Như
thế thì anh sung sướng lắm. Còn tôi, tôi chưa chứng minh được
điều đó!" Sao? Và Đi-đơ-rô: "Tôi thách các bạn chứng minh
được không có hoả ngục!"
- Thế mà cậu cứ nghĩ Đức Giêsu mới là người đầu tiên tuyên
giảng chân lí đó.
- Người mạc khải nó cho thế giới một cách rõ ràng, làm cho
không ai còn hồ nghi được nữa. TrongTin mừng, Người khẳng
định bằng những lời lẽ minh xác: "Hỡi đồ vô phúc, cút đi, vào lửa
muôn đời! Và chúng sẽ vào nơi khổ cực muôn kiếp".
- Cháu định dựa vào lời khẳng định đó để kết luận?
- Hai điểm: 1/ Không thể bảo rằng Đức Giêsu nói ra những
lời ngăm đe như thế chỉ nhằm làm cho cử toạ khiếp sợ và dùng
một một sự sợ hãi để giục họ ăn ở tốt hơn; bởi vì Đức Giêsu vô
cùng thánh thiện, không thể có một sự gian trá như thế; 2/ ở đây
có một lưỡng đao luận: hoặc là điều Đức Giêsu nói là thật và như
thế thì không phải bàn cãi gì nữa; hoặc là lời Người không thật,
mà không thật thì hoặc là Người nói dối, hoặc là Người đánh lừa
ta. Nói dối, thì Người không phải là Thiên Chúa và thế là đạo
Người đổ. Nếu không có hoả ngục muôn kiếp, thì Tin mừng
không thật, Đức Giêsu nói dối, cả đạo công giáo sụp đổ như toà
nhà sập vì người ta giật mất của nó một viên đá góc tường.
- Luận cứ của cháu mạnh đấy. Nhưng Thiên Chúa quá nhân
hậu, không đời nào Người lại luận phạt cậu.
- Vì thế Thiên Chúa không luận phạt, mà chính người có tội
tự luận phạt mình.
- Cậu không hiểu.
- Thiên Chúa thân đến với con người và bảo: Hãy kính mến,
hãy vâng lời...thì con sẽ muôn đời sung sướng với Cha. Con được
tự do. Nhưng nếu cả đời người có tội cứ ngoan cố, không chịu
151
vâng lời và kính mến Thiên Chúa, nếu nó chạy theo thụ tạo mà từ
chối Tạo hoá, nếu nó hi sinh Thiên Chúa cho dục vọng mình, tóm
tắt, nếu nó xua đuổi Thiên Chúa, thì Thiên Chúa bỏ đi. Sự chết
đến, mà Thiên Chúa chưa trở lại trong linh hồn tội nhân. Nguyên
một sự việc đó làm cho người có tội chịu phạt hoả ngục; vì hoả
ngục chẳng qua là sự kéo dài tội nặng sau khi chết.
Thiên Chúa sẽ bảo tội nhân: ngươi không muốn nhận Ta ư?
Ngươi đã xua đuổi Ta ư? Được! Thì ngươi cứ đi, đi cho xa mặt Ta
và hãy sống sung sướng, nếu ngươi có thể! Như thế là tội nhân tự
luận phạt mình, tự cách li mình. Nó đã đuổi Thiên Chúa. Nó đã
trốn mặt Thiên Chúa. Nó sẽ đi đâu? Nó sẽ trốn mặt Thiên Chúa
mãi muôn đời, không khác nào một vật thể bị ném ra khỏi khối
cầu nó vốn ở trong đó, sẽ vĩnh viễn lìa xa tâm điểm. Sở dĩ kẻ dữ
phải ở xa Thiên Chúa, là vì chính nó đã khởi sự tự tách mình ra và
đã giữ mãi thái độ đó, cứ ngoan cố mãi đến cùng. Hình phạt của
nó là tận cùng lô-gích của lỗi nó phạm.
- Như thế khổ lắm nhỉ!
- Nào người ta có thể buộc Thiên Chúa phải ban mình cho kẻ
không bao giờ mến Người sao? Ai dám quyết như thế thì thật là kì
dị. Có thể rằng trước ngưỡng cửa đời đời, một lần cuối cùng - và
đây là ý kiến nhiều nhà thần học, - Chúa Cứu thế đích thân hỏi
người đó: "Con có mến Ta không? - Không!" Thế là hình phạt
giáng xuống kẻ đã từ chối đến cùng thái độ yêu thương của Thiên
Chúa.
- Được. Nhưng cậu không thể không nghĩ trong lòng và nói
lên rằng trong việc đó, Thiên Chúa không công bằng. Cậu đã vi
phạm luật Thiên Chúa, cậu có tội, phải. Nhưng để trừng phạt lỗi
lầm cậu phạm trong chốc lát, Thiên Chúa lại bắt cậu chịu những
cực hình kinh khủng suốt cõi đời đời sao? Rõ ràng là thiếu công
bằng và như một thách thức đối với lẽ phải.
- Cậu nghiên cứu các pháp chế, cậu có thấy đâu qui định sự
cân đối giữa thời gian phạm tội và thời gian phải phạt vì tội đó
không? Cháu không thấy pháp chế nào qui dịnh như thế cả. Đâm
một lát dao, bắn một phát súng giết một mạng người, mất bao
nhiêu giây? Chỉ một giây thôi. Vậy mà để trừng phạt tội phạm
trong chốc lát đó, người ta lên án tử hình, nghĩa là bắt phải chịu
152
hình phạt không bao giờ cùng. Nếu việc đó, công lí người đời
không cho là bất công, sao cậu lại dám cho là bất công đối với
công lí của Thiên Chúa?
- Ít ra cũng có một sự cân đối nào đó giữa mức nghiêm trọng
của tội phạm và mức thẳng nhặt của hình phạt. Còn ở đây, không
cân đối tí nào cả.
- Cậu biết như thế nào là cân đối? Muốn chứng minh hai cái
gì đó là không cân đối với nhau, trước hết phải hiểu hai cái đó đã.
Nếu cháu với một người kia bị lên án tử vì tội lấy trộm một quả
cam, thì đúng là không có cân đối. Mà cháu nói được như thế, vì
cháu biết một quả cam đáng giá như thế nào và tử hình là thế nào.
Đàng này, cậu có biết được sự tội nó to tát nặng nề như thế nào
không? Muốn biết được điều đó, phải nắm được tầm mức chính
xác của sự oai quyền cao cả nơi Thiên Chúa. Do đó, cậu không
thể hiểu một tội người ta phạm là như thế nào.
Đàng khác, nói đến "đời đời", bao giờ lí trí chúng ta cũng
lồng lên, vì không bao giờ nó đo lường được tầm mức chính xác
của cõi "đời đời". Vậy đã không nắm được giá trị đúng thực của
hai cái: tội và cõi đời đời, thì sao cậu lại dám nói là giữa hai cái
không có sự cân đối?
- Dầu vậy...
- Cậu này, nói đúng lô-gích, không phải nói như thế này: tội
tôi nhẹ quá, không đáng phải phạt hoả ngục; mà chính là nói: tội
tôi đáng phải phạt hỏa ngục; do đó, nó nặng nề hơn là tôi ngờ.
Thực tế, cậu chỉ cần nhìn lên ảnh chuộc tội. Nếu một ngôi Thiên
Chúa đã phải chết, đổ hết máu mình đền tội cho loài người, thì
như thế là tự mình nó, sự tội phải có một ác tính kinh khủng lắm.
Cây Thập giá của Đức Giêsu đã từng nói cho chúng ta biết mức
độ lòng Người yêu thương chúng ta như thế nào, thì đồng thời nó
cũng cho chúng ta thấy sự công chính của Người cũng bao la vô
hạn như lòng yêu thương đó. Cậu xem: to tát biết bao sự công
chính đòi một giá chuộc lớn lao như vậy! Còn gì chứng minh
chắc chắn có hỏa ngục cho bằng trông thấy Thiên Chúa đòi cả
một của lễ trọng đại như thế để đền bù tội phạm! Phải. Ảnh chuộc
tội là một chứng cứ hùng hồn bậc nhất làm chứng có hỏa ngục.

153
- Nhưng tại sao lại phạt đời đời như thế? Đồng ý là Thiên
Chúa công chính có quyền phạt tội; nhưng cần gì phải phạt mãi
đời đời!
- Nhưng chính hình phạt ở tại việc chịu phạt đời đời. Mọi cái
gì có cùng, thì không đáng kể gì đối với con người cả. Một hỏa
ngục nhất thời sẽ không phải là một hỏa ngục. Vì con người biết
mình bất tử, nên nó phải có những hi vọng và sợ hãi vừa tầm
thước nó. Những khuynh hướng của nó vô hạn, mà đưa ra một
hỏa ngục có hạn, thì hỏa ngục đó làm nó sợ sao được, chặn đứng
nó khỏi trượt xuống vực thẳm sao được? Cái làm con người khó
chịu, chính là cái thường cản bước nó trên đường tội lỗi. Một hỏa
ngục nhất thời, nó sẽ chẳng coi ra gì.
Phải, cậu ạ, đối với con người, cái gì có hạn thì không đáng
kể gì hết. Chính vì thế mà người công giáo, tuy rằng tin có luyện
ngục và biết rằng ở đó người ta phải chịu những cực hình ghê
gớm để đền tội, nhưng trên thực tế, không mấy ai để ý đến luyện
ngục.Vì sao? Vì biết rằng hình phạt luyện ngục chỉ kéo dài một
thời gian.
- Nhưng dù sao thì việc phạm tội cũng có hạn, như một hành
vi.
- Đứng về phía con người mà nhìn thì, phải, nó có hạn;
nhưng đứng về phía Thiên Chúa, ác tính của nó vô hạn, vô cùng,
như sự cao trọng của Thiên Chúa mà nó xúc phạm là vô hạn, vô
cùng. Đàng khác, sự tội, xét ác tính chủ yếu của nó, chính là việc
người ta tự ý hi sinh sự thiện muôn đời để hưởng một thú vui
chốc lát. Vậy, nếu tội là tự ý hi sinh sự thiện muôn đời, là tự do và
tự ý từ bỏ Thiên Chúa để tìm thú vui bên ngoài Thiên Chúa, thì
taị sao việc tước bỏ sự thiện muôn đời đó (và như vậy là hỏa
ngục) lại không phải là hậu quả chính đáng của sự tự ý từ bỏ đó?
Như vậy, giữa tội và hỏa ngục quả có sự cân đối. Trong khi người
ta cố tình liều mất Thiên Chúa, thì chính là người ta thực sự ưng
thuận bỏ mất Người.
- Khi phạm tội, ai nghĩ đến tất cả những cái đó!
- Chính vì thế mà càng nghĩ đến những cái đó, người ta càng
ít phạm tội đi.
154
- Người ta không thấy trước tất cả những hậu quả đó.
- Người ta cũng biết những hậu quả đó khá đủ để lưu tâm.
- Tội là một hành vi chốc lát.
- Đồng ý. Nhưng xin hỏi cậu: chẳng hạn như khoái lạc dâm
dật, sự thật là nó xảy ra trong chốc lát thôi, nhưng nếu khoái lạc
đó có thể kéo dài như ý tội nhân, kéo dài mãi, thì họ có kéo dài
không? Đức Cha Ghe (Gay) nói: "Nếu lúc đó bạn có thể kéo dài
khoái lạc, phải chăng bạn đã không làm? Biết bao lần bạn đã
bảo thần tượng của bạn: mãi mãi! Hai tiếng đó vạch rõ chân
tướng bạn: tâm hồn bạn bất diệt và ước mơ bạn cũng không
cùng. Và giả sử trong đời người có tội, vào giờ phút nào đó,- tội
nhân biết rõ đó là giờ phút nào,- có một mãnh lực vạn năng nào
mở cõi Đời Đời ra trước mắt người đó; và chụp lấy người đó
đang khi người đó phạm tội và làm cho lạc thú người đó kéo dài
mãi, thì thử hỏi người đó có ưng thuận không? Và trong lúc
hưởng thụ cảnh thiên đường bỉ ổi đó, không phải là người đó
bán rẻ chính thiên đường mà Thiên Chúa ban cho đó sao?"
Tội thì nhất định là có hạn, nhưng ước muốn của người
phạm tội thì xa hơn, nó muốn bất diệt hoá lạc thú bỉ ổi của mình.
Nếu không thể thực hiện điều đó, ít ra nó cũng ước như thế. Vì
thế, Thiên Chúa là Đấng thấy rõ ý muốn con người, nên trước con
mắt Người, ở đây vẫn có sự cân đối giữa tội và hỏa ngục.
- Tại sao sau khi người ta chết rồi, Thiên Chúa không tha thứ
cho nó, để khỏi phải phạt?
- Là vì sự chết bắt gặp ta trong tình trạng nào, thì nó ghì lấy,
nó giữ chặt ta như vậy mãi. Cậu chết đang khi có tội, muôn đời
cậu sẽ là tội nhân. Trong hỏa ngục, tội nhân không cải hối được
nữa.
- Sao lại không cải hối được nữa?
- Cải hối là một thay đổi; mà thay đổi là nói kế tiếp, kế tiếp
đòi phải có thời gian; vậy mà trong cõi Đời Đời không còn thời
gian nữa.
- Trừu tượng quá nhỉ!
- Nếu cậu muốn rõ hơn: cải hối không chỉ là một thay đổi,
cải hối là một thay đổi tự do và có công trạng. Tự do là có thể
155
chọn lựa. Vậy mà người ta không thể thay đổi một cách có công
trạng nữa, một khi đã hiển nhiên; mà đối với người đã bị trầm
luân, thì đã có hiển nhiên. Bình sinh, tội nhân có thể bỏ dữ về
lành; chết rồi, đã chọn gì thì nhất định như thế mãi. Muốn cải hối,
cần hai điều: ơn thánh và tự do. Chết rồi, thì ơn thánh không còn
tác động nữa; người bị trầm luân không còn hi vọng gì được nữa.
Phải, cải hối, trở lại, là một ơn thuần tuý, mà thời giờ của ơn
thánh đã qua. Cậu có thấy ai muốn cải hối khi nào được khi ấy
không? Làm sao cậu lại muốn Thiên Chúa phải ban ơn cho kẻ
chết mà không cải hối, chấp mê, lòng còn quyến luyến tội, đôi khi
miệng còn nói phạm nữa?
- Vấn đề thật bí nhiệm!
- Đồng ý, nhưng vấn đề cũng khá sáng tỏ để trả thù cho
Thiên Chúa công chính vì những điều xúc phạm đến Người. Ô-
guyt-xtanh Ni-cô-la nói: "Không thể lấy thước công chính ta mà
đo sự công chính vô hạn. Phải chăng Thiên Chúa chỉ là một con
người, hay phải chăng con người là một Thiên Chúa? Thiên
Chúa vô hạn và do đó, ngoài Người ra, không ai hiểu được
Người. Nếu ta hiểu được sự công chính Thiên Chúa, sự công
chính Thiên Chúa bị hạ xuống ngang tầm sự công chính chúng
ta, thì không còn là sự công chính Thiên Chúa nữa, nghĩa là
không còn phải là không thể hiểu được sự công chính Thiên Chúa
nữa."
- Liệu không có lúc nào đó Thiên Chúa đổi công chính ra
thương xót sao?
- Thiên Chúa không thay đổi được. Lời Người không qua đi.
- Sau hàng tỉ năm?
- Lâu hơn thế cũng không. Tội nhân sẽ muôn đời là tội nhân;
lòng nó sẽ cứ vĩnh viễn cắm chặt trong sự dữ. Đức Giám mục
Bôt-xuy-ê nói: "Tội nhân chết trong tình trạng tội lỗi. Như thế là
sự tội đã nhập thân vào con người tội nhân. Con người đã thành
tội?"
- Nhưng để đáng phải chịu cái cực hình kinh khủng và muôn
kiếp đó, người ta phải đã ưng thuận một tội ác chứ!

156
- Thiên Chúa có thể trừng phạt cách đó, kẻ nào hoàn toàn có
tự do mà cố tình, mà ngang nhiên vi phạm luật lệ Người và chủ ý
làm việc có tội nặng và bị cấm vì là tội nặng, mà không có hoàn
cảnh nào giảm nhẹ. Thường thì Người nhẫn nhục chờ đợi, Người
tha thứ. Nhưng đối với kẻ ngoan cố trong sự tội, thì Người tha thứ
sao được?
- Đối với sự công chính thì được. Nhưng làm sao dung hoà
lòng nhân hậu của Đấng mà cháu gọi là Chúa nhân lành với hỏa
ngục muôn kiếp? Một cực hình người ta phải chịu lâu dài, cuối
cùng làm thoả mạn sự công chính; còn khi nguời ta đã chịu phạt
lâu dài, mà tha thứ, thì sự tha thứ đó không còn là một ơn ban của
người tuyên án, cho bằng một quyền của người bị lên án. Lẽ nào
một vị Thiên Chúa mà cháu cho là nhân hậu như thế, lại nhẫn tâm
oán phạt người ta suốt cõi đời đời cho thoả mãn sự công chính
của mình sao?
- Tóm tắt, có phải cậu nhân danh lòng yêu thương và sự lân
tuất mà phản đối sự công chính không?
- Phải.
- Được rồi. Trước hết, cậu nên biết rằng ở đây không phải sự
công chính không có lân tuất, mà chính là lòng yêu thương. Lòng
yêu thương khi đã bị khinh miệt, sỉ nhục, chế diễu, thế nào cũng
báo thù. Cậu không biết câu thơ bất hủ của Ra-xin sau đây sao "
Tôi đã yêu nó quá nhiều, nên bây giờ không thể không ghét nó!"?
Khi thấy một vị Thiên Chúa nhập thể, sinh ra, làm lụng ở
trần gian và vì những kẻ Người định cứu rỗi mà chịu những cực
hình ghê rợn; một vị Thiên Chúa bị trói, bị vả mặt, đánh đập, chế
diễu, bị treo lên, bị gia hình, bị đóng vào khổ giá; một vị Thiên
Chúa liệu trăm phương nghìn kế lạ lùng nhằm tạo điều kiện cho ta
hưởng ơn tha thứ của Người; một vị Thiên Chúa nuôi ta bằng
Mình Máu Người, linh hồn và thần tính Người, một vị Thiên
Chúa nhân hậu đến mức nhiều khi chỉ cần một hạt nước mắt, một
dấu ăn năn, để tha trắng cả một cuộc đời phóng đãng, đầy tội ác;
khi thấy, đứng trước lòng yêu thương lạ lùng, một thụ tạo lại
khinh miệt, từ chối, chế diễu Đấng đã yêu mình đến vì thế mà
chết đi, thử hỏi ai mà không cho rằng lòng yêu đó có quyền báo
157
thù lại? Yêu mà bị nhục thì thôi, không yêu lại lần nữa. Bị công
chính lên án, còn có thể khiếu nại đến lòng yêu; chứ bị chính lòng
yêu lên án, thì khiếu nại vào đâu nữa?
- Tất cả những cái đó chỉ là tình cảm!
- Cháu thiết tưởng nói về tình yêu, tất phải nói đến tình cảm.
Nhưng, đây, một lẽ khác. "Thử ngẫm nghĩ xem: Thiên Chúa yêu
thụ tạo đến mức bắt tính toàn năng mình thực hiện việc tạo
thành; bắt uy quyền mình để Con mình hóa hư hèn trong việc
Nhập thể; bắt Khôn ngoan mình thực hiện sự điên rồ Thập giá;
bắt tính Công chính mình đánh chết Con yêu; đẩy lòng rộng rãi
mình tới việc ban mình trọn vẹn; làm cho lòng hào hiệp mình
khoan thứ cho mọi người; làm cho lòng lân tuất mình trăm ngàn
lần, vô số lần tha thứ tội nhân; giục lòng bao dung mình suốt 50,
60, 80 năm trời kêu mời, soi sáng, giúp đỡ...thử ngẫm nghĩ xem
lòng yêu dai dẵng, lạ lùng, điên rồ của Thiên Chúa đối với con
người, đối với con người tội phạm như thế, cuối cùng liệu có làm
được cho tất thảy những sự trọn hảo Thiên Chúa trọn vẹn từ bỏ
và phủ nhận chính mình không?" (GM.Ghe).
- Cháu nói như thế chủ ý gì?
- Chịu thua trong cuộc đấu tranh với một ý muốn thụ tạo,
như thế không phải là tự phủ nhận chính mình sao? Phạm tội là
đấu tranh chống lại Thiên Chúa; cái làm người có tội đáng phạt
(tuy chỉ một tội nặng đã đủ) thường không phải là chính sự dữ,
cho bằng thái độ ngoan cố trong sự dữ, ngoan cố một cách cố
tình, nếu không phải bao giờ cũng do bất trung, ít ra do lãnh đạm.
Trước sự ngoan cố như vậy, Thiên Chúa không thể chịu thua mà
không tự phủ nhận và thú nhận là mình bại trận! Giả sử có một
người vô đạo, suốt đời không những chối Thiên Chúa, mà còn
lăng mạ, tấn công Người, cố giành giật Người khỏi linh hồn
người ta và cuối cùng khi chết, lòng vẫn căm ghét, miệng vẫn nói
phạm đến Thiên Chúa. Y sa hỏa ngục. Nếu hỏa ngục không kéo
dài muôn kiếp, thì kẻ vô đạo đó, từ đáy vực thẳm, vẫn có thể tiếp
tục lăng mạ Thiên Chúa, căm ghét Người và thét bảo Người: mầy
phạt ta, ừ, mày có quyền làm như thế. Nhưng việc đó không làm
ta thôi nguyền rủa, mạt sát mày. Vì hỏa ngục không có mãi muôn
158
kiếp, nên có ngày, mày sẽ bắt buộc phải nhận ta lên trên đó, trong
cõi thiên đường của mày và ban cho ta là kẻ hiện đang căm ghết
mày, những lạc thú vô biên của cõi trời! Và thế là chính ta, con
người, ta sẽ thắng mày! Chính ta, sự căm thù, sẽ thắng mày là
Tình yêu! Chính ta là sự dữ sẽ thắng mày là sự Lành!
Cháu nói như thế, cậu đã hiểu tại sao hỏa ngục phải muôn
kiếp chưa?
- Cháu đã làm cậu nao núng. Thú thật lời cháu làm cậu thất
điên bát đảo. Chưa bao giờ cậu nghĩ đến những kết luận đó!
- Chưa hết, cậu ạ: nếu hỏa ngục không muôn kiếp, thì thiên
đường cũng không thể muôn đời tồn tại. Hủy tính vĩnh hằng của
hình phạt, thì cứ lô-gích, cũng hủy luôn tính vĩnh hằng của phần
thưởng nữa. Vậy mà thiên đường không muôn đời, sẽ không còn
là thiên đường nữa. Vì thế, thánh Ô-guýt-tanh nói: "Cả quyết
rằng sự sống muôn đời sẽ không bao giờ hết, nhưng cực hình
muôn đời sẽ có lúc hết, như thế chẳng phải là phi lí cực điểm đó
sao?"
- Đúng. Thế nhưng người ta cũng có thể cãi rằng: Thiên
Chúa biết tội nhân thế nào cũng sẽ sa hỏa ngục, sao không để nó
trong hư vô chẳng tốt hơn sao?
- Như thế, không lẽ Chúa tể trời đất lại không thể tạo nên
một con người có thể chọn lựa giữa lành và dữ sao? Mà không tạo
thành, thì tức là Thiên Chúa từ bỏ tính toàn năng, vì như thế là
Người chịu thua ác tính có thể có của thụ tạo. Như thế không phải
là trói tay Thiên Chúa lại và từ chối không ban sự sống cho bất cứ
thụ tạo có thể có nào đó sao?
- Nhưng khi tạo dựng linh hồn đó, thì Thiên Chúa biết rõ nó
sẽ bị trầm luân.
- Việc Người biết trước không phải là nguyên nhân đưa đến
việc nó hư đi; không phải vì Thiên Chúa biết trước tội lỗi và án
trầm luân của tội nhân, mà người đó sẽ bị trầm luân; trái lại, chính
vì người đó sẽ phạm tội và tự làm cho mình bị trầm luân, mà
Thiên Chúa biết trước và đã biết trước điều đó từ muôn đời.

159
- Dẫu sao thì trong hình phạt hỏa ngục, vẫn có một cái gì có
tính chất báo thù, vì tội nhân bị tước hết mọi cái, ngay cả khả
năng hoán cải cũng chẳng còn nữa.
- Nếu lí luận đó của cậu là có căn cứ, thì như thế là các quan
toà chỉ được lên án những tội phạm có cam đoan sửa mình, còn
những tội phạm ngoan cố thì không can gì cả. Như vậy thật là phi
lí. Các quan toà kết án tử hình một tội nhân, thì đồng thời không
phải là làm cho họ hết khả năng cải hối nữa sao?
- Cậu đọc sách đạo thấy nói trong hỏa ngục có lửa. Cháu tin
có lửa đó không?
- Tin mừng nói: "Cút đi! Hỡi đồ vô phúc, hãy vào lửa muôn
đời!" Danh từ lửa ở đây phải hiểu là lửa thật...
- Nghĩa là lửa vật chất?
- Đa số các Giáo phụ, Tiến sĩ và nhà thần học đều nhất trí
hiểu danh từ lửa theo nghĩa đen.
- Nhưng nghe nói một số tác giả bảo đó là nghĩa bóng.
- Họ chưa khẳng định, chỉ mới nghiêng về ý đó thôi. Đó chỉ
mới là một ý kiến được đề xuất.
- Thế Giáo hội đã định tín tính vật chất của lửa hỏa ngục
chưa?
- Chưa. Giáo hội chưa tuyên bố một quyết định có tính cách
tín lí nào buộc tin tính chất khách quan của lửa hỏa ngục, nếu
không phải kể là lạc giáo. Năm 1890, Thánh bộ Xá giải chỉ mới
công bố rằng không được giải tội cho kẻ không chịu tin tính thực
tại của lửa đó.
- Thế thì làm sao một yếu tố vật chất như lửa, lại có thể tác
động đến một thực tại vô vật chất như linh hồn đã tách lìa khỏi
thể xác?
- Tất nhiên, đây là một mầu nhiệm. Nhưng ta có thể gặp thấy
một trường hợp tương tự là việc linh hồn vô chất hợp nhất với thể
xác vật chất. Ở đây có một sự hợp nhất căn bản, tuyệt đối giữa hai
yếu tố khác bản tính nhau, nhưng hoà vào nhau đến mức chỉ làm
nên một thực thể duy nhất, tác động qua lại liên lỉ đối với nhau.
Như thế không lẽ ta phải phủ nhận mọi cái gì ta không hiểu sao?
Ai ngăn được linh hồn không cho nó hợp nhất với lửa ở đời sau,
160
như linh hồn hợp với thể xác ở đời này, hợp nhât một cách khá
khăng khít để lửa có thể đốt cháy nó?
- Làm sao lửa đốt kẻ dữ mà không làm nó tiêu tan?
- Những bí nhiệm trong tự nhiên, chúng ta cũng biết ít thôi,
thì đừng cố hiểu cho tận chân tơ kẻ tóc những bí nhiệm ở đời sau.
Vả chăng, cậu không thấy một số chất, lửa đốt mà chỉ trắng ra, mà
không tiêu tan, như a-mi-ăng sao? Cha Mông-xa-bơ-rê nói rằng
lửa hỏa ngục không phải "thứ lửa tồi mà ta đốt lên, hết nhiên liệu
là nó tắt ngay, nhưng là thứ lửa tiềm tàng trong trong tất thảy và
mỗi một phần của vũ trụ, nó toả ra qua không gian, ta gặp nó
trong mọi chuyển động; đó là cái sức vô tận và luôn hoạt động,
là một thứ linh hồn của vũ trụ mà những thứ khí cơ động nhất và
mạnh nhất, có lẽ chỉ là những biểu hiện bề ngoài."
- Thiên Chúa cũng có thể làm tội nhân ra không, thế là hỏa
ngục không còn lí do để tồn tại.
- Chúng ta không được "lên lớp" cho Đấng Tối cao. Tuy
nhiên, giả sử Thiên Chúa phạt tội nhân ra không. Thế thì cậu
không thấy rằng tội nhân sẽ tha hồ mà sống theo sở thích, phạm
đủ mọi tội xấu xa, vì đã biết chắc mình sẽ không bị trừng phạt
sao? Hơn nữa, như thế thì làm sao có sự trừng phạt cân xứng
được? Không lẽ một người chỉ phạm một tội nặng cũng bị xử phạt
một cách như kẻ suốt đời phạm nhiều tội quái gỡ ai cũng kinh
khiếp sao?
- Thôi. Cậu không biết lấy lẽ gì cãi lại cháu nữa. Tuy nhiên,
dẫu cháu đưa ra nhiều luận cứ và chứng cứ như thế, cậu vẫn chưa
dễ mà tin.
- Phải. Hoả ngục muôn kiếp, kinh khủng, rùng rợn. Cháu biết
thế, cháu cảm thấy như thế. Nhưng chừng nào Thiên Chúa còn là
Thiên Chúa, chừng đó lời của Người vẫn không qua đi, mà sự oán
phạt của Người cũng vậy.
- Uớc gì cậu có thể tin như thế!
- Cậu cứ kiên trì. Chân lí đang tiến tới. Nó sẽ toả sáng, có thể
là không lâu nữa đâu. Nhưng, như người ta nói: "Khi người ta đi
tìm chân lí, thì cái điều kinh khủng là cuối cùng thế nào người ta
cũng gặp nó". Vì gặp nó, thì phải tiếp nhận nó cùng với mọi hậu
161
quả đi kèm nó. Do đó, xin cậu cứ tìm chân lí đi. Cậu sẽ gặp nó và
có ngày cậu sẽ tiếp nhận nó.

Chương IV

Phép lạ

- Này Mác-đa, cậu thấy đối với cậu, trời đã hé sáng, nhưng
đàng chân trời còn nhiều đám mây khổng lồ.
- Thì chúng ta hãy cố xua tan chúng đi. Có điều là cháu
không thích là cậu cứ lặp đi lặp lại những vấn nạn tồi nghe lỏm ở
quán cà-phê hay đọc trong báo.
- Hôm nay, cậu mang đến cho cháu một vấn nạn rất nghiêm
trọng.
- Ô! Những con ngáo ộp của cậu rồi cũng dễ thanh toán như
những lần trước thôi. Một khi cậu đã hiểu rõ hơn, thì lí trí ngay
thẳng của cậu sẽ đầu hàng.
- Chúng ta hãy nói về phép lạ nhé! Phép lạ là cái không thể
nào chấp nhận.
- Trước hết cho phép cháu định nghĩa đúng phép lạ là gì:
phép lạ là một sự kiện dị cảm, ngoài thường, có tính cách tôn
giáo, vượt quá trật tự và năng lực của tự nhiên, bao gồm một yếu
tố cứu cánh, nghĩa là đáp ứng với một cứu cánh xứng hợp với sự
khôn ngoan Thiên Chúa. Cậu có hiểu phép lạ là như thế không?
- Cậu tán thành định nghĩa đó. Nhưng cậu cần nói ngay với
cháu rằng: đối với cậu, phép lạ hiểu như thế là không thể có.
162
- Giăng Giắc Rút-xô đã từng tự hỏi mình thế này: "Thiên
Chúa có thể làm phép lạ, nghĩa là có thể làm trái với những định
luật chính mình đã đặt ra không? Câu hỏi đó, xét cho nghiêm
chỉnh, thì thật là vô phép đối với Thiên Chúa, nếu không phải là
phi lí. Đối với kẻ trả lời câu hỏi đó bằng tiếng "không", nếu chỉ
trừng phạt mà thôi, thì còn quá kính trọng họ; đúng ra, phải bỏ
tù!"
- Cháu định bắt giam cậu đấy ư?
- Không phải cháu, chính Rút-xô!
- Cháu thử trả lời nghiêm chỉnh xem nào!
- Thế này. Thiên Chúa đã tự do thiết lập các định luật của thế
giới hữu hình, nào Người không thể bắt các định luật đó phải đình
chỉ sao? Người đã sáng tạo vũ trụ, nào Người không có quyền và
có khả năng tái tạo như ý mình một bộ phận đã hỏng sao? Anh
thợ máy có thể cho đầu máy chạy chậm lại, hay chạy nhanh hơn;
con nguời có thể đắp đê ngăn dòng nuớc, mà Thiên Chúa lại bất
lực đến nỗi không thể ngăn chặn một sức tự nhiên trong một số
trường hợp nhất định sao? Vì là Tạo hoá và Chúa tể của tự nhiên,
Thiên Chúa không thể bị những định luật của chính tự nhiên trói
buộc. Đàng khác, nào chúng ta biết được gì chắc chắn về các định
luật tự nhiên? Về điểm này, hiểu biết của ta chỉ là tương đối, và
có những định luật cách đây đã 50 năm được coi là chân lí tuyệt
đối, mà hiện nay lại bị phi bác.
- Đối với phép lạ, hay ít ra đối với cái mà cháu gọi là phép lạ,
chỉ có thể giải thích bằng "tự kỉ ám thị".
- Được rồi! Nếu các phép lạ, như phép lạ ở Lộ đức, đều do tự
kỉ ám thị mà ra, cháu xin đề nghị với cậu như thế này. Cậu cứ mở
môt phòng khám bệnh. Cậu sẽ tập hợp tại đó tất thảy những bệnh
nhân, những người bị thương, những người điếc, mù, què, cùi,
lao, ung thư,...rồi cậu cứ bảo họ: Các bạn, đây là thứ thuốc công
hiệu và rẻ tiền: tất thảy các bạn cứ tự ám thị và tin chắc rằng các
bạn không đau ốm bệnh tật gì hết. Từ sáng chí tối, rồi từ tối chí
sáng, các bạn cứ nói đi nói lại liên lỉ: tôi không có bệnh, tôi không
mù, tôi chẳng có ung thư... Hôm sau, các bạn lại nói như thế, và

163
hôm sau nữa...cứ thế mãi. Cuối cùng, nhờ việc tự kỉ ám thị đó, tất
thảy các bạn sẽ khỏi!
- Cháu kì cục quá!
- Có đâu! Cháu chỉ áp dụng nguyên tắc của cậu thôi! Đồng ý
là đối với một số bệnh thần kinh nhất đinh, việc tự kỉ ám thị có
thể đem lại kết quả, chẳng hạn chứng thần kinh suy nhược... Thế
nhưng, cậu cũng biết rằng ở Văn phòng kiểm nghiệm tại Lộ đức,
người ta dứt khoát không hề nhận bất cứ một thứ bệnh nào về
thần kinh. Riêng cháu, cháu quyết hẳn là tự kỉ ám thị không thể
làm được gì đối với một trường hợp lao da, mù, lao phổi hay ung
thư.
- Phép lạ vượt trên luật tự nhiên. Đồng ý. Nhưng Thiên Chúa
là bất biến và khôn ngoan, không thể thay đổi bất cứ cách nào.
- Vì thế, đối với Thiên Chúa, không có "thay đổi". Phép lạ
chẳng qua chỉ là thực hiện một điều Người đã quyết định trước.
Người đã thấy trước những nguyên nhân phụ cũng như những
nguyên nhân chính. Không gì xảy ra mà bất ngờ đối với Người.
Trước mặt Người, không có quá khứ, cũng chẳng có tương lai.
Người thấy mọi sự ở hiện tại. Nói khác đi, khi làm phép lạ, Thiên
Chúa không thay đổi trật tự vũ trụ đã ấn định từ muôn thuở;
Người chỉ thực hiện điều Người đã thấy trước; mà phép lạ là điều
Người đã thấy trước. Phép lạ chỉ là ứng dụng trong thơi gian mọi
quyết định đã có từ muôn đời.
- Như vậy thì các định luật tự nhiên không còn là bất khả
xâm phạm nữa, vì mọi trật tự và mọi điều hoà đều có thể và phải
phá vỡ?
- Phép lạ căn bản là những ngoại lệ. Vậy mà ngoại lệ thì
không thủ tiêu qui luật; trái lại, chỉ kiện chứng qui luật. Khi một
nhà lãnh đạo tha bổng cho một bị can, phải chăng như vậy là thủ
tiêu công lí? Định luật tự nhiên ư? Ô! Bản thân chúng ta cũng vi
phạm mỗi ngày nhiều lần: chúng ta chiết cây, dâm cành, chúng ta
dùng thuốc mê để khỏi đau khi mổ xẻ, chúng ta uống thuốc ngăn
ngừa tác động của bệnh tật... Sao lại cấm Thiên Chúa không được
làm như thế?

164
- Nếu Thiên Chúa làm phép lạ, lẽ ra Người phải làm trước
một ủy ban gồm những nhà bác học, vật lí, hoá học và những
người thông thạo môn phê bình lịch sử và nội khoa.
- Cậu lặp lại luận điệu Rơ-năng? Cháu chẳng khen ngợi cậu
tí nào! Thế nào? Cậu định gọi Đấng Hoá công ra trước vành móng
ngựa cho thụ tạo xét xử Thiên Chúa sao? Như vậy Thiên Chúa chỉ
là một kẻ múa rối, một gã bán thuốc rong, biểu diễn một vài trò ảo
thuật nhằm mua vui cho công chúng, hay giải trí cho các nhà bác
học mà thôi sao? Cậu không thấy như thế là ngạo mạn đến gần
như điên rồ sao?
- Nhưng phép lạ gây nên những rối rắm trong việc sử dụng
thực tiễn các môn khoa học.
- Thiên Chúa ở trên những sự ngẫu nhiên đó. Chả lẽ Người
phải đến xin phép ta mới được làm công việc Người đã định sao?
- Thôi! Nhưng ai chứng minh cho cháu biết rằng một sự kiện
được kể là lạ lùng, đúng là một phép lạ?
- Tự thân nó, phép lạ là một sự kiện khách quan, do đó có thể
kiểm nghiệm, kiểm tra đựợc. Vì thế, chỉ cần: 1/ sự kiện có thật
một cách khách quan; 2/ Không thể gán cho một mình những lực
tự nhiên.
- Nhưng chúng ta không biết được hết mọi lực của tự nhiên.
- Đồng ý. Nhưng chúng ta biết đích xác rằng có một số hiệu
quả nhất định, nó không thể gây nên được, như làm cho một
người chết rồi sống lại, một người mù được sáng, một người điếc
nghe được, hay trong chốc lát chữa lành một người bị ung thư.
- Ma quỉ cũng làm được những sự lạ.
- Muốn phân biệt việc siêu nhiên do Thiên Chúa với việc
ngoại nhiên do ma quỉ, chỉ cần phân biệt: 1/ bản chất trường hợp
xảy ra: có những sự kiện vượt ngoài khả năng ma quỉ; 2/ tính chất
luân lí thể hiện hoặc nơi tác nhân, hoặc nơi hành động, các tình
huống, ...người ta không dễ mà lầm lẫn.
- Phép lạ, theo như cậu biết, thì chưa hề được kiểm nghiệm
một cách khoa học.
- Trước hết, cháu xin nói với cậu rằng cần phải chấm dứt
quan niệm cho phép lạ là một thí nghiệm khoa học. Các nhà bác
165
học rất đáng kính trọng; thế nhưng nếu họ đòi Thiên Chúa phải
tha hồ cho họ muốn sử dụng mình thế nào tùy ý, thì đó là ngạo
mạn. Đàng khác, cậu chỉ cần đến Lộ đức mà xem. ở đó, cậu sẽ
thấy tận mắt những thầy thuốc đủ moị tín ngưỡng, mọi nước,
đang khảo sát những người đã được khỏi bệnh và tuyên bố rằng
những sự kiện phi thường xảy ra trước con mắt họ đó, không thể
giải thích bằng những định luật tự nhiên mà thôi. Bác sĩ Boát-xa-
ri nhận thấy rằng có đến 300 thầy thuốc lừng lẫy tiếng tăm về
thành tích, đã đứng ra bảo đảm những sự kiện đã quan sát ở Lộ
đức. Cậu còn đòi gì hơn nữa?
- Cháu nói đến Lộ đức. Ô! Đây cũng còn biết bao điều dị
nghị!
- Thì cậu nói lên nào!
- Nào không phải chính nước Lộ đức chữa bệnh đó sao?
- Một thành viên có tiếng bậc nhất trong Đại học Khoa học
Tu-lu-dơ và ông Phi-lon, một nhà hoá học tiếng tăm, được cử
phân tích nước Lộ đức, đã kết luận rằng "nước đó không chứa
một chất gì có tính chất chữa bệnh cả"
- Như thế, không phải đây là những hiện tượng tự kỉ ám thị
đó sao?
- Nhưng ám thị có giới hạn của nó. Ám thị không thể sửa lại
một ống chân sai khớp, khôi phục lại chất tủy sống đã bị phá huỷ,
trong nháy mắt chữa lành một người lao da, hay chữa một lá phổi
hết sạch vi trùng Cốc. Hơn nữa, muốn chữa bệnh theo phương
pháp tâm lí, cần có thời gian. Vậy mà những ca khỏi bệnh quan
trọng ở Lộ đức đều xảy ra trong chốc lát.
- Nhưng có thể là có sự tự kỉ ám thị tập thể, gây nên do sự
phấn khởi cao của tiếng hát, tiếng đọc kinh, sự khó chịu vì phải
chờ đợi, sự cuồng tín của lũ đông.
- Cháu đố cậu tìm ra trong những sự kiện Lộ đức, chỉ một ca
khỏi bệnh đã được kiểm nghiệm kĩ càng mà cậu có thể cho là do
tự kỉ ám thị, dẫu là ám thị tập thể. Các bác sĩ chỉ đồng ý kiểm
nghiệm những ca không có bóng dáng thần kinh suy nhược nào
cả. Tự kỉ ám thị không thể nào giải thích, chẳng hạn trường hợp

166
Pi-e Rút-đê được khỏi ngày 7/4/1875 và đã được kiểm tra đúng
phương pháp khoa học.
- Anh ta bị cái gì?
- Một chỗ gãy ở ống chân trái; thêm vào đó, xương mất đi
một mảnh 3cm.
- Anh ta có được chữa khỏi không?
- Tức thì.
- Chà!
- Tự kỉ ám thị ư? Xin cậu nghe nhé! "Ngày 21/3/1929, một
người Bỉ tên là Tê-ô-phin Tim, sinh và trú tại Li-e-giơ, 147 phố
Phông-Pi-rét-tơ, viên chức Ngân hàng. Anh đến Lộ đức. Anh đau
ở cuống họng, không nuốt được.Thầy thuốc đã phải mổ ở bụng
để cho ăn uống thẳng vào dạ dày và đã cấp cho anh một giấy
chứng nhận là có như thế. Anh chỉ ăn uống qua một cái vòi. Ngày
25/3, từ Lộ đức trở về khách sạn, anh ăn uống những thức ăn
thường được dọn ở khách sạn và ăn bằng miệng. Từ đó anh khỏi
hẳn. Vậy mà ngày đó ở Lộ đức không có cuộc hành hương nào,
không một tiếng hát, không có bệnh nhân nào khác; quãng
trường vắng tanh. Như thế nghĩa là cái hệ thống phấn kích, bực
bội, cuồng tín, tự kỉ ám thị tập thể, đã không thể hoạt động được .
Thế mà người đó đã khỏi hẳn" (B.s Van-lê)
- Tự kỉ ám thị tập thể ư? Thì cậu thử đem nó áp dụng vào
những ca bệnh sau đây, đã được lưu ý ở Văn phòng kiểm nghiệm
Lộ đức:
Viêm tủy ở xương đùi trái: cô L.Đơ-ni, 21/8/1925;
Ngạnh kết từng đám : cô M. L.Ac-nô, 23/8/1925;
Viêm u dạ con : Bà Gióp-Phơ-roa, 11/9/1926;
Ung thư dạ dày : Cô Đê-lo, 31/7/1926;
Mật chảy mủ : Ô-guýt-tơ A-e, 21/6/1928;
Lao phổi cả hai lá và lao họng: Linh mục Đê-xe-li,16/9/1928;
Cậu sẽ phải thú nhận trong những ca đó không hề có dấu vết của
tự tkỉ ám thị.
- Nhưng những người đó có lành mạnh mãi không?

167
- Những bệnh nhân được khỏi đều được yêu cầu phải đến Lộ
đức trình diện nhiều năm liền và cháu có thể kể cho cậu nghe
những ca có sự can thiệp của nhà chức trách. Chẳng hạn anh Gác-
gam. Anh được khỏi là một phép lạ lừng lẫy bậc nhất ở Lộ đức.
Vì anh được khỏi, nên Công ty Nam phần cắt không tiếp tục phát
trợ cấp cho anh như trước, vì lẽ anh không còn bệnh nữa.
- Có thế là do sức mạnh, do sự phấn kích của niềm tin.
Thế tại sao biết bao người tin mà không được khỏi; trong
khi đó, nhiều người khác không tin lại được khỏi? Như trường
hợp Gác-gam, nhân viên bưu điện, mà cháu vừa kể. Anh ta là
người tự do tư tưởng, do mẹ anh dẫn đến. Anh ta không muốn
khỏi; mà ra về lại lành mạnh. Rồi những bé thơ khỏi bệnh, cũng
có thể giải thích bằng sự phấn kích đức tin hay tự ám thị sao?
- Thiên nhiên có những định luật ta chưa biết, cả những lực
nữa.
- Cậu lại quay về với vấn đề đó? Thì cháu xin nhắc lại thế
này: một định luật bí ẩn của tự nhiên không thể nào đánh đổ một
định luật khoa học đã xác nhận. Hình như cái lực đánh đổ tất thấy
mọi định luật tại Lộ đức, - mà đánh đổ một cách tinh quái, - lại
chẳng phải định luật gì cả, vì nó không vâng theo một qui luật cố
định nào. Cậu ạ, tất thảy những giả thuyết trên đây, chẳng qua
cũng chỉ là một sự thoái thác, một sự thất bại của lí trí, buộc lòng
phải thôi không thể giải thích bằng lối tự nhiên những sự kiện
không tự nhiên.
- Như thế là chúng ta bị dồn đến chỗ phải nhận đó là một sự
kiện do Thiên Chúa?
- Thì có cách giải thích nào khác, xin cậu cho biết!
- Cậu vẫn hi vọng rằng trong vấn đề này, khoa học có khả
năng hơn thế!
- Cậu ạ, chính khoa học lại giúp cháu đập lại cậu và những
nhà bác học vô tín ngưỡng. Bởi vì giả thuyết cho phép lạ là việc
Thiên Chúa, có điều này đặc biệt, nhất là ở Lộ đức, là chỉ còn có
giả thuyết đó cho phép người ta tin vào khoa học nữa mà thôi.
- Cậu chưa hiểu.

168
- Thế này ạ. "Nếu việc được khỏi trong chốc lát những bệnh
ung thư, lao da, gãy xương, thương tích, lao phổi...(xảy nhiều ở
Lộ đức), không phải là phép lạ, nghĩa là không phải do tác động
của một cái gì cao hơn; nếu trái lại, phải gán những sự lạ đó cho
nước, cho tự kỉ ám thị, cho khối đông, cho những định luật bí ẩn
trong tự nhiên, thì không còn có định luật nào ta biết được, không
còn nuớc, không còn ám thị, không còn cơ thể hay tự nhiên gì
nữa; không còn những định luật hoá, lí, sinh vật và y học, không
còn khoa học nữa. Chỉ còn lại là hỗn mang, là ảo thuật và phép
lạ hiểu chính nghĩa đen. Như thế, muốn hay không, cần Thiên
Chúa hay không cần Thiên Chúa, phép lạ vẫn là cái mà bạn phải
thừa nhận! Không phải là phép lạ tương đối nữa, mà là phép lạ
tuyệt đối; không phải là phép lạ bên ngoài nữa, mà là phép lạ
ngay bên trong, làm cho hòn đá mà bạn biết là ù lì, có ngày sẽ tự
nó bay lên không"(J.Xe-rơ, Những giả thuyết về Lộ đức). Và, cậu
ạ, nếu trong vấn đề này khoa học phù hợp với đức tin, thì có lẽ là
vì đức tin có tính khoa học hơn người ta tưởng.
- Nhưng tại sao Thiên Chúa lại làm phép lạ?
- Người làm phép lạ hằng ngày trước con mắt ta: vũ trụ vận
chuyển, sự sống, hạt lúa thành bông lúa, hạt dẻ thành cây
dẻ...nhưng ta quá quen thuộc, nên không để ý đến nữa. Thỉnh
thoảng một sự kiện có tính hấp dẫn hơn, không vì lớn lao hơn, mà
vì khác thườn, nó xảy tới, làm người ta chú ý hơn và nhắc người
ta nhớ lại vị Thiên Chúa mà họ lãng quên quá dễ dàng.
- Cho đi là có phép lạ thật, thì nó chứng minh cái gì?
- Là việc Thiên Chúa, nó chứng minh có Thiên Chúa và việc
Người trực tiếp can thiệp vào để lãnh đạo tôn giáo của Người. Đó
là dấu ấn Thiên Chúa đóng vào giáo lí. Sở dĩ những người vô tín
ngưỡng cứ lồng lên mà nhao nhao phản đối khi người ta nói đến
phép lạ, thì chỉ vì lẽ nếu nhận có phép lạ, họ phải nhận có Thiên
Chúa. Mà họ không muốn nhận có Thiên Chúa, vì những lẽ gì, thì
ai cũng đoán ra.

169
Chương V

Xưng tội

- Cậu, nhìn bộ điệu cậu nghiêm trang lặng lẽ, cháu đoán là
cháu còn phải đương đầu với một vấn nạn ghê gớm nữa và chắc
rằng hôm nay, cậu dự định giáng cho cháu một đòn trực diện,
quyết liệt, kinh khủng.
- Phải. Cậu công nhận phép lạ. Dẫu sao, Thiên Chúa thì có tự
do, làm gì cũng được. Thế nhưng việc xưng tội, thì, ồ! không đời
nào, không đời nào!...
- Dứt khoát thật!
- Vấn đề này, chứng của cháu có mạnh mấy đi nữa, cậu cũng
sẽ trơ trơ, cố chấp, không lay chuyển. Bởi vì thật ra, làm như thế
là quá đáng! Cậu như thế này mà xưng tội ra ư?
- Xin cậu bình tĩnh, vì cháu chỉ nói ít thôi cũng đủ thuyết
phục cậu! Cậu không muốn xưng tội với Thiên Chúa...
- Linh mục là một con người.
- Chính Thiên Chúa tha tội. Phải. Cậu không chịu xưng tội
với Thiên Chúa, thế mà hằng ngày cậu xưng tội, cậu thú những
điều xấu xa nhất với những con người như cậu.
- Chà! Nói gì láo vậy?
- Nhưng, cậu ạ, xin cậu cứ thẳng thắn thôi! Cậu xưng tội với
mợ (nếu cháu nói thế có chạnh lòng cậu, thì cháu xin cải chính...là
với một người đàn bà khác!)... Cậu xưng tội với thầy thuốc của
cậu, với ông ta, cậu không giấu điều gì... Cậu xưng tội với bác sĩ
phẩu thuật, với dược sĩ, với công chứng viên của cậu, với luật sư
của cậu; cậu còn xưng tội cả với viên kiểm tra thuế và ở đây, việc
đền tội lắm khi thật nặng nề!...
- Vấn đề không giống thế.
- Đây còn tệ hơn là xưng tội với linh mục nữa, cậu ạ. Dẫu
sao, cậu muốn hay không, thì việc xưng tội hiện đáp ứng và sẽ
luôn luôn đáp ứng những nhu cầu thúc bách của con người...
- Như thế nghĩa là?

170
- Nhu cầu thú tội và nhu cầu được tha tội. Cháu xin nói rõ
hơn:
Nhu cầu thú tội.- Sau khi thực hiện tội ác của mình, tội nhân thấy
ngột ngạt. Y cảm thấy cần xưng thú tội mình ra; y không tài nào
giữ kín tội mình cho riêng mình biết; nhu cầu đó như thiêu đốt y.
Phải. Lương tâm y đòi phải thú tội. Khi không thể, nó thấy bứt
rứt, có khi như nghẹt thở.
- Thật không?
- Thì cậu cứ thử phạm một tội ác xem. Chỉ mình cậu biết
thôi, như thế là trên mặt đất này không ai làm gì được cậu; ít ra
giả sử như thế. Nếu cậu chưa bóp chết hẳn trong cậu tiếng nói và
tiếng kêu trách của lương tâm, thì cháu đố cậu sống yên hàn,
không bị day dứt, không bị khổ não vì tự nhiên cảm thấy cần trút
nhẹ gánh nặng đó. Chừng nào cậu chưa mửa thứ thuốc độc đó ra,
chừng đó cuộc sống của cậu còn như một hoả ngục. Kìa, anh
chàng A-lếc-xăng Đuy-ma đêm nọ gặp một linh mục ngoài phố,
anh nói với linh mục (anh đã cho phép vị linh mục kể tên anh):
"Thưa cha, cha có vui lòng cho tôi thưa chuyện cha một lát không
ạ? - Vâng, anh cứ việc. - Tôi là người giàu có, tiếng tăm, sung
sướng trước con mắt người đời; Tôi có danh vọng, của cải, một
người vợ và mấy đứa con. Tối nay, tôi không sao ngủ được vì cứ
bị ám ảnh bởi những tội đã phạm. Trên lương tâm tôi, cả một khối
nặng cứ đè xuống làm tôi nghẹt thở. Tôi phải dậy, chạy lang
thang như thế này. Gặp cha đây, cha có chịu khó nghe tôi nói
không? - Anh cứ nói... "Thế rồi, anh nói, nói rất lâu. Nói xong,
anh thưa vị linh mục: "Thưa cha, xin cám ơn cha, xin cám ơn cha!
Nếu tôi còn có đức tin, tôi sẽ xin cha giải tội cho. Nhưng đức tin
tôi không còn nữa. Dầu vậy, xin cha cứ tin là cha đã cất khỏi tôi
một gánh nặng ghê gớm. Nhờ những lời thú tội vừa rồi, tôi cảm
thấy mình thanh sạch hơn, nhẹ nhàng hơn, và lương hảo hơn". Và
anh cho cha biết tên anh. Rồi vừa khóc, anh vừa xin cha cầu cho
anh.
Nhu cầu được tha tội. -Tội nhân thú tội mình thì có quyền được
tha thứ. Vậy mà chỉ có hai cách tha thứ: tội nhân tự mình tha cho
mình, hoặc kẻ khác tha cho. Cách thứ nhất là phi luân lí, điên rồ,
vô ích, hoàn toàn vô hiệu. Chỉ hợp lí là cách thứ hai: kẻ khác tha
171
cho. Vậy không thú tội ra thì ai biết mà tha? Lí trí cũng đòi phải
có một chánh án, cáo trạng, bản quyết án. Thì đây, đạo công giáo
cho ta một linh mục, việc thú tội, lời tha tội. Việc thú tội có thể
cất nhẹ, không thể xoá bỏ tội lỗi. Phải có một lời của người có
quyền, tuyên bố cho tội nhân, bảo họ rằng họ đã được tha thứ. Chỉ
lúc đó, họ mới nhẹ hẳn.
- Tất thảy những cái đó chỉ là chuyện tình cảm. Riêng cậu,
cậu thích những sự kiện đích xác. Vậy mà cháu cũng biết, chính
những "ông cụ xứ" đã bày ra chuyện xưng tội.
- Chà! Chà!
- Cháu cười sao?
- Phải. Nói như thế ai mà nín cười được? Cháu vẫn tưởng
cậu thông minh hơn thế!
- Cháu nói gì?
- Phải. Lẽ ra cậu không ngây thơ đến thế. Làm sao cậu dám
nói rằng người ta đã bày ra sự mới lạ mà 20 thế kỉ qua tính kiêu
căng của con người đã luôn luôn phản kháng? Thử hỏi đã có linh
mục nào dám bức người ta phải giữ một luật nhặt nhiệm như thế,
bức cả chính mình nữa và ngớ ngẩn tin rằng cả thế giới sẽ vâng cứ
luật đó không? Và giả sử đã có môt linh mục dám bày ra luật đó,
thử hỏi ai là người hèn hạ đến chịu vâng cứ luật đó? Thế mà từ
hai ngàn năm nay, có chừng 10 tỉ tín hữu kitô giáo: đàn ông, đàn
bà, trẻ con, giàu nghèo, vua chúa, công nhân, bác học, trí thức
thiên tài đã tuân theo luật đó!
- Thế cháu có biết ai lập ra luật xưng tôi không?
- Có. Chính Đức Giêsu !
- Không phải là một con ngưòi, một linh mục, một giám mục
đó sao?
- Này cậu, người ta biết ai là người phát minh ra thuốc súng,
máy cày, máy in, lẽ nào không biết tên kẻ đã bày ra việc xưng tội?
Phải. Tên kẻ ấy là gì? Sống ở đâu? Thời nào? Bày ra làm gì?
Không lẽ tự nhiên, một ngày nào đó, cả thế giới bắt đầu xưng tội
ư? Không có cái gì người ta hiểu rõ và sục sạo kỉ càng cho bằng
lịch sử giáo hội. Chúng ta biết rằng thánh Đa-ma-sô đã truyền
thêm Kinh Vinh danh vào kinh Nhật tụng và Thánh vịnh; thánh
Gơ-rê-gô-ri-ô IX truyền thêm câu Xin Chúa thương xót trong
172
thánh lễ; thánh Ca-lít-xtô dạy giữ Chay Bốn mùa. Thế mà không
thấy Truyền thống nói gì về việc mà xưa nay người ta từng chỉ
trích một cách cay độc và công kích một cách dữ dội đó sao? Nếu
hiện nay, Đức giáo hoàng hoặc Công đồng qui dịnh, chẳng hạn,
từ đây có 3 linh mục ngồi nghe xưng tội thay vì một như trước
kia, biết người ta sẽ nhao nhao phản đối như thế nào! Vậy mà cậu
lại tin rằng cả thế giới công giáo đã chịu tuân giữ luật xưng tội mà
không đòi chứng cứ xác thực đó là ý Thiên Chúa sao?
- Dầu sao, đó cũng là một vũ khí lợi hại trong tay các linh
mục!
- Cháu thực thà hỏi cậu: nào có gì là thú vị khi ngồi hết giờ
này qua giờ khác để nghe người ta xưng tội, nghe kể những sự
khốn nạn, những câu truyện xấu xa của loài người! Chẳng phải là
vị linh mục sẽ có nhiều ảnh hưởng hơn và ít bị thù ghét hơn, nếu
ngài không ngồi làm tấm bia sống của bí tích giải tội và không đại
diện cho công lí của Thiên Chúa dưới đất đó sao? Cậu nghĩ giam
mình suốt giờ suốt buổi giữa bốn tấm ván như thế là thú vị lắm!
Ban ngày, ban đêm, bất cứ lúc nào đi thăm bệnh nhân như thế là
khoái lắm! Đi giải tội cho những người bị dịch, những người
phung cùi, như thế là hay lắm! Thánh Phơ-răng-xoa đơ Xan nói:
"Nếu tuyên xưng Thiên Chúa trước mặt mọi người là một việc tử
đạo; thì giải tội cho người ta trước mặt Thiên Chúa, cũng tử đạo
không kém!" Nếu có những con người khá khiêm nhường để thú
tội mình với một con người và có những linh mục khá tận tuỵ hi
sinh để nghe lời thú tội đó, thì hai việc đó chỉ có thể là do Thiên
Chúa lập ra mà thôi.
- Lịch sử không phản đối gì về vấn đề này sao?
- Không. Thế mà đây là sự kiện lớn lao nhất trong sử sách
Kitô giáo. Sự im lặng của 19 thế kỉ đó không hiểu được, nếu việc
xưng tội do một con người bày ra.
- Nhưng có thể là việc xưng tội được truyền bá dần dần.
- Vì đây là một việc nhục nhã, gay go, khó lòng, lẽ ra sử sách
phải ghi lại một vài tiếng phản kháng. Đàng này, lịch sử không
nói gì cả.

173
- Cậu để mặc cháu nói là để dễ đánh bẫy cháu. Chứ thực ra,
ai là người bày đặt chuyện xưng tội, thì người ta biết lắm!
- Người đó tên là gì?
- Là giáo hoàng In-nô-sen-tê III, năm 1215, ở Công đồng 4
La-tơ-răng.
- Trước hết, cậu nên biết rằng lịch sử hiện còn đó để cho cậu
thấy một cách rõ ràng không thể chối cãi, là trước thế kỉ 13, các
tín hữu Kitô giáo vốn đã xưng tội. Cháu có thể dẫn ra đây lời các
Giáo phụ, - nhưng dẫn như thế lại quá dài dòng, - để chỉ cho cậu
thấy rõ việc xưng tội có từ thời các Tông đồ. Khi nào cần, cậu cứ
hỏi, cháu sẽ cung cấp tài liệu cho cậu.
- Thế giáo hoàng In-nô-sen-tê III?
- Thời Người, khi có một số người xin ý kiến, Người chỉ lên
tiếng nhằm nhắc lại cho thế giới cái mức tối thiểu lề luật yêu cầu,
tức là buộc xưng tội ít ra trong mùa Phục sinh.
- Chỉ có thế?
- Vâng, Chỉ có thế. Nhà Tin lành Gíp-bông nói với cậu thế
này: "Người có hiểu biết thì không thể nào phi bác điều rõ ràng
là lịch sử làm chứng rằng việc xưng tội là một trong những điểm
chính yếu của giáo lí Giáo hội suốt những thế kỉ đầu."
- Chà!
- Không có việc người ta xưng tội, cuộc sống của linh mục
sẽ dễ dãi, nhàn hạ; các ngài không thể bày đặt một việc làm người
ta ghét mình. Không phải giải tội, các ngài sẽ có nhiều giờ phút
nhàn rỗi, có ích; đàng này, cả đời cứ sống mòn mõi trong một toà
giải tội, lắm lúc đến cực khổ. Vả chăng, nếu các linh mục đã có
khá nhiều uy lực để bắt người ta xưng tội, thì lẽ ra các ngài cũng
có đủ tài khôn khéo để miễn cho mình khỏi làm việc đó. Đàng
này, chính các ngài cũng đi xưng tội và xưng nhiều lần hơn giáo
hữu. Nếu có vài linh mục nào đó đã có gan bắt người ta làm việc
đó, lấy quyền riêng mình mà bắt như thế, thì chỉ nguyên một bản
tính con người cũng cho phép cháu quyết rằng 3/4 linh mục sẽ
phản đối và như vậy thì lịch sử cũng phải nói đến sự xung đột đó.
- Cậu đã đọc kĩ Tin mừng, mà không thấy Đức Giêsu nói đến
việc xưng tội ở đoạn nào cả.
174
- Thế nào? Cậu chưa đọc lời này: "Chúng con tha tội cho ai,
thì kẻ ấy được khỏi; chúng con cầm buộc ai, kẻ ấy phải cầm
buộc" sao?
- Đọc rồi! Nhưng từ đó đến việc xưng tội, là cả một vực
thẳm!
- Cậu muốn nói rằng chỉ còn một bước nữa thôi. Thì ta cứ
bước qua đi! Cậu là thầy thuốc. Vì là thầy thuốc, cậu muốn cho ai
dùng mooc-phin tuỳ ý cậu. Vậy có phải người bệnh nào, cậu cũng
cho mooc-phin cả không?
- Không. Phải phân biệt: có người dùng có ích, có người
dùng có hại.
- Thì linh mục cũng phải phân biệt. Nếu Đức Giêsu chỉ nói
thế này: "Chúng con tha tội cho ai, kẻ ấy dược khỏi.", thì linh
mục có thể tha tội cho tất thảy những ai đến xin tha tội. Nhưng
Chúa còn nói thêm: "Chúng con cầm buộc ai, kẻ ấy bị cầm buộc".
Như thế là linh mục cũng phải phân biệt. Khi thì phải "tha", khi
lại phải "cầm buộc", nghĩa là giãn ra chưa tha tội. Vậy mà cậu
muốn linh mục căn cứ vào cái gì mà làm như thế? Vào tính riêng
mình sao? Không được. Phải căn cứ vào tình trạng linh hồn người
xưng tội, cũng như thầy thuốc căn cứ vào tình trạng sức khoẻ
người bệnh. Vậy nếu người ta không xưng tội thì linh mục làm
thế nào mà biết được tình trạng linh hồn họ được?
- Hiểu rồi. Thế nhưng tội phạm đến Thiên Chúa, sao lại bắt
cậu thú với linh mục để xin tha thứ?
- Xin hỏi cậu: khi cậu muốn thuê một căn nhà, muốn tu sửa
phòng ở hoặc tậu một đám ruộng, thì cậu trực tiếp ai? Chủ của
hay người quản lí của đó?
- Người quản lí.
- Thực ra, nếu cậu trực tiếp ông chủ, ông sẽ bảo: "Xin ngài
cứ trực tiếp viên quản lí, anh ta thừa hành quyền của tôi. Anh ta
làm gì, tôi đã uỷ cho anh trước rồi". Việc xưng tội cũng thế. Thiên
Chúa vẫn là chủ của ơn tha tội; nhưng Người lại bảo ta trực tiếp
viên quản lí của Người, là linh mục, kẻ đã được Chủ giáo dục,
ban quyền và Người đã hứa duyệt y mọi quyết án của linh mục.

175
- Cho đi là Đức Giêsu đã lập phép giải tội. Nhưng người ta
chỉ xưng tội với Thiên Chúa mà thôi, chưa đủ sao?
- Như thế thì dễ dàng hơn, phải. Nhưng lại không xứng đáng
tí nào với Thiên Chúa cả, cậu thấy chứ! Đây một tên giết người. Y
quì gối: "Lạy Chúa, tôi đã giết người kia!"; một tên trộm: "Lạy
Chúa, tôi đã lấy của người ta 10 vạn đồng". Chỉ có thế. Cậu cho
như vậy đã đủ cho họ được tha tội sao? Thế thì ai sẽ bảo cho họ
biết Thiên Chúa đã tha thứ? Ai sẽ chỉ cho họ những nhiệm vụ đền
trả phải làm?
- Nhưng thú tội như vậy thật là gay!
- Cậu cho biết có toà án loài người nào xử nhân từ như thế
không? Chỉ cần thú tội trước một thẩm phán, là được tha trắng.
Nếu toà án như thế cả, thì làm gì có nhà tù! Sao? Thú tội mình
một cách âm thầm, một mình thú với một linh mục có nhiệm vụ
giữ bí mật, thà chết không thà tiết lộ, như thế mà bảo là yêu sách
quá?
- Nhưng buộc thú tỉ mỉ làm gì?
- Cần phải thú tỉ mỉ như thế: 1/ vì tôn trọng Thiên Chúa:
không thế, Thiên Chúa chỉ còn là cái máy khoan hồng và linh
mục, một cái máy tự động phân phát ơn tha thứ; 2/ việc đó cần
cho thẩm phán là linh mục: không thế, linh mục có thể tha bừa
cho người thống hối lỗi lầm cũng như ngươi không thống hối.
Thẩm phán phải biết tội.
- Nhưng linh mục đó là một người như cậu! Cậu chỉ là một
tội nhân quì gối dưới chân một tội nhân khác.
- Linh mục là một người như bao người khác sao? Phải
chăng viên cảnh sát chỉ là một người như bao người khác?
Không, ông ta là người của pháp luật. Viên thu thuế là một người
như bao người khác sao? Không. Đó là người của phòng thuế.
Linh mục là người của Thiên Chúa. Phải. Linh mục là một người.
Cậu muốn linh mục phải là ai nữa? Một vị Thiên Chúa sao? Một
thiên thần sao? Một thiên thần không bao giờ có thể thông cảm
nổi những điều xấu xa của loài người.
- Dẫu sao, việc xưng tội như thế là trái luân thường.
- Trái thế nào?
176
- Vì nó đòi người ta phải tiết lộ những nỗi niềm riêng tư kín
đáo.
- Nhưng, cháu đã nói với cậu, nào chính cậu không đem
những chuyện trong nhà trong cửa, dầu là những chuyện tế nhị
mấy, kể cho một người bạn, một thầy thuốc, một công chứng
viên, một luật sư đó sao? Nếu kể như vậy không là chuyện trái
luân thường, sao thú tội trong toà lại trái? Cậu nói như thế, nhưng
thử hỏi cậu chưa bao giờ thú tội sao? Khi nghe người ta viện
những khó khăn đó để phi bác, lẽ ra cậu cũng thấy những khó
khăn đó là vô lí chứ! Cậu ạ, cháu rất hiểu điều cậu định nói. Vậy,
thử hỏi người vợ người chồng không có lúc tỏ tất cả cuộc sinh
hoạt riêng kín giữa hai người cho thầy thuốc phần xác sao? Thế
mà khi họ kể cho linh mục là thầy thuốc phần hồn một số việc tất
nhiên là riêng kín, nhưng thuộc phạm vi phép giải tội, thì cậu lại
cho là chướng! Thật thì những ai không có đức tin, không tin việc
xưng tội là do Thiên Chúa lập, những người đó có thể thắc mắc,
chán ghét việc đó; còn đối với người công giáo như cháu, thì
xưng tội là một cuộc thanh tẩy, một sự chi viện, một sức hậu
thuẫn, một sức mạnh.
- Những người xưng tội, thường cũng không tốt gì hơn
nhưng người không xưng tội.
- Cậu biết thế nào được điều đó? Ai cho phép cậu phê phán
lương tâm mỗi người? Nếu họ không hoàn toàn, thì chỉ vì họ còn
yếu đuối, hoặc họ xưng tội chưa tốt, chưa đúng. Bệnh nhân uống
thuốc mà không khỏi bệnh, có phải lỗi tại thuốc không? Đàng
khác, cậu ạ, vì từ bé đến nay cậu chưa hề xưng tội, nên có phải vì
thế mà cậu không biết mình đang nói về một vấn đề mình chưa
hiểu gì hết cả không? Sở dĩ trên mặt đất này còn có chút ít luân
thường đạo lí, thì phải nói đó là nhờ bí tích giải tội.
- Nhưng xưng tội làm gì? Cậu có tội gì đâu?
- Ô! Thế thì cháu xin khoét một cái "ô" trên vách, cháu đặt
cậu lên đó, rồi mời tất thảy giáo hữu trong xứ đến viếng và cầu
xin vị thánh mới này!
- Đừng nhạo. Cậu nói thực đấy!
177
- Cháu không cho cậu là nói thực. Chỉ có thế! J.Đơ Met-xtơ-
rơ có viết: "Không biết lương tâm một người đểu giả thì như thế
nào; chứ lương tâm một người lương hảo cũng đã ghê tởm lắm!"
Không lẽ chỉ mình cậu là không thế? Cậu đã luôn luôn chu toàn
nghĩa vụ đối với Thiên Chúa...với tha nhân...với chính mình cậu
chưa?
- Nhưng xưng tội rồi lại cứ phạm tiếp những tội đã xưng, thì
xưng làm gì?
- Cháu rửa tay sạch rồi, nhưng việc đó không giữ được cháu
khỏi bị bẩn lần khác. Thế thì cháu thôi không rửa tay nữa sao?
Cháu ăn no rồi, sau lại đói. Thế thì cháu thôi đừng ăn gì nữa hết!
Cậu nghĩ thế nào về cái lô-gích của cháu đó?
- Dở hơi!
- Thì lô-gích của cậu cũng thế! Con người là cái đồng hồ,
cần lên giây thường xuyên.
- Nhưng đi thú tội như vậy chẳng thú vị gì!
- Thì đừng phạm tội! Người ta đi xưng tội đâu phải để mua
vui, để giải trí. Người ta đi xưng tội là vì muốn có tâm hồn trắng
sạch, vì nhu cầu, vì nhiệm vụ.
- Bên Tin lành không đòi hỏi quá như thế.
- Nhưng, nhiều khi họ lại luyến tiếc toà giải tội. Nữ sĩ Đơ
Xtan de Stael) phái Tin lành, viết: "Giá mà tôi được vào quì ở
một toà giải tội bên công giáo, thì dù phải trả giá nào, tôi cũng
vui lòng!" Na-vi-ơ, Tin lành Thụy sĩ cũng nói: "Ai mà không đưa
con mắt thèm thuồng nhìn về toà giải tội! Khi bị day dứt cay cực,
khi không biết mình đã được Thiên Chúa tha tội cho chưa, ai là
người không mong được nghe từ một cửa miệng mang quyền bính
Đức Kitô nói vào tai mình: "Con về bình an, tội con đã được
khỏi!" Gần đây, một tờ báo Đức, tờ Rét-sơ-bốt có đăng một bài
dài, nhan đề: "Một lời kêu gọi hãy phục hồi bí tích giải tội". Hồi
Luy-te-rô lấy quyền mình thủ tiêu việc xưng tội, Mê-lăng-tông,
một trong các thủ lĩnh của phong trào Cải cách, bảo ông: "Tôi
không tha cho anh cái tội đã thủ tiêu việc xưng tội: anh làm như
thế là đã đánh một đòn trí mạng vào luân thường đạo lí".
178
Mê-lăng-tông đã đoán đúng, vì không bao lâu, những người
theo Luy-te-rô đã phải thất kinh vì thấy việc hủy bỏ phép giải tội
gây nên biết bao điều hỗn độn.
Dịp đó, xảy một việc lí thú. Vì muốn sửa lại tai hoạ, nhưng
lại không dám tự mình đi ngược lại Luy-te-rô, phái Tin lành ở
Nơ-rin-be cử một phái bộ đi xin lập lại phép giải tội... Cậu thử
đoán là phái bộ đó đã đến xin ai...xin vua Sác-lơ Canh! Nhà vua
trả lời thế nào? Nhà vua thản nhiên đáp: "Vì các anh đã không
nhận phép giải tội Thiên Chúa truyền dạy, thì các anh cũng
không đời nào nhận phép giải tội tay Trẫm lập nên!..."
Cậu xem, đó là nghĩ tưởng của một số trong những người
không còn phép giải tội nữa. Thế mà có những người khác, những
người công giáo "vỏ" như cậu, lại cứ công kích, - tuy cũng chỉ vô
ích thôi, - cái ân huệ họ có thể hưởng dụng đó.
- Có thật cháu cho việc xưng tội là khôn ngoan không?
- Chính Vôn-te cũng đã thú nhận điều đó: "Không có công
trình nào khôn ngoan hơn phép giải tội; đó là cái thắng hữu hiệu
ngăn người ta khỏi phạm tội".
- Phải. Nhưng ông ta đâu có xưng tội!
- Ô! Cậu nói như thế là sai!
- Sao? Vôn-te cũng xưng tội ư?
- Như một người công giáo thường, phải, cậu đừng chạnh
lòng!
- Làm sao cháu biết điều đó?
- Người ta còn giữ một văn bản có chữ kí của ông ta. Trong
tờ đó, ông quả quyết rằng ông đã xưng tội với cha Gô-chi-ê, thuộc
dòng Xanh-Xuyn-pi-xơ, ngày 2.3.1778, tại nhà riêng của hầu tước
Đơ Vi-let. Ông kí tờ đó trước mặt cha Mi-nhô là cháu ông, và hầu
tước Vi-lơ-vây, bạn thân ông.
- Thế mà xưa nay cậu vẫn đọc và tưởng ông ta chết với
những nguyên lí vô thần của ông ta.
- Khỏi bệnh, ông ta lại bỏ đạo, không nhớ gì chuyện đó nữa.

179
Ít lâu sau, lại ngã bệnh, ông cho mời linh mục; nhưng những
người vô thần quanh ông ngăn không cho linh mục đến; và thế là
Vôn-te chết trong tuyệt vọng kinh khủng!
- Ô! Có lẽ cậu cũng thế. Giờ chết, cậu sẽ xưng tội.
- Hoặc là cậu sẽ chết trước khi xưng tội! Cậu có chắc giờ nào
chết chưa? Cậu lỗ mạng hết chỗ nói! Cậu hẹn ngày cho Chúa!
Người tuỳ ý cậu ư? Như thế không nghiêm chỉnh và không khôn
ngoan đâu. Đừng liều mạng như thế!
- Được. Nhưng thế nào? Nếu người ta thấy cậu đi xưng tội,
họ sẽ nói sao?
- Hoan hô! Đây rồi! Đây rồi!
- Cái gì vậy?
- Đây là lần đầu tiên cậu thành thật .
- Cậu vẫn thành thật luôn đấy chứ!
- Không. Vì cho tới nay, cậu cứ tung ra cả một đám mây vấn
nạn để che giấu, - nhưng thật là vụng về! - một tâm tình mà cuối
cùng cậu đã phải thú nhận: cậu sợ!
- Cháu biết rằng ...
- Phải. Ngay bây giờ, cháu biết rằng ông cậu của cháu là con
người ngay thẳng và tốt nhất loài người, nhưng ông ta không đi
xưng tội là vì ...
- Phải. Là vì...,là vì...Nhưng đó là việc của cậu!
- Ô! Đúng thế, cháu không thể xưng tội thay cho cậu!
- Cháu sẽ xem cậu có sợ hay không!
- Không. Cậu ạ, hiện giờ cháu đã biết, cậu sẽ không sợ nữa!
Tối nay, cậu đã phục lí. Chân lí chiếu vào, toả sáng, soi sáng và
rồi cuối cùng thế nào cậu cũng tiếp nhận chân lí với mọi hậu quả
của nó.
- Đúng!
- Kể cả việc xưng tội?

180
- Có lẽ!...và rồi, này địch thủ ghê gớm của cậu ơi! cháu sẽ
thấy rằng ngày nào Thiên Chúa trả đức tin lại cho cậu, cháu sẽ tự
hào về ông cậu tuổi tác của cháu!
- Uớc gì được như vậy!

Chương VI

Linh mục

- Dẫu sao thì cậu cũng đã bắt đầu thấy rõ hơn qua đám mây
vấn nạn lâu nay chặn lối cậu. Thế nhưng, cậu chưa thôi quấy rầy
cháu đâu!
- Thì xin cậu cứ nói. Vấn đề đến đây thì chỉ còn những cái
vụn vặt nữa thôi. Cái khó đã xong.
- Thế này: linh mục công giáo, cậu vẫn trọng đấy, nhưng cậu
cho đó là cả một cái khó hiểu. Cậu không thù ghét gì họ. Nhưng
cậu không giao thiệp với. Cậu không hiểu họ.
- Linh mục có cái gì làm cậu không hài lòng nào?
181
- Trước hết: bao giờ họ cũng đòi tiền!
- Đã lần nào linh mục đòi tiền cậu chưa?
- Chưa. Đừng kể món "phụng sự phí" (denier du culte).
Nhưng món đó là phải lẽ, vì đó là một thứ thuế như mọi thứ thuế
khác. Đừng kể món đó, không có việc gì linh mục làm mà không
đòi cho được tiền.
- Cậu này, cậu nên biết rằng linh mục dâng lễ, dạy giáo lí,
giải tội, cho rước lễ, làm các phép sau hết cho bệnh nhân, làm
phép thánh tẩy hoàn toàn nhưng không cho hết mọi người, ngay
cả cho những kẻ không nộp "phụng sự phí"
- Nhưng những đám cưới to, những đám tang trọng thể linh
đình, tốn biết cơ man nào là tiền!
- Như thế nghĩa là cậu muốn chính linh mục là người phải ăn
xin để sống, lại phải bỏ tiền túi ra mà thanh toán những món đèn
nến, hoa, thảm, tiền thuê hoạ sĩ, ca sĩ, thuê đàn...?
- Nhưng tại sao linh mục không lao động để khỏi phải quyên
góp như thế?
- Ô! Các linh mục, đặc biệt các linh mục ở thành phố, bận
bịu với những công tác theo nghiệp vụ (dạy giáo lí, giải tội, đi
thăm bệnh nhân...) đến không còn một phút nhàn rỗi. Ai không
đến nỗi bận quá, còn phải soạn bài giảng, tiếp tục nghiên cứu, dạy
giáo lí. Đành rằng đó là việc lao động trí óc, nhưng vẫn là lao
động.
- Linh mục là những người học rộng, mà lại...
- Cậu không được nói thế. Phải, các ngài là những người học
rộng, nếu tham tiền tham của như người ta nói, thì các ngài không
phải vất vả gì lắm cũng kiếm được một nghề dễ sống hơn, nhất là
trong nuớc Pháp này, nơi mà linh mục hiện bị dồn vào tình trạng
nghèo túng, đôi lúc cùng quẫn nữa. Một công nhân sửa đường
còn có lương khá hơn linh mục.
- Phải. Ai lạ gì những chiếc "áo chùng thâm màu nước dưa".
- Đúng! Đời sống các linh mục, đặc biệt là trong một số giáo
phận, thật là cơ cực hơn bất cứ hạng người nào.
182
- Nhưng những điều họ dạy kẻ khác, họ có tin thật không?
- Nếu các ngài không tin những điều đó, thì các ngài chỉ là
những người bán thuốc rong, những kẻ khốn nạn, hơn nữa, là
những tội phạm! Thử hỏi nếu các ngài chỉ đóng kịch thôi, thì
đóng kịch để cầu cái lợi gì nào? Dễ chừng cậu nghĩ cuộc sống của
các ngài, xét theo tính loài người, là thú vị lắm? Sống cô độc,
không tổ ấm, không gia đình, thường là nghèo túng, rất nghèo
túng, bị lăng mạ, bị bách hại, bị thù ghét, mặc dầu các ngài không
hề làm hại ai, chỉ làm ơn cho người ta thôi; cậu tưởng để sống
một cuộc sống như thế, không cần gì tin ở lí tưởng mà các ngài
tuyên giảng sao?...
- Được! Nhưng có những linh mục xấu!
- Đạo được lập ra vì con người; do đó, không có gì đáng lấy
làm lạ, khi thấy trong đạo có những lầm lỗi nơi những con người.
Những khuyết điểm người ta có thể thấy trong đạo, là khuyết
điểm của con người, không phải của Thiên Chúa. Phải. Chính các
linh mục đôi lúc cũng thiếu sót; hơn nữa, có nhưng linh mục làm
gương xấu; thế nhưng đừng lẫn lộn linh mục với tôn giáo mà linh
mục rao giảng...
- Lẽ ra họ không bao giờ sa ngã mới phải; vì người ta căn cứ
phẩm hạnh họ mà phê phán đạo.
- Phải. Cháu biết đó là cái tật của những kẻ không chịu suy
nghĩ. Thế nhưng thử hỏi: một con người được dùng làm công cụ
không phải mang trong mình những sự khốn nạn của loài người
sao? Thấy một sĩ quan phản quốc, cậu có kết luận rằng toàn bộ
các sĩ quan đều phản quốc và lòng yêu nước là sai không?
- Không.
- Hàng linh mục như một cây lớn, sai quả. Nhiều quả tốt, rất
tốt nữa là khác; một ít quả hỏng. Vậy phải chăng quả hỏng rụng
xuống gốc cây làm chứng rằng cây đó là xấu và tất thảy các quả
cây đó đều đáng ghét cả sao?
- Dẫu sao, có nhiều gương xấu quá!

183
- Cậu đừng phóng đại! Hễ thấy một gương xấu xuất hiện,
những người sẵn thù ghét liền tóm lấy cơ hội, hí hửng vì được dịp
báo thù. Thế nhưng cái đó vẫn có ích cho đạo.
- Cậu không hiểu.
- Vết bẩn trên áo trắng, dễ nhận thấy. áo của những người vô
tín ngưỡng, hoặc những người công kích linh mục, đã nhiều vết
bẩn quá rồi, nên bớt đi một hoặc thêm vào một vết nữa, không ai
để ý. Khi có nhật thực, mọi con mắt đổ dồn về mặt trời; nhưng
hằng ngày mặt trời xối ánh sáng và sức nóng đều đặn xuống, thì
chả ai để ý tới nó. Đối với hàng linh mục cũng vậy: một vết bẩn
xuất hiện nơi một phần tử ư? Thế là người ta giả vờ lấy làm kinh
ngạc và người ta im hơi lặng tiếng trước bao nhiêu ân huệ mà vị
đó gieo vãi; người ta cũng không thấy được những cái đó nữa, vì
đã quá quen thuộc.
- Lí luận của cháu hay quá!
- Đúng nữa chứ! Nhìn một bức tranh mà chỉ chủ ý tới chỗ
tối; sự lành thì không nói gì đến, việc xấu thì rùm beng lên: cậu
cho như thế là công bình sao? Nhưng cháu còn đi xa hơn thế.
Không những các tệ lạm và gương xấu mà giáo hội lấy làm phàn
nàn đó, không chứng minh được cái gì phi bác Giáo hội; trái lại,
đó là một lí chứng thêm nữa rằng Giáo hội là bởi Thiên Chúa.
- Ngược đời thế!
- Không. Vẫn đúng! Giáo hội phục vụ loài người; mà linh
mục là những con người. Do đó, cháu nói lại, thế nào trong Giáo
hội cũng có những sự khốn nạn, những tính hư của con người.
Vậy mà, nếu Giáo hội đã có thể đứng vững và tiến phát, mặc cho
những linh mục xấu, cả những giáo hoàng xấu nữa, thì việc đó
chứng tỏ có một bàn tay Thiên Chúa cầm lái, không để con tàu
chìm đắm!
- Cháu bao giờ cũng giỏi trở tráo!
- Cậu cứ nói cho cháu biết cháu sai ở chỗ nào. Đã có những
linh mục xấu và thật sự có những linh mục xấu, thì việc đó không
làm Đạo hết tốt đẹp, hết cần thiết đi. Nết hư và khuyết điểm của
ông thầy thuốc có làm thuốc ông ta cho mất tác dụng chữa bệnh
184
đi không? Vôn-te (bao giờ cũng vẫn ông ta!) phát biểu về vấn đề
này: "Kẻ nghĩ mình công kích các linh mục, tức là công kích
Thiên Chúa, kẻ đó hoàn toàn thiếu lương tri. Phải chăng kẻ ấy
tưởng cứ nói rằng ông chủ không được phục vụ tốt, như thế là
mình đã huỷ diệt được ông chủ sao?" Rồi: "Cuộc sống nguời đời
bao giờ cũng hư hốt hơn cuộc sống các linh mục; thế nhưng bao
giờ những sai lỗi của linh mục cũng được chú ý hơn, vì tương
phản với Kỉ luật". Gio-dép Đơ Mét-xtơ-rơ: "Người ta không tha
thứ một lỗi của hàng linh mục, vì người ta mong ở các ngài tất
cả...người ta luôn luôn so sánh bất cứ linh mục công giáo nào với
tư cách lí tưởng phải có và do đó, các ngài bị phê phán không
chút thương xót; những lỗi nhỏ mọn của các ngài, bị coi như
những tội ghê gớm".
- Thế cháu cho rằng có tương đối ít linh mục sa ngã?
- Trên tờ "Thông tin" số ra ngày 25,1,1901, cha Bec-tơ-ranh
có công bố con số trung bình những vụ án hình sự mỗi năm. Thời
kì từ 1864 đến 1894, trong số 10 vạn người thuộc mỗi nghề, thì
có 100 là công chứng viên, luật sư, đại tụng,v.v...; 33 là nghệ sĩ;
25 thầy thuốc, phẫu thuật viên, dược sĩ; 19 giáo sư và nhà giáo bộ
đời; 7 giáo sư và giáo viên tu sĩ; 4 linh mục triều và dòng.
Thời kì từ 1894 đến 1898, trong số 10 vạn người, có đến 85
là công chứng viên và luật sư; 33 nghệ sĩ; 30 thầy thuốc; 10 giáo
viên bộ đời; 4 giáo viên tu sĩ; 3 linh mục.
Như vậy là mỗi năm, cứ 10 vạn linh mục, thì chỉ có 3 là can
án và như thế thì nghĩa là có đến 99.997 vị là cán bộ công chức.
Cái tỉ lệ to tát đó hẳn là làm vinh dự cho hàng linh mục, đồng thời
tát vào mặt những kẻ lăng mạ các ngài.
- Ấy là cháu chỉ nói đến những nố bị toà lên án; nhưng còn
có những sa ngã khác nữa, linh mục cũng vấp phải. Theo cậu, các
linh mục cứ lấy vợ đi thì hơn.
- Ô! Cậu đưa cháu đến một vấn đề tế nhị. Nhưng được, cháu
quyết theo cậu. Cháu nghĩ như thế này về cảm nghĩ của cậu, mà
cũng không phải tự mình cậu mà có cảm nghĩ đó: sách báo, quán
cà phê, phố xá đầy những câu nói như thế: sở dĩ linh mục không
lấy vợ, là vì:
185
1/ Các ngài có tự do, cháu nghĩ thế; mà trong việc này, sự tự
do của mỗi người có thể và phải được tôn trọng;
2/ Các ngài nhận định và ý thức rằng việc tự nguyện ở độc
thân trong những điều kiện mà các ngài cam kết, nhờ ơn Thiên
Chúa ban theo bậc sống, nhờ giáo luật giúp đỡ, hậu thuẫn và
phòng ngừa, không những không làm các ngài sa đà tội lỗi, trái lại
nó giúp các ngài nên trọn lành thánh thiện.
3/ Các ngài biết rằng sống một mình thì dễ thong dong hơn,
thanh thoát hơn, có nhiệt tâm hơn, dễ quên mình để chỉ nghĩ đến
người khác; có vợ có con thì khó mà được như thế. Linh mục mà
vừa là người chồng tốt, vừa là người cha hiền nữa, thì sẽ mất
nhiều thời giờ săn sóc gia đình; phải lao động nuôi vợ con, không
còn nhàn rỗi để lo nhiệm vụ linh mục, săn sóc các linh hồn được
giao phó cho mình. Vai trò cha phần hồn khó mà đi đôi với vai trò
làm cha phần xác.
4/ Các ngài hiểu rằng một linh mục có vợ sẽ làm giáo dân ít
tín nhiệm mình; người ta sẽ nghĩ rằng ngài ít vô tư đối với họ và
khó mà tin là Ngài giữ kín những điều họ tâm sự với ngài.
5/ Linh mục phải vươn tới đỉnh trọn lành, do đó không thể
làm tôi hai chủ. Mà những nhiệm vụ của hôn nhân cũng làm ngài
không thể trọn vẹn hiến thân phụng sự Thiên Chúa.
6/ Mỗi sáng, linh mục truyền phép Mình Máu thánh một
Ngôi Thiên Chúa, việc đó không buộc ngài phải thanh sạch hơn
những người khác sao?
7/ Linh mục phải thông thái. Do đó phải có thời giờ để
nghiên cứu, cũng như phải có một sự yên tĩnh tương đối nào đó;
linh mục có vợ không thể như thế. Chế độ độc thân tạo điều kiện
cho trí khôn làm việc tinh thần.
8/ Linh mục là người của mọi người. Ngài phải luôn luôn sẵn
sàng hi sinh tính mạng mình vì con chiên. Đối với một linh mục
có vợ, làm sao đòi chuyện đó được?
- Nhưng Giáo hội cũng cho phép linh mục bên Đông lấy vợ.
Sao các linh mục bên Tây không được?
- Dĩ nhiên là Giáo hội có thể cho. Nhưng cho như thế, Giáo
hội không thấy có cái lợi gì cả. Hàng linh mục bên Đông ở trong
một miền đã bạc nhược vì li giáo, đã tan hoang vì lạc giáo, bị đầu
186
độc bởi đạo Hồi. Xưa nay, hình như đối với các dân bên Đông,
khó mà đòi họ hi sinh điều đó hơn bên Tây. Đàng khác, đã mấy
thế kỉ qua rồi mà Giáo hội bên Đông chưa sản xuất được một vị
thánh nào; trong lúc đó, Giáo hội bên Tây cho ta những Ca-rô-lô
Bô-rô-mê-ô, Phan-xi-cô Xa-lê-di-ô, Vin-sen-tê Phao-lô, Cha
thánh quản xứ Ars và hàng ngàn vị khác vừa tiếng tăm vừa thánh
thiện.
Đây, Mi-sơ-lê, nhà sử học có tiếng thuộc phái tự do tư tưởng,
phát biểu như thế này về vấn đề: "Nếu Giáo hội cho các linh mục
lấy vợ và vì đó mà ra suy nhược, phàm tục, mãi lo chăm nom gia
đình, thì đạo Kitô đã diệt vong rồi. Bởi vì, như vậy thì không còn
gì sức mạnh bên trong, cũng như không còn chí hướng vươn lên
trời cao nữa. Một Giáo hội gồm những linh mục có vợ thì không
bao giờ sản sinh được những thánh Bê-na-đô, Tô-ma, Vin-sen-tê
Phao-lô. Đối với những vĩ nhân đó, phải có cảnh cô tịch lặng lẽ,
hoặc phải lấy cả thế giới làm gia đình. Đức Giêsu Kitô đã sống
trinh khiết; vì thế linh mục phải hiến mình ở độc thân."
- Nhưng Tin lành đã bỏ chế độ độc thân thì sao?
- Làm như thế, họ được những gì vẻ vang, cao quí? Chính
Sô-pen-nao cũng nói rằng: "thủ tiêu chế độ độc thân là lỗi to lớn
của Tin lành"
Cậu ạ, cậu đừng tước mất của Giáo hội công giáo nguồn sức
mạnh và nguồn cao trọng đó. Thủ tiêu chế độ độc thân linh mục,
là hạ linh mục xuống ngang hàng những công chức tầm thường và
lột mất uy thế của các ngài. Dù người ta muốn hay không muốn,
thì hàng linh mục công giáo, như cậu đã biết, sẽ cứ luôn luôn cố
vươn lên. Tuy có những bước trật, nhưng bao giờ nó cũng lên cao
hơn mãi .

Chương VII
Những phát đạn cuối cùng

187
Cầu nguyện; - Thánh Thể; - Nguyên tội; -ơn vô ngộ của
Đức Giáo hoàng; - Thủ tiêu hôn phối; - Tiền định; - Đức tin.
≈≈≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈ ≈
- Này Mác-đa, hôm nay, cậu định có gì nữa nói cho hết.
Chúng ta đã đề cập mỗi cái một ít. Lí chứng của cháu thật là mạnh
mẽ. Cậu thú thật với cháu là những lí chứng đó đã làm cậu xiêu
lòng. Vẫn biết từ đây đến bước quyết liệt, cự li còn lớn lắm. Thế
nhưng xác tín thì đã rõ rồi.
- Cậu sẽ bước cái bước quyết liệt đó.
- Có lẽ!
- Cháu thì cháu chắc chắn!
- Sao cháu lại chắc chắn như thế được?
- Là vì cháu đã cầu nguyện cho cậu và cháu hi vọng!
- Như vậy là chính cháu đã vô tình mở đầu cuộc nói chuyện
hôm nay, mà cậu nghĩ rằng đây là cuộc nói chuyện cuối cùng.
- Như thế có nghĩa là cậu nộp vũ khí?
- Cậu chỉ buông xuống thôi. Cháu vừa nói "cầu nguyện". Đó
cũng là một cái mà cậu không hiểu. Có thật cháu tin rằng khi cháu
cầu cho cậu, là cháu tác động được trên ý chí cậu?
- Không phải trên ý chí cậu, mà trên ý chí Thiên Chúa!
- Nhưng cháu cũng biết Thiên Chúa là bất biến. Mà cháu cầu
nguyện, tức là buộc Người phải thay đổi kế hoạch đã định.
- Đây thánh Tôma trả lời cậu: "Chúng ta cầu nguyện không
để thay đổi kế hoạch Thiên Chúa, nhưng là để được cái mà Thiên
Chúa đã muốn ban cho ta, nếu ta cầu xin Người.” Như thế là
trong kế hoạch của mình, Thiên Chúa đã thấy trước lời cầu xin
của ta, hỏi có gì vi phạm tính bất biến của Người?
- Nhưng cháu không thấy rằng mỗi lúc như vậy, Thiên Chúa
lại phải đảo lộn các định luật tự nhiên để thoả mãn lời người ta
xin sao?
Phải chăng chính người ta cũng không can thiệp vào nhằm
điều khiển hay chế ngự các sức mạnh tự nhiên để bắt chúng làm
theo ý mình đó sao? Khi người ta uống thuốc, không phải là chặn
188
lối không cho bệnh tật phát triển sao? Người ta không bắt nước,
gió, điện phục vụ ý muốn mình đó sao? Vậy mà những việc đó
chẳng làm đảo lộn cái gì cả!
Chẳng hạn, cậu công kích cháu sao lại dùng lời cầu nguyện
để khỏi sét đánh; thế tại sao cậu cắm thu lôi trên mái nhà? Tại sao
cậu dùng bơm cứu hoả?
Vậy nếu con người tìm được trong tự nhiên những sức mạnh
để chiến thắng những sức mạnh làm hại nó, tại sao không cho
phép lời cầu nguyện được làm như thế?
Hay là Thiên Chúa ở trên trời không có việc gì làm đối với
vũ trụ và loài người? Khi sáng tạo vũ trụ, Thiên Chúa đã tự khoá
tay mình và khoá tay thụ tạo lại rồi sao? Và như thế là hai đàng
sống cách biệt nhau, vì có những định luật chắn ngang, khống chế
cả Thiên Chúa lẫn loài người sao? Nghĩ như thế và nhất là tin như
thế, không phải là kì cục sao?
- Thiên Chúa phải tuân phục định mệnh! Ý muốn của Thiên
Chúa là những định luật mà chính Người cũng phải vâng theo như
chúng ta. Những định luật đó bất khả xâm phạm, chính Người
cũng không thể thủ tiêu chúng được.
- Nếu cháu không lầm, thì cậu lấy ý tưởng đó của A-na-tôn
Phơ-răng-xơ.
- Phải. Trong cuốn tiểu thuyết "Trên hòn đá trắng"
- Vấn nạn đó chứng tỏ những người vô thần muốn lí luận về
tôn giáo, họ có thể sai lầm đến mức nào! Cậu này, cậu cho cháu
biết tại sao Thiên Chúa đã lập nên các định luật trong vũ trụ, lại
không thể đình chỉ các định luật đó và bắt trật tự vũ trụ mà mình
đã sáng tạo phải chiều theo ý mình? Cậu lấy quyền đâu mà tuyên
bố những định luật đó là bất di bất dịch, như một số chính khách
ngày nay tuyên bố những định luật chính trị là bất khả xâm phạm?
Những định luật đó không bất di bất dịch, cũng chẳng bất khả
xâm phạm đâu. Các luật lệ chính trị của cậu, cậu có thể thay đổi
khi nào cậu muốn. Cậu biết điều đó chứ! Vậy mà cậu lại muốn
Thiên Chúa phải cúi đầu vâng theo những định luật chính Người
đã đặt ra? Tóm tắt, - đây cháu nói lặp là tại cậu, - trong khi chính
189
con người coi thường những định luật, những sức mạnh tự nhiên,
thì cậu lại không cho Thiên Chúa có khả năng làm như thế sao?
Vả chăng, Thiên Chúa không cần "thay đổi" những qui luật
Người đã lập, để chấp nhận lời người ta xin, vì trước kia Người
đã cho những điều ta cầu xin tức là những nguyên nhân tinh thần,
vào trong dây chuỗi những nguyên nhân sẽ chế định các biến cố.
Thánh Tôma nói: "Con người cầu xin là để đáng được những điều
mà từ muôn thuở Thiên Chúa toàn năng đã định ban cho nó".
- Cậu cần gì thì Thiên Chúa biết rõ hơn cậu. Cần gì phải xin
nữa?
- Người hành khất lang thang ngoài phố cũng nghĩ bụng:
người giàu có đang đi tới kia, ông cũng biết tôi cần gì, không
khác nào tôi biết điều đó, tôi cần gì phải xin ông ta? Và nếu anh ta
không xin gì cả, liệu cậu có cho anh ta cái gì không? Phải. Thiên
Chúa biết ta cần gì. Nhưng Người vẫn muốn ta xin. Đó không
phải là quyền của Người sao? Không phải là công bình sao? "Con
khóc mẹ mới cho bú" mà!
- Cậu là người cao thượng, không thể làm mình nhỏ đi như
thế!
- Vì lẽ đó, thường sự người ta quì gối mà cầu nguyện. Lúc
đó,...người ta nhỏ đi!
- Cầu nguyện hạ giá con người!
- Không. Cầu nguyện làm con người nên cao trọng, vì khi
đó, con người có đôi cánh để bay lên tiếp cận Thiên Chúa.
- Nhưng Thiên Chúa là Cha, lại không thể cho con cái những
sự nó thiếu sao? Cần gì con cái phải van xin như thế cho nhục!
- Cháu không đồng ý tiếng "van xin như thế cho nhục".
Riêng cháu, cháu thấy mình nên cao trọng hơn khi quì gối trước
mặt Thiên Chúa. Nhưng để trả lời thẳng vào điều cậu nói đó, thì
cháu quyết rằng nếu ta cần gì liền có cái đó ngay, không phải cầu
xin gì cả, thì ta dễ mà coi những cái đó là phải ban cho ta, ta sẽ
nghĩ mình có quyền, có công đáng được những cái đó và đó là
vinh dự của ta. Thiên Chúa là một người Cha, chính ta gọi Người
là "Cha chúng con". Vậy thử hỏi cha nào lại không thích nói
190
chuyện với con, cười vui khi con chơi đùa, lo toan đến những cái
con cần và nghe lọt tiếng con? Thấy con tự nhiên quay lại và gieo
mình vào lòng cha một cách tin cậy, phải chăng là cha không hài
lòng? Cậu cứ bám lâý quan niệm tự nhiên thần luận của cậu, cứ
giữ lấy tính kiêu căng của cậu; phần cháu, cháu giữ lấy Thiên
Chúa của cháu, Thiên Chúa của kinh "Lạy Cha chúng con ở trên
trời" quan tâm đến con cái dưới thế, yêu thương con cái và nhiều
khi chỉ chờ con cái tỏ một dấu nhỏ, là tuôn đổ xuống tràn trề
ân huệ.

- Dĩ nhiên, với óc thần bí hăng say của cháu, cháu sẽ bảo cậu
tin rằng cái bánh tròn, trước đó cháu cầu nguyện, có chứa một vị
Thiên Chúa, Thiên Chúa ẩn trong hình bánh và hình rượu chứ gì!
- Cháu tin như thế!
- Cháu có hiểu không?
- Không. Đây là một mầu nhiệm. Nhưng cậu là người muốn
cái gì cậu cũng hiểu được cả, cậu có hiểu làm sao cơm cậu ăn vào
lại hoá thành thịt thành máu cậu không?
- Đó là hiện tượng tiêu hoá.
- Cậu nghiệm xét nó, nhưng cậu có hiểu nó không?
- Đó là sức của tự nhiên.
- Trong bí tích Thánh Thể, lại là sức của Đấng Tạo hoá. Việc
mà Thiên Chúa thực hiện hằng ngày trong mình ta một cách tự
nhiên, sao Người lại không thể thực hiện một cách siêu nhiên
trongThánh thể?
- Dầu sao thì việc một vị Thiên Chúa mà lại nên thức ăn, việc
đó thật là quái dị, không tin được, không hiểu được!
- Đồng ý. Phải. Thật là lạ lùng, nên cần lấy tất cả đức tin mới
có thể thừa nhận điều đó được. Nhưng cậu ạ, cơm bánh, thức ăn
biến thành thân xác, thành cơ bắp, thành máu cậu, cậu có rõ hơn
không? Việc đó cậu nghiệm thấy hằng ngày mà không bao giờ
cậu nảy ý phủ nhận. Sở dĩ cậu không để ý đến là vì việc đó đã quá
quen thuộc. Tuy nhiên, suy kĩ thì thật là chúng ta đứng trước một
191
việc mà chúng ta không bao giờ hiểu được. Vậy cậu không hiểu
được những công hiệu của thức ăn trong thân xác ta, sao cậu lại
muốn hiểu công hiệu của thức ăn bởi trời trong linh hồn ta? Cậu
ạ, cậu hãy thừa nhận các mầu nhiệm đi, đó là những điều chúng ta
phải tin.
- Nói gì thì nói, trong vấn đề này, lí trí cậu kinh ngạc và phản
đối, vì phép Thánh Thể làm đảo lộn những định luật của tự nhiên;
làm cho những định luật đó ở đây không còn tác dụng nữa?
- Cậu cứ nói đến tự nhiên, chứ thật ra đây là phạm vi hoàn
toàn siêu nhiên, thuộc một lĩnh vực mà qui luật tự nhiên không có
phận sự gì hết. Đây là những hiện tượng vượt quá lí trí cậu; vì thế
lí trí cậu kinh ngạc và phản đối là sai.
- Nhưng Thánh Thể là một mầu nhiệm phi thường!
- Phải. Phi thường, kì diệu. Đồng ý, nhưng có phải vì thế mà
không thừa nhận không? Con người chỉ phát minh ra cái mà nó
quan niệm được. Vậy mà trí óc con người không bao giờ quan
niệm được một điều lạ lùng như thế. Phải, lí trí cháu bảo cháu
rằng đây là một "mầu nhiệm làm người ta run rẩy". (GM Bôt-xuy-
ê). Và chính vì thế mà nó càng khó tin thì lại càng đáng tin hơn.
- Lại chuyện ngược đời!
- Không đâu. Mầu nhiệm này quá sức loài người. Vậy mà lí
trí cháu bảo cháu rằng cái gì quá sức lí trí cháu, nhưng không
nghịch với nó, cái đó chỉ có thể do Thiên Chúa mà có.
- Nhưng như thế là hoàn toàn đảo lộn hết mọi qui luật của tự
nhiên.
- Lại thế! Cậu nại đến những qui luật đó để phi bác phép
Thánh Thể, nhưng cậu có hiểu rõ chúng không? Chúng không có
những tính chất tương đối mà cậu không hiểu được sao? Hay là
chúng là tuyệt đối? Dẫu không gian, dẫu thời gian, dẫu trọng lưc,
dẫu kích thước một vật, cũng không phải là những cái có tinh
cách cốt tuỷ và tất hữu. Vả chăng, bản chất, vật chất, quãng cách,
trọng lực, nơi chốn là gì? Vậy cái tuyệt đối trong các sự vật,
chúng ta cũng cho là không có, không lẽ cậu muốn bắt Thiên
Chúa phải có như thế?
192
- Thế nghĩa là, theo ý cháu, thì Thiên Chúa hiện diện một
cách thật sự, ở mọi nơi trên thế giới có bánh đã truyền phép?
- Đó là một hiện tượng mà một cách nào đó, người ta muốn
thực hiên khi nào tuỳ ý.
- Cậu chưa hiểu.
- Đây, một bản thảo. Cậu cứ giao nó cho nhà in, yêu cầu in
một triệu bản. Sau đó, cậu hãy lấy một bản, ở một nơi nào bất kì
trên thế giới; mở ra, cậu sẽ thấy trọn vẹn tư tưởng tác giả. Một
bản, hai bản, 10 bản, 100 bản cũng không nói gì hơn 1 bản. Các
bản cộng lại không thêm gì hết. Mỗi bản chứa mọi sự như tất cả
các bản khác gộp lại. Tất cả các bản hoàn toàn giống nhau. Nhờ
máy in, tư tưỏng một tác giả có thẻ gặp thấy bất cứ ở đâu. Đó chỉ
là một sự suy loại. Trong Thánh Thể không chỉ có tư tưởng một
người. Còn có một vị Thiên Chúa. Nhưng so sánh đó giúp ta hiểu.
- Hết sức tế nhị!
- Cháu xin dẫn một suy loại nữa. Khi một người nào đó ngồi
trước máy thu thanh mà nói, thì khắp nơi, hàng triệu người có thế
nghe ông nói gì. Tất nhiên người nói không nhân con người của
mình lên cho mỗi người nghe, nhưng đã nhân sự có mặt thật sự
của tiếng nói mình. Hẳn là chúng ta cho đó là chuyện lạ lùng,
nhưng chúng ta vẫn thừa nhận, vì lẽ chúng ta kinh nghiệm điều
đó.
- Nhưng ai chứng minh cho cậu biết chắc có Thiên Chúa ẩn
dưới miếng bánh kia?
- Đây cậu ạ, đừng kể ánh sáng đức tin làm ta biết chắc những
sự kiện mà cháu đề nghị cậu tìm hiểu đó, thì:
1/ Đức Giêsu đã lập bí tích này đêm trước ngày chịu chết
trong một buổi lòng bên lòng với các Tông đồ mà Người sắp từ
giã. Người lập bí tích này như một di chúc yêu thương. Vậy mà
thường sự lúc người ta sắp chết, có ai lại đi đánh lừa những bạn
thiết nghĩa của mình không?
2/ Người buộc người ta phải lĩnh nhận bí tích này, nếu
không, sẽ phải chết. ("Nếu anh em không ăn Thịt Con Người và
uống Máu Người, anh em sẽ không có sự sống trong mình"). Nếu
193
trong Thánh Thể chỉ có hình bóng Mình người thôi, hỏi rằng
Người có buộc nhặt như vậy không?
3/ Ai lại có thể tin rằng từ 20 thế kỉ nay, loài người đã phục
gối thờ lạy một tấm bánh và một Thiên Chúa đã để con cái trần
gian thờ quấy quá như vậy.
4/ Một sự kiện khác lớn lao. Có vô vàn bậc thông minh, lỗi
lạc đã tin và xưng ra mình tin có thật một Ngôi Thiên Chúa trong
Thánh Thể. Cậu muốn biết những tên tuổi đó? Thánh Ô-guyt-
xtanh, thánh Tôma, Pat-xcan, Ma-lơ-bơ-răng-sơ, Bốt-xuy-ê, Pat-
xtơ, chưa kể đến bao vị đại thánh, không những tin, mà còn sống
bằng Thánh Thể nữa. Trước cảnh những tâm hồn thanh khiết
nhất, những nhân tài thượng trí nhất, những nhà bác học tiếng tăm
nhất, thành phần ưu tú của nhân loại, phục gối trước Mình thánh,
cháu tự bảo mình: Đành rằng nhân đức, khoa học cũng như thiên
tài, không có cái gì không thể sai lầm; nhưng (nhờ phép Thánh
Thể) những cái đó hoàn toàn có cơ may để nắm chắc được sự thật.
5/ Sau hết, giả sử một điều không thể, nếu cậu có thể thủ tiêu
được Bánh thánh trên mặt đất này, thì chưa đầy một năm sau, cậu
sẽ thấy bao nhiêu nguồn thanh tịnh, chí hi sinh, nhiệt tình tông đồ
đều tắc cạn hết. Những giáo hội li khai nói chung và Tin lành nói
riêng là một bằng chứng sinh động. Cậu chỉ cần nhớ lại những
buổi cậu cháu ta trao đổi về Giáo hội đích thực của Đức Giêsu.

- Cậu tiếp tục bản cáo trạng của cậu. Thật là bất công, khi
một trẻ bé vừa lọt lòng mẹ, đã phải chịu trách nhiệm về một tội
em không phạm.
- Cậu định nói về tội nguyên tổ?
- Phải.
- Giáo hội dạy thế này: Ađam Evà phạm tội, chắc chắn...
194
- Có phải hiểu nghĩa đen câu truyện ngây ngô về quả cấm
không?
- Ai bắt cậu phải hiểu như thế? Đây là một sự kiện tâm linh,
một sự nổi loạn, một sự trái lệnh Thiên Chúa thật sự.
- Dẫu sao một quả táo, một quả cây, một sự nhỏ mọn không
ra gì!...
- Cái gì cũng được thôi. Nhưng có những cái nguyên nó nhỏ
mọn mà ý nghĩa đi theo nó lại to lớn. Lá quốc kì là một miếng
vải; thế mà người ta liều chết bảo vệ nó. Cái mốc dựng bên bờ
ruộng chỉ là một viên đá thôi; nhưng nó tượng trưng quyền sở
hữu và cho thấy chỗ đó hết ruộng người này, bắt đầu ruộng người
khác.
Cũng thế, quả cấm nguyên nó là vật nhỏ mọn; nhưng Thiên
Chúa đã lấy nó biểu trưng quyền thống trị. Người đã đặt con
người làm vua các thụ tạo; nhưng Người muốn chính Người vẫn
làm vua thống trị con người và lệnh cấm Người ra là dấu chỉ
quyền đó.
Dẫu sao, tội nguyên tổ, đối với chúng ta, chỉ là một "tội tông
truyền" (péché de race), là hậu quả do tội của một người khác mà
ta chịu hậu quả.
- Nhưng như thế là bất công...
- Không bất công gì hết! Bất công là tước mất của kẻ khác
cái họ phải có; vậy mà, con truỵ lạc vì cha truỵ lạc, con lao vì cha
lao, con một kẻ giết người phải mang cái nhục do tội của cha; con
ăn mày vì cha phá hết của, như thế có bất công không?
- Lẽ ra Thiên Chúa quan phòng phải sửa lại việc đó!
- Thiên Chúa đã sửa, mà sửa một cách tài tình, vì việc cứu
chuộc đã trả lại ta cái mà nguyên tổ đánh mất! Vậy tội nguyên tổ
tước mất của ta cái gì? Một quyền lợi ta có, một địa vị ta kiếm
được ư? Không. Nó chỉ tước mất của ta ân sủng sơ thuỷ, một
trạng thái nói được là lạ lùng mà ta không có quyền được, tức là
việc ta được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên. Ông vua ban một
tuớc trọng cho một người nào đó, kèm theo một số điều kiện nhất
định, nếu vì điều kiện không thực hiện, mà rút tước đó lại, hỏi
195
như vậy có bất công không? Việc xảy ra cho Ađam và con cháu
cũng vậy thôi.
Luật liên đới định rằng con cái thừa hưởng vinh quang và
gánh chịu nhục nhã của cha, luật đó đã đánh vào chúng ta. Phải.
Thế nhưng luật đó cũng có thể giúp ích cho ta. Nếu Ađam trung
thành thì ông đã truyền lại ta mọi đặc ân ông được. Chính vì
nguyên tổ ta đã phá hại tòa nhà tinh thần của nòi giống mình, nên
chúng ta phải sống giữa những đổ vỡ và con người trở thành "vị
thần sa đoạ nhớ tiếc thiên cung".
- Nói gì thì nói, vì tội chỉ một người mà phạt cả nòi giống,
thì...
- Đây một thí dụ khác. Thế kỉ 15, một số người Anh đã đích
thân giết Gian-Đa. Họ chết đã 4 thế kỉ nay rồi. Thế mà trong cuộc
chiến vừa qua, có những người Anh khác đã đến trước tượng
thánh nữ để tạ tội. Mặc dầu không ai trong số những người này đã
nhúng tay vào tội ác đó, nhưng dân tộc Anh thấy cái tội nước Anh
phạm đó đè nặng trên mình, họ vẫn vì tổ tiên họ truyền lại mà
mang cái tội đó, nên họ đã đến làm việc tạ tội, mà việc này lại làm
họ đáng trọng. Tại sao thế? Vì giữa tất thảy những thành phần
cùng một nòi giống, có luật di truyền, luật liên đới.
- Cháu nói gì thì nói, nhưng cậu thấy việc những đứa con tội
nghiệp sinh ra với những tì tích, những tật bệnh thể xác hay tinh
thần cha mẹ truyền lại, việc đó thật là bất công.
- Như thế, không lẽ cứ mỗi lúc, Thiên Chúa lại phải làm
những phép lạ để sửa chữa những tì tích của cha mẹ và thủ tiêu hồ
sơ án tiêt của họ, nếu có ư? Thật ra, định luật tự nhiên cần cứ phát
huy tác dụng của chúng. Thiên Chúa không chịu trách nhiệm, nếu
con người lạm dụng tự do của mình. Có thể có những người vô
tội phải chịu khổ vì đó, phải. Nhưng lỗi là tại cha mẹ chúng và
chính mình chúng. - Nhưng tại sao lại lên án phạt những trẻ chết
chưa chịu phép thánh tẩy?
- Cậu thấy đâu nói chuyện đó? Theo thần học, các trẻ đó
không được lên thiên đường, đúng; nhưng chúng cũng được
hưởng một hạnh phúc tự nhiên nào đó. Chưa bao giờ có vấn đề
lên án phạt những trẻ như vậy. Nếu có thì đúng là bất công.
196
- Dầu sao thì cháu cũng phải nhận là trong đó có mầu
nhiệm.
- Cháu cũng nhận như thế. Nhưng sao cậu lại bỡ ngỡ?
- Phải nhận rằng cháu thì cháu chạy ngay vào ẩn trong đức
tin, thế là cháu an tâm.
- Phải. Vẫn còn mầu nhiệm; nhưng cháu tin điều đó, vì Thiên
Chúa đã phán dạy.
- Ai quyết với cháu và làm chứng cho cháu biết điều đó?
- Giáo hội, Người bảo quản kho mạc khải.
- Giáo hội không thể sai lầm sao?
- Đúng!
- Như thế là giáo hoàng không thể phạm tội?
- Như mọi người, Đức Giáo hoàng vẫn có thể phạm tội và,
hơn nữa, có thể mất linh hồn.
- ý cháu muốn nói giáo hoàng không thể sai lầm?
- Cháu xin phân biệt: người có thể sai lầm, hơn nữa Người đã
thật sự sai lầm, vì là loài người, khi Người đề cập những vấn đề
không liên hệ đến đức tin; nhưng khi Người lên tiếng "tự thượng
giáo toà" (ex cathedra), nghĩa là với tư cách là thầy dạy và thủ
lĩnh giáo hội, mà phán bảo toàn thể Giáo hội, rõ ràng tuyên bố
Người có ý định tín một chân lí mọi người phải tin, thì lúc đó,
Người không thể sai lầm.
- Nhưng nói một con người không thể sai lầm, là phi lí!
- Đây không phải con người, mà chức vụ!
- Như vậy là một phép lạ.
- Sao lại không? Chúng ta đã thấy rằng Thiên Chúa có thể
làm những phép lạ; Giáo hội từ nền đến đỉnh, là một toà nhà lạ
lùng, Do đó, để bảo toàn chân lí trên mặt đất này, Thiên Chúa có
thể làm phép lạ này, cũng như đã làm bao nhiêu phép lạ khác.
- Không cần gì!
- Cần chứ! Cần có tính vô ngộ đó:

197
1/ Trong các Nhà nước, có một quyền hành xét xử chung
thẩm, mà không bị một quyền nào khác xét xử. Cũng thế, Giáo
hội phải có một toà án xử chung thẩm, không được khiếu nại gì
hết. Vậy mà một quyền hành giảng dạy do Thiên Chúa lập, không
thể quan niệm được, nếu quyền hành đó không được ơn vô ngộ.
2/ Một thủ lĩnh tôn giáo thừa nhận mình có thể sai lầm, mà
lại lên án phạt cậu, nếu cậu không tin vào ông ta, một thủ lĩnh như
vậy là bất năng và dã man.
3/ Cậu truyền đạt một chân lí hay một sự kiện cho người ta,
bằng giấy tờ, thì cậu làm việc đó ban sáng, tối đến sẽ có 4 bản in
khác nhau. Nếu kho chân lí mạc khải Thiên Chúa giao cho thế
giới mà không được bảo vệ bằng ơn không sai lầm, để giữ gìn che
chở nó, thì ngày nay nó còn lại những gì nữa? Kìa gương anh em
Tin lành: họ không còn biết phải tin gì nữa! Không có ơn vô ngộ
đó, đạo mạc khải được chuyển đến chúng ta ngày nay chỉ còn là
những kỉ niệm mơ hồ và sứt mẻ. Chính vì lẽ đó mà Bơ-ruy-nơ-
chi-e đã nói: "Muốn cho tín ngưỡng mà chúng ta cần thiết đó
được bất biến thì phải có một truyền thống để bảo quản kho đức
tin, một quyền bính để hướng dẫn và bênh vực nó".
4/ Giáo hội là một Bà Mẹ. Mà mẹ thì chỉ khẳng định thôi,
không chứng minh gì. Con cái tin vào lời mẹ. Giáo hội cũng thế.
5/ Chỉ Giáo hội công giáo là đã dám khẳng định mình không
thể sai lầm; mà đã nói mình không thể sai lầm thì cần phải thật sự
không thể sai lầm; không thế, mình sẽ nhanh chóng trở thành cái
bia cho mọi người chế nhạo.
- Theo những điều cháu nói, thì Đức Giáo Hoàng không thể
sai lầm. Nhưng bên cạnh Đức Giáo Hoàng, còn có những Hồng
Y, Giám mục, linh mục. Nào giáo hoàng không thể đi một đàng
mà Giáo hội đi một nẻo sao?
- Không thể!
- Tại sao?
- Cậu có thấy đầu cậu đi một đàng, và chân cậu đi một nẻo
không?
- Không thể. Vì đầu và chân do một linh hồn điều khiển!
198
- Thì Giáo hoàng và Giáo hội cũng thế. Cả hai đều do một
động cơ bởi trời thúc đảy, là Thánh Linh.
- Chà!

- Tiếng "chà" của cậu chấm dứt cuộc tranh luận thật là có ý
nghĩa! Thôi, có gì nữa, cậu cho ra hết đi. Cháu đoán còn một cái
gì đó.
- Phải. Còn hai việc.
- Việc gì nào?
- Hôn nhân là không thể tháo gỡ!
- Hoàn toàn như thế! "Điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài
người không được phân li!"
- Hoan hô! Nhưng tại sao Giáo hội lại thủ tiêu nhiều nố hôn
phối như vậy? Không phải là vì tiền sao?
- Giáo hội chưa bao giờ thủ tiêu những nố hôn phối đã thành
sự.
- Nhưng tại sao lại có những đơn xin thủ tiêu?
- Giáo hội kể hôn nhân như một giao kèo.
- Như vậy là đúng!
- Vậy mà bất cứ giao kèo nào, hễ là muốn thành sự, phải có
một số tính chất nhất định.
- Rất đúng!
- Thiếu những tính chất đó, giao kèo không thành và phải thủ
tiêu.
- Đồng ý!
- Khi Giáo hội thủ tiêu một hôn phối, thì tức là Giáo hội chỉ
công bố rằng trong trường hợp nói riêng đó, hôn nhân chưa thành,
người ta lấy nhau không thành; chẳng hạn khi chứng minh được
là đã có mưu gian, có cưỡng hôn,v.v....không bao giờ Giáo hội
tháo một hôn phối trong khi công nhận hôn phối đó đã thành sự.

199
- Giáo hội không cho phép Na-pô-lê-ông lấy vợ thứ hai đó
sao?
- Không, cậu ạ, bản án của cơ quan tài phán Giáo hội Pa-ri,
tuyên bố thủ tiêu hôn phối thứ nhất của nhà vua, viện lẽ có ngăn
trở mật hôn, bản án đó không có giá trị. Đức Piô 7 đã phản đối và
Rôma chưa bao giờ công nhận bản án đó.
Na-pô-lê-ông cưới Giô-dê-phin ngày 9.3.1796. Hôn Hoàng
đế. Hôn phối đó hình như chỉ mới là hôn phối đời. Về sau, lên
ngôi Hoàng đế, Na-pô-lê-ông tính chuyện hợp thúc hoá tình trạng
đó. Đức Pi-ô 7 đến Phông-ten-nơ-bơ-lô tuyên bố rằng Người
không thể phong vương cho nhà vua, cũng như cho Gio-dê-phin.
Na-pô-lê-ông nổi giận. Đức Giáo hoàng không nao núng. Người
ban quyền cho Hồng Y Phét-sơ, Tuyên uý nhà vua, được làm mọi
phép chuẩn và được mọi quyền cần thiêt để làm phép hôn phối
không cần chứng tá và không phải báo trước cho vị quản xứ. Na-
pô-lê-ông ưng như vậy, vì trông rằng sự thiếu thể thức theo luật
như thế sẽ cho phép vua xin Giáo hội thủ tiêu hôn phối khi cần.
Ở đây không có việc thủ tiêu, là vì Đức Giáo hoàng đã ban
mọi phép chuẩn. Về sau cơ quan tài phán Giáo phận Pari khuyết
điểm ở chỗ, ngày 9.1.1810, đã tuyên bố thủ tiêu hôn phối, vì lẽ có
ngăn trở mật hôn. Bản án đó vốn vô giá trị và hiện vẫn còn vô giá
trị: 1/ Vì ngăn trở đó, Đức giáo hoàng đã cất rồi; 2/ vì trong luật
có nguyên tắc dành lại cho Toà thánh những vụ tố tụng hôn phối
của các vua chúa và thủ lĩnh nhà nước. Ngày 2.4.1810, tại điện
Tuy-lơ-ri, Na-pô-lê-ông kết hôn với Ma-ri Lu-i-dơ. Mười ba
Hồng y không chịu tới dự và vì thế phải tước mất bổng lộc và
cuối cùng bị phát lưu.
Rôma không hay biết gì về bản án của tài phán Pari cũng
như hôn phối thứ hai của Na-pô-lê-ông mà Rôma không bao giờ
chịu công nhận. Chứng cứ còn ghi trong những Đoản sắc Toà
thánh gởi cho Ma-ri Lu-i-dơ hoặc về vấn đề của bà, sau khi Đế
quốc sụp đổ. Bao giờ Quốc vụ khanh cũng tránh gọi bà bằng tước
Hoàng hậu, vì gọi như vậy là mạc nhiên công nhận hôn phối của
bà với nhà vua.

200
Khi thấy có những toà án Giáo hội ra những quyệt nghị
không công bằng lắm, cậu không só quyền kết luận rằng Giáo hội
như thế là đã cho phép li dị. Việc đó chỉ chứng tỏ rằng những
người có trách nhiệm giúp người ta giữ luật Giáo hội, không phải
bao giờ cũng đã có gan xét xử theo lương tâm mình. Những thẩm
phán đó không phải là không thể sai lầm và một bản án tự tiện
không thể làm tổn hại uy tín của tất thảy mọi đại diện của công lí.
Sau hết, để đáp lại trường hợp cậu nêu ra, nào cậu không biết rằng
Đức Giáo hoàng Cơ-lê-men-tê VII đã thà thấy cả nước Anh theo
Tin lành, không thà cho phép Hăng-ri VIII là vua nước đó bỏ
người vợ đã cưới thành sự đó sao? Đó là một bằng chứng lịch sủ
có sức mạnh của nó.
- Nhưng hình như hiện nay Rôma cũng vẫn cho phép thủ tiêu
hôn phối, mỗi khi người ta có tiền mà nộp .
- Căn cứ một bài đăng trên tạp chí Etudes (Nghiên cứu) dựa
vào Văn thư Toà thánh (Acta Apostolicae Sedis) là cơ quan chính
thức của giáo triều Rôma, cháu có thể dẫn ra đây những con số và
chỉ dẫn có thể làm cậu yên lòng.
Đây bản thống kê những bản án của Rôma trong năm 1929
về những vụ tố tụng hôn phối bất thành.
Trong số 58 vụ hôn phối, có 20 vụ được tuyên bố là bất
thành và 38 vụ thành.
Trong 29 ca được khiếu nại là có ngăn trở cưỡng hôn hoặc
sợ, là vấn đề có nhiều ý kiến tuyên bố bất thành hơn cả, thì 12 vụ
được tuyên bố là bất thành và 17 thành.
Trong số 20 ca về sự thiếu ưng thuận (nói là vì bị ép mà
ưng), thì 4 vụ được tuyên bố là bất thành, 16 vụ thành.
- Nhưng cho được xin thủ tiêu hôn phối, phải có nhiều tiền.
- Có những khoản lệ phí. Phải. Nhưng những vụ tố tụng
phần đời cũng tốn kém lắm chứ! Đàng khác, ai nghèo túng, hoặc
không lấy gì làm giàu, nếu có chứng nhận của bề trên giáo phận,
thì được miễn mọi lệ phí tố tụng.
Trong số 58 vụ về hôn phối bất thành nói trên, có 28 vụ
không mất tiền gì. Trong số 30 vụ trả tiền, 8 vụ được xử bất
201
thành, 22 vụ thất bại. Trong số 28 vụ không mất tiền, 16 vụ thất
bại và 12 vụ được như ý.

-Thiên Chúa đã biết trước cậu sẽ được rỗi hay sẽ bị luận


phạt, cho nên cậu làm gì thì làm...
- Ô! Đó là vấn nạn cuối cùng và cậu ẩn đàng sau vấn nạn đó
- Không cần gì ẩn!
- Nhưng sở dĩ cậu dành nó lại sau hết, thì hẳn là để dự bị một
lối thoát?
- Dẫu thế nào, cháu cũng không thể chối được sự tiền định.
- Cháu không thể chối.
- Như vậy là Thiên Chúa đã ấn dịnh mọi sự trước cả. Người
biết những việc làm của thụ tạo, cả trước khi nó chưa tra tay làm;
và như vậy là Người đã chọn ai làm kẻ thiết nghĩa với Người rồi.
Do đó những người khác, làm gì thì làm, con số những người
được tiền định sẽ không bao giờ được tăng thêm.
- Thú thật chúng ta đứng trước một mầu nhiệm to lớn, đã làm
các nhà thần học kinh hãi.
- Thêm một lẽ nữa để cậu...
- Thêm một lẽ nữa để cậu cẩn thận, không liều phần rỗi mình
vì một chân lí mà cậu không hiểu được. Dẫu sao, cậu thử nói cho
cháu xem cậu có đồng ý rằng những việc tuỳ thuộc ý nuốn tự do
của ta, chúng có thể xảy đến, không vì Thiên Chúa đã thấy trước
chúng sẽ xảy đến, mà Thiên Chúa thấy trước những việc đó vì
chúng sẽ xảy đến không?
- Cậu sẽ một là được rỗi, hai là phải luận phạt. Nếu thế nào
cậu cũng sẽ bị luận phạt, thì dẫu cậu có làm gì, cậu cũng chẳng
được rỗi!
- Kết luận: một là nay mai cậu sẽ chết, hai là 30 năm nữa cậu
mới chết. Nếu Thiên Chúa đã thấy trước rằng 30 năm nữa cậu mới
202
chết, thì cậu có thể bỏ ăn bỏ uống, có thể bắn một phát đạn vào
đầu, cậu vẫn không chết vì chuyện đó!
- Nhưng từ muôn đời, Thiên Chúa đã chọn những kẻ được
hưởng thiên đường.
- Cũng từ muôn đời, Thiên Chúa đã quyết định cung cấp cho
ta những phương thế đủ để rỗi linh hồn. Cậu phàn nàn chuyện gì
nữa nào?
- Nhưng nếu Người biết cậu sẽ không dùng những phương
thế cứu rỗi đó; sao Người lại dựng nên cậu làm gì?
- Là vì để bảo đảm danh dự cho cậu, Người không thay đổi
những cơ chế của công cuộc tạo thành và không vì cậu mà thủ
tiêu những thế hệ thụ tạo sẽ làm vinh danh Người bằng cách sử
dụng tốt tự do của họ.
- Dẫu sao thì nếu Thiên Chúa đã thấy trước tất cả...
- Khi một viên chánh án lên án một tội phạm căn cứ pháp
luật, thì không phải chánh án hay pháp luật là nguyên nhân của
việc lên án, mà chính là tội ác đã phạm mới là nguyên nhân. Dẫu
rằng Thiên Chúa biết ta sẽ làm gì, thì sự biết trước đó không làm
giảm sút sự tự do của ta cách nào cả; việc Thiên Chúa hiểu biết
các biến cố, không phải là nguyên nhân gây nên các biến cố đó.
Cậu rỗi linh hồn hay không là tuỳ nơi cậu.
- Nhưng nếu cậu không có tên trong danh sách?
- Là vì chính cậu tự gạc tên mình trong danh sách đó.
- Nếu Thiên Chúa muốn cậu rỗi linh hồn, thì Người phải cứu
cậu.
- Người chết để mở thiên đường cho cậu, chưa đủ sao? Cậu
có nhiệm vụ hưởng ứng ơn Chúa!
- Mầu nhiệm quá!
- Phải. Đây là mầu nhiệm thâm thuý nhất của thần học. Hành
động của Thiên Chúa ở điểm này vượt quá sức ta; dẫu sao chúng
ta vẫn thấy mình có tự do, hệt như chúng ta thấy chúng ta sống
động.

203
Tiền định là "việc biết trước và việc dự bị những ân huệ của
Thiên Chúa, nhờ những ân huệ đó, những ai được rỗi linh hồn thì
chắc chắn được rỗi." Đó là định nghĩa của thánh Ô-guyt-xanh.
Con số kẻ lành cố định; con số kẻ dữ cũng thế. Và ý muốn người
ta, tuy vẫn luôn luôn tự do, nhưng thế nào cũng sẽ chiều theo phía
Thiên Chúa đã định.
- Phải. Thật là mầu nhiệm khôn dò!
- Như thế là Thiên Chúa thật sự muốn một số thụ tạo của
Nguời bị luận phạt.
- Chính đó là lập luận của Can-vanh và Giăng-xê-ni-ux. Cần
chú ý rằng trước khi thấy trước các biến cố sẽ xảy đến và trước
mọi tình huống, Thiên Chúa đã muốn và đang muốn mọi người
được cứu rỗi, không phân biệt ai hết. Không ai bị phó mặc cho sự
dữ do một sự tất yêu không gì cưỡng lại được. Mỗi người được
Thiên Chúa ban ơn hiện sủng, hay ít ra túc sủng để tự cứu mình.
Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: "Mầu nhiệm lớn lao của ân sủng
là ở chỗ: trong khi những kẻ lành bền đỗ, sở dĩ bền đỗ được là
nhờ một ơn Thiên Chúa ban vì một lòng ưu ái riêng, thì những kẻ
sa ngã, không thể phàn nàn rằng họ phải như vậy vì họ đã mất
khả năng bền đỗ toàn diện và hoàn toàn."
- Nhưng tại sao việc phân phát ơn lại không bằng nhau như
thế? Tại sao lại có sự ưu tiên?
- Thiên Chúa là Chúa các ơn Người ban. Vậy ai có quyền
trách Người điều gì? Ai có thể khoe mình đã hiểu được dự định
và những lí lẽ của ý muốn Người? Dẫu người ta có tìm giải đáp
cho bài toán trong những lí luận triết học hay trong kiến thức và
sự thi thố các quan năng con người, thì giải đáp sẽ cứ luôn luôn
vượt ngoài sự tìm tòi của ta.

- Ôi! ước gì cậu có được đức tin làm cháu yên tĩnh như thế
và làm cháu thừa nhận những mầu nhiệm lạ lùng nhất mà không
bàn cãi gì!
204
- Đức tin đó, cậu đã đón nhận khi lĩnh bí tích thánh tẩy. Cậu
làm gì nó rồi?
- Hôm rước lễ lần đầu, cậu vốn tin.
- Rồi từ đó?
- Từ đó ư?... Ô! Cháu không thể biết được!...
- Cháu biết rằng cậu còn có đức tin. Có điều là cháu xin phép
cậu cho cháu nêu 3 giả thuyết: hoặc là đức tin cậu đã thiếp đi,
hoặc là nó không dám tỏ mình ra, hoặc là nó không có gan đi mãi
cho đến độ bừng nở. Cậu có phải là một người vô tín ngưỡng
thành tâm và có xác tín không?
- Không.
- Thế thì cậu là một kitô hữu vô ý thức; đức tin cậu đang ngủ
thiếp dưới tro tàn chăng?
- Có lẽ.
- Hay cậu thuộc lớp người có đức tin, nhưng không dám thể
hiện nó ra bên ngoài, không khác gì anh bộ đội giấu quốc kì trong
túi áo?
- Ô! Không. Như thế thì chỉ còn là mảnh khăn mũi nữa thôi!
- Vậy thì chỉ còn giả thuyết 3: đức tin âm thầm của cậu
không có gan thể hiện ra ngoài bằng hành động và ngại ăn ở hợp
với đều mình tin. Cháu biết rằng như thế là gây nên trong cậu cả
một cuộc cách mạng luân thường thật sự. Thế nhưng đi đạo đâu
phải chuyện chơi và chân lí nó có khả năng giải thoát người ta. Có
phải chính cái đó đang chặn lối cậu không?
- Cháu thật tò mò!
- Nhưng cậu ạ, cháu có quyền truy kích cậu mãi đến cùng!
Cháu đã nhảy vào đám chiến và bây giờ thì cậu cháu mình đã mặt
đối mặt với nhau, chúng ta đang soi vào mắt nhau. Cậu thành thật
đi, cậu ạ, và cậu hãy thú nhận là...
- Phải. Cậu thú nhận rằng cháu đã giải đáp cách thoả đáng,
đôi lúc quả quyết, tất thảy những luận điệu phỉnh phờ cũ rích, ít
nhiều hủ lậu mà cậu coi như thành luỹ để ẩn náu. Chính cháu đã
thắng. Cháu có sung sướng không?
205
- Không. Cậu đừng nói thế! Không phải cháu thắng; chính là
chân lí đã thắng, mà thắng vì cậu có một tâm hồn trung thực và
ngay thẳng. Trước kia sở dĩ cậu không thấy rõ, là vì những đám
mây đen che lấp con mắt cậu!
- Phải. Giờ thì cậu đã thấy rõ. Nhưng cậu chưa có đức tin!
- Thì Phơ-răng-xoa Cô-pê, một người tân tòng, sẽ nói với
cậu thế này: "Nhờ ơn Chúa, tôi đã gặp lại những cảm xúc của
tuổi thiếu thời. Với một sự đồng cảm anh em, tôi nghĩ đến người
tín hữu Kitô đang rơi vào tình trạng hững hờ; người đó giờ đây,
cũng như tôi ngày xưa, đang xao xuyến vì một luyến tiếc u uất
mỗi khi bên tai vẳng tiếng chuông chiều, khi đi qua dưới bóng
tháp thánh đường. Hỡi anh bạn tội nghiệp của tôi, hãy quì xuống
dưới chân ảnh chuộc tội! Hãy khiêm nhường! Thì rồi ngày mai,
nếu anh muốn, hồi chuông Phục sinh ròn rã sẽ loan báo cuộc
tỉnh ngộ của linh hồn bạn, linh hồn mà lâu nay bạn tưởng nó đã
chết, và rồi nó sẽ vun vút vươn lên trong cuộc sống mới, trong
trắng và đầy yêu thương?".
- Có lẽ cậu cũng thế!
- Thế thì xin cậu quì xuống mà cầu nguyện đi!
- Cậu chả biết cầu nguyện thế nào nữa.
- Dẫu vậy, cậu cứ cầu nguyện đi. Cậu hãy đọc "Tôi thú
nhận", thì rồi nó sẽ dẫn cậu tới "Tôi tin kính". Hãy đọc kinh Lạy
Cha hay là tốt hơn cả, đừng đọc những công thức có sẵn đó, cậu
cứ cầu nguyện bằng cõi lòng cậu, như em bé nói chuyện với cha.
Hãy mở cửa lòng cậu, thì Thiên Chúa sẽ mở cửa lòng Người.
- Làm thế nào để được đức tin?
- Muốn thế, không phải chỉ cần tìm chứng cứ để tự thuyết
phục mình, mà nhất là cần đấu tranh đánh bại các dục vọng của
cậu.
- Xét cho cùng, cậu tin hay không tin, là tuỳ ý cậu.
- Phải. Tin là một việc làm của trí hiểu, nhưng cũng là một
việc làm cuả ý chí. Để tiếp nhận chân lí, trí hiểu cần được thúc
đẩy bởi ý chí và ý chí cần được thúc đẩy bởi ơn thánh. Thiên
Chúa biết không có Người, ta không làm được gì. Vì thế, người
206
ban ơn, thúc giục, lôi cuốn ta để ta tin đạo, nhưng không hề thủ
tiêu quyền tự do sử dụng ý chí trong ta.
- Liệu cậu có được ơn đó không?
- Thiên Chúa không từ chối nó với ai hết.
- Tóm lại, cậu phải làm gì?
- Cậu hãy đem thực hành chút tàn dư đức tin còn lại trong
cậu. Cậu còn tin Thiên Chúa ư? Thì cậu cứ thờ phượng và cầu xin
Người! Cậu tin luân thường, sự phân biệt căn bản giữa lành và
dữ? Thì cậu cứ làm lành lánh dữ. Hãy xin tha thứ việc dữ đã làm.
Nhớ đến tội lỗi, cậu hãy hạ mình ở khiêm nhưòng. Cậu tưởng cứ
chờ cho đức tin đến xâm chiếm cậu đã, rồi mới thực hiện nó.
Không. Cậu cứ thực hiện, rồi cậu sẽ tin; cứ thực hiện chút ít đức
tin còn lại, rồi đức tin mà cậu còn thiếu, không bao lâu nó sẽ tới.
Tóm tắt, cậu tin thế nào, cứ thực hiện như vậy đã.
- Có phải cứ bắt đầu như vậy không?
- Vâng. Việc gì cần làm trước, thì cứ bắt đầu bằng việc đó:
trước tiên, cậu hãy đi xưng tội.
- Thế à?
- Vâng, vì cậu đi xưng tội, tức là cậu phục mình dưới chân
Thiên Chúa và rồi cử chỉ khiêm nhường đó sẽ đẩy hòn đá kiêu
căng cho đến nay vẫn hạn ngữ không cho đức tin xâm nhập linh
hồn cậu. Khi người ta đã ở dưới chân Thiên Chúa, thì người ta ở
gần lòng Người lắm rồi!
- Cháu thật đáo để!
- Đáo để nhất là phép giải tội. Thiếu gì người không còn có
thể tin đạo nữa, thế mà chính nơi toà giải tội, họ đã gặp lai đức
tin, khi họ xưng tội. Đức Giám mục Bôt-xuy-ê nói: "Bạn hãy
thanh tẩy đền thờ Thiên Chúa cho Người ngự". Nếu cậu muốn
mắt cậu nhìn rõ, hãy chữa nó cho lành đã. Có một phương thần
dược trả lại sự sáng cho mắt cậu. Đây không phải là vấn đề tin
hay không tin, đây là vấn đề có thật tâm muốn tin hay không. Đây
không phải là thành kiến, đây chỉ là công tác vệ sinh tâm hồn.
- A ! Nếu cậu biết con đường Đamát ở đâu, cậu sẽ hân hoan
tới đi lại trên con đường đó.
207
- Không phải cứ đi đi lại lại trên đường là gặp được đức tin
đâu. Như cháu vừa nói, cậu cứ phục gối xuống và kêu lên Thiên
Chúa như người mù tong Tin mừng: "Lạy Chúa, xin làm cho con
sáng mắt"
- Gian nan thật!
- Nhưng bây giờ đã thấy rồi, mà cứ tiếp tục lê mình một cách
do dự, ươn ái, chờ thời, luyến tiếc những cái ràng buộc mình và
trôi nổi phiêu lưu; như thế không phải là gian nan hơn sao? Muốn
vào tới cửa, phải ra tay chèo chống. Cậu đã thấy rõ. Thấy mà thôi
chưa đủ, cần phải muốn. Rồi cuối cùng chính cậu cũng phải lặp
lại câu nói đẹp đẽ của Pxi-ca-ri, sau khi trở về với đức tin: "Chao
ôi! Lạy Chúa, mến Chúa chỉ đơn giản như thế này thôi ư?"
Dịch xong tháng 1/1968

208
Mục lục

Phần I: Có Thiên Chúa T.3


Chương mở đầu: Ba nguyên tắc của ông cậu 3
Chương II: I. Sáng tạo và sự sống 11
Chương III: II. Chuyển động 18
Chương IV: III. Trật tự trong vũ trụ 24
Chương V: IV. Những câu hỏi bỏ lửng 31
Chương VI: V. Ông cậu tấn công 37
Chương VII: VI. Trước không gian bao la vô hạn 43
Chương VIII: Thiên Chúa với đau khổ 47
Chương IX: Thiên Chúa với đau khổ (tiếp) 54
Phần II: Linh hồn bất tử 61
Chương I: Có linh hồn 62
Chương II: Linh hồn thiêng liêng 68
Chương III: Linh hồn bất tử 75
Phần III: Thần tính Đức Giêsu 77
Chương I: Những lời tiên báo về Đấng Cứu thế 78
Chương II: Giáo lí cao cả 86
Chương III: Yêu và ghét 92
Chương IV: Hai khẳng định vô cùng quan trọng 54
Chương V: Những câu nói siêu nhân của Đức Giêsu 61
Chương VI: Đức Giêsu sống lại 66
Chương VII: Việc thiết lập đạo Kitô 72
Chương VIII: Chứng máu 78
Chương IX: Giáo hội vẫn đứng 83
209
Chương IX: Giáo hội vẫn đứng 88
Chương I: Bức thư 1: dọn đường 88
Chương II: Những mâu thuẫn của phái Tin lành 94
Chương III: Những biến đổi của Tin lành 100
Chương IV: Không có biến đổi trong đạo Công giáo 106
Chương V: Bốn đặc điểm của Giáo hội thật 113
Chương II: Nói tiếp về Tin lành 118
Phần thứ V: Những vấn nạn chống công giáo
Chương I: Vấn nạn dồn dập 123
Chương II: Khoa học với Tôn giáo 148
Chương III: Hoả ngục muôn kiếp 158
Chương IV: Phép lạ 171
Chương V: Xưng tội 179
Chương VI: Linh mục 191
Chương VII: Những phát đạn cuối cùng 197
cầu nguyện, Thánh Thể,- nguyên tội,- Giáo hoàng vô ngộ, thủ tiêu
hôn phối,- Tiền định- đức tin.
ζ
nhớ TCV 1/1968
21/7/1968
4/5/1991

210

You might also like