Professional Documents
Culture Documents
cái chết của Hêrôđê, và việc khai sổ kiểm tra của Quiriniô,
thì ta có thể kết luận là Chúa Giêsu sinh ra vào khoảng
năm 6 trước Công nguyên, và chết ngày 14 Nisan, tức
ngày 7 tháng 4 dương lịch năm 30).
Các sách Tin Mừng là tác phẩm của những người sống
đời tông đồ, bởi thế chúng có chủ ý truyền giáo và mục
vụ. Nòng cốt của Tin Mùng là: Đức Giêsu là Kitô, là
Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, Đấng đã chết và sống
lại. Con người và sự nghiệp của Người là khai mở thời
cánh chung.
3. Niên biểu
Matthêu Hy-lạp hiện thời, được viết chung quanh năm
80 (có lẽ năm 85) tại phía Bắc Palestina. Máccô được viết
trước năm 70 (có lẽ năm 66-68) tại Rôma.
Luca được viết giữa năm 80-90, tại miền Tiểu-Á hoặc
Hy-lạp. Chúng ta sẽ bàn cãi chi tiết khi đề cập từng tác
phẩm. Năm 70 là một năm rất quan trọng: Quân La-mã
chiếm thành Giêrusalem và phóng hỏa Đền Thờ, do đạo
quân của Titô (con của Vespasiano). Tại sao các sách Tin
Mừng được viết sau năm 70?
Người ta phân biệt 2 thời kỳ trong lịch sử Kitô giáo
thời các tông đồ:
- Từ năm 30-70: Nhóm 12 còn hiện diện đó, và làm
chứng trực tiếp về Chúa Giêsu.
- Năm 70-95: Các tông đồ thân cận của Chúa Giêsu
chết dần hoặc bị phân tán. Phêrô chết vào khoảng 64,
Phaolô 67. Chỉ một mình Gioan sống lâu, quá năm 70.
Các tông đồ là những người làm chứng trước hết bằng
sự rao giảng. Khi các tông đồ bắt đầu biến dần, người ta
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
cố gắng ghi chép để giữ lại nội dung lời rao giảng của các
chứng nhân trực tiếp ấy.
III. CÁC VẤN ĐỀ CHÍNH YẾU
CỦA KHOA PHÊ BÌNH HIỆN ĐẠI
Ngày nay nhà chú giải không chỉ làm công việc giải
thích ý nghĩa tức thời của các bản văn Tin Mừng. Nhờ
phương pháp phân tích văn học, sử học và xã hội học, họ
được khích lệ tiến xa hơn nữa, và tìm về thời tiền sử của
các bản văn. Nói một cách cụ thể, họ đang tập trung nỗ
lực nghiên cứu chung quanh một số vấn đề như sau:
1. Vấn đề các giai tầng văn học
Một tác phẩm có thể được hình thành qua nhiều giai
đoạn, vì thế nó có thể mang nhiều giai tầng văn học. Các
bản văn Cựu Ứớc và nhất là Tân Ước chất chứa nhiều giai
tầng văn học. Giai tầng sau hết là giai tầng của những
người biên soạn. Họ đã tra tay sửa chữa lần chót. Các giai
tầng bên dưới phát xuất từ nhiều giai đoạn của truyền
thống. Một giai tầng càng cũ, thì càng gần với Đức Giêsu
của lịch sử.
Ngày nay nhà chú giải đặt cho mình nhiệm vụ là phân
biệt các giai tầng, minh định niên biểu, nguồn gốc và ý
nghĩa.
2. Vấn đề Đức Giêsu lịch sử
Các sách Tin Mừng không phải là những tiểu sử,
nhưng là những chứng tá về con người và lời giảng dạy
của Đức Giêsu. Một trong những vấn đề được các nhà chú
giải ngày nay quan tâm nhất là tìm lại hình ảnh của Đức
Giêsu lịch sử. Qua các giai tầng văn học, người ta đã tìm
8 Dẫn nhập phê bình vào các sách
lại được bài trình thuật nguyên thủy về cuộc Khổ nạn và
minh định các diễn biến theo thời gian và nơi chốn. Người
ta cũng đã cố gắng tìm lại những lời lẽ nguyên văn mà
Chúa đã dùng để giảng dạy (“ipsissima verba”). Qua lời
giảng dạy đó, người ta tìm hiểu ý thức của Chúa Giêsu về
địa vị Mêsia của mình như thế nào…
3. Những kiểu “đọc lại”
Ngày nay các nhà chú giải còn cố gắng phân biệt lời
dạy của Đức Giêsu trong thời gian lịch sử của Người và
những kiểu “đọc lại” (relectures) của cộng đoàn.
Ví dụ: Chúa Giêsu đã nói khi truyền phép Rượu:
“Này là Máu Thầy đổ ra cho nhiều người”
“Nhiều người” là một kiểu nói có cơ sở trong Cựu
Ước. Nhưng Giáo Hội muốn nhấn mạnh tới việc các thành
phần trong cộng đoàn được liên hệ một cách đặc biệt, nên
đã thêm các chữ “cho các con”.
Trong tập sách này, chúng tôi giới hạn công việc dẫn
nhập vào ba sách Tin Mừng Nhất Lãm và sách Công vụ
mà tác giả, theo truyền thống là Luca.
Chúng tôi sẽ dành tập II cho các tác phẩm của Gioan
(Tin Mừng IV, ba thư và sách Khải Huyền); và tập III cho
các thư của Phaolô và các tông đồ khác.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Phần I.
CÁC VẤN ĐỀ
Chương I.
SỰ HÌNH THÀNH CÁC
SÁCH TIN MỪNG NHẤT LÃM
1. Ngôn từ
Tin Mừng phát xuất từ tiếng Hy-lạp “euaggelion”.
Ý tưởng về một sứ điệp vui mừng được diễn tả trong Is
52,7 theo bản LXX: “Đẹp thay chân những người mang
Tin Mừng trên núi”. Nhưng trong bản LXX, chúng ta chỉ
có động từ “euaggelizestai”, chứ không có danh từ “Tin
Mừng” (euaggelion).
Chúa Giêsu thì giảng bằng tiếng Aram.
Chính thánh Phaolô là người đầu tiên đã dùng danh từ
“euaggelion” trong văn học Kitô hữu. Trong ngôn ngữ
thông thường, “euaggelion” chỉ một biến cố vui vẻ, ví dụ:
một cuộc chiến thắng, sự thăm viếng của hoàng đế.
Thánh Phaolô hiểu theo chiều hướng của Is. (Người
đọc Kinh Thánh trong bản văn Hy-lạp và Do-thái) và
dùng chữ “Tin Mừng” theo nghĩa sứ điệp cứu độ. Đó là
“Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1,1-14), nguồn gốc của
sự cứu độ và của lời rao giảng; đó cũng là Tin Mừng của
Đức Giêsu Kitô (Mc 1,1; Rm 15,19): chính Đức Giêsu đã
rao giảng Tin Mừng và sau biến cố Phục Sinh, Người là
đối tượng của Tin Mừng. Máccô, môn đệ của Phaolô, sẽ
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
và sẽ cố gắng trình bày ở các phần sau làm thế nào để đạt
tới cốt tủy của Tin Mừng được.
Chung chung cả ba sách Tin Mừng đều thuật lại cũng
những lời như nhau, mặc dầu Máccô có ít hơn hai ông kia
một cách đáng kể. Nhưng rất ít khi các ông mặc cho
những lời ấy một hình thức như nhau. Chung chung,
những dị biệt không nghĩa lý gì, nhưng đôi khi có những
dị biệt rõ rệt. Vấn đề này phải được duyệt xét theo những
chiều kích đích thực của nó.
Sự kiện đầu tiên ta phải lưu ý, là Chúa giảng dạy bằng
tiếng Aram, mà các lời của Chúa lại đến với ta bằng tiếng
Hy-lạp. Bởi thế, không thể có sự đồng nhất trong ngôn
ngữ giữa ba Tin Mừng. Một đôi khi, ta gặp được vài diễn
ngữ bằng tiếng Aram: Abba (Mc 14,26), Talitha qoum
(Mc 5,41), Ephata (Mc 7,34); trong những trường hợp
này, ta có thể nghĩ là những lời ấy giữ được nguyên hình
thức lời Chúa đã nói.
Để tuân giữ giới răn thứ hai (Xh 20,7; Đnl 5,11) một
cách nhiệm nhặt và để tránh mọi lạm dụng trong việc kêu
tên, thời gian trước công nguyên người ta đã cấm gọi tên
Thiên Chúa. Trong nhiều trường hợp, Đức Giêsu đã
không ngần ngại dùng tiếng “Thiên Chúa” (ví dụ: Nước
Thiên Chúa), nhưng bình thường, Người giữ phong tục ấy.
Người ta thấy Đức Giêsu dùng nhiều kiểu nói để ám chỉ
Thiên Chúa và tác động của Người.
- Trời: 31 lần trong Mt dùng kiểu nói “Nước Trời”.
Ngoài ra “trên trời” có nghĩa là bên cạnh Thiên Chúa (Mc
10,23; 12,25; 13,32), “chống lại trời” có nghĩa là chống lại
Thiên Chúa (Lc 15,18.21).
- Cha (của tôi, của anh, của chúng tôi, của các anh):
Mc 4 lần, Mt 7 lần, có song song với Lc; một mình Lc 6
lần; một mình Mt 32 lần; Ga 109 lần.
- Động từ ở ngôi thứ ba số nhiều: Lc 6,38; 12,20
- Chúa (Kyrios)
- Đấng Toàn Năng: Mc 14,62
- Sự khôn ngoan: Mt 11,19
- Danh: Mt 6,9
- Nước (hè basileia, dịch tiếng Aram: malkouta), đặc
biệt trong kiểu nói “Nước Chúa đã đến gần”, ngụ ý: Thiên
Chúa đã đến gần.
- Vua cao cả: Mt 5,35
- Đấng Tối Cao (ho hypsistos: Lc 6,35)
- Trên: “Sinh lại bởi Trên”: Ga 3,3-7; 19,11
- Đấng đã sai Ta: Mc 9,37
Nhất là động từ ở dạng thụ động (passivum divinum)
Mc 2,27: được dựng nên (egeneto) để nói Thiên Chúa
14 Dẫn nhập phê bình vào các sách
lương tâm mỗi người. Nếu muốn tìm một vài khuôn mẫu
để so sánh ta phải ngược dòng trở về thời đầu các ngôn sứ,
ví dụ: dụ ngôn của Natan trong 2S 12,1-7, hay bài ca về
vườn nho Is 5,1-7, hay câu ví về người cha và đứa con
trong Hs 11. Nhưng đây chỉ là vài ví dụ lẻ tẻ, thưa thớt,
trong lúc đó ba quyển Tin Mừng Nhất Lãm đã để lại cho
ta 41 dụ ngôn của Đức Giêsu.
2. Các bài trình thuật về hành vi của Chúa Giêsu
a/ Cái khung tổng quát
Sau khi Chúa Thánh Thần ngự xuống, thánh Phêrô là
chứng nhân chủ yếu về Chúa Giêsu.
Trong lời giảng dạy, ông đã vạch ra những nét căn bản
về cuộc đời của Chúa, theo một lược đồ rất rõ rệt (Cv
1,21-22; 2,22-24; 10,37-41).
Thứ tự mà thánh Phêrô dùng sẽ giúp cho cả ba Tin
Mừng có được một cái khung tổng quát:
a. Thời gian chuẩn bị: Gioan Tẩy Giả giảng; Chúa
Giêsu chịu Phép Rửa, vào sa mạc.
b. Sứ vụ ở Galilê.
c. Hành trình từ Galilê lên Giêrusalem.
d. Khổ nạn, tử nạn và Phục Sinh.
b/ Nhận định về cách trình bày nói trên
- Khoa phê bình văn học cho thấy bài tường thuật về
cuộc Khổ nạn và Phục Sinh đã có một hình thức liên tục
đầu tiên. Bằng chứng là sự song đối rõ rệt giữa bốn Tin
Mừng trong phần này. Đối với Giáo Hội tiên khởi thì
những biến cố quan trọng nhất trong cuộc đời của Chúa là
cuộc Khổ nạn, cái chết và sự Phục Sinh của Người.
18 Dẫn nhập phê bình vào các sách
- Bên trong cái khung vừa nói ở trên là bài trình thuật
về cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giêsu. Nhưng trình thuật
ấy đã được giản lược một cách đáng kể. Cứ đọc các sách
Tin Mừng Nhất Lãm, người ta sẽ nghĩ là sứ vụ công khai
của Chúa không kéo dài đến một năm: vì chỉ nói tới một
lễ Vượt Qua, một lần lên Giêrusalem.
Tin Mừng của Gioan trình bày 3 lễ Vượt Qua. Các nhà
phê bình đều nhìn nhận là Gioan đi sát với tực tế lịch sử
hơn. Nhưng các sách Nhất Lãm lại rất phù hợp với lược
đồ nguyên thủy: lược đồ này đã được phác họa để dùng
vào việc rao giảng. Như vậy là các vị truyền giáo đã phải
nhất trí về việc chọn lựa những biến cố và những điểm
giáo lý để đưa vào lược đồ ấy. Bởi thế việc giản lược và
bỏ qua nhiều chi tiết là việc không tránh nổi.
tông đồ Matthia vào nhóm 12, thay thế Giuđa giúp ta ghi
nhận các tiêu chuẩn sau đây: (Cv 1,21-26)
1- Tông đồ phải là người đã theo Đức Giêsu từ khi
chịu phép Rửa cho tới khi Người lên trời. Người tông đồ
không những phải làm chứng Đức Giêsu sống lại, mặc
dầu đây là điểm nòng cốt của lời giảng, nhưng còn phải
làm chứng Đấng đã sống lại đó cũng là Đức Giêsu mà các
ông đã biết ngày xưa. Trên bình diện này, nhóm 12 vượt
hẳn cả Phaolô.
2- Tuy nhiên, điều kiện trên chưa đủ, phải có một sự
ủy thác sứ vụ do Chúa: việc này được biểu lộ qua việc bắt
thăm. Các tông đồ làm thành một nhóm, một tập đoàn
được Chúa chọn đặc biệt.
3- Đặc điểm thứ ba, được trình bày rõ ràng trong
Gioan (Ga 14,26;15,26-27;16,13), đó là ơn huệ của Chúa
Thánh Thần. Luca cũng có nhắc tới hai lần lời hứa của
Chúa Giêsu ban Thánh Thần cho những kẻ sắp trở thành
chứng nhân của Người (Lc 24,49 và Cv 1,8). Bởi thế các
tông đồ luôn luôn ý thức là các ngài hành động dưới sự
thúc đẩy của Chúa Thánh Thần: “Chúng tôi và Thánh
Thần xin làm chứng về các điều ấy” (Cv 5,32).
B. LỜI LOAN BÁO TIN MỪNG
CỦA CÁC TÔNG ĐỒ
Trong các bút tích của Tân Ước, thì các thư của Phaolô
phản ánh cho ta âm vang lâu đời nhất của sứ điệp Tin
Mừng. Đó là chứng tá quý báu nhất. Chúng ta phải chú ý
tới các thư ấy trước khi đọc các bài giảng của Phêrô trong
sách Công vụ, vì trong sách Cv có sự trau chuốt của Luca
trên bình diện văn chương.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Đối tượng đó của Đức tin dần dần được diễn tả qua
những phương thức cố định: những phương thức tuyên
xưng đức tin (1Cr 12,3; Rm 10,9) hoặc những bài thánh ca
(Ep 5,14; Pl 2,6-11; 1Tm 3,16). Một trong những phương
thức mà Phaolô nói rõ là “cổ truyền” nằm trong 1Cr 15,1-
5.11. Trong phương thức này, sự kiện Phục Sinh còn được
quảng giải bởi nhiều chi tiết khác: ngày thứ ba, theo Kinh
Thánh, vì tội chúng ta, các chứng nhân tận mắt. Ví dụ này
cho thấy truyền thống các tông đồ có tính cách sống động.
Nền tảng của truyền thống ấy nằm trong câu: Đức Giêsu
là Chúa Tể. Trên nền tảng ấy, các tông đồ có thể thêm thắt
các chi tiết tùy theo sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban
cho các ngài. Lời rao giảng nguyên thủy của các tông đồ
còn được lưu truyền cho ta trong sách Công vụ của Luca.
Sách này thuộc một loại văn khác với các thư của Phaolô.
Tuy nhiên những lời khẳng định trong sách ấy trùng hợp
với những điều mà ta đã gặp trong các thư của Phaolô.
Như ta thấy vào thời sơ khai của Giáo Hội, các tông đồ
không có chút bận tâm viết lách gì cả. Được dẫn vào một
thế giới mới, các ngài sung sướng công bố những điều đã
thấy, đã nghe, để mời gọi mọi người hiệp thông với các
ngài trong niềm vui. Các ngài không phải là những giáo
sư, đã học hỏi cặn kẽ một điều gì trong sách vở, nhưng
các ngài là những chứng nhân về một sự kiện. Bởi thế, Tin
Mừng truyền khẩu đã có trước Tin Mừng chép trong sách.
hiện thời ta còn có vài vết tích (Ep 5,14; 1Tm 3,16; 1Pr
1,3-5; 2,22-25; 3,18-22; 5,5-9).
Ngoài hai cuộc cử nhành chính đó để nhớ tới Chúa,
còn có những yếu tố khác: chào nhau bằng “cái hôn thánh
thiện”, những lời tung hô “Maranatha” “Lạy Chúa chúng
tôi, xin hãy đến!” (1Cr 16,22; Kh 22,20), và nghi lễ đặt
tay để xin ơn Thánh Thần (Cv 8,17) hoặc để cắt đặt 7 phó
tế trong sứ vụ mới (Cv 6,6).
Như vậy, trước khi Tin Mừng được viết ra, thì Phụng
vụ là “môi sinh” đặc biệt quan trọng của nó, vì chính đó là
nơi Giáo Hội đi vào chiều sâu nội tâm và diễn tả chân tính
mình ra bằng lời tạ ơn cũng như bằng những lời cầu xin.
Ảnh hưởng của Phụng vụ trên các bản văn Tin Mừng là
một sự kiện hiển nhiên.
2. Huấn giáo
Huấn giáo là lời giảng dạy dành cho những người đã
tin. Họ là những người hoặc mới tin hoặc đã tin từ lâu,
nên lời giảng dạy mặc nhiều hình thái và nhiều trình độ
khác nhau. Sách Công vụ nói là những kẻ tin “chuyên cần
với giáo huấn (didache) của các tông đồ” (Cv 2,42).
Các tân tòng cần phải học hỏi thêm về Kinh Thánh, về
những sự kiện liên hệ đến cuộc đời của Chúa, cũng như về
nếp sống luân lý hằng ngày. Bài giảng trên núi (Lc 6,20-
49; Mt 6,1-7.29) là đoạn văn tiêu biểu cho chúng ta thấy
nội dung của huấn giáo thời đầu. Các đoạn văn khác mang
vết tích của lời huấn giáo về các bí tích (Ga 6), về các chi
tiết liên hệ tới cuộc đời ở trần thế của Chúa: tuổi trẻ của
Chúa (2 chương đầu của Mt và Lc), họ hàng của Chúa (Mt
12,46-50; Lc 11,27-28)…
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
của Chúa. Chính vì thế mà các đơn vị văn chương nho nhỏ
đã xuất hiện trước khi các sách Tin Mừng được biên soạn.
Ví dụ: Vincent Taylor đã phân tích bài trình thuật về
cuộc Khổ nạn và Phục Sinh của Chúa trong Tin Mừng
theo Máccô (Cf.The Gospel according to St Mark, New
York 1953, p.653-664) và nhận thấy một số đoạn văn đã
được xen vào sau trong bài trình thuật (14,3-9: xức dầu ở
Bêtania; 14,32-42: Ghetsemani; 14,55-64: trước tòa các tư
tế; 14,54.66-72: Phêrô chối; 15,16-20: lính chế diễu Chúa
v.v…). Những đoạn văn này mang nhiều kiểu nói Do-thái.
Trong những đoạn văn khác thì giọng văn Hi-lạp trôi
chảy và khéo léo hơn. Tác giả kết luận là nòng cốt của bài
trình thuật ngắn về cuộc Khổ nạn và Phục Sinh. Nhưng
Máccô đã khai triển bằng cách xen kẽ vào những đoạn văn
rời rạc khác nữa, phát xuất từ truyền thống của Phêrô. Có
nhận diện ra được những “đơn vị văn chương có sẵn” như
vậy, chúng ta mới hiểu tại sao lắm lúc dàn bài của Máccô
thiếu mạch lạc (Cf.Harrington, Nlle introd.a la Bible,
p.694-695). Hình thức các đợn vị văn chương có thể do
chính Chúa Giêsu, ví dụ: các dụ ngôn. Nhưng chính các
dụ ngôn có thể cũng đã được giải thích lại theo một hoàn
cảnh cụ thể nào rồi. Ngoài các dụ ngôn, những hình thức
văn chương khác là công trình của Giáo Hội.
E. PHƯƠNG PHÁP VĂN-HÌNH SỬ
Muốn biết làm thế nào truyền khẩu đã đạt tới những
đơn vị văn chương trước khi các sách Tin Mừng được
biên soạn, chúng ta cũng cần phải có vài ý tưởng về một
phương pháp được gọi là phương pháp văn hình sử
(Forrngeschich- tliche Methode, thường viết tắt là: F.G =
Forrn geschichte).
28 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Trước khi phương pháp này xuất hiện, công trình chú
giải khoa Tân Ước, nhất là các sách Tin Mừng, nằm ở chỗ
tìm kiếm các tương quan giữa các bản văn và từ đó xem
xét giá trị lịch sử của chúng. Người ta vẫn thường theo lý
thuyết hai nguồn theo đó thì Máccô là Tin Mừng cổ kính
nhất. Hai quyển Tin Mừng kia đã sử dụng Máccô, và một
nguồn khác nữa, tức là một sưu tập Lời Chúa (viết tắt là
Q, bởi tiếng Đức Quell = nguồn).
Trường phái mới nhận thấy công việc ấy không đi tới
kết quả khả quan nào, vì cả hai nguồn này đều tương đối
muộn, nên đã cố gắng đi ngược dòng để tìm kiếm xem các
bản văn đã đi qua những giai đoạn nào. Có thể nói họ
muốn tìm hiểu thời tiền sử của các bản văn Nhất Lãm.
Phương pháp này đã được Hermann Gunkel áp dụng
trong việc nghiên cứu sách Sáng Thế và các Thánh Vịnh.
Vào khoảng 1920-1922, các ông Martin Dibelius, Karl
Ludwig Schmidt và Rudolf Bultmann áp dụng vào Tân
Ước, R.Bultmann đã áp dụng một cách quá đáng.
1. Trình bày phương pháp
1/ Các nguyên tắc
Phương pháp F.G dựa trên hai nguyên tắc nền tảng:
a. Các sách Tin Mừng là những chứng tá của cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi, chứ không phải là các tiểu sử.
Chúng làm chứng về niềm tin của cộng đoàn tiên khởi,
chứ không có chú ý trình bày thân thế và tư tưởng của
Đức Giêsu. Bởi thế những chỉ dẫn về địa lý và thời gian
rất ít.
b. Các sách Tin Mừng không có tính cách thuần nhất.
Các tác giả của chúng đã thu thập nhiều yếu tố sẵn có
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
2/ Phân tích và xếp loại các chất liệu của các sách Tin
Mừng
Vấn đề là tìm lại lịch sử của các yếu tố đã sẵn có.
Người ta xếp chúng theo các hình thức văn chương (bởi
thế có danh từ “lịch sử các văn thể”) tương tự như các
hình thức văn chương bình dân hoặc những hình thức mà
người ta gặp thấy trong lịch sử các tôn giáo.
Dibelius và Bultmann đều đồng ý là có hai loại chính:
- các “logia”, tức là các câu nói của Đức Giêsu.
- các bài trình thuật.
Về các logia, Dibelius không phân loại gì nữa, nhưng
Bultmann còn chia ra làm sáu nhóm:
a. Những câu khôn ngoan và các câu ngạn ngữ (ví dụ:
Mt 6,19-34; 12,34; 24,28)
b. Các lời tiên tri và khải huyền (Mt 5,3-9; 11,5-6;
13,16-17)
c. Những lời tuyên bố liên quan đến luật lệ cộng đoàn
(Mt 6,2-18; 18,15-22.27.28.33.34)
d. Những lời tuyên bố về bản thân mình (Mt 10,34-36;
11,18-19.25-30; 16,18-19)
e. Các dụ ngôn, các câu so sánh (Mt 13)
f. Các danh ngôn có tính cách tranh luận (Mc 2,1-12.23-
28), giáo huấn (Mc 10,17-22) hoặc tiểu sử (Mc 6,1-6;
10,13-16; Lc 9,57-62).
30 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Về các bài trình thuật, thì 2 học giả phân loại khác
nhau:
Dibelius đã phân tích tỉ mỉ lãnh vực này hơn. Ông
phân ra 5 loại:
a. Các truyện mẫu (baradigmes), nghĩa là những bài
trình thuật ngắn, những ví dụ cụ thể có mục đích làm sáng
tỏ một danh ngôn của Chúa.
Mc 2,1-12: tha tội và chữa lành một người bất toại
Mc 2, 18-22: vấn đề ăn chay
Mc 2,23-28: việc ngắt các bông lúa và giữ ngày Hưu lễ
Mc 3,1-6: chữa người có tay tê bại
Mc 3,31-35: họ hàng của Chúa Giêsu.
b. Các trình thuật về các phép lạ, các “tiểu kỳ hoa” (les
nouvelles).
c. Các truyện ký, các giai thoại liên hệ tới cuộc đời của
Đức Giêsu (Lc 2,41-50: tìm lại được trẻ Giêsu trong Đền
Thờ; Lc 19,1-10: Đức Giêsu tới nhà ông Dakêu), hoặc các
môn đệ (Lc 5,1-11; Mt 14,28-31; 17,24-27).
d. Các thần thoại: Dibelius dùng tiếng “thần thoại”
(mythe) để chỉ những sự kiện (Phép Rửa: Mc 1,9-11; cám
dỗ: Mc 1,12-13; Biến hình: Mc 9,2-10) có mục đích trình
bày Đức Giêsu là một Đấng thuộc thiên giới.
e. Trình thuật về cuộc Khổ nạn.
Bultmann thì chú ý tới các bài trình thuật. Ông chỉ
chia làm 3 loại:
a. Trình thuật về các phép lạ;
b. Các giai thoại và truyện ký (có tính cách huấn đức,
chứ không có giá trị lịch sử)
c. Cuộc Khổ nạn.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Điểm quan trọng là 2 nhà phê bình nhìn nhận: các văn
thể không còn nằm trong tình trạng nguyên tuyền; hầu hết
là những hình thức pha trộn.
3/ Nguồn gốc lịch sử và giá trị của các yếu tố trong
truyền thống nhất lãm.
Việc phân loại các chất liệu mới là bước đầu. Một vấn
đề quan trọng hơn nữa là tìm kiếm nguồn gốc và sự phát
triển của các loại đơn vị văn chương. Các đơn vị văn
chương này, sản phẩm của cộng đoàn Kitô hữu gốc Do-
thái hoặc gốc Hi-lạp, đã phát xuất từ những hoàn cảnh
như: phụng tự, hộ giáo, huấn giáo, truyền giáo… Bởi thế
phải đặt các đơn vị văn chương vào chỗ của chúng trong
cuộc sống (Sitz im Leben).
Để đạt tới mục đích đó, người ta có thể dùng hai
phương pháp:
- Phương pháp diễn dịch: nghiên cứu cách tổ chức
của cộng đoàn rồi suy diễn những hình thức văn chương
người ta dùng. (Dibelius, “Am Amfang war die Predigt”:
“ban đầu có lời rao giảng”).
- Phương pháp quy nạp: đi từ những hình thức văn
chương để khám phá những động lực đã thúc đẩy cộng
đoàn (Bultmann: Die Erforchung der synoptischen
Evangelien, Giessen 1925; Jésus, Berlin 1926).
Bultmann phân tích kỹ lưỡng các bản văn của các sách
Tin Mừng để tìm ra đâu là phần nòng cốt, đâu là phân
thêm thắt và sửa đổi. Những thêm thắt và sửa đổi ấy đều
tùy thuộc vào những nguyên do, những quan điểm mà
người ta có thể tìm ra được khi người ta theo dõi từ Phúc
32 Dẫn nhập phê bình vào các sách
không muốn kể lại tất cả mọi chi tiết về Đức Giêsu, nhưng
họ chỉ muốn kể lại những điều chắc chắn.
c. Việc sắp xếp các yếu tố truyền thống theo các văn
loại là một công việc khó khăn, nhưng cần thiết và hữu
ích. Việc sắp xếp các logia thì ít khó khăn hơn và ta có thể
chấp nhận cách phân tích của Bultmann. Nhờ công việc
sắp xếp ấy người ta nhận thấy là các truyền thống văn
chương trong Cựu Ước được nối tiếp trong lời rao giảng
của Chúa Giêsu: Người đã giảng dạy như một hiền nhân,
như một ngôn sứ, như một nhà lập pháp hay như một tác
giả các sách Khải huyền.
Đối với các trình thuật thì công việc rất khó khăn.
Kiểu nói “trình thuật về các phép lạ” có thể được xem là
hợp lý. Nhưng những từ ngữ “truyện ký” và “thần thoại”
không những có tính cách độc đoán mà còn sai lầm.
Một lỗi lầm trầm trọng phải nói ngay ở đây là các ông
đã đi từ phê bình văn chương đến phê bình lịch sử một
cách trái phép. Dibelius không những đã gắn loại “truyện
mẫu” (paradigmes) cho các vị giảng thuyết và các “tiểu kỳ
hoa” (novelles) cho những người kể chuyện, mà còn quả
quyết rằng loại sau phát sinh muộn thời hơn và có ít giá trị
lịch sử hơn.
d. Phương pháp F.G đặt cho mình đối tượng chính
yếu là tìm lại tiểu sử của các đơn vị văn chương và sự biến
chuyển của chúng. Đó là một quan điểm rất hữu ích. Một
số câu nói hoặc bài trình thuật đã được sửa chữa vì phải
thích ứng vào những nhu cầu của cộng đoàn. Ví dụ: lời
khuyên bảo phải giàn hòa với đối thủ trước khi ra trước
quan tòa, theo Lc (12,57-59) là một lời mời gọi dân Do-
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
thái phải hoán cải trước sự phán xét của Thiên Chúa sắp
xảy đến; còn Mt (5,25+) thì xem đó là một bài học về bác
ái huynh đệ hơn là một lời cảnh cáo về ngày chung thẩm
sắp đến.
Trong Luca (15,2-7) dụ ngôn con chiên lạc biện minh
cho lòng thương xót của Đức Giêsu đối với những người
thu thuế và những người tội lỗi; trong Mt (18,10-14) nó đã
trở thành một bài học về cách cư xử của các niên trưởng
trong cộng đoàn đối với những người nhỏ bé, những thành
phần khiêm tốn nhất của Giáo Hội.
đồng hóa với một truyền thống bình dân tầm thường.
Đàng khác, nếu đúng là giữa khoảng năm 40-50, đã có
một quyển Matthêu bằng tiếng Aram (theo ý kiến của
Vaganay, Cerfaux và P.Bnoit), thì như thế, một bản văn
phát xuất từ các tông đồ đã điều hành rất sớm sự biến
chuyển của truyền thống. Đó là một nguyên do cốt yếu
làm cho nó khác hẳn với một thứ truyền thống bình dân.
b. Sở dĩ, Dibelius và Bultmann, đã có ý gạt bỏ chứng
tá của các tông đồ tiên khởi, là vì một thành kiến triết học:
họ đã phủ nhận tất cả những gì là siêu nhiên. Chịu ảnh
hưởng triết lý của Hegel, khoa phê bình Kinh Thánh theo
kiểu duy lý đã thay thế một Thiên Chúa có chủ vị và siêu
việt bằng một ý tưởng về ngã, nội tại, tự biểu lộ trong tiến
trình của nhân loại. Bởi thế, cần phải cắt nghĩa theo lý trí
nguồn gốc và sự lưu truyền của những truyện ký tôn giáo
trong các sách Tin Mừng và cũng bởi thế mà tất cả những
gì có tính cách siêu nhiên đều bị xem là “thần thoại”,
không thể có trong lịch sử.
3. Tình trạng hiện thời của các vấn đề
1/ Ngày 21-4-1964, Ủy ban Kinh Thánh của Đức Giáo
Hoàng đã ra huấn thị “Sancta Mater Ecclesia” (Cf. Ligue
cathol, de l’Evangile, no 58) trong đó phần tích cực và
tiêu cực của F.G đều được trình bày. Huấn thị nói: “Trong
những trường hợp đặc biệt, nhà chú giải có thể tìm kiếm
những yếu tố lành mạnh do phương pháp F.G đưa lại; họ
có thể sử dụng những dữ kiện ấy để hiểu các sách Tin
Mừng một cách đầy đủ hơn. Tuy nhiên cũng phải tỏ ra cẩn
tắc, vì thường thường phương pháp ấy gắn liền với những
nguyên tắc triết lý và thần học mà chúng ta phải bác bỏ.
Và thường chính những nguyên tắc ấy làm sai lệch
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
phương pháp và những kết luận trong lĩnh vực văn học.
Quả thực, một số người theo phương pháp ấy, vì đã lạc
hướng bởi những tiên kiến duy lý, nên không còn nhìn
nhận sự hiện hữu của trật tự siêu nhiên… Một số người
khác đi từ quan niệm sai lạc về đức tin, xem đức tin như
không cần gì đến sự thật lịch sử… Sau nữa, có người hạ
giá quyền bính của các tông đồ là những chứng nhân của
Đức Kitô, vai trò và ảnh hưởng của các ngài trong cộng
đoàn tiên khởi, đồng thời họ đề cao quá mức khả năng
sáng tạo của cộng đoàn ấy”.
2/ Năm 1957, tại đại hội Oxford về chủ đề các sách
Tin Mừng, H.Riesefeld đã đọc một tham luận nổi tiếng:
ông chứng minh rằng môi trường đã làm phát sinh các sách
Tin Mừng là phụng vụ của Kitô giáo tiên khởi, và nguồn gốc
đầu tiên của truyền thống các sách Tin Mừng nằm trong lời
giảng của Chúa Kitô (Studia Evangelica, Compte-rendu
Cogrès d’Oxford 1957, Berlin 1959, p.43-65).
3/ Năm 1963, cha Xavie Léon Dufour trong mô ̣t tác
phẩm quan trọng “Les Evangiles et l’histoire de Jésus”
(Ed. du Seuil) đã trả lời cho câu hỏi: trong mức đô ̣ nào
chúng ta có thể đạt tới Đức Giêsu trong thực tại lịch sử?
Mới đây cha René Latourelle cũng đề câ ̣p vấn đề này
trong quyển “L’Accès à Jésus par les Evangile” (Desclée-
Bellarmin, 1978).
4/ Năm 1966, ông Cullmann trong quyển “Le salut
dans l’histoire” (Heil als Geschichte) đã chứng minh rằng
niềm tin vào Đức Kitô như ta thấy trong Tân Ước nối liền
với mô ̣t lịch sử cứu đô ̣ mà Đức Giêsu là trung tâm: và
chính Đức Giêsu đã tự đă ̣t mình vào trung tâm của lịch sử
cứu đô ̣ ấy.
38 Dẫn nhập phê bình vào các sách
dùng mô ̣t thứ ngôn ngữ thần thoại đi nữa, thì cũng đưa lại
cho con người mô ̣t câu giải đáp toàn vẹn cho vấn đề nhân
sinh. Trong Đức Kitô, con người gă ̣p gỡ Thiên Chúa. Lời
rao giảng tạo nên sự gă ̣p gỡ và đòi hỏi nơi con người mô ̣t
sự trả lời, mô ̣t niềm tin. Phải nói thêm là niềm tin, theo
Bultmann, không phải là mô ̣t điều gì huyền nhiê ̣m và siêu
nhiên, nhưng là thái đô ̣ đảm nhâ ̣n mô ̣t cuô ̣c sống nhân loại
đích thực.
Bởi thế để “tin”, theo kiểu Bultmann, thì cũng không
cần biết Đức Giêsu là con người lịch sử như thế nào. Chỉ
cần phải tin vào Lời Chúa để được cứu rỗi: chính trong
đô ̣ng tác công bố Lời Chúa mà thâ ̣p giá của Đức Kitô trở
nên hiê ̣n diê ̣n đối với ta và thôi thúc ta thoát ra khỏi lối
sống ích kỉ và làm cho ta trở nên tự do.
Nhận định:
theo Bultmann, tư tưởng huyền thoại hoàn toàn đối
ngịch với tư tưởng khoa học và bởi thế không thể chấp
nhận được.
Ngày nay nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng
thần thoại cũng là mô ̣t cách diễn đạt thực tế; nó cũng là
mô ̣t yếu tố quan trọng trong tư tưởng và cách diễn tả của
lý trí con người.
Vâ ̣y vấn đề không phải là huỷ bỏ thần thoại, nhưng
phải tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Hiểu theo nghĩa sau này
thì “giải trừ hyền thoại” là mô ̣t phương pháp chú giải
Kinh Thánh có giá trị. Nhưng lại mô ̣t vấn đề nữa là tìm ra
những thần thoại trong các sách Phúc Âm.
Máccô cũng có mô ̣t quan niê ̣m thần học; thứ hai là người
chú giải phải cố gắng khám phá cái sắc thái của quan niê ̣m
thần học ấy. Và như thế có thể nói Wrede là người đầu
tiên đã áp dụng phương pháp R.G. Tuy nhiên ông còn
quan niê ̣m mô ̣t cách qúa đơn giản công trình của các tác
giả viết sách Tin Mừng, nhất là ông chưa thấy rằng, để
đánh giá cho đúng công trình biên soạn của họ, thì cần
phải biết rõ lịch sử của truyền thống. Mô ̣t nhà nghiên cứu
nữa được xem như tiên phong R.G, đó là R.H.Lightfoot
(với tác phẩm History and Inter- pretation, xuất bản năm
1934). Ông đã chứng minh rằng quyển Tin Mừng của
Máccô phản ánh khắp nơi chủ ý thần học của tác giả, nhất
là 13 câu đầu tiên đích thực là mô ̣t lời dẫn nhâ ̣p vào Kitô
học của Máccô.
Tuy nhiên sau 1945 các công trình quan trọng mới
xuất hiê ̣n, làm cho R.G trở thành mô ̣t phương pháp nghiên
cứu và tạo nên mô ̣t giai đoạn mới trong lịch sử khoa
nghiên cứu Kinh Thánh. Những đại diê ̣n chủ chốt trong
chiều hướng nghiên cứu này là:
- Gunther Bornkamm: nghiên cứu thần học của Matthêu;
- Hans Conzelman (Die Mitte der Zeit, xuất bản năm
1954): nghiên cứu thần học của Luca;
- Willi Marxsen (Der Evangelist Markus, xuất bản năm
1956): nghiên cứu thần học của Máccô;
- Wolfgang Trilling (Das Wahre Israel, xuất bản năm
1959): nghiên cứu thần học của Matthêu.
2. Trình bày tổng quát phương pháp R.G
Phương pháp R.G nhằm nghiên cứu diê ̣n mạo riêng
biê ̣t của mỗi quyển Tin Mừng: quan điểm thần học của tác
42 Dẫn nhập phê bình vào các sách
giả, cách sắp xếp các chất liê ̣u mà ông đã chọn lựa, sắc
thái văn chương. Huấn thị của Uỷ ban Kinh Thánh (1964)
đã miêu tả những nét chính yếu trong công trình của các
tác giả viết sách Tin Mừng: các ngài đã chọn lựa mô ̣t số
trong những chất liê ̣u của truyền thống; đã làm công tác
tổng hợp và đã thích ứng sách Tin Mừng của các ngài theo
những nhu cầu của các Giáo Hô ̣i địa phương. Các tác giả
viết sách Tin Mừng không sáng tác ra chất liê ̣u. Chất liê ̣u
này đã nằm trong truyền thống dưới dạng văn viết hoă ̣c
truyền khẩu. Các ngài đã chọn lựa mô ̣t số trình thuâ ̣t hoă ̣c
ngôn từ. Tin Mừng của Gioan cho ta thấy rõ sự chọn lựa
đó, trong lời kết luâ ̣n đầu cũng như trong lời kết luâ ̣n thứ
hai (Ga 20,30; 21,25). Chúng ta còn thấy điều đó trong Tin
Mừng của Máccô: ông chỉ ghi lại hai diễn từ: các dụ ngôn
(chương 4) và diễn từ chung luâ ̣n (chương 13). Luca cũng
bỏ qua những bài trình thuâ ̣t của Máccô: ví dụ phép lạ hoá
bánh lần II. Những chất liê ̣u bị bỏ lại cũng có ý nghĩa sâu
xa như những chất liê ̣u được dùng.
Các tác giả viết sách Tin Mừng còn sắp xếp các chất
liê ̣u đã chọn theo quan điểm của mình, tiêu biểu nhất là
viê ̣c Matthêu và Luca sử dụng các nguồn sử của chính các
ngài: Máccô nguồn Q. Matthêu đã sắp xếp quyển Tin
Mừng của mình thành 5 phần, kiểu như “Bô ̣ Ngũ Kinh
mới” do “Môsê mới” ban hành cho “Israel mới”. Còn
Luca thì tôn trọng cơ cấu cổ truyền tức là 4 giai đoạn
trong thời Đức Giêsu đi rao giảng (lời giảng của Gioan
Tẩy giả, Galilê, hành trình lên Giêrusalem, tại
Giêrusalem), nhưng ông có hai phần bổ túc mà phần lớn
(Lc 9,51 - 18,14) được xen vào giai đoạn hành trình lên
Giêrusalem: ông muốn ngụ ý Giêrusalem là trung tâm
cuô ̣c đời của Đức Kitô, vì tại đó Đức Kitô đã dâng mình
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
làm của lễ và đã khải hoàn vinh hiển; ông cũng muốn ngợi
ý rằng đời sống Kitô hữu nằm ở chỗ bước theo Đức Kitô
vào cuô ̣c khổ nạn để cùng với Người tiến tới vinh quang.
Sau nữa các tác giả, khi soạn thảo sách Tin Mừng, đã
quan tâm tới những hoàn cảnh khác nhau của đô ̣c giả.
Matthêu viết cho những Kitô hữu gốc Do-thái, còn Luca
viết cho các dân ngoại. Vì thế sách Tin Mừng của các ngài
mang chiều hướng khác nhau.
Trong bài diễn từ trên núi, Matthêu muốn chứng minh
cho người Do-thái thấy là Đức Kitô không đến huỷ bỏ lề
luâ ̣t nhưng “kiê ̣n toàn”. Vì thế ông nêu ra 6 ví dụ để cho
thấy là sự công chính của các môn đê ̣ Đức Kitô trổi vượt
sự công chính của các Kinh sư và Biê ̣t phái, những người
được xem tuân giữ nghiêm ngă ̣t Lề luâ ̣t (Mt 5,20-47). Đối
với ông sự hoàn hảo Kitô hữu đòi buô ̣c đừng xét đoán tha
nhân (Mt 7,1), nhưng phải đối đãi với tha nhân như chúng
ta muốn được đối đãi (Mt 7,12). Còn Luca cảm thấy
không cần phải chứng minh viê ̣c Đức Kitô kiê ̣n toàn Lề
luâ ̣t, nên ông đã khai triển chủ đề đức mến, mô ̣t đức mến
đi đến chỗ yêu thương cả thù địch (Lc 6,27-36). Ông đã
đă ̣t trọng tâm vào đức mến, vì đó là cốt lõi của lề luâ ̣t và
lời dạy các ngôn sứ. Trong các dụ ngôn, chúng ta thấy rất
rõ viê ̣c các tác giả thích ứng lời dạy với các hoàn cảnh của
các Giáo Hô ̣i địa phương. Dụ ngôn tiê ̣c cưới (Lc 14,16-
24) đã trở thành trong Matthêu mô ̣t ẩn dụ mô tả số phâ ̣n bi
đát của dân Do-thái. Dân này được mời gọi vào Nước
Trời, nhưng đã từ chối: họ đã giết các ngôn sứ và bắt bớ
các tông đồ. Vì thế họ đã bị loại ra và chịu án phạt, còn
các dân ngoại sẽ thế chỗ của họ.
44 Dẫn nhập phê bình vào các sách
người ta nhâ ̣n thấy sự tự do sáng tác của các ngài tương
đối thôi. Mô ̣t đàng sự tự do ấy bị chi phối bởi những
nguồn tài liê ̣u đã có sẵn (khoa phê bình các nguồn sử -
Quellenkritik - đã nhâ ̣n diê ̣n ra những nguồn chính;
phương pháp F.G khám phá được những chất liê ̣u ít quan
trọng hơn). Đàng khác truyền thống có mô ̣t ảnh hưởng rất
lớn trên các ngài. Luca đã tỏ ra rất trung tín đối với các
nguồn tài liê ̣u. Những chỗ người tỏ ra tự do, cũng dễ hiểu.
Lý do là người chú ý tới hoàn cảnh của các dân ngoại,
hoă ̣c vì người muốn cống hiến cho họ mô ̣t bài trình thuâ ̣t
cân đối, đồng bô ̣ trên bình diê ̣n văn chương, hoă ̣c vì người
muốn đưa vào trong lược đồ truyền thống mà người đã
lãnh nhâ ̣n, những yếu tố mới phát xuất từ những nguồn sử
riêng, hoă ̣c vì người muốn nhấn mạnh tới ý nghĩa thần học
mà người đã hiểu được về công trình cứu rỗi của Đức
Giêsu. Matthêu lại có ưu tư huấn giáo. Người tổng hợp và
sắp xếp lại thành mô ̣t toàn bô ̣ giáo lý những chất liê ̣u đã
được giảng dạy từ lâu trong Giáo Hô ̣i; đàng khác vì viết
cho những Kitô hữu gốc Do-thái, người đã giải thích ý
nghĩa biến cố Giêsu dưới ánh sáng của lịch sử dân Israel.
Máccô, trong công trình biên soạn, ít để lại dấu vết trên
bình diê ̣n văn chương, nhưng cốt yếu là trong cơ cấu của
tác phẩm.
Nói tóm lại, phương pháp biên soạn của các tác giả
Tin Mừng biểu lô ̣ sự trung tín nhiều hơn là sự tự do; và vì
người ta “kiểm chứng” được sự tự do này, nên nó vẫn tạo
được sự tin tưởng.
Sách Tin Mừng theo Máccô được viết vào khoảng năm
65-70. Hai quyển theo Matthêu và Luca được viết vào
khoảng 15 năm sau. Cả ba quyển không phản ánh những
môi trường như nhau, không nhắm những đô ̣c giả như
nhau. Tuy nhiên cả 3 đều trình bày giống nhau, đến nỗi
người ta có thể đă ̣t lên ba cô ̣t song song để đối chiếu với
nhau. Bởi thế từ thế kỷ 18, người ta gọi ba quyển Tin
Mừng này là các Tin Mừng “Nhất Lãm” (Synopse, cái
nhìn chung). Sự kiê ̣n đă ̣t ra mô ̣t vấn đề đă ̣c biê ̣t gọi là vấn
đề nhất lãm. Sự kiê ̣n là ba quyển Tin Mừng có những nét
tương đồng và dị biê ̣t liên hê ̣ tới chất liê ̣u, cách sắp xếp và
ngôn ngữ.
a/ Về chất liê ̣u: nói chung cả ba quyển Tin Mừng đều
kể lại những sự kiê ̣n như nhau: những phép lạ, những dụ
ngôn, những cuô ̣c đối chất, những biến cố chính trong
cuô ̣c đời của Chúa Giêsu.
Nếu tính các câu giống nhau, người ta thấy:
Mt Mc Lc
Giống 330/1068 330/661 330/1160 (1/2 của
nhau Mc;
giữa 1/3 của
3 quyển Mt;
non 1/3
của Lc)
Mt - Mc 178 178
Mc - Lc 100 100
Mt - Lc 230 230
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Mt Mc Lc
Thời chuẩn bị 3,1 - 4,11 1,1-13 3,1 - 4,13
Sứ vụ tại Galilê 4,12 - 18,35 1,14 - 9,50 4,14 - 9,50
Hành trình lên 19,1 - 20,34 10,1-56 9,51 - 18,43
Giêrusalem
Khổ nạn và Phục 21 - 28 11 - 16 19 - 24
Sinh
- Lc thì độc lập với Mt và Mc từ 9,51 tới 18,14 (nguồn sử
riêng của Lc).
- Các Lời của Chúa thì Mt thu xếp lại trong 5 bài diễn
văn lớn; trong Lc, các lời ấy nằm rải rác đây đó.
c/ Ngôn Ngữ: ngôn ngữ của 3 quyển Tin Mừng thường
rất giống nhau. Ví dụ: trên 63 chữ giữa Mt 3,7-10 và Lc
3,7-9 chỉ có hai chữ khác nhau. Nhiều khi trong những
đoạn văn bố cục giống nhau mà chữ dùng khác nhau, hoă ̣c
ngược lại, chữ dùng giống nhau mà bố cục lại khác nhau.
Ví dụ: Kinh Lạy Cha trong Mt và Lc.
Các câu trích dẫn Kinh Thánh nhiều khi hoàn toàn
giống nhau về hình thức nơi ba tác giả cho dẫu có khác
với bản Hípri hoă ̣c Hy-lạp. Ví dụ: Mt 3,3 = Mc 1,3 = Lc
3,4 đều sửa đổi bản văn của Is 40,3 và áp dụng cho Đấng
Cứu Thế điều mà Is áp dụng cho Thiên Chúa.
Cũng vâ ̣y Mt 11,10 = Mc 1,2 = Lc 7,27 trích dẫn Ml
3,1 và cũng áp dụng cho Đức Giêsu.
Vấn đề:
- Làm sao cắt nghĩa những nét giống nhau và khác nhau
giữa ba quyển Tin Mừng?
- Nếu không có một sự lê ̣ thuộc nào trên bình diê ̣n văn
học, làm sao lại có nhiều điểm tương đồng như thế?
- Nếu nhìn nhận là các bản văn lê ̣ thuộc nhau, làm sao cắt
nghĩa những phần thiếu sót, những phần thêm vào?
- Quan điểm riêng của mỗi tác giả có đủ giải thích những
khác biê ̣t?
2. Các giả thuyết
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Trong 17 thế kỷ đầu, các Kitô hữu thường chỉ làm
công viê ̣c hoà đồng giữa các dữ kiê ̣n của truyền thống
Phúc Âm, nhiều khi còn đi vào những lối cắt nghĩa tượng
trưng thiếu nền tảng.
Vào cuối thế kỷ 18, ba giả thuyết xuất hiê ̣n:
a/ Năm 1784 G.E.Lessing cho rằng ba quyển Tin Mừng
đều là những bản dịch của một bản văn aram nay đã
mất đi (giả thuyết về một quyển Tin Mừng nguyên
thuỷ).
b/ Vài năm sau, G.C.Storr (1786) đã trình bày Máccô như
là quyển Tin Mừng cũ nhất, và hai quyển kia lê ̣ thuộc
phần nào vào Máccô; còn J.J.Griesbach (1789, ông tổ
của tiếng “nhất lãm”) đưa ra giả thuyết về sự lê ̣ thuộc
nhau: Matthêu đi đầu, Luca lê ̣ thuộc Mattêu, còn
Máccô là bản tóm tắt hai quyển kia (giả thuyết về một
tương quan lê ̣ thuộc nhau).
c/ Năm 1796: Herder nghĩ rằng ba quyển Tin Mừng
không lê ̣ thuộc nhau nhưng lê ̣ thuộc vào Tin Mừng
truyền khẩu (Giả thuyết về truyền thống).
Truyền khẩu, tương quan lê ̣ thuô ̣c nhau, nguồn văn
kiê ̣n chung, đó là ba yếu tố sẽ giữ mô ̣t tầm quan trọng ít
hay nhiều trong các giả thuyết về sau (Intr. Bb. II, p.271).
Mô ̣t giả thuyết danh tiếng xuất hiê ̣n trong thế kỷ 19:
giả thuyết về hai nguồn. Năm 1835 Lachmann đã đề
xướng thuyết Hai nguồn (Zwei Quellen Theorie), theo đó
thì 3 sách nhất lãm lê ̣ thuô ̣c chính yếu vào Hai nguồn:
Máccô quyển Tin Mừng cũ nhất, gồm các bài trình thuâ ̣t;
Matthêu và Luca đã biết sử dụng nguồn này, tuy hai tác
50 Dẫn nhập phê bình vào các sách
giả của hai sách này không lê ̣ thuô ̣c nhau; nguồn thứ hai
(thường gọi là Q, do tiếng Đức Quelle, nghĩa là “nguồn”)
chỉ gồm những “logia”, nghĩa là những câu nói và những
bài diễn từ của Chúa. Phải giả thiết có nguồn này, vì có
những đoạn văn trong đó Matthêu và Luca giống nhau mà
Máccô không có.
Nó gă ̣p những khó khăn chính sau đây:
- Đi trái với truyền thống trong Giáo Hội, theo đó thì
Matthêu đã được viết bằng tiếng aram và có trước
Máccô;
- Nhiều đoạn trong Matthêu (kể cả những bài trình thuật)
xem ra lâu đời hơn Máccô và vì thế không thể lê ̣ thuộc
Máccô: so sánh những đoạn về người đàn bà Canaan
(Mt 15,21-28 = Mc 7,24-30), về viê ̣c giữ chay khi
chàng rể bị đưa đi (Mt 9,15 = Mc 2,20);
- Nội dung của nguồn tài liê ̣u Q, theo cách trình bày của
Lachmann và các học giả Tinh lành về sau, thì còn
mập mờ, chưa đạt tới một kết luận có giá trị thuyết
phục.
sao quyển Tin Mừng theo thánh Matthêu bình thường thì
lê ̣ thuô ̣c vào Máccô, nhưng có khi lại khác với Máccô và
xem ra lâu đời hơn Máccô: lý do là nó đã đi sát với
Matthêu aram hơn.
- Sau nữa, để bổ túc cho những thiếu sót của giả thuyết
Q, cần phân biê ̣t hai nguồn khác nhau trong truyền thống
các “Logia” có chung giữa Matthêu và Luca (đã nói ở
trên: Matthêu và Luca có những đoạn “song truyền” mà
Máccô không có):
+ Matthêu aram: trong Matthêu aram không những có
các trình thuật, nhưng còn có các Logia, mặc dầu
Máccô đã bỏ qua rất nhiều;
+ Một sưu tập các Logia khác nữa ghi chép những
nguyên liê ̣u mà Matthêu aram không ghi hoặc cùng
một thứ nguyên liê ̣u nhưng nằm dưới một hình thức
khác. Matthêu hiê ̣n thời và Luca đều dùng sưu tập
này, nhưng Máccô thì không biết tới.
Dựa vào những nhâ ̣n xét văn học đó, chúng ta có thể
vạch lại diễn tiến tổng quát trong sự hình thành của ba quyển
Tin Mừng đầu tiên. Chúng ta có thể phân biê ̣t 5 giai đoạn:
a/ Ở giai đoạn đầu tiên có lời rao giảng của các tông
đồ: đó là lời rao giảng (Kerygma) về cái chết cứu thế và
sự sống lại của Chúa, các bài diễn từ của Phêrô trong sách
Công vụ là những toát yếu điển hình của lời rao giảng ấy.
Bên cạnh còn có những bài trình thuâ ̣t chi tiết hơn: bài
trình thuâ ̣t về cuô ̣c khổ nạn chắc chắn đã mă ̣c mô ̣t hình
thức cố định rất sớm; sau nữa là những mẫu chuyê ̣n về
cuô ̣c đời, thân thế, sứ vụ, quyền năng và lời giảng dạy của
Chúa. Cùng với các tông đồ, còn có những “giảng viên
52 Dẫn nhập phê bình vào các sách
giàu chi tiết và gợi hình. Khi dùng Matthêu, Máccô đã
tóm tắt hoă ̣c bỏ qua nhiều lời nói của Chúa. Vì ông muốn
theo đuổi mục đích là trình bày mô ̣t Đức Kitô chịu đóng
đinh và khải hoàn, nên đã không khai triển các lời giảng
dạy của Chúa.
Ông không ghi lại lời nào của sưu tâ ̣p mà có lẽ ông
không biết đến.
e/ Sự thiếu sót đó của Máccô sẽ được bổ khuyết nhờ
hai quyển Tin Mừng khác mà người ta khó biết quyển nào
xuất hiê ̣n trước, vì hai quyển này không lê ̣ thuô ̣c nhau.
Mô ̣t tác giả nă ̣c danh, mà ta gọi là Matthêu Hy-lạp, đã
muốn dùng lại mô ̣t cách trọn vẹn quyển Tin Mừng I, được
biết qua mô ̣t bản dịch Hy-lạp và còn bổ túc thêm. Về các
bài trình thuâ ̣t, ông dựa trên Máccô (ông không thêm gì
quan trọng, ngoài hai chương về tuổi thơ của Chúa),
nhưng lắm lúc cũng nhìn vào quyển Tin Mừng đầu tiên, vì
thế mà trong những trường hợp đó, bản văn của Matthêu
hiê ̣n thời đô ̣c đáo hơn và cổ kính hơn.
Về các lời của Chúa, thì nhờ viê ̣c trở về với Matthêu
aram, Matthêu hiê ̣n thời đã lấy lại nhiều lời của Máccô đã
bỏ qua. Tác giả cũng biết sưu tâ ̣p bổ túc, nên đã dùng chất
liê ̣u của nó cùng với quyển Tin Mừng nguyên thuỷ để viết
ra những tổng hợp rất đầy đủ chung quanh vài chủ đề
quan trọng.
Ngoài những nguồn sử kể trên, tác giả còn có những
nguồn sử riêng, đă ̣c biê ̣t là những chất liê ̣u về tuổi trẻ của
Chúa. Luca cũng viết mô ̣t tác phẩm tương tự, nhưng bằng
những nguồn sử khác. Luca dùng Máccô như mô ̣t nguồn
chính: ông đã theo sát trâ ̣t tự các đoạn văn lấy trong
Máccô. Ông cũng đã dùng Matthêu aram trong mô ̣t bản
54 Dẫn nhập phê bình vào các sách
dịch Hy-lạp, nhưng không lấy chất liê ̣u ở đó nhiều như
Matthêu Hy-lạp. Vì Luca nhắm tới các đô ̣c giả gốc ngoại
giáo. Ông đã dùng mô ̣t nguồn tài liê ̣u chung với Matthêu
tức là sưu tâ ̣p: ông lấy rất nhiều chất liê ̣u trong sưu tâ ̣p đó
và trình bày chúng dưới hình thức mô ̣t cuô ̣c hành trình lên
Giêrusalem (Lc 9,51 - 18,14). Ngoài ra, ông cũng có
nguồn sử riêng (Đức Mẹ, các Thánh Nữ, lời rao giảng của
Phaolô): Không những là bài trình thuâ ̣t về tuổi trẻ của
Chúa mà còn nhiều viên ngọc khác nữa làm cho tác phẩm
của ông trở nên cần thiết bên cạnh hai quyển kia. Các viên
ngọc này (Người Samritanô nhân hâ ̣u, Martha và Maria,
đứa con hoang đàng, người Biê ̣t-phái và người thu thuế…)
phần nhiều đều nằm trong phần giữa của quyển Tin Mừng
(9,51 - 18,14).
Hoạ đồ sau đây tóm tắt những giai đoạn trong sự
hình thành của 3 quyển Tin Mừng nhất lãm.
SƠ ĐỒ
CÁC GIAI ĐOẠN TRONG SỰ HÌNH THÀNH
CỦA 3 TIN MỪNG NHẤT LÃM
MÁCCÔ
MATTHÊU
LUCA
Ghi chú:
Bài trình thuâ ̣t của cha P.Bnoit trong B.J (p.1284-
1285) không nói tới lời rao giảng của thánh Phaolô và ảnh
hưởng của người trên Luca. Chúng tôi nghĩ nên dùng hoạ
dồ của cha P.Grelot để bổ túc điểm này: (Cf. Nguyễn An
Ninh. Historicité, p.174).
- Q: nguồn tài liê ̣u chung của Matthêu và Luca mà Máccô
không có.
Thực ra hoàn cảnh rất phức tạp: trong giai đoạn soạn
thảo lần thứ I, Máccô phát xuất chính yếu từ B, nhưng
cũng lấy chất liê ̣u từ A và chút ít từ C. Đó là Máccô I (hay
là Máccô trung gian), nguồn chính yếu của Máccô hiê ̣n
thời: nói là chính yếu, vì Máccô hiê ̣n thời lê ̣ thuô ̣c mô ̣t
phần vào Matthêu I (Matthêu trung gian) và Luca nguyên
thuỷ (Proto-Luca).
Matthêu cũng có hai giai đoạn soạn thảo: ở giai đoạn
mô ̣t, nguồn tài liê ̣u chính là A, thêm vào đó còn có Q
(không hoàn toàn tương ứng với nguồn Q theo các tác giả
xưa). Matthêu hiê ̣n thời phát xuất từ Matthêu trung gian,
nhưng còn chịu ảnh hưởng của Máccô trung gian.
Cuối cùng Luca nguyên thuỷ đã dùng, trực tiếp hay
gián tiếp tất cả các tài liệu nói trên: trực tiếp B, C và Q;
gián tiếp là Matthêu I. Bản văn hiện thời của Luca phát
xuất từ Proto-Luca, nhưng chịu ảnh hưởng của Máccô I.
Trên bình diện văn chương, ba bản văn hiện thời của
Matthêu, Máccô và Luca có nhiều điểm tương đồng, lý do
là những người biên soạn cuối cùng đều thuộc về “trường
phái Luca”.
Sở dĩ Boismard đã đi đến giả thuyết phức tạp như
trên, vì ông đã phân tích tỉ mỉ các phân đoạn (péricopes)
trong cả ba Tin Mừng nhất lãm. Ông đã lấy khởi điểm từ
Máccô và nhận thấy quyển Tin Mừng này hàm chứa
những đoạn văn rất phức tạp. Để cắt nghĩa những đoạn
văn ấy cần phải giả định không phải hai nguồn tài liệu
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Q A C Q
B
Mt I Mc I
Proto Lc
Mt Mc Lc
Ghi chú:
58 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương II.
CÁC TIÊU CHUẨN
ĐỂ THẨM ĐỊNH
TÍNH XÁC THỰC LỊCH SỬ
CỦA CÁC SÁCH TIN MỪNG
Để khẳng định tính xác thực lịch sử của nội dung các
sách Tin Mừng, thì phải chứng minh là ngay từ thời đầu,
đã có khả năng chuyển đạt cách tích cực và trung tín các
lời nói và các hành vi của Đức Giêsu; hơn nữa Giáo Hội
tiên khởi cũng như các tác giả viết sách Tin Mừng đã có
bận tâm và có ý muốn chuyển đạt một cách trung tín các
lời nói và các hành vi ấy. Nhưng chỉ thế thôi, cũng chưa
đủ: còn phải chứng minh rằng sự trung tín ấy nằm trong
trật tự các sự kiện và có thể kiểm chứng được. Nói cách
khác, các bút tích để lại đó phải tương ứng với thực tại
lịch sử. Khoa phê bình văn chương có thể giúp chúng ta
khám phá những hình thức văn chương cổ kính nhất của
truyền thống, nhưng tự nó, không được phép kết luận gì
về tính cách lịch sử của nội dung một bài trình thuật hay
một “logion”. Muốn thẩm định tính lịch sử của một bản
văn Tin Mừng, ở giai đoạn cuối này khoa phê bình văn
chương phải nhường bước cho khoa phê bình lịch sử.
Từ năm 1954 (Kasemann), các nhà phê bình đã nghiên
cứu các tiêu chuẩn cho phép chúng ta thẩm định tính xác
thực lịch sử của các bản văn Tin Mừng. Họ chưa nhất trí
60 Dẫn nhập phê bình vào các sách
về số lượng, tên gọi, cách sắp xếp, và giá trị của các tiêu
chuẩn. Các tiêu chuẩn nêu ra sau đây được đại đa số các
học giả chấp nhận và tiêu biểu một lập trường trung dung
(không quá khích như Bultmann: ông này chỉ chấp nhận
hai tiêu chuẩn).
Người ta có thể xếp các tiêu chuẩn theo 3 loại :
- Các tiêu chuẩn cơ bản
- Các tiêu chuẩn phụ
- Các tiêu chuẩn hỗn hợp.
I. CÁC TIÊU CHUẨN CƠ BẢN
Các tiêu chuẩn cơ bản là những tiêu chuẩn tự chúng có
một giá trị riêng, và bởi thế cho phép chúng ta có một
thẩm định chắc chắn về tính xác thực lịch sử. Điều đó
không có nghĩa là chúng ta chỉ phải dùng các tiêu chuẩn
ấy mà thôi và gạt bỏ các tiêu chuẩn khác. Nhưng người ta
gọi chúng là cơ bản, vì chúng có một giá trị tự tại đầy đủ
cho phép chúng ta đạt tới những kết quả chắc chắn. Các
nhà phê bình quá khích nhất cũng chấp nhận các tiêu
chuẩn này (trừ tiêu chuẩn cuối cùng).
Đó là các tiêu chuẩn:
+ Chứng tá đa phương;
+ Độc đáo;
+ Phù hợp;
+ Sự cần thiết phải giải thích.
1. Chứng tá đa phương
Người ta có thể xem một dữ kiện là xác thực khi nó
được ghi nhận trong tất cả (hay đa số) các nguồn của các
sách Tin Mừng (Máccô, nguồn của Mt và Lc; Quell,
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
a/ Phép rửa tại sông Giođan đặt Đức Giêsu vào hàng các
tội nhân; Giáo Hội tiên khởi tuyên xưng Đức Giêsu là
“Đức Chúa”, làm sao lại có thể bịa đặt ra một hoàn
cảnh trái nghịch với niềm tin của mình một cách mãnh
liê ̣t như thế? Người ta có thể nói như thế về ba cơn
cám dỗ, về giờ hấp hối, về cái chết trên Thập giá.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
b/ Lê ̣nh của Đức Giêsu bảo các Tông đồ đừng rao giảng
cho dân Samari và các dân ngoại, không còn phù hợp
với hoàn cảnh của một Giáo Hội mở rộng cửa đối với
các dân tộc.
c/ Viê ̣c chính Đức Giêsu kêu gọi các môn đê ̣ không ăn
khớp với hoàn cảnh các rabbi (người môn đê ̣ chọn
rabbi cho mình) và hoàn cảnh của Giáo Hội tiên khởi
(tiếng môn đệ trước hết chỉ người tin vào Đức Giêsu).
d/ Những đoạn Tin Mừng trong đó tác giả nhấn mạnh tới
sự chậm hiểu, những khuyết điểm và đến cả những lỗi
lầm của các tông đồ mặc dầu Giáo Hội tiên khởi tôn
kính các ngài: những đoạn ấy tương phản với hoàn
cảnh sau khi Chúa đã sống lại.
e/ Các sách Tin Mừng vẫn giữ lại những câu nói rất khó
hiểu của Chúa, trong lúc Giáo Hội đã có thể loại đi,
một Giáo Hội từ nay phải có khả năng hiểu và giải
thích: Mt 11,11-12; Mc 9,31; 14,58; Lc 13,32; Mc 4,11.
f/ Các sách Tin Mừng vẫn giữ những kiểu nói như “Nước
Trời”, “Con Người”, điều này xem ra “lỗi thời” so với
nền thần học sâu sắc hơn của Phaolô.
Đối với Butlmann và Kasemann, tiêu chuẩn đô ̣c đáo
được xem như tiêu chuẩn duy nhất đáng giá. Đối với đa số
các nhà phê bình khác, đây là tiêu chuẩn cơ bản. Tuy
nhiên nó phải được dùng với các tiêu chuẩn khác, nhất là
tiêu chuẩn phù hợp nói sau. Vì nếu người ta chỉ nhâ ̣n tiêu
chuẩn này thôi, thì người ta sẽ xem là không xác thực
những gì nằm trong chiều hướng của Do-thái giáo và của
Giáo Hô ̣i tiên khởi: điều đó thâ ̣t phi lý, vì Đức Giêsu cũng
64 Dẫn nhập phê bình vào các sách
là mô ̣t con người của thời đại mình, đã chịu ảnh hưởng
của Do-thái giáo và rồi sẽ gây ảnh hưởng trên Giáo Hô ̣i.
3. Tiêu chuẩn phù hợp
Tiêu chuẩn này được nhiều nhà phê bình thuô ̣c các
khuynh hướng khác nhau nhìn nhâ ̣n. Tuy nhiên cách hiểu
cũng khác nhau.
Đối với B. Rigaux sự kiê ̣n các bài trình thuâ ̣t trong Tin
Mừng phù hợp với môi trường Do-thái thời Đức Giêsu
như ta được biết nhờ các khoa lịch sử, khai quâ ̣t và văn
chương là mô ̣t tiêu chuẩn về tính xác thực lịch sử. Người
ta không thể bịa đă ̣t ra từ hư không vô số dữ kiê ̣n như ta
thấy trong các sách Tin Mừng đa dạng và phức tạp đồng
thời lại phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Chúng
phải tương ứng với thực tế lịch sử.
Butlmann và Perrin nhìn nhâ ̣n là xác thực những chất
liê ̣u phù hợp với những chất liê ̣u mà người ta đã khám phá
được nhờ tiêu chuẩn đô ̣c đáo. Nói cách khác trước hết
người ta phải dùng tiêu chuẩn đô ̣c đáo, để khám phá nòng
cốt đích thực cuô ̣c đời của Đức Giêsu (nhất là cái chết trên
Thâ ̣p giá và lời rao giảng về Nước Trời); sau đó những dữ
kiê ̣n nào phù hợp với nòng cốt ấy mới có thể được xem là
xác thực. Tiêu chuẩn phù hợp này cho phếp hai ông nhìn
nhâ ̣n là xác thực những dụ ngôn về Nước Trời.
Ignace de la Potterie nới rô ̣ng tiêu chuẩn này và nhìn
nhâ ̣n là xác thực những gì phù hợp với lời dạy cốt yếu của
Đức Giêsu về Nước Trời sắp đến.
Về cách hiểu của B. Rigaux, chúng ta có thể đưa ra
nhâ ̣n xét như sau: Tiêu chuẩn phù hợp theo các ông hiểu,
giúp chúng ta xác định tính cách lịch sử của các sách Tin
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Mừng mô ̣t cách tổng quát mà thôi, nhất là môi sinh, chứ
chưa đưa chúng ta trực tiếp tới với con người lịch sử của
Đức Giêsu. R.Latourelle tổng hợp quan điểm của B.
Rigaux, Perrin và De la Potterie như sau: Người ta có thể
xem là xác thực mô ̣t lời nói hay mô ̣i cử chỉ của Đức Giêsu
khi nó phù hợp không những với thời đại và môi trường
của Đức Giêsu (môi trường ngôn ngữ, địa lý, xã hô ̣i, chính
trị, tôn giáo) và nhất là phù hợp với sứ điê ̣p cốt lõi của
Đức Giêsu, tức là sự xuất hiê ̣n của Nước Trời.
Về mă ̣t đô ̣c đáo nhất là:
- Các dụ ngôn, tất cả đều quy về Nước Trời và các điều
kiê ̣n phát xuất của nó (J. Jérémias đã phân tích);
- Các phúc lộc: nguyên thuỷ đó là bài giảng về Vương
Quyền thời Đấng Cứu Thế (J. Dupont đã phân tích);
- Kinh Lạy Cha: nguyên thuỷ và cốt yếu là lời cầu xin
cho Nước Trời được thiết lập (H. Schurmann, J.
Alonso Diaz, R.E.Brown, J.Jérémias đã nghiên cứu);
- Các phép lạ, liên hê ̣ mật thiết với chủ đề Nước Trời và
chủ đề hoán cải;
- Ba cơn cám dỗ (J.Dupont và J.Jérémias đã nghiên
cứu): phù hợp với diễn tiến cuộc đời Đức Giêsu và
quan niê ̣m của Người về Nước Trời.
Hai tiêu chuẩn “đô ̣c đáo” và “phù hợp” khác nhau,
đồng thời bổ túc cho nhau. Tiêu chuẩn phù hợp với môi
trường giúp chúng ta xác định vị trí của Đức Giêsu trong
lịch sử, nhìn nhâ ̣n Người là mô ̣t con người thuô ̣c thời đại
của Người. Tiêu chuẩn đô ̣c đáo cho ta thấy Đức Giêsu là
mô ̣t hiê ̣n tượng đô ̣c nhất vô nhị: tiêu chuẩn này giúp
66 Dẫn nhập phê bình vào các sách
chúng ta khám phá được những nét chính yếu trong nhân
cách và đạo lý của Đức Giêsu. Trên nền tảng chắc chắn
ấy, nhưng còn giới hạn, tiêu chuẩn phù hợp lại mở rô ̣ng
các vòng tròn quy tâm, các lãnh vực xác thực. Ví dụ chủ
đề Nước Trời là linh hồn của các dụ ngôn, các mối phúc,
các phép lạ, các cơn cám dỗ, Kinh Lạy Cha. Sau hết, nhờ
phối hợp hai tiêu chuẩn ấy mà chúng ta sẽ khám phá được
“cung cách” (Style) của Đức Giêsu sẽ nói ở sau.
4. Tiêu chuẩn lý giải cần thiết
R. Latourelle nêu ra mô ̣t tiêu chuẩn khác nữa mà ông
cho là cơ bản: trước mô ̣t số dữ liê ̣u rời rạc và bí nhiê ̣m,
nếu có được mô ̣t lời cắt nghĩa hợp tình, hợp lý soi sáng và
tổng hợp các dữ kiê ̣n ấy mô ̣t cách hài hoà (nếu không, các
dữ kiê ̣n này sẽ là những điều bí nhiê ̣m), thì chúng ta có
thể xem lời cắt nghĩa ấy là xác thực.
Nguyên tắc này đã được thông dụng trong các khoa
lịch sử, luâ ̣t, thần học và đa số các khoa nhân văn, nhưng
còn ít được chú ý trong khoa phê bình các tài liê ̣u Tin
Mừng. Ví dụ: khi phải điều tra tác giả mô ̣t tô ̣i phạm, thì
giả thuyết nào soi sáng được nhiều sự kiê ̣n hơn cả, thì giả
thuyết ấy được nhà chức trách xem là xác thực. Trong
khoa phê bình lịch sử cũng vâ ̣y, giả thuyết nào giải thích
và liên kết được nhiều sự kiê ̣n hơn cả, thì phải được xem
là phù hợp với thực tế.
a/ Một số rất lớn các dữ kiê ̣n trong cuộc đời của Đức
Giêsu (ví dụ: thái độ của Người đối với các quy định
của lề luật, đối với các nhà chức trách Do-thái, đối
với Kinh Thánh, các quyền hành mà Người gán cho
mình; ngôn ngữ của Người; uy tín và ảnh hưởng của
Người trên các môn đê ̣ và trên Dân), chỉ có ý nghĩa,
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
nếu chúng ta chấp nhận sự kiê ̣n cơ bản này: Người là
Đấng siêu viê ̣t. Một lời cắt nghĩa như thế hợp lý và
vững vàng hơn là giả thuyết rằng Giáo Hội sơ khởi đã
tạo ra thần thoại về Đức Giêsu.
b/ Tiêu chuẩn này cho phép xác định được những nét
chính yếu trong cuộc đời của Chúa Giêsu: Sự thành
công ban đầu, sự đoạn giao với Galilê, sinh hoạt tại
Giêrusalem, sự đoạn giao với dân chúng, sự ưu tiên
Người lại dành cho nhóm môn đê ̣.
c/ Tiêu chuẩn này cũng giúp soi sáng một số vấn đề gay
cấn trong Kitô học hiê ̣n đại, nhất là những vấn đề liên
hê ̣ đến địa vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giêsu, ý
thức của Người về vai trò Kitô. Thực vậy, làm sao cắt
nghĩa được sự kiê ̣n là ngay từ thời đầu của Kitô giáo,
trong sách Công vụ các Tông đồ, trong thư của
Phaolô, trong các công thức tuyên xưng đức tin, trong
các bài thánh ca, trong các lời rao giảng và trong thái
độ mới của các Tông đồ. Đức Giêsu luôn luôn được
giới thiê ̣u là Kitô, là Đức Chúa và là Con Thiên
Chúa? Tất cả các yếu tố đều hoà đồng với nhau. Chỉ
có một cách cắt nghĩa hợp lý là chính Đức Giêsu, qua
lời nói, thái độ và hành động đã làm phát sinh và chín
muồi ý tưởng Người là Kitô và là Con Thiên Chúa.
Niềm tin của Giáo Hô ̣i không phải là mô ̣t vê ̣ tinh
không có dàn phóng.
Người, mô ̣t cung cách duy nhất và không thể bắt chước
được. Cung cách ở đây không phải là cung cách văn
chương (style littéraire) cho bằng cung cách sống.
J.Jérémias đã nghiên cứu những kiểu nói Aram trong
các sách Tin Mừng để phát hiê ̣n những “ipsissima verba”
của Chúa. Viê ̣c nghiên cứu văn phong thường là mô ̣t tín
hiê ̣u quí hoá về tính xác thực, nhưng đó chưa phải là mô ̣t
tiêu chuẩn. Tính cách lâu đời của mô ̣t câu nói biểu lô ̣ sự
trùng hợp với môi trường ngôn ngữ chung quanh, nhưng
chưa nhất thiết đã biểu lô ̣ tính lịch sử của câu nói ấy.
Cung cách mà chúng ta muốn hiểu ở đây là cách suy
nghĩ, cái năng đô ̣ng của tâm hồn: chúng để lại dấu ấn
không những trong ngôn ngữ, mà còn cả trong thái đô ̣,
trong cách sống toàn bô ̣. Các yếu tố của cung cách ấy
được phát hiê ̣n từ các tiêu chuẩn cơ bản đã trình bày trên
kia. Vì thế, chúng ta gọi tiêu chuẩn này là phụ thuô ̣c. Mô ̣t
khi chúng ta đã nhâ ̣n diê ̣n và khẳng định được cung cách
của Đức Giêsu, thì nó lại có thể trở thành mô ̣t tiêu chuẩn.
Về ngôn ngữ của Đức Giêsu, Schurmann nhâ ̣n xét:
ngôn ngữ của Đức Giêsu có cái gì trang trọng, cao thượng,
thánh thiêng; nó vừa biểu lô ̣ uy quyền, đồng thời sự đơn
giản, sự tốt lành, sự thôi thúc trước viễn cảnh thời cánh
chung. Đức Giêsu khai mở nơi bản thân mình mô ̣t kỷ
nguyên mới mẻ.
Về thái đô ̣, Trilling ghi nhâ ̣n “mô ̣t tình yêu không thay
đổi đối với các tô ̣i nhân, lòng thương xót đối với những
người đau khổ, mô ̣t sự nghiêm khắc đối với mọi hình thức
tự mãn, mô ̣t thứ nghĩa nô ̣ đối với tính gian dối và giả hình,
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
và nhất là sự quy hướng tuyê ̣t đối về Thiên Chúa, là Chúa
Tể và là Cha.
Các đă ̣c điểm trên đều được gă ̣p lại trong lời giảng dạy
và trong các hành động của Đức Giêsu.
III. CÁC TIÊU CHUẨN HỖN HỢP
Khi có mô ̣t tín hiê ̣u văn chương quan trọng được
yểm trợ bởi mô ̣t hay nhiều tiêu chuẩn lịch sử, thì có thể
gọi đó là tiêu chuẩn hỗn hợp. R. Latourelle nêu ra hai
trường hợp quan trọng:
1. Sự hài hoà nô ̣i tại của mô ̣t bài trình thuâ ̣t
Khi mô ̣t dữ kiê ̣n rất phù hợp với mạch ý của nó và
nhất là cơ cấu nô ̣i tại của nó rất hài hoà, thì đó là mô ̣t tín
hiê ̣u văn chương quan trọng. Nhưng để có giá trị trên bình
diê ̣n lịch sử, sự hài hoà nô ̣i tại ấy phải được yểm trợ bởi
mô ̣t hay nhiều tiêu chuẩn lịch sử.
Ví dụ các Tin Mừng Nhất Lãm và Gioan đều nói rằng
lý do đích thực đưa Đức Giêsu đến chỗ phải chết là lòng
ghen ghét của những người có chức quyền trong dân Israel,
vì Người đã tự xem là Kitô và ngang hàng với Thiên Chúa
(Ga 10,33; Mc 14,60-64). Tất cả cũng đều ghi nhâ ̣n lý do giả
tạo là lý do chính trị, và tất cả đều nhắc tới bản án treo trên
đỉnh Thâ ̣p giá: “Giêsu Vua người Do-thái”. Vâ ̣y có sự hài
hoà giữa vụ kiê ̣n, thái đô ̣ của giới lãnh đạo Israel trước mă ̣t
người La-mã, và bảng án của Philatô. Sự hài hoà của các
bài trình thuâ ̣t cùng với chứng tá đa phương (truyền thống
nhất lãm, thánh Gioan, sách Công vụ) và tương phản, sự
bất đồng giữa bài trình thuâ ̣t với niềm tin của Giáo Hô ̣i
thời nguyên thuỷ, tạo nên mô ̣t tiêu chuẩn hỗn hợp và mô ̣t
bảo đảm vững vàng cho tính lịch sử.
70 Dẫn nhập phê bình vào các sách
***
1. Cho dẫu người ta có một lập trường trung dung
(nghĩa là lập trường đứng giữa chủ trương tin tưởng và
chủ trương nghi ngờ), người ta cũng đạt được những kết
quả rất khả quan. Kể như toàn bộ chất liệu của các sách
Tin Mừng đều được thu nhận lại.
Các kết quả ấy liên hệ tới:
a/ Môi trường nhân văn, ngôn ngữ, xã hội, chính trị, kinh
tế, văn hóa, pháp lý, tôn giáo (Rigaux);
b/ Những đường nét chính yếu trong sứ vụ Đức Giêsu:
buổi đầu tại Galilê, sự hồ hởi của dân chúng và của các
tông đồ trước những việc lạ lùng Người thực hiện,
nhưng càng ngày Người lại càng không được thấu hiểu:
sứ vụ tại Giêrusalem, vụ án có tính cách chính trị và tôn
giáo, bị tuyên án tử hình và chịu chết (Trilling);
c/ Các biến cố lớn trong cuộc đời của Đức Giêsu: phép
Rửa, các chước cám dỗ, biến hình, lời giảng dạy về
Nước Trời, lời mời gọi hoán cải, các phép lạ, sự phản
bội của Giuđa, vụ án, chịu đóng đinh, chịu mai táng,
sống lại;
d/ Thái độ tương phản của Người: vừa đơn sơ vừa quyền
uy, vừa trong trắng tuyệt đối vừa đầy lòng thương xót
đối với những tội nhân, những người nghèo, những
người bị áp bức, thái độ phục vụ, hy sinh đến độ trao
ban cả sự sống.
72 Dẫn nhập phê bình vào các sách
KẾT LUẬN
Khoa phê bình văn học đặt vấn đề cho chúng ta về giá
trị của các sách Tin Mừng. Sự hình thành các sách Tin
Mừng cho chúng ta thấy rằng những hình thức của các
ngôn từ và các bài trình thuật, sau một thời gian biến
chuyển lâu dài, không còn giữ được sự nguyên vẹn của
thời đầu. Nhiều lời nói và dụ ngôn của Chúa đã được sửa
chữa và thích ứng bởi các người kể lại. Điều này chắc
chắn sẽ gây ngạc nhiên, nếu không nói là vấp phạm cho
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
những ai chưa quen với lối phê bình văn học. Họ bối rối là
vì chưa thấy hết vấn đề.
1. Ngay trong lãnh vực phê bình lịch sử, truyền thống
Phúc Âm được thành hình trong những điều kiện rất tốt,
tốt hơn những truyền thống khác đương thời. Khoảng thời
gian kể từ lúc nó phát xuất cho tới lúc nó đươc mặc một
hình thức cố định thì rất ngắn: 40 hoặc 50 năm cho những
công trình biên soạn cuối cùng; 20 hoặc 10 năm, hoặc ít
hơn nữa, cho những sưu tập chữ viết đầu tiên. Các truyền
thống ngoài đời và cả đến Cựu Ước cũng không có được
một khoảng thời gian ngắn như thế: nhờ vậy mà các kỷ
niệm được gìn giữ một cách trung thực.
Truyền thống Phúc Âm, một cách trực tiếp hay gián
tiếp, đều phát xuất từ những chứng nhân mắt thấy tai
nghe: các Tông Đồ. Những người viết sách Tin Mừng là
những tông đồ thời đầu (Matthêu, Gioan) hoặc môn đệ
của các tông đồ (Máccô, Luca): các ngài đều có một ý
hướng như tông đồ đoàn là chuyển đạt các ngôn hành của
Đức Giêsu. Chúng ta phải chú ý tới sự chân thành và
lương thiện của các chứng nhân. Thực vậy các môn đệ của
Chúa Giêsu là những ngường bình dân, đơn sơ và khiêm
tốn. Họ không có mánh lới hoặc tài ba gì để từ không mà
làm nên lịch sử hoặc văn chương. Họ không nghĩ tới việc
viết sử theo kiểu chúng ta quan niệm hôm nay về khoa
lịch sử, nhưng họ vẫn mang một ưu tư là làm chứng cách
trung tín và chuyển đạt những điều phù hợp với lịch sử.
Quả thực họ đã sống và đã thuật lại những biến cố trong
ánh sáng đức tin của họ, nhưng với mục đích làm sáng tỏ
ý nghĩa các biến cố ấy chứ không phải để làm sai lệch.
74 Dẫn nhập phê bình vào các sách
2. Hơn nữa họ đã thực hiện công việc suy tư, thích ứng
và trình bày đó dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Đối với các tín hữu thì còn có một dữ kiện nữa có tầm
quan trọng hàng đầu: đó là ơn linh hứng. Dữ kiện này bảo
đảm chân lý thần học của truyền thống Phúc Âm qua
những biến chuyển văn học.
Nhưng chúng ta phải hiểu cho đúng ơn linh hứng.
Ngày xưa người ta thường quan niệm đó là một đặc
sủng làm cho các tác giả thánh có thể ghi chép lại một
cách nguyên vẹn thực tại vật chất của các lời nói và của
các biến cố. Những kết quả của khoa phê bình văn học và
lịch sử không còn cho phép chúng ta quan niệm như thế.
Các kỷ niệm đã được tiếp nhận và lưu truyền bởi một
cộng đoàn: cộng đoàn ấy đã sống các kỷ niệm đó, đã diễn
tả, đã quảng giải theo niềm tin của mình và đã thích ứng
vào những hoàn cảnh cụ thể. Tác động của Chúa Thánh
Thần chính là nằm ở chỗ hướng dẫn và điều khiển công
trình cưu mang và chuyển đạt sứ điệp.
Cộng đoàn là chính Giáo Hội, được Thánh Thần Chúa
Kitô ngự trị. Thánh Thần của Chúa Kitô, hiện diện giữa
con cái của mình, đã hướng dẫn tất cả những ai đã đóng
góp một cách tích cực vào công việc làm chứng cho Chúa
Kitô, chuyển đạt và làm sáng tỏ lời chứng ấy, nhất là
những nhân vật chính yếu và những người biên soạn Phúc
Âm: bởi thế những tác phẩm của các ngài đều được bảo
đảm là diễn tả đúng chân lý của Thiên Chúa, trong những
gì liên hệ đến đức tin. Kiểu nói này hay kiểu nói kia
không còn ghi lại hoàn toàn nguyên vẹn lời nói của Chúa
Giêsu, một ít bài trình thuật đã được sắp xếp lại: đó là
cách trình bày tốt nhất mà Thiên Chúa muốn; đó là
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
phương cách mà tôi phải nghe lời ấy, hiểu sự kiện đó, qua
đức tin của Giáo Hội.
Bởi vì mạc khải là một thực tại cụ thể, một cuộc gặp
gỡ trong đức tin, một kinh nghiệm vừa thiêng liêng vừa
lịch sử cho nên cách thức tốt nhất để lưu truyền không thể
là một sự lưu truyền hoàn toàn vật chất về các lời nói hoặc
các hoàn cảnh. Sự lưu truyền mạc khải phải là một suy tư
của đức tin phát xuất từ những chứng nhân đã được sống
cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu: sự suy tư ấy được khơi động,
hướng dẫn và kiểm chứng bởi Thánh Thần của Thiên Chúa,
để cho chứng tá của họ có thể đưa những người khác tới
một cuộc gặp gỡ như thế và cũng tin vào một sứ điệp .
Vậy độc giả các sách Tin Mừng đừng ngạc nhiên khi
nhận thấy một sự biến chuyển văn học từ thời nguyên
thuỷ mịt mù cho tới những bản văn chính lục hiện có. Trái
lại, họ phải khen ngợi sự tiến triển của đức tin và của sự
suy tư thần học đã thu lượm được ngay từ những năm đầu
của Kitô Giáo. Nhờ đó xuyên qua thời đại đã tiếp đón Đức
Kitô, độc giả lại có thể thông hiệp vào mầu nhiệm sự
sống, và sống mầu nhiệm ấy với tất cả sự sung mãn dưới
muôn sắc thái của nó như các anh em kitô hữu tiên khởi
đã biết khám phá.
Nếu lắm lúc độc giả không còn được nghe trực tiếp
tiếng nói của Đức Giêsu, thì họ lại được nghe tiếng nói
của Giáo Hội là người được Thiên Chúa cho phép quảng
diễn tư tưởng của Thầy mình. Độc giả hãy tin tưởng vào
Giáo Hội và cũng hãy tin nhận rằng, Đức Giêsu, Đấng
ngày xưa lúc ở trần gian, đã nói với chúng ta, nay vẫn
sống trong Giáo Hội, và nói với chúng ta trong vinh quang
của Người.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Phần II.
TIN MỪNG
THEO THÁNH MATTHÊU
78 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương I.
CÁC ĐẶC TÍNH
CỦA QUYỂN TIN MỪNG I
chúng một tầm mức phổ quát, có giá trị cho tất cả các kitô
hữu thuộc mọi thời đại.
Ví dụ: về các mối phúc thật: trong Luca, Chúa Giêsu
nói trực tiếp với các thính giả hiện diện: “phúc cho các
ngươi…” (Lc 6,20-21); trong Matthêu, lời ấy được nói với
các tín hữu một cách chung (“phúc cho ai…”) và mặc một
chiều kích thiêng liêng (Mt 5,3.5.6).
Kinh Lạy Cha, theo Luca, được Đức Giêsu dạy nhân
dịp một số môn đệ xin Người chỉ bảo cách cầu nguyện,
như Gioan đã dạy các môn đồ ông. Còn Matthêu đặt kinh
ấy trong một toàn bộ lý thuyết (Mt 6,9-13) sau những lời
khuyên nhủ về việc cầu nguyện (6,5-8) và ngay sau Kinh
Lạy Cha, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tha
thứ cho anh em để được Chúa Cha tha thứ (6,14-15).
Vì nhắm tới việc dạy giáo lý nên Matthêu không bận
tâm đến các chi tiết sống động và thú vị như Máccô, cũng
như không lưu ý đến tâm lý các nhân vật như Luca. Điều
người quan tâm chính là giáo lý. Do đó, Tin Mừng của
Matthêu có tính cách lược đồ, giới hạn vào những điểm
cốt yếu và cũng do đó Matthêu có khuynh hướng gom góp
các lời giảng, ngay cả các phép lạ, theo cùng một chủ đề.
Người dùng nhiều châm ngôn rất đánh động, có tiết điệu,
mục đích là để người đọc dễ nhớ.
Để hiểu rõ Matthêu, ta phải lưu ý tới đặc điểm huấn
giáo vừa nói. Nhưng huấn giáo là gì? Có thể nói đó là lời
dạy “đệ nhị cấp” (didaché) dành cho các tín hữu đã trở lại,
sau khi họ đã lãnh nhận một lời giảng “đệ nhất cấp” tức là
kerygma.
82 Dẫn nhập phê bình vào các sách
+ Công thức làm phép Rửa tội đặt nền tảng trên mầu
nhiệm sống lại: Chúa Cha là tác giả của sự sống lại,
Chúa Con là đối tượng, Chúa Thánh Thần là hoa trái
được ban cho Chúa Con. Công thức rửa tội này là duy
nhất trong Tân Ước. Về sau còn có trong sách Didachè.
90 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương II.
CÁC CHỦ ĐỀ
TRONG MATTHÊU
Một vài nhà nhà phê bình nghi ngờ tính cách xác thực
của các câu 17-19, nhưng vẫn chưa đưa ra được những
chứng cớ quyết định. Trái lại tất cả các nhà chú giải đều
nhận thấy màu sắc aram trong các câu nói. Dẫu sao thì
cộng đoàn tiên khởi đã nhìn nhận qua đoạn văn này, ý của
Chúa Giêsu muốn thành lập Giáo Hội và thành lập trên
nền tảng các tông đồ mà Phêrô là người cầm đầu.
Khuynh hướng của các nhà chú giải không Công Giáo
là giới hạn những lời hứa của Chúa Giêsu vào con người
củaPhêrô mà thôi và cho rằng những lời ấy không ngụ ý
thiết lập một chức vụ trường tồn. Quả nhiên, hiểu theo
mặt chữ thì câu 18 chỉ nhắc tới Phêrô. Nhưng Giáo Hội
mà Phêrô đứng đầu đó, Chúa muốn nó tồn tại mãi mãi,
đến nỗi sự chết cũng không làm hại được. Và làm sao
Giáo Hội có thể vững bền được nếu những lời Chúa hứa
với Phêrô không được chuyển đạt cho những người kế vị
ông? Bởi thế giáo lý Công giáo về việc kế vị các tông đồ
được khai triển một cách hợp lý từ lời hứa này của Chúa
Giêsu (xem chú giải đoạn này trong Nguyễn An Ninh, St
Matthêu, p.182-187).
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Mt 1,22 12,17-21
2,15.17.23 13,35
4,14 21,4-5
8,17 26,54.56
27,9-10
Máccô nhấn mạnh tới thời gian rao giảng Tin Mừng:
thời cánh chung đang được thực hiện (eschaton se
réalisant hoặc là eschatologie réalisée). Cánh chung học
của Matthêu phức tạp hơn. Trong một số đoạn văn (những
bài trình thuật mà Matthêu lấy lại của Máccô): người ta
gặp quan niệm về thời cánh chung đang được thực hiện.
Trong những phần khác không thuộc nguồn sử của
Máccô, người ta lại bắt gặp một cánh chung học hướng về
tương lai, nhấn mạnh tới ngày quang lâm, tới sự viên mãn
của ơn cứu rỗi.
2. Lý do
Chủ đề cánh chung học hướng về tương lai mà
Matthêu nhấn mạnh, có thể được cắt nghĩa như sau trên
bình diện lịch sử: Matthêu Hy-lạp được hình thành sau
năm 70 (có lẽ vào khoảng 85). Quốc gia Do-thái và thành
Giêrusalem đã sụp đổ. Sự phán xét của Thiên Chúa đã xảy
ra cho Israel. Tuy nhiên ngày Chúa quang lâm vẫn chưa
đến như lòng người Do-thái mong đợi. Sự thay đổi hoàn
cảnh đó tạo nên một sự buông xuôi trên bình diện luân lý
và tôn giáo nơi các tín hữu ở Palestina.
Phản ứng của Matthêu là: một đàng, Matthêu nhìn
nhận rằng ngày cùng tận chưa xảy ra hôm nay và ngày
mai; đàng khác, ông cố gắng khơi dậy sự thức tỉnh, tạo
nên một sự hăng hái cho các tín hữu trong đời sống luân
lý và tôn giáo bằng cách nhấn mạnh tới tính cách đột ngột
của Ngày Chúa. Đó là một cách trình bày phát xuất từ
khuynh hướng mục vụ: nguyên tắc thần học của khuynh
hướng này là Giáo Hội được mời gọi sống lâu dài trong
102 Dẫn nhập phê bình vào các sách
thời gian và trong thế giới này, nhưng Giáo Hội không
được vì thế mà quên lãng ngày cùng tận của lịch sử: Giáo
Hội phải luôn luôn sống trong đợi chờ.
Trong bài diễn từ của Máccô, phần kết luận rất ngắn
(Mc 13,33-37), Matthêu khai triển rộng rãi và thêm năm
dụ ngôn nói về việc phải tỉnh thức. Có hai dụ ngôn của
riêng Matthêu: 10 trinh nữ và cuộc chung thẩm. Ba dụ
ngôn sau có song song trong Luca, nhưng Luca trình bày
trong một bối cảnh khác, nghĩa là không xem chúng như
là kết luận của bài diễn từ chung luận (Lc 12). Còn
Matthêu trình bày cả năm dụ ngôn dưới chủ đề: “Vậy hãy
tỉnh thức”.
- Người chủ nhà tỉnh thức (Mt 24,42-44)
- Người quản gia khôn ngoan (24,45-51)
- Mười trinh nữ (25,1-13)
- Mười nén vàng (25,14-30). Dụ ngôn này song song
với dụ ngôn các yến bạc Lc 19,12-27. Matthêu để lộ ý
thức của mình về thời gian của Giáo Hội bằng một
câu mà Luca không có: “Đằng đằng mãi lâu sau...”
(Meta dè polum chronon = sau một thời gian lâu dài).
- Phán xét cùng tận (25,31-46): độc đáo là câu 32. Sự
phán xét đưa lại ơn cứu độ và giải phóng, tuy vẫn giữ
tính cách oai nghiêm và đáng sợ. Matthêu làm nổi bật
ý tưởng Thiên Chúa quy tụ mọi người. Trong Cựu
Ước, việc Israel được quy tụ là dấu chỉ Thiên Chúa
ban ơn cứu độ. Dụ ngôn này biểu lộ cách thức các kitô
hữu hiểu sấm ngôn của Ed 34: “Này Ta, chính Ta đây,
Ta sẽ phân xử giữa chiên béo và chiên gầy” (câu 20).
c/ Đoạn cuối trong Mt (28,20)
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ trên núi.
Người áp dụng cho mình hình ảnh Con Người như được
diễn tả trong Đn 7,14. Sau khi ra lệnh cho các tông đồ đi
giảng dạy và làm phép Rửa, Người nói: “Và này Ta ở với
104 Dẫn nhập phê bình vào các sách
các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” (heos tès sunteleias
tou aiônos), (aion=le monde, traduction de holam, có
nghĩa là “thế giới”, chứ không phải “các thế kỷ”). Ngày
quang lâm sẽ là ngày tận cùng của thế giới này; nó liên hệ
tới mọi tạo vật, nhất là con người. Tuy nhiên, Con Người
sẽ luôn luôn hiện diện với Giáo Hội và chính Giáo Hội
cũng sẽ luôn luôn được hiện diện.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Chương III.
CÁC NGUỒN SỬ
một sưu tập Lời Chúa mà thôi, nghĩa là một tác phẩm
khác với quyển Phúc Âm hiện thời của Matthêu. Trái lại,
nhiều nhà chú giải công giáo cho rằng tiếng “logia” đồng
nghĩa với “quyển Tin Mừng”. Nhưng cả hai giả thuyết
xem ra không đúng (xem Baganay, Le problem, p.52-54).
Nếu so sánh các công thức của Papias ở chổ này với các
công thức ông dùng để nói về thánh Máccô, thì ta có thể
hiểu đoạn văn trên như sau: thánh Matthêu khi viết Tin
Mừng bằng tiếng aram, đã xếp đặt những lời của Chúa
trong quyển Tin Mừng của ông. Mà quả thực, người ta
nhận thấy là trong quyển Tin Mừng I, các lời giảng dạy
của Chúa đã thu thập lại thành những phần lớn, tạo ra năm
bài diễn từ dài.
Ngoài ra, còn có các chứng từ khác:
- Thánh Irênê (cuối thế kỷ II): “Matthêu đã phát
hành một quyển Tin Mừng bằng tiếng Hípri vào thời
Phêrô và Phaolô đang giảng và thiết lập một giáo đoàn ở
Rôma”.
- Eusêbiô (thế kỷ III): “Matthêu đã viết một quyển
Tin Mừng bằng tiếng Hípri” (Lưu ý là vào thời ấy tiếng
Hípri là một tử ngữ và các Kitô hữu không phải là Do-thái
xem tiếng aram là tiếng Hípri).
- Origène (+254): “Matthêu, nhân viên thu thuế và
tông đồ của Đức Giêsu Kitô đã viết cho những người Do-
thái trở lại một quyển Tin Mừng bằng tiếng aram” (x.
W.Harrington, Nouvelle introduction à la Bible, p.708-709).
2. Nội dung của Matthêu aram
Dựa theo Papias, thì nội dung của Matthêu aram là
các “logia” của Đức Giêsu. Phải hiểu các logia theo nghĩa
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
hẹp (các danh ngôn) hay theo nghĩa rộng (danh ngôn, dụ
ngôn và cả các bài trình thuật)? Không thể giải quyết vấn
đề này một cách chính xác được. Nhưng theo quan điểm
của các nhà chú giải hiện thời, thì người ta không thể giới
hạn các logia vào các danh ngôn, nhưng còn phải thêm
vào các dụ ngôn và một vài bài trình thuật. Có thể nói nội
dung chính yếu của Matthêu aram là cái “Kerygma” tại
Palestina. Và nếu người ta lưu ý tới thời gian cần phải có
để cho lời rao giảng bằng miệng có thể được khai triển, thì
có thể nghĩ rằng Matthêu aram đã được biên soạn vào
khoảng thời gian 40-50. (W.Harrington, p.710; xem thêm:
Benoit, St Matthêu, BJ. fascicule).
D. NGUỒN RIÊNG
Người ta nhận thấy Matthêu còn có nguồn sử riêng.
Chương IV.
CHỦ Ý CỦA MATTHÊU
các nhóm gốc Do-thái. Ngoài các khó khăn do việc đồng
hóa đó, lại còn nhiều khó khăn nội bộ do việc ô hợp giữa
Kitô hữu tốt lẫn Kitô hữu xấu (Mt 13,36-43.47.50). Hình
ảnh Chúa Giêsu đã trở thành xa xôi trong quá khứ. Lý
tưởng trọn lành ban đầu đã thấp xuống. Bây giờ người ta
vừa tìm Chúa vừa tìm tiền (Mt 6,24), ưa thích những điều
kì lạ (7,21-23). Như thế Đức Ái trở thành lạnh nhạt
(24,12).
Những dấu chỉ nào cho phép chúng ta khẳng định như
thế?
Trong Máccô (và cả trong Luca), Đức Giêsu được
trình bày như là đối tượng và nội dung của Tin Mừng.
Trong Matthêu có một sự biến chuyển rõ ràng: điều mà
tác giả làm nổi bật không phải là con người Đức Giêsu,
nhưng là lời dạy của Người. Người là vị Thầy, siêu vượt
các tiến sĩ của Do-thái giáo (Mt 7,28-29: Người dạy như
một kẻ có quyền…). Không những Người là Môsê, nhưng
Người ngang hàng với Giavê, dạy dỗ Giáo Hội như Giavê
đã dạy dỗ Israel cũ.
Ta hãy lưu ý là trong Do-thái giáo, theo quan niệm của
các Biệt phái (và cả nhóm Essênô), Đấng Cứu Thế là một
Thầy Tiến Sĩ (ca vịnh 17 của Salomon): Người sẽ dạy luật
Môsê cho dân một cách chính xác và hướng dẫn cách thực
hành. Matthêu muốn trình bày Đức Giêsu Cứu Thế theo
chiều hướng đó (lời dạy của Chúa được trình bày trong
năm diễn từ), đồng thời mời gọi các cộng đoàn Kitô hữu
dựa trên lời dạy của Chúa mà thay đổi cách ăn nết ở.
Vậy Đức Giêsu đã dạy gì với tư cách là Thầy của Giáo
Hội? Chúng ta thử tìm hiểu vài câu nói điển hình trong lời
dạy của Chúa.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Theo các học giả hiện thời, Matthêu muốn nhắm tới
thái độ của một số Kitô hữu gốc Do-thái có khuynh hướng
phóng khoáng trên bình diện luân lý. Họ đồng hóa lề luật
của Chúa với Do-thái giáo và tuyên bố là lề luật không có
giá trị gì nữa. Matthêu mượn lời Chúa để quở trách các
Kitô hữu xấu, sống không kém gì những người Do-thái
khác: “Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật
hơn Ký lục và Biệt phái, các ngươi sẽ không vào được
Nước Trời” (Mt 5,20).
nghịch, cố định một niên lịch chung cho các ngày lễ,
thăng tiến một nền phụng vụ hội đường, ấn định bộ Kinh
Thánh, cố định thành văn truyền thống của lề luật Do-thái.
Sự thống nhất của Do-thái giáo phục hưng này được củng
cố nhờ các sức ép bên ngoài thúc bách: ngoại giáo, chủ
thuyết duy lý và nhất là Kitô giáo.
Matthêu đã ghi lại rất nhiều lời tố cáo và chê bai “con
cái Nước Trời” (Mt 8,12) và những ai không chịu hiểu
giáo huấn của Đức Giêsu (13,13-15), đặc biệt trong
chương 23, là chương gồm toàn những lời quở trách nhóm
Biệt phái và các thầy thông luật. Chỉ một mình Matthêu
gom góp tất cả những lời quở trách ấy vào một chương
riêng, đang khi Luca ghi lại rải rác, còn Máccô chỉ ghi có
một lời (Mc 12,39-40).
Chúng ta cũng phải lưu ý hai điểm sau đây:
- Matthêu không có chủ ý bút chiến, nhưng muốn giáo
huấn các Kitô hữu. Tại Palestina, nhất là tại các vùng gần
Jamnia, các Kitô hữu gốc Do-thái rất dễ bị lôi cuốn trở lại
với một thứ Do-thái giáo câu nệ về hình thức và khép kín.
- Matthêu không vơ đũa cả nắm khi khiển trách dân
Do-thái. Tuy người nhấn mạnh tới sự xung khắc giữa Đức
Giêsu và nhóm Biệt phái, nhưng cũng như Luca và
Máccô, người nhấn mạnh rất nhiều đến trường hợp những
người nghèo đã tiếp nhận mặc khải, những tội nhân, đĩ
điếm và thu thuế đã lắng nghe Đức Giêsu rao giảng
(11,25; 19,30; 20,16): “Những kẻ rốt hết trở nêm đầu hết”.
Người không bao giờ ngụ ý rằng dân ngoại sẽ thay thế dân
Do-thái; nhưng những kẻ bé mọn, có tinh thần nghèo khó
sẽ trở thành Israel mới và đích thực, một Israel trung tín
với Giao Ước. (x. thêm: Evagiles synoptiques, p.167-168).
116 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Phần III.
TIN MỪNG
THEO THÁNH MÁCCÔ
Chương I.
Để đánh giá nghiêm chỉnh viễn ảnh của một bản văn,
thì cần biết các chiều hướng văn chương. Phân tích một
bản văn như thế lại càng cần thiết, khi tác giả không nói rõ
mục đích của mình.
1. Ngôn từ
a/ Ngôn từ nghèo nàn, độc điệu; những chữ “và”, “lập
tức”, “lại nữa” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần; cũng như
các động từ “làm”, “có”, “có thể”, “muốn” (faire, avoir,
pouvoir, vouloir). Các chỉ dẫn về nơi chốn không có gì
thay đổi; Chúa ban những lời giảng dạy đặc biệt hoặc là
“ở nhà” (7,17; 9,28.33; 10,10) hoặc là ở “ngoài đường”
(8,27; 10,32).
b/ Nét độc đáo của Máccô là thực tế, cụ thể. Máccô
quan sát người và sự vật. Bởi thế có những chữ bình dân
mà Luca tránh: cái chỏng (2,11) làng xã (1,38) già miệng
(14,31). Những danh từ cụ thể rất nhiều: 11 tiếng nói về
nhà cửa; 10 tiếng nói về quần áo; 9 tiếng nói về thức ăn.
c/ Nhiều kiểu nói aram rải rác đây đó, một cách tình cờ
chứ không phải một cách trau chuốt văn vẻ như Luca.
118 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Ông nhớ sao viết vậy, nhưng cũng có cắt nghĩa cho độc
giả: Boanergès (3,17) Talithakoum (5,41) Korban (7,11)
Epphata (7,34) Bartimaios (10,46) Abba (14,36), Eloi,
Eloi lamma sabakhtani (15,34). Những kiểu nói ấy cũng
biểu lộ phần nào óc thực tế của Máccô, có ý ghi lại những
câu nói bằng tiếng aram của Chúa.
2. Cú pháp
a/ Đối với văn phạm Hy-lạp thì kiểu nói Máccô ít trau
chuốt, gần với kiểu nói bình dân và kiểu nói sêmita. Thực
ra lối văn bình dân và lối văn sêmita có cùng một nguồn
gốc chung; đó là lối văn truyền khẩu.
Vài ví dụ kiểu nói bình dân và sêmita:
“một bản viết được viết ra” (15,26)
“khi giảng, Người nói rằng” (4,2)
“hãy truyền cho chúng tôi vào những con heo, để
chúng tôi vào đó” (5,12).
Kiểu nói lặp ấy (tautologie) xem ra hợp với lối văn
sêmita.
b/ Nghệ thuật kể chuyện của Máccô nằm ở chỗ làm nổi
bật một chữ, một câu bằng cách nhắc đi nhắc lại. Trong
bài trình thuật chữa người bất toại, câu nói được nhắc đi
nhắc lại là: Ai có quyền tha tội? (2,5.7.9.10). Cũng vậy,
trong 2,15tt: dùng bữa với người thu thuế; trong
6,31.32.35; 9,11.12; 10,38.39.
c/ Một văn sĩ tài năng cố gắng trình bày sự liên lạc
giữa các câu (syntaxe: sun = với; taxio = trật tự). Trong
văn aram không có liên từ gì cả, ngoài tiếng “vaw” = và.
Tiếng này mang nhiều ý nghĩa, tùy trường hợp.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
ảnh bởi điều mình thấy: ông vừa kể vừa theo dõi, thỉnh
thoảng thêm một lời cắt nghĩa, nhưng lại không đặt đúng
chỗ trên bình diện văn chương.
1,28 “tiếng tăm Người lan ra mọi nơi nghĩa là khắp
vùng lân cận xứ Galilê.”
1,32 “chiều đến, đúng hơn khi mặt trời lặn”.
Kết luận:
Việc nghiên cứu các đặc tính văn chương của Máccô
đưa ta đến một nhận xét quan trọng:
- Máccô không phải là một nhà văn điêu luyện, cũng
không phải là một người kể chuyện có tài. Ông hành động
như một phát ngôn viên trung thành, đơn sơ. Người ta
nhận thấy điều đó qua một số chứng tích: các bài trình
thuật theo một khuôn mẫu, từ ngữ nghèo nàn, có những
đoạn văn đã có sẵn; không phải Máccô đã viết ra, nhưng
đã tiếp nhận từ cộng đoàn.
- Người ta có thể giả thiết: Máccô có hai nguồn sử:
một chứng nhân (Phêrô) và một cộng đoàn. Cả hai đều
có phần tích cực. Kết luận ấy sẽ giúp chúng ta lượng giá
về công việc biên soạn và giá trị lịch sử của quyển Tin
Mừng II.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Chương II.
CÔNG VIỆC SOẠN THẢO
1/ Phêrô
Từ thế kỷ II truyền thống đã coi Phêrô là nguồn của
Máccô. Ngày nay các nhà phê bình cũng nhìn nhận vai trò
quan trọng của Phêrô. Tuy nhiên việc xác định phần nào,
đoạn nào là của Phêrô thì rất tế nhị, vì Phêrô không phải là
nguồn duy nhất, và Máccô cũng không phải là một thư ký
thụ động, nhưng đã làm việc như một tác giả. Theo
Taylor, ta có thể xem các đoạn sau đây là do lời chứng của
Phêrô:
phổ quát và vững chắc của truyền thống. Máccô cũng như -
Matthêu và Luca - là người phục vụ truyền thống.
3/ Phao lô
Máccô cũng có những liên hệ với thánh Phaolô. Có
một vài tương đồng trong ngôn từ với các thư của thánh
Phaolô. Tuy nhiên ảnh hưởng của Phaolô có lẽ là phụ
thuộc. Về phương diện giáo lý và thần học, thì Tin Mừng
của Máccô có tính cách cổ sơ (nhất là về Kitô học), thuộc
vùng ảnh hưởng của lời rao giảng ban đầu hơn là của tư
tưởng thần học của Phaolô (xem thêm X.L.D., l ’Annonce,
p.51-52).
V. DÀN BÀI
Mỗi nhà phê bình đề nghị một dàn bài, một lược đồ
cho Máccô. Người ta chưa nhất trí với nhau về dàn bài của
Máccô. Người xưa khi viết sách, không phân chia thành
chương, đoạn như ta hôm nay. Tuy nhiên, ta có thể ghi
nhận một số điểm sau đây:
1/ Máccô theo một dàn bài có bốn phần:
- Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả, Chúa chịu phép Rửa và
chịu cám dỗ (1,1-13)
- Sứ vụ của Chúa tại Galilê (1,14 - 7,23)
- Sứ vụ ngoài Galilê (7,24 - 9,50)
- Sứ vụ tại Giêrusalem với cuộc khổ nạn (10,13-57),
chết, Phục Sinh (14-16).
Khung cảnh này là một dữ kiện vững vàng của truyền
thống, phát xuất từ lời rao giảng ban đầu của các tông đồ
(Cv 10,36-40). Matthêu và Luca cũng theo một lược đồ
128 Dẫn nhập phê bình vào các sách
. Lời loan báo một và lời dạy: 8,31 - 9,1. Bổ túc: biến
hình và cuộc đối thoại về Êlia (9,11-13); chữa lành
một em bé bị quỉ ám (9,14-29).
. Lời loan báo II trên đường ngang qua Galilê
(9,30.32) và lời dạy về việc phục vụ với vài lời dạy
khác (9,33-50). Một số lời dạy bổ túc về vấn đề li dị,
các trẻ em, của cải, phần thưởng dành cho các môn đệ
(10,1-31).
. Lời loan báo III khi đi lên Giêrusalem (10,32-34) và
lời dạy nhân dịp lời thỉnh nguyện của hai người con
ông Dêbêđê (10,35-45). Bổ túc: người mù ở Giêricô
tung hô Vua Đavít (10,46-52).
+ 11,1 - 13,37: Giêrusalem bị Chúa phê phán.
. Phê phán bằng hành động và bằng lời nói: vào
Giêrusalem, đuổi con buôn khỏi đền thờ, cây vả bị khô
héo, quyền bính của Chúa bị chất vấn, dụ ngôn về
những người thợ vườn nho sẽ thu nhận (11,1 - 12,12).
. Ba cuộc tranh cãi về vấn đề thuế, người chết sống
lại, giới răn thứ nhất. Bổ túc: lời dạy về Đấng Cứu
Thế và Đavít, của dâng của bà góa (12,13-44).
. Tiên báo Đền thờ sẽ bị tàn phá và lời dạy về thời
cùng tận (13,1-37).
+ 14,1 - 16,8: Cuộc Khổ nạn và Phục Sinh.
Kết luận
1. Máccô đã cố gắng đúc kết nhiều truyền thống có
trước. Tác giả đã nối kết nhiều yếu tố lại với nhau, nhưng
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Chương III.
CÁC CHỦ ĐỀ THẦN HỌC
3. Nguồn gốc
a/ Nguồn gốc aram hoặc Hípri: đoạn văn này là bản
dịch Hy-lạp của một đoạn bằng tiếng aram hoặc Hípri. Có
nhiều kiểu nói sêmita trong câu:
- Động từ nằm ở đầu câu; trong Hy-lạp thường nằm ở
cuối.
- Tiếng “en” trong câu thứ tư: trong tiếng Hy-lạp
động từ “pisteuein” thường đi với “datif” hoặc với
“eis” và accusatif.
Ở đây lại có “en”; nó là tiếng dịch của “be” trong Do-
thái; liên từ này thường đi với động từ “aman”.
b/ Chứng tích về lời giảng của Chúa Giêsu hoặc của
các tông đồ: đoạn văn này không phải là một sáng tác văn
chương của Máccô. Một tác giả trước Máccô đã dịch ra từ
tiếng aram hoặc tiêng Hípri.
Bản văn Aram ấy có thể phát xuất từ ba nguồn:
- hoặc là trực tiếp từ Chúa Giêsu
- hoặc là từ cộng đoàn Kitô hữu gốc Hípri ở
Giêrusalem
- hoặc là từ cả hai nguồn trên: trường hợp ở đây có lẽ là
thế.
Bản văn này tóm tắt lời giảng truyền giáo của cộng
đoàn Kitô hữu gốc Hípri ở Giêrusalem trước năm 50, nói
rõ hơn là khoảng 30-45. Tuy nhiên có hai câu phản ánh lời
rao giảng của Chúa Giêsu: câu 2 và 3: “Nước Thiên Chúa
đã gần bên; hãy hối cải”. Chúng ta được biết qua nhiều
trường hợp khác trong Tin Mừng của Máccô là cộng đoàn
134 Dẫn nhập phê bình vào các sách
khi rao giảng thì nhắc lại lời giảng của Chúa, đồng thời
cắt nghĩa thêm.
4. Phân tích nội dung
Người ta nhận thấy hai đối tượng trong lời giảng của
Chúa Giêsu:
a/ Niềm tin vào thời cánh chung: đối tượng đầu tiên
của lời giảng là một niềm tin liên hệ tới sự kiện cánh
chung (hai câu của vế đầu):
“Thời buổi đã mãn” thời cánh chung đã tới đó.
- Pêplêrotai: động từ (Plêrôô) ở thì “parfait” diễn tả
hậu quả trong hiện tại của một hành động trong quá khứ.
Thời buổi đã mãn (impletum est tempus) nay chúng ta
đang sống trong thời cánh chung.
- Kairos 6 (đừng lẫn với chronos): đây là thời giờ mà
Thiên Chúa đã ấn điịnh để thực hiện lời hứa, thời buổi cứu
rỗi, thời thuận tiện.
- Basileia tou Theou: thời cánh chung sẽ được đánh
dấu bằng một trật tự tôn giáo mới: Nước Thiên Chúa.
Thiên Chúa sẽ hiện diện và biểu lộ luật của Người, ý
muốn của Người, Thánh Khí và sức mạnh cứu độ, nói tóm
lại Người sẽ sai Đấng Cứu Độ đến.
- Eggiken: do động từ eggizô (eggus = proche) ở thì
“parfait”; động tác tiến lại gần đã qua rồi, nay chúng ta
được ở gần (TOB: Le Refgne s’est approche; litt. est
devenu proche).
b/ Hệ luận trên bình diện luân lý và tôn giáo
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Đối tượng thứ hai (hai câu sau) là bổn phận của con
người trên bình diện luân lý và tôn giáo: hãy hối cải và tin
vào Tin Mừng.
- Matanoeite: hãy hối cải, nghĩa là trở về với Thiên
Chúa. Tất nhiên điều đó đòi hỏi thay đổi cuộc sống, nhưng
nhất là đức tin 7. Trong Hy-lạp, tiếng metanoia chỉ có
nghĩa là thay đổi cách suy nghĩ.
Hối cải là động tác tôn giáo thường được nói tới trong
Kinh Thánh: con người nhìn nhận mình là tội lỗi, ước ao
được giải thoát khỏi tội lỗi, nhưng lại biết mình yếu đuối,
nghèo khó, không có khả năng tự cứu lấy mình. Bởi thế
con người hướng về Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu rỗi
từ nơi Người 8 (Xem thêm TOB. p.133/2).
1. Kiểu nói
Cũng như những người Do-thái, Chúa dùng tiếng
“Nước Trời” (basileia tôn Ouranôn: kiểu dịch Hy-lạp của
tiếng aram: malkuth hashammayim). Người Do-thái tránh
gọi tên Thiên Chúa, vì kính trọng; thế vào đó họ dùng từ
“Trời”, hoặc là “Đấng Toàn Năng”(Mc 14, 62).
Khi viết cho người Do-thái, Matthêu vẫn giữ kiểu nói
nguyên ngữ; các tác giả viết cho người Hy-lạp thì dùng
kiểu nói “Nước Thiên Chúa” (Gioan và Máccô). Nhưng
hai kiểu nói đồng nghĩa.
2. Cách dùng kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong
Tin Mừng của Máccô
136 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Ý thứ nhất quan trọng hơn, cơ bản hơn. Đối với người
Do-thái, không thể có vương quốc nếu không có vương
quyền; bởi thế chỉ có một từ mang cả hai ý nghĩa (cf TOB,
p.47 note g).
4. Các chiều kích của Nước Thiên Chúa
a/ Nước Thiên Chúa được Máccô trình bày như một
thực tại tương lai; đó là việc Thiên Chua thiết lập vương
quyền bằng một cuộc chiến thắng vẻ vang. Máccô nhấn
mạnh tới sự kiện là Nước Thiên Chúa gần kề (1,15; 9,1;
12,34) và khai triển bài diễn từ về ngày cánh chung (13).
b/ Tuy nhiên chiều kích tương lai ấy không thể tách
biệt khỏi chiều kích hiện tại như thể có hai giai đoạn. Phải
nói là Nước Trời đã hiện diện đó và đang tiến về sự viên
mãn; đó là ý nghĩa của dụ ngôn người gieo giống (4,3-20),
hạt giống tự mọc lên (4,26-29), hạt cải (4,30-32).
c/ Sự hiện diện của Nước Trời nối liền với sự hiện diện
của Đức Giêsu. Người ta có thể nói tới “autobasileia” -
Nước Trời chính là Người, (lưu ý kiểu nói: “Vì Nước Trời
và vì Ta” 8.35; Mt 10,39).
Thiên Chúa mạc khải mình nơi Đức Giêsu một cách
phi thường và dứt khoát. Thánh Khí ngự trong Người,
hướng dẫn Người đổ tràn sức mạnh nơi Người. Bởi thế
Người dạy dỗ một cách uy quyền, làm phép lạ xua đuổi
ma quỉ. Người có quyền tha tội như Thiên Chúa và Người
làm chủ ngày Sabát.
Người ta phải đón nhận Người và sứ điệp của Người
thì mới có thể vào Nước Trời với Người.
138 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Đối với Máccô những lời nói và việc làm của Đức
Giêsu là khởi đầu của Tin Mừng, của kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên này đang hướng về trạng thái toàn vẹn của Nước
Trời.
của Đấng Cứu Thế làm trung tâm cuộc khải hoàn dứt
khoát của Thiên Chúa.
Cứu thế luận và cánh chung luận của Máccô được
đánh dấu:
- bởi thì hiện tại và tương lai nối kết nhau chặt chẽ,
- sự hiện diện của các yếu tố trần thế và thiên giới.
Tất cả sẽ được ổn đinh sau cuộc chiến thắng của Đức
Giêsu.
B. MẦU NHIỆM ĐỨC KITÔ
1. Các giai đoạn mạc khải
Theo Máccô, Đức Giêsu mạc khải bản thân mình trong
hai giai đoạn: một giai đoạn bí nhiệm và một giai đoạn rõ
ràng (4,21-22) 9 . Bởi thế, đừng giản lược các dữ kiện vào
một vấn đề mà người ta thường gọi là: “bí nhiệm Đấng
Mêsia”. Quả nhiên có một sự bí nhiệm mà Đức Giêsu cố
tình gìn giữ, nhưng bí nhiệm ấy được cởi mở trước khi
Đức Giêsu kết thúc cuộc đời công khai, nói rõ hơn là từ
khi Phêrô tuyên tín.
a- Các dữ kiện
Trong giai đoạn đầu, Đức Giêsu không muốn để lộ cái
vinh quang phát xuất từ bản thân Người qua các phép lạ.
Bởi thế, dẫu cho Người làm phép lạ công khai, nhưng
Người truyền phải im lặng cho ma quỉ (1,34; 3,12), cho
những người được chữa lành (1,44; 5,43; 7,35; 8,26), cho
cả các môn đệ (8,30). Sự kiện này là nét độc đáo của
Máccô 10 . Phải nói thêm lệnh ấy thường không được tuân
giữ.
140 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Từ khi Phêrô tuyên tín, Đức Giêsu cho xuất hiện mầu
nhiệm bản thân mình. Trước hết Người giới hạn bí nhiệm
vào thời gian tiền-phục-sinh (9,9). Sau đó Người sẽ cho
người ta tung hô Người là Con vua Đavít (10,47-52; 11,9;
12,12) và Người nói trắng ra về Đấng Mêsia (9,41; 12,35-
37; 13,21; 14,11-62; 15,2.9.32). Đa số các đoạn này đều
do ngòi bút của Máccô; chúng biểu lộ quan điểm độc đáo
của ông.
b- Giải thích các dữ kiện
Các dữ kiện này đã được cắt nghĩa theo nhiều cách.
Nhiều nhà phê bình cực đoan (Wrede 1859-1906;
Dibelius), vì đã không thấy khía cạnh thứ hai trong thần
học của Máccô, nên đã cho rằng “cái bí nhiệm về Đấng
Mêsia” là một sáng chế của Giáo Hội tiên khởi. Đức
Giêsu không bao giờ tự cho mình là Mêsia cả. Để che đậy
thực trạng đó và để biện minh cho việc tôn thờ Đức Giêsu
là Cứu Thế và là Chúa, cộng đoàn tiên khởi đã đặt ra lời
giải thích: Đức Giêsu đã ra lệnh im lặng để che dấu căn
tính của mình.
Theo kiểu giải thích cổ truyền thì Đức Giêsu đã dùng
một lối “sư phạm”: để tránh cho người Do-thái khỏi quan
niệm Đấng Cứu Thế một cách vật chất, thì Đức Giêsu đã
không muốn nói thẳng ra thiên tính của mình. Lệnh im
lặng có mục đích chuẩn bị các tâm hồn đón nhận sự mạc
khải về Đấng Cứu Thế đau khổ và vinh quang.
Có một phần đúng trong cách cắt nghĩa trên, nhưng
chưa diễn tả nền tảng: thực ra đây không phải chỉ là một
nghệ thuật giáo dục, một “thứ chiến lược” của Đức Giêsu,
nhưng là một điều kiện mạc khải. Đức Giêsu không thể
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
c- Con Người
+ Nguồn gốc
- Edêkiel: có dùng kiểu nói “Con Người” (vào thế kỷ
-6) để chỉ một nhân vật giống hình người; tuy nhiên kiểu
nói này chưa ám chỉ Đấng Cứu Thế.
- Đaniel (thế kỷ -2) 7,13-14: đây là một trong những
cội rễ của Kitô học. Hoạt cảnh này xảy ra trên trời. Đấng
cao niên trao cho một Con Người quyền bính, vinh dự,
vương triều.
- Sách Hênốc, mạo thư: phần dụ ngôn của sách Hênốc
có dùng kiểu nói “Con Người”. Nhưng các nhà chú giải
chưa nhất trí với nhau về thời gian mà sách được viết: nó
được viết trước năm 70? Hay đầu thế kỷ 2?
+ Cách dùng
Trong Phúc Âm, ta gặp rất nhiều lần tước hiệu này và
luôn luôn trên môi miệng của Chúa Giêsu. Kiểu nói này
xem ra kỳ lạ, và có lẽ chính Chúa Giêsu đặt ra để đánh
dấu tầm quan trọng. Trong tiếng Do-thái, người ta thường
dùng ở số nhiều để chỉ “con cái loài người” (Mc 3,28; Ep
3,5), ở đây ta có “ben adam” (aram: bar enach), tiếng Hy-
lạp đáng lẽ phải dịch là “huios anthropou”; thế mà trong
Phúc Âm luôn luôn được dịch là “ho huios tou
anthropou” (le fils de I’homme): các tác giả Phúc Âm đã
không dịch sát vì kiểu nói quá lạ lùng.
- Trong Máccô, kiểu nói này được dùng mười bốn lần:
hai lần có liên hệ tới thời Đức Giêsu đi rao giảng: Con
Người có quyền tha tội (2,10), Con Người là chủ ngày
144 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương IV.
TÁC GIẢ. ĐÔC GIẢ. NIÊN HIỆU
I. TÁC GIẢ
Origênê (+254). Ngày nay các nhà chuyên môn không còn
nghi ngờ về điểm này nữa.
2. Theo các sách Tân Ước
Máccô tác giả quyển Tin Mừng thứ hai và Máccô được
nhắc tới trong 1Pr 5,13 cũng là một. Không một lý do
chính đáng nào làm ta ngờ rằng Máccô nói ở đây không
phải là một Kitô hữu Do-thái tên là Gioan-Máccô, người
thành Giêrusalem, đã được nhắc đến nhiều lần trong Tân
Ước.
Theo Cl 4,10 thì Máccô là cháu của Banaba
(consobrinus). Mẹ ông là Maria, có một ngôi nhà ở
Giêrusalem, nơi gặp gỡ của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai.
Sau khi ra khỏi ngục, Phêrô đã đến nhà đó (Cv 12,12).
Khoảng năm 42 (Cv 12,25) Máccô là bạn đồng hành
của Phaolô và Banaba đến Antiokia. Khoảng năm 44-45:
Máccô theo Phaolô và Banaba đến Kyprô (Cv 13,5),
nhưng khi Phaolô và Banaba lên tàu đi Pamphylia, thì
Máccô trở về Giêrusalem (Cv 13,13). Vì thế Phaolô từ
chối không cho Máccô cùng đi trong cuộc hành trình truyền
giáo 2, điều đó làm cho Phaolô và Banaba bất đồng ý kiến.
Vì lý do đó mà Banaba từ biệt Phaolô để cùng đi với Máccô
đến đảo Kiprô, vào khoảng năm 50 (Cv 15,36-40). Vào
khoảng năm 62, ta lại thấy Máccô ở bên Phaolô khi người
bị giam ở Rôma, và Phaolô đã ủy thác cho Máccô một sứ
mạng quan trọng ở Tiểu-Á (Cl 4,10; Phm 24). Khoảng
năm 67 (2Tm 4,11) Phaolô muốn có Máccô ở Rôma trong
khi bị tù đày lần thứ hai 12.
Sau khi Phêrô và Phaolô chết rồi, không ai biết rõ về
hoạt đông của Máccô nữa. Lời thánh Giêrôm kể “Máccô
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Phụ trương:
Trong Giáo Hội, đoạn kết này được công nhận là lời
của Sách Thánh. Nhưng xét về phương diện văn chương,
thì người ta vẫn có thể đặt vấn đề xuất xứ của nó, nó có
trong nguyên bản không, hay là đã được thêm vào sau?
1. Truyền thống các bản sao không thống nhất
- Một số các bản sao không có đoạn kết này, trong đó
có hai bản cũ nhất là Vaticanus và Sinaitucus. Vài người
chép còn ghi thêm là Phúc Âm được kết thúc sau câu 8.
- Có bản sao mang một đoạn kết ngắn hơn: “Và tất cả
mọi điều đã được truyền dạy, các bà đã thuật lại vắn tắt
cho các bạn của Phêrô. Và kế đó Chúa Giêsu hiện ra với
họ và truyền cho các ông rao giảng từ đông sang tây sứ
điệp thánh thiện bền vững về ơn cứu độ đời đời”.
2. Nhiều dấu hiệu chứng tỏ đoạn này đã được
thêm vào sau
- Ngữ vựng và giọng văn khác với phần trước của
Phúc Âm.
- Đoạn kết này làm gián đoạn tư tưởng, vì không kể
lại việc Chúa hiện ra ở Galilê như đã báo trước ở 16,7 -
Thay vì tiếp tục kể chuyện thì đoạn này lại cho một thống
152 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Phần IV.
TIN MỪNG
Chương I.
TÌM HIỂU LỜI TỰA
(Lc 1,1-4)
Trong Tân Ước đây là lời tựa duy nhất có tính cách
văn học, khác với các lời tựa mà ta đọc trước một số bút
tích: Gióp, 1 Gioan và Hípri. Các lời tựa này có tính cách
thần học. Người ta có thể nghĩ tới lời tựa của sách Công
vụ, nhưng có lẽ đây chỉ là một lời nhắc lại của cùng một
tác giả.
Trong Cựu Ước, ta chỉ gặp một trường hợp có thể so
sánh với Luca: đó là lời tựa trước sách Huấn ca 13; tuy
nhiên, lời tựa của Luca văn vẻ hơn. Nó có mục đích trình
diện tác phẩm, chủ ý và phương pháp làm việc.
mờ: viết một bài trình thuật có mạch lạc hay là trình bày
các sự kiện theo thứ tự của chúng. Thực ra một sử gia thời
xưa, không theo những tiêu chuẩn như một sử gia ngày
nay: một bài trình thuật có liên tục không nhất thiết là phải
theo thứ tự thời gian. Quả vậy, ta nhận thấy trong quyển
Tin Mừng này, tác giả nhắm cái thứ tự văn học và giáo
huấn hơn là thứ tự thời gian (TOB, dịch: récit ordonné).
IV. VÀI LƯU Ý KHÁC
1. Quyển Tin Mừng III và sách Công vụ tông đồ:
truyền thống xem sách Công vụ tông đồ như tác phẩm của
Luca nối tiếp quyển Tin Mừng. Quả thực, có một mối liên
lạc chặt chẽ giữa hai tập sách. Trong trường hợp đó, người
ta có thể nghĩ rằng lời tựa trước quyển Tin Mừng nhắm tới
cả hai tác phẩm, chứ không riêng quyển Tin Mừng III.
2. Sách được đề tặng cho Theophilô. Ông là một dự
tòng hay một tân tòng? Tước hiệu “kratiste” (exellent, très
honorable) chỉ ông thuộc giới thượng lưu. Theo tập tục thời
đó, một cuốn sách được đề tặng cho ai thì người đó có chủ
quyền về cuốn sách và nhận trách nhiệm xuất bản: vậy
Theophilô không phải chỉ là người nhận mà thôi, mà còn là
người phổ biến. Tác phẩm của Luca không nhắm phục vụ
một cộng đoàn như Matthêu và Máccô, nhưng nhắm tới một
giới độc giả rộng rãi. Công việc phân tích nội dung sẽ cho
ta thấy Luca nhắm tới các Kitô hữu gốc ngoại giáo.
Người ta còn có thể tự hỏi: trong hình thức nguyên
thủy lời tựa có mang tên tác giả không? Theo luật viết văn
ngày xưa, thì lời tựa thường mang tên tác giả và người
được tặng. Ở đây có tên người được tặng. Tại sao lại
không có tên tác giả?
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Chương II.
CÁC CHỦ ĐỀ THẦN HỌC
Có thể nói một cách tổng quát: đối với Luca mầu
nhiệm Vượt qua là trung tâm, Thánh Khí là tác giả và
cộng đoàn phổ quát các tín hữu là đối tượng.
I. MẦU NHIỆM VƯỢT QUA
1. Những lời tiên báo về cuộc khổ nạn và Phục
Sinh
Những lời tiên báo về cuộc Khổ nạn và Phục Sinh nằm
trong gia sản chung của truyền thống Tin Mừng: ba lời
tiên tri đánh dấu cuộc hành trình lên Giêrusalem (Mt
16,21 và song song; 17,22 và song song; 20,18 và song
song).
Trong Luca, lời tiên báo thứ hai được làm nổi bật bằng
một lưu ý: “phần các ngươi, thì hãy ghi kỹ vào tai các lời
này” (Lc 9,44). Lời tiên báo thứ 3 được nối kết với một
chứng cớ Kinh Thánh (Lc 18,31), và chỉ một mình Luca
thêm: “Nhưng họ không hiểu chút gì về các sự ấy, điều đó
bị bưng kín lại đối với họ và họ chẳng hiểu gì cả các điều
nói đó” (Lc 18,34): ông nhấn mạnh về điều ông ghi với
Máccô trong lời tiên báo thứ hai (9,45), trong lúc Matthêu
chỉ nói tới trong lần thứ nhất và riêng cho Phêrô.
160 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Sau các biến cố, những lời tiên báo ấy được Thiên
Thần nhắc lại cho các bà (Lc 24,7), và được Đức Giêsu
Phục Sinh nhắc lại cho hai môn đệ trên đường đi Emmau
(24,25tt) và cho các tông đồ trong phòng họp (24,45tt).
Hơn nữa, đối với Luca, Đức Giêsu chờ đợi “phép
thanh tẩy”, tức là cuộc khổ nạn, tiên báo là mọi tiên tri đều
phải chết tại Giêrusalem (13,33) và Con Người phải chịu
nhiều đau khổ và bị phế thải trước khi xuất hiện như một tia
chớp (17,24tt). Một nét độc đáo của Luca: chính trong
cuộc biến hình mà Đức Giêsu đã nói về cuộc ra đi của
Người tại Giêrusalem (9,31), chứ không phải là sau đó
(Mt 17,12 = Mc 9,12).
Luca không loại bỏ thần học về thập giá, nhưng ông
nhấn mạnh rằng ơn cứu độ được mang tới nhờ cuộc Phục
Sinh vinh hiển của Đức Giêsu, chứ không phải chỉ nhờ
của lễ đền tội của Người (Augustin George).
2. Những chỉ dẫn khác
- Cuộc hành trình lên Giêrusalem cũng được Matthêu
nhắc tới (Mt 20,17 và song song), nhưng Luca đã trình
bày một cách qui mô.
- Một số ghi chú khác của riêng Luca trong bài trình
thuật về thời thơ ấu (Đức Giêsu “dấu hiệu cho người ta
chống đối”: 2,34; Đức Giêsu được tìm lại “sau ba ngày”:
2,46); cũng như trong buổi thuyết giảng tại Nagiarét
(4,16-30) mà Luca có ý đặt ở đầu cuộc đời công khai: là
dấu hiệu của sự chống đối, Người được thán phục (4,29),
rồi lại bị ghét bỏ (4,28), nhưng Người cứ đi con đường
của Người (4,30; x. thêm Ga 7,30; 8,20), và như thế đã
biểu lộ cuộc khải hoàn trên sự chết.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
(2,38), người bất toại được chữa lành (5,25), mọi người
khi thấy dấu lạ (5,28; 7,16)… Sau hết các môn đệ khi thấy
Chúa đã lên trời (24,53). Âm vang của lời ca ngợi còn
vọng lại từ cộng đoàn tiên khởi (Cv 2,47; 3,8tt; 4,21;
11,18; 13,48; 21,20).
Luca cắt nghĩa những câu nói của Chúa liên hệ đến các
phong tục Do-thái hay mang quá nặng màu sắc địa
phương. Trong lúc Matthêu kể “bạc hà, thì là, rau húng”
(Mt 23,23), Luca thêm “rau cỏ mọi thứ” (Lc 11,42). Cũng
vậy: “Cây vả và tất cả các cây khác” (21,29 so với Mc
13,28). Theo chiều hướng làm sáng tỏ, Luca bỏ qua nhiều
chi tiết, ví dụ việc Chúa không giảng dạy như các kinh sư
(Mc 1,22).
Chương III.
CÁC NGUỒN SỬ
I. MÁCCÔ
Luca lấy lại hầu hết các phân đoạn (péricopes) trong
Máccô, giữ đúng nội dung, theo đúng thứ tự. Tin Mừng
của Máccô được chia ra làm bốn khối:
Lc 4,31 - 6,11 : Mc 1,21 - 3,6
8,4 - 9,50 : 4,1-25
: 4,35 - 6,44
: 8,27 - 9,40
18,15-43 : 10,13-52
19,29 - 22,13 : 11,1 - 14,16
(Các nguồn sử khác được dùng vào trong 5 khối: Lc
1,5 - 4,30; 6,20 - 8,3; 9,51 - 18,14; 19,1-28; 22-24. Các
nguồn sử này có lẽ đều xuất phát từ Palestina).
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
ta hiểu rằng tri thức của Chúa Giêsu có giới hạn (Mc
13,32; 15,34). Cũng một tâm tình tôn kính như thế đối với
các tông đồ đã thúc đẩy Luca bỏ một số chi tiết: (Mc 4,13-
18; 5,31; 9,10.28.29.33.34; 10,34-35; 14,50); hoặc những
chi tiết địa dư không phù hợp với tư tưởng thần học của
ông. (Cf. W. Harrington, Nouv, Intr. p.741-742).
b- Bỏ đi một số phân đoạn của Máccô:
- Mc 4,26-29: hạt giống tự mọc.
- Mc 6,45 - 8,26: Chúa Giêsu đi trên nước (6,45-52),
chữa bệnh ở Genesaret (6,53-56), tranh luận về các tập tục
của Biệt phái (7,1-13), lời dạy về những gì trong sạch và
không trong sạch (7,14-23), chữa con gái của một phụ nữ
xứ Syrophênikêa (7,24-30), chữa người điếc và câm (7,31-
37), phép lạ II hóa bánh ra nhiều (8,1-10), Biệt phái xin
dấu lạ trên trời (8,11-13), men của những người Biệt phái,
Sadukêô và Hêrôđê (8,14-21), chữa người mù ở Betsaiđa (
8,22-26).
(phép lạ hóa bánh ra nhiều lần II: 8,1-10; việc xức dầu ở
Bêtania vì tương tự với việc một người đàn bà xức dầu
thơm cho Chúa tại nhà ông Simon).
Điều khó hiểu là có những đoạn mà chính Matthêu
cũng thu vắn lại hoặc bỏ đi như Luca.Ví dụ:
- Mc 9,14-29: bài trình thuật về phép lạ chữa đứa bé
bị kinh phong rất dài trong Máccô, Matthêu 17,14-21 và
Luca 9,37-43 hòa đồng với nhau và bỏ cùng một số câu:
14a.16.20.21.22.23.24.25a.25c.26a.26c.
- Mc 1,43: trong bài trình thuật về việc chữa lành
người phung, Máccô có nói tới một thái độ của Đức Giêsu
(“Rồi Người làm gắt và xua người ấy đi”) mà Matthêu
(8,3), và Luca (5,12-16) không nói tới.
- Mc 3,5: trong bài trình thuật về phép lạ chữa người
bại tay, Máccô nói tới cái nhìn thịnh nộ và buồn phiền của
Chúa, còn Matthêu 12,9-14 và Luca 6,6-11 không nói tới.
Tại sao có sự hòa đồng giữa Matthêu và Luca trong
việc thu vắn Máccô như vậy?
Cha P.Benoit đưa ra giả thuyết: Matthêu và Luca đã
dùng Máccô theo một bản văn đã viết trước; bản này ngắn
hơn bản viết sau. Nói cách khác: có hai đợt trong việc
soạn thảo Tin Mừng của Máccô: ở đợt thứ hai Máccô
thêm vào một số chi tiết không có trong đợt đầu.
2. Thêm thắt và sửa chữa
Luca cũng đã sửa chữa hoặc thêm thắt nhiều chi tiết vì
lý do sáng sủa, hoặc vì lý do văn học hay vì lý do thần
học. Ví dụ Lc 21,20.24; 22,45.47.48.51.
176 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Các cuộn sách này thuộc một cộng đoàn ngộ đạo, được
viết bằng tiếng copte (hình thái cuối cùng của tiếng Ai-
cập) từ cuối thế kỷ thứ III tới giữa thế kỷ V. Trong số đó
có cuốn Tin Mừng theo Tôma, gồm toàn những logia của
Chúa: một số logia đã được cắt nghĩa theo chiều hướng
ngộ đạo, còn phần nhiều thì được giữ nguyên như thế.
75% các logia này đều có trong Matthêu và Luca, nhưng
theo một thứ tự khác. Đa số các chuyên gia nghĩ rằng: Tin
Mừng theo Tôma, dưới hình thức hiện thời, đã được viết
trong thế kỷ thứ II (R. Kasser, l’Ev, selon Thomas, p.14).
Tác phẩm này cho ta thấy là trong thế kỷ thứ II có một
sưu tập logia, có liên hệ đến nguồn logia mà Matthêu và
Luca đã sử dụng.
Dựa trên các chứng lý ấy, khoa phê bình hiện thời nhìn
nhận là Matthêu và Luca đã sử dụng một nguồn chung mà
Máccô không biết tới: nguồn ấy (tiếng Đức: Quelle) gồm
các lời nói và dụ ngôn của Chúa.
2. Bản chất của nguồn logia
a- Vấn đề
Đặc tính văn chương của nguồn logia như thế nào? Từ
lâu, người ta nhìn nhận là ngoài các câu nói, nguồn logia
còn có một ít trình thuật. Vấn đề nằm ở chỗ nguồn logia là
truyền khẩu hay là đã được biên chép khi Matthêu và
Luca sử dụng? Vấn đề được đặt ra vì có sự bất đồng giữa
các logia có chung trong Matthêu và Luca. Thực vậy, nếu
đem đối chiếu với nhau, người ta thấy có hai loại logia.
- Những logia có cùng một nội dung và một kiểu nói
cả trong Matthêu và Luca. Ví dụ: Lc 10,21-22 và Mt
178 Dẫn nhập phê bình vào các sách
. Lời dẫn nhập của Luca nói tới những nguồn được biên
chép.
. Quyển Tin Mừng theo Tôma cho thấy là người ta đã
sưu tầm và cho chép các logia rất sớm.
Vào thế kỷ 19, người ta cũng đã tìm thấy ở
Oxyrhinque (Ai-Cập) ba tấm giấy lác bằng tiếng Hy-lạp
ghi chép một số logia. Các logia này thường được bắt đầu
bằng câu: “Đức Giêsu đã nói”. So sánh với Tin Mừng
Tôma, thì người ta thấy cả hai bên đều cùng ghi một số
logia, và thường là có một thứ tự như nhau. Người ta tự
hỏi: các tấm giấy lác này phải chăng là chứng tích của một
sưu tập các logia trong giai đoạn nguyên thủy (bằng tiếng
Hy-lạp), còn Tin Mừng theo Tôma là chứng tích của giai
đoạn II? Dẫu sao sự khác biệt giữa một nguồn logia được
ghi chép (nếu nó có) nơi Matthêu và Luca - Tin Mừng
theo Tôma và các tấm giấy lác ở Oxyrhique - cũng không
lớn lắm.
Khoa phê bình hiện thời nhìn nhận là có một truyền
thống (truyền thống thì bằng miệng: tradition) hoặc một
nguồn (nguồn thì bằng văn viết: source) các logia. Các
logia ấy có một giá trị lịch sử đáng chú ý: thực vậy, một
số các logia phản ánh hoàn cảnh lịch sử của Chúa Giêsu
và các môn đệ trước cuộc khổ nạn (Schurmann).
Dẫu chọn giả thuyết này hay giả thuyết kia, thì ta cũng
đừng có một quan niệm quá đơn giản, quá cứng nhắc.
Những người theo giả thuyết “nguồn viết” thì cũng chấp
nhận có nhiều bản văn, vì thế cắt nghĩa được sự khác biệt
giữa Matthêu và Luca. Những người theo giả thuyết
180 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Tẩy Giả, lời chứng của Chúa Giêsu, lời Chúa phê
phán về thời đại của Người.
(5) Lc 9,57 - 10,24: khối nhỏ này gồm có nhiều chủ đề:
những đòi hỏi của ơn gọi làm tông đồ, sứ mạng 72
môn đệ, mặc khải cho những kẻ bé mọn. Các yếu tố ấy
được thu góp trước Luca. Matthêu thì lại phân tán ra
ở nhiều nơi: Mt 8,18-22; 9,37-38; 10,9-16; 11,21-24;
10,40; 8,29; 11,25-27; 13,16-17.
(6) Lc 11,1-13: lời kinh Chúa dạy. Sau Kinh Lạy Cha còn
có hai đoạn vắn: về người bạn xin bánh và sự hiệu
nghiệm của lời cầu xin. Việc thu góp này cũng đã
được thực hiện trước Luca; Luca chỉ ghi chép lại.
Nguồn logia không nối kết lời dạy về Kinh Lạy Cha
với bài giảng trên núi; Matthêu thì làm như thế.
Lưu ý là trong Tân Ước có hai Kinh Lạy Cha, một bản
nữa trong quyển Didachè và một bản thứ IV trên giấy lác:
bản sau hết này là lời kinh thường đọc trong Giáo Hội, đi
sát với bản văn của Matthêu. Bản văn của Luca ngắn hơn,
ghi chép nguồn sử một cách trung tín hơn Matthêu, mặc
dù tác giả có sửa đổi đôi chỗ cho hợp với độc giả Hy-lạp.
(7) Lc 11,14-52: Đức Giêsu với Beelzêbul, dấu chỉ của
Giona, sự thanh sạch của Biệt phái. Đây là một cuộc
tranh luận nhân dịp một phép lạ. Luca đã ghi lại
nguyên vẹn, theo trật tự nguyên thủy; Matthêu đã
phân tán ra nhiều nơi: 12,22-29; 8,11; 8,29; 4,17.30;
12,38-42; 5,15; 6,22-23; 15,2; 23,4.31.
(8) Lc 12,1-12.24-26: hãy dạn dĩ tuyên xưng Danh Chúa,
tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng, bán của cải và
182 Dẫn nhập phê bình vào các sách
bố thí, sẵn sàng chờ chủ trở về. Ở đây cũng thế, Luca
đã giữ nguyên cả khối, còn Matthêu phân tán nhiều
nơi.
(9) Lc 12,51.53.58.59; 13,18-30: Đức Giêsu là nguyên
nhân của sự chia rẽ, làm hòa trước khi bị xét xử, các
dụ ngôn về hạt cải và men trong bột, ai được vào
Nước Trời. Matthêu đã phân tán.
(10) Lc 17,2-6: về gương xấu và sức mạnh của đức tin.
(Mt 18,5-7, 18,15.21.22; 8,10; 17,20; 21,22).
(11) Lc 17,22-37: ngày của Con Người. Ở đây Matthêu
cũng giữ cả khối nguyên vẹn như Luca.
kia, ít khi cùng bỏ một điểm; hoặc là thêm vào một yếu tố
cho nguồn logia.
Matthêu còn có khuynh hướng đơn giản hóa; ta biết
được là nhờ so sánh các bản văn nhất lãm, các bản văn
của Gioan, của Phaolô. Ví dụ: Kinh Lạy Cha bắt đầu bằng
tiếng “Abba”(Gl 4,6), nhưng Matthêu bỏ rơi tiếng ấy. Có
thể nói 75% các logia đều bị Matthêu cắt xén: chúng
nguyên vẹn hơn trong Luca. Tuy nhiên, trong 25% các
logia thì ngược lại. Vấn đề quan trọng khi người ta muốn
tìm kiếm các “ipsissima verba” của Chúa.
b- Cách thức của Luca
Trong 25% các trường hợp, thì Luca tỏ ra không gần
với nguồn sử bằng Matthêu. Lý do là Luca đã Hy-lạp hóa
cách diễn đạt Tin Mừng, vì phải trình bày Tin Mừng cho
dân ngoại trong thế giới Hy-lạp, nên Luca phải sửa đổi
cách dùng chữ, bỏ đi những nét quá đặc biệt của người
Palestina, quảng giải những logia khó hiểu đối với các
người Hy-lạp. Ví dụ: so sánh Mt 5,38-42 và Lc 6,27-31 về
luật “mắt đền mắt, răng đền răng”. Luca bỏ đi chi tiết về
quan tòa và việc đi một dặm. Tại Hy-lạp, trong đời sống
hàng ngày ít có việc kiện tụng trước quan tòa; đàng khác,
người Hy-lạp cũng không biết việc người Do-thái không
được phép đi quá một dặm ngày Sa-bát (theo Mishna).
So sánh Kinh Lạy Cha trong Mt 6,9-13 và Lc 11,2-4:
bản văn của Luca ngắn hơn, gần với nguyên bản hơn
Matthêu; nhưng trong cách dùng từ thì Luca đã phải thích
ứng với kiểu nói Hy-lạp: xin tha tội chúng tôi (Matthêu và
các kinh Do-thái nói là “nợ”) (xem Jéremias: paroles de
Jesus, coll.Foi vivante, p.74-80).
184 Dẫn nhập phê bình vào các sách
trong đó Thiên Chúa can thiệp trực tiếp chứ không qua
trung gian một Đấng Kitô 15. Bởi thế, người ta nghĩ rằng
văn hệ này đã được viết ra trước Luca, trong giới tư tế mộ
đạo (sacerdoce piétiste), tức là giới tư tế ở thôn quê thân
cận với Dacaria. Dẫu sao, tác giả của bài trình thuật truyền
tin cho Dacaria tỏ ra rất am tường về nghi lễ trong đền thờ
(Lc 1,8-10).
- Văn hệ Đức Giêsu: gồm các bài trình thuật về
Truyền tin (1,26-38), Đức Mẹ đi thăm viếng (1,39-56),
Chúa giáng sinh (2,1-21), dâng Chúa vào đền thờ (2,22-
39), tuổi trẻ của Chúa (2,40-52). Người ta nghĩ rằng Luca
đã tự tay viết nên văn hệ này: hệ này song song và tương
phản với hệ kia, vì Đức Giêsu siêu vượt Gioan Tẩy Giả.
Khi viết những trình thuật này, Luca đã dựa trên những
kiến thức mà ông thu thập được từ những người trong gia
tộc của Đức Giêsu.
- Các bài Thánh ca (Magnificat, Benedictus và Nunc
dimittis): đây là những bài thánh ca Do-thái tiền Kitô hữu;
Luca đã đặt vào đây, trong mạch ý hiện thời.
Như vậy, trong phần Tin Mừng về thời thơ ấu, Luca đã
dùng nhiều nguồn, chứ không phải chỉ một nguồn.
b. Thời gian chuẩn bị cho sứ vụ của Đức Giêsu (3-4)
Trình thuật của Luca trong phần này gồm có nhiều yếu
tố của nguồn Logia: kêu gọi hoán cải (3,7-9), lời chứng
của Gioan Tẩy Giả về phép Rửa bằng nước và phép Rửa
bởi Thánh Thần (3,15-18), và trình thuật về chước cám dỗ
(4,1-13). Ở đây Luca tương hợp với Matthêu (Luca chỉ
trao đổi thứ tự các chước cám dỗ).
186 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương IV.
CHỦ ĐÍCH CỦA LUCA
- Giai đoạn lời hứa: không hoàn toàn tương ứng với
Cựu Ước như ta thường nghĩ.
- Giai đoạn thực hiện: thời gian của Đức Giêsu: quyển
Tin Mừng và quyển Công vụ thường trình bày thời
gian này là “archè”, thuở ban đầu.
- Giai đoạn thực hiện: thời gian của Giáo Hội: như ta
sẽ thấy, Luca không chỉ bằng lòng với một số chủ đề
thần học (thực ra cũng ít độc đáo) nhưng, như một số
sử gia Hy-lạp có học thức, ông quan tâm đánh dấu các
quãng thời gian trong lịch sử cứu độ, vì thế người ta
nhận thấy một số đặc điểm.
Ta có thể đặt lên một họa đồ giai đoạn lời hứa như
sau:
Biến cố “Bản lề” giữa giai đoạn II và III (thời gian của
Chúa Giêsu và thời gian của Giáo Hội) là việc Chúa Giêsu
lên trời mà Luca nói tới hai lần (Lc 24,50-53 và Cv 1,9-
11). Đây là khúc ngoặt thứ hai trong lịch sử cứu độ đối
với Luca.
Biến cố lên trời có ý nghĩa thế nào đối với ông? Biến
cố lên trời không phải là sự vinh thăng của Chúa Giêsu:
khi sống lại, Đức Giêsu đã bước vào cõi vinh quang rồi;
nhưng vì những lý do liên hệ đến nhiệm cục, Người còn
hiện ra nhiều lần để chuẩn bị cho các môn đệ bước vào sứ
194 Dẫn nhập phê bình vào các sách
vụ của họ 19. Biến cố lên trời chấm dứt các cuộc hiện ra,
kết thúc thời gian của Chúa Giêsu. Vì thế, trong Cv 1,9-
11, Luca gợi lên ngày quang lâm của Chúa. Đám mây khi
Chúa lên trời là đám mây của ngày quang lâm: Con Người
sẽ đến trên mây trời. Đồng thời biến cố lên trời khai mở
thời gian mà các tông đồ bắt tay vào việc.
II. SỰ TIẾN TRIỂN CỦA LỊCH SỬ
Lịch sử cứu độ tiến triển dần dần trên bình diện địa lý,
bình diện số lượng và bình diện tâm linh.
1. Bình diện địa lý
Trung tâm của toàn thể quyển Phúc Âm theo Luca là
Giêrusalem. Phúc Âm khởi đầu từ Giêrusalem (với việc
báo tin Gioan Tẩy Giả sắp sinh xảy ra trong Đền Thờ: 1,5)
và kết thúc tại Giêrusalem khi Chúa lên trời (24,52). Rồi
sau khi Chúa đã lên trời, Phúc Âm sẽ phát xuất từ
Giêrusalem và được rao giảng cho tới “mút cùng cõi đất”
(24,47 và Cv 1,8).
Đi vào từng phần, chúng ta nhận thấy như sau:
a/ Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả được giới hạn vào “vùng
chung quanh sông Giođan” (3,3), nơi Đức Giêsu
không tới hoạt động (khác với Mt 4,15-25; 19,1 và Mc
10,1).
b/ Cuộc rao giảng khai mào của Chúa Giêsu được thực
hiện tại Galilê (Lc 4,14-31; 8,26; xem thêm 23,5;
24,6; Cv 10,37). Theo Matthêu và Máccô, Đức Giêsu
còn đi tới vùng Tyrô và Siđon (Mt 15,21; Mc 7,24-31),
tới xứ Đêcapôli (Mc 7,31) đi dọc lên Kaisaria
Philipphê (Mt 16,13; Mc 8,27). Trong Luca, Người
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
không rời khỏi đất Do-thái. Theo cách trình bày của
Luca, việc rao giảng cho dân ngoại là việc của các
tông đồ và sẽ được thực hiện sau khi Chúa lên trời (Lc
24,47).
c/ Từ Galilê Chúa đi lên Giêrusalem: nơi đây Người thi
hành sứ vụ giảng dạy trong Đền Thờ; rồi các biến cố
chết, sống lại và các cuộc hiện ra đều xảy ra tại
Giêrusalem. Nhóm Mười Một không rời khỏi thành
(24,48), khác với truyền thống các cuộc hiện ra ở
Galilê (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc 14,28; 16,7; Ga 21)
mà chắc Luca biết vì Lc 24,6 thay đổi dữ kiện của Mt
28,7 và Mc 16,7 về địa danh Galilê. Luca im đi để làm
nổi bật diễn tiến của sứ điệp Tin Mừng trong hai tác
phẩm: trong quyển Phúc Âm sứ điệp đi từ Galilê tới
Giêrusalem và trong Công vụ sứ điệp đi từ
Giêrusalem tới các dân ngoại; vì thế không còn chỗ
cho chuyến trở về Galilê nữa.
Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu được Luca trình bày
như một cuộc đi lên Giêrusalem để hoàn tất công việc cứu
chuộc, giống như Gioan tình bày Chúa Giêsu luôn luôn
hướng về “Giờ” của Người.
2. Bình diện số lượng
Sự tiến triển còn được diễn tả trên bình diện số lượng.
Trong sách Công vụ, Luca nhấn mạnh tới con số những
người trở lại:
a/ Lúc chọn Matthia làm tông đồ, cộng đoàn có 120 anh
em. Con số 120 ở đây có một ý nghĩa thần học. Giáo
Hội hôm nay cũng được tổ chức theo mẫu Dân Chúa
196 Dẫn nhập phê bình vào các sách
và một linh hồn”. “Một tấm lòng” (un coeur) là kiểu nói
Do-thái, và “một linh hồn” (une âme) là kiểu nói Hy-lạp:
Luca dùng cả hai kiểu nói để cho các độc giả hiểu kiểu nói
có từ lâu đời của người Do-thái (cũng như Luca thường
nói: “metanoein” ‘hoán cải’ và “epistrephein” ‘quay trở
lại’). Thánh Phaolô cũng thường nối kết lối chào Hy-lạp
với lối chào Do-thái: “Ân sủng” và “Bình an”.
Phần V.
SÁCH CÔNG VỤ
CÁC TÔNG ĐỒ
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Chương I.
KHÍA CẠNH VĂN HỌC
VÀ LỊCH SỬ
125) hay Tacite (sử gia Latinh: 55-120). Tác giả trước hết
là một tông đồ. Điều mà tác giả lưu tâm trước tiên là sứ
điệp tôn giáo; bởi thế tác phẩm trước hết là một sứ điệp
tôn giáo. Ông Cullmann nói: “Về chủ ý cũng như về hình
thức văn học, tác phẩm này không khác gì các sách Tin
Mừng; và chính đây cũng là một quyển Tin Mừng” (Le
N.T., p.46). Lịch sử được viết một cách chân thành để
phục vụ Lời quyền năng của Chúa. Bởi thế sách Công vụ
không phải là loại lịch sử phàm tục, cũng không phải là
quyển lịch sử Giáo Hội thời xưa như bộ sử của Eusêbiô
thành Kaisaria. Luca có một nhãn quan đặc biệt: trình bày
lịch sử Kitô giáo trong một viễn ảnh thần học.
Ngoài ra Luca cũng nhắm mục đích minh giáo: trình
bày Kitô giáo với những màu sắc đẹp đẽ cho thế giới La-
mã. Đây chỉ là mục đích phụ và có thể đã có nơi thánh
Phaolô rồi: người đã muốn tạo ra trong đế quốc một phản
ứng thuận lợi đối với tôn giáo mới. Luca, môn đệ của
Phaolô, chia sẻ quan điểm đó với thầy mình.
III. GIÁ TRỊ LỊCH SỬ
Giá trị lịch sử của một quyển sách lệ thuộc vào sự
chân thành và chính xác của các nguồn tài liệu mà tác giả
dùng. Vậy tác giả đã dùng những nguồn sử nào?
1. Các nguồn sử
Harnack đã phân biệt nhiều loại tài liệu trong phần
đầu của sách Công vụ. Cerfaux, J.Jérémias, cũng đã
nghiên cứu vấn đề này. Kummel, Dibelius (trường phái
Formgechichte) cho rằng, ngoài các “đoạn văn mà tác giả
dùng đại danh từ chúng tôi” để kể chuyện, thì người ta
không thể biết được các nguồn tài liệu đã được ghi chép.
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Ngoài ra, tác giả sách Công vụ còn đi tìm tài liệu riêng
(Lc 1,4) và đã tiếp xúc với các nhân vật liên hệ. Nhờ phó
tế Philip mà ông đi lại trong hai năm tại Kaisaria, ông đã
biết được cuộc trở lại của những người Samari và của
hoạn quan xứ Ethiopi (Cv 8). Nhờ Máccô, được quen biết
ở Rôma, mà tác gải có thể biết việc Phêrô bị cầm tù ở
Giêrusalem (Cv 12). Hơn nữa tác giả còn là bạn đồng
hành của Phaolô, nên biết về thị kiến ở Damas (Cv 9),
việc truyền giáo ở Antiokia (Cv 11), các cuộc hành trình
và nhiều kỷ niệm riêng.
Nói tóm lại, tác giả đã dùng nhiều nguồn sử cựu trào.
Bởi thế sách Công vụ chứa đựng nhiều chứng tá quan
trọng về công cuộc rao giảng ban đầu và về đời sống đức
tin trong các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi.
204 Dẫn nhập phê bình vào các sách
phép chúng ta phủ nhận giá trị lịch sử của các bài diễn từ
trong sách Công vụ.
Sách Công vụ còn chứa đựng rất nhiều bài trình thuật
khác biệt nhau (các phép lạ, các mẫu chuyện, các biến
cố…): chúng đều cho ta cảm tưởng là phản ánh đúng với
những gì xảy ra trong thực tế.
IV. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TÁC PHẨM
(Cantinat, p.22-23)
1. Trên bình diện lịch sử
Sách Công vụ là một tài liệu hàng đầu giúp ta hiểu biết
Kitô giáo thời nguyên thủy. Đây là tác phẩm duy nhất
trình bày cho ta sự thành lập và sự biến chuyển của Giáo
Hội, các giai đoạn lớn trong việc truyền bá Tin Mừng, sứ
vụ làm chứng nhân của các tông đồ trong thời gian 30
năm đầu.
Các bút tích khác của Tân Ước, đặc biệt là các thư của
thánh Phaolô cũng cho ta nhiều chỉ dẫn lịch sử về các vấn
đề này. Chúng ta phải dùng chúng để bổ túc những điều
sách Công vụ nói. Nhưng những chỉ dẫn ấy thường được
ghi lại nhân một dịp nào đó, không mang rõ ngày tháng và
nơi chốn. Nếu chỉ có các chỉ dẫn ấy mà thôi, thì ta không
thể thấy rõ các biến cố và nhất là mối liên lạc của chúng.
2. Trên bình diện văn học
Sách Công vụ còn đáng được chú ý trên bình diện văn
học. Bút pháp tài tình và kiến thức rộng rãi của tác giả
cũng như những tâm tình tế nhị của ông đã làm cho quyển
sách này trở thành một tuyệt tác rất được thưởng thức.
206 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chương II.
THẦN HỌC
CỦA SÁCH CÔNG VỤ
Chỉ xem sách Công vụ như một tài liệu lịch sử, tức là
đi nhầm đường vì tác phẩm này muốn trình bày lịch sử
trong ánh sáng của đức tin. Cũng như các sử gia Do-thái
ngày xưa, tác giả không những là một sử gia, nhưng còn là
một tín hữu. Để có thể gặp tác giả, ta cần phải tìm hiểu
đức tin và nội dung đức tin ấy của ông, nghĩa là thần học
của ông. Thần học ấy được biểu lộ trong toàn tác phẩm,
nhưng cốt yếu nằm trong các bài diễn từ và đặc biệt là các
bài diễn từ truyền giáo.
Thần học của sách Công vụ đáng cho ta lưu ý nhất là
về Kitô học và về Giáo Hội học. Thần học ấy muốn trình
bày cho ta việc Đức Giêsu được sai tới và đưa ơn cứu rỗi
cho tất cả mọi người nhờ mầu nhiệm Phục Sinh của
Người. Các tông đồ là những chứng nhân trực tiếp, trình
bày những điều đó trong ánh sáng của các sấm ngôn thời
xưa: các sấm ngôn này đã tiên báo người tôi tớ của Thiên
Chúa, Đấng Cứu Thế, vị Chúa Tể mà Danh hiệu có thể
đưa ơn cứu rỗi cho mọi người. Chứng tá của các tông đồ
về Đức Kitô Phục Sinh kêu gọi mọi người hãy trả lời bằng
208 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Niềm tin và sự trở lại. Nhờ phép Thánh Tẩy để được tha
tội và nhờ những ơn huệ của Thánh Khí, con người bước
đi trên “con đường của ơn cứu rỗi”.
Được sự hướng dẫn của các tông đồ, những kẻ tin làm
thành một xã hội: xã hội này sống hiệp nhất với nhau nhờ
những mối dây của tình yêu, của sự cầu nguyện, của sự
“bẻ bánh”, của cuộc sống vui vẻ giữa những cơn thử
thách. Các cộng đoàn của xã hội đó được Thánh Khí ban
sinh lực, tạo nên Giáo Hội của Thiên Chúa, trong đó lịch
sử cứu độ đã được chuẩn bị qua việc tuyển chọn dân Do-
thái, tiếp tục được thực hiện và kiện toàn (Sacr. Mundi,
t.I.art. Apostelgeschichte, số VII).
Sau đây chúng ta thử đi vào chi tiết của một vài chủ
đề.
I. ƠN CỨU ĐỘ CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI
(TOB. P.355-357)
1. Lịch sử cứu độ
Lời rao giảng của Kitô giáo là lời tuyên bố về lịch sử
cứu độ trong đó Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên vũ trụ
(17,24+) và đã tuyển chọn Israel (3,25; 13,17.v.v…) đóng
vai chính. Giữa dòng lịch sử thế giới, Cựu Ước cũng đã là
Tin Mừng, nhưng còn là giai đoạn đầu (13,17-22; 7,2-50),
giai đoạn của Lời hứa, giai đoạn chuẩn bị trong đó Thiên
Chúa thông tri chương trình của Người qua các ngôn sứ
(2,23).
Thời gian thực hiện bắt đầu, khi Thiên Chúa gửi Đức
Giêsu đến. Tuy những người Do-thái không biết (3,13),
cuộc Khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu vẫn thực hiện ý
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
định của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa cho Đức Giêsu
sống lại và đặt Người làm “Chúa Tể và Kitô” (2,36) và
ban cho Người Thánh Khí (2,33), thì “Lời hứa cùng các tổ
phụ” được thực hiện cách viên mãn (13,22-23). Vì Lời
hứa ấy là cho Israel và cho tất cả mọi người “tới mút cùng
trái đất”, cho nên, để nó được thực hiện, thì cần phải có
một không gian và một thời gian: chính đó là nơi lịch sử
ơn cứu rỗi đang tiếp diễn. Sách Công vụ cũng như quyển
Tin Mừng III (Lc 4,21) đặc biệt chú ý tới thời gian hiện
tại, ít để ý tới tương lai, mặc dầu đó vẫn là chân trời cuối
cùng, ngày mà Thiên Chúa sẽ kết thúc dự định của Người
bằng cách sai Đức Kitô lại đến làm “Thẩm Phán kẻ sống
và kẻ chết” (10,42).
2. Ngày hôm nay của Thiên Chúa
Đối với sách Công vụ, những điều người ta nghe thấy
(2,33) từ khi Chúa Giêsu Phục Sinh, vẫn tiếp tục thực hiện
các sấm ngôn (2,16-21; 13,40+; 15,15-18; 28,25-27).
Thiên Chúa vẫn đóng vai chính, và Đức Giêsu tuy là vô
hình, vẫn là trung tâm của các biến cố: sứ vụ của Người
tiếp tục (3,26); chính Người đổ Thánh Khí xuống (2,33),
làm cho Giáo Hội sống động, chính Người rao giảng ánh
sáng cho Dân và cho các quốc gia ngoại giáo khi Người
dùng Phaolô (26,23).
Nhãn quan về thời hiện tại trong lịch sử cứu độ, thực
ra không phải là do tác giả sách Công vụ đặt ra. Nó đã
xuất hiện nơi thánh Phaolô. Đối với Phaolô lời rao giảng của
các tông đồ, chính là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy đang tiếp
tục hoạt động và đang lan rộng (1Tx 2,13+; 2Tx 3,1; Cl 1,5-
6). Sự trở lại của Người nằm trong chương trình của Thiên
210 Dẫn nhập phê bình vào các sách
Chúa (Gl 1,11+.15+ v.v…) và đời sống của các giáo đoàn
nối tiếp thời gian của Chúa Giêsu (1Tx 2,14; Hr 2,3-4).
Tác giả sách Công vụ chẳng phải là người đầu tiên đã
nhận thấy tầm quan trọng của thời gian hiện tại trong
chương trình của Chúa. Nhưng ông đã đặc biệt nhấn mạnh
khía cạnh này.
3. “Khoảng không gian” của Lời Chúa
Ngày hôm nay của Thiên Chúa là thời gian mà Tin
Mừng về Đức Giêsu sống lại phải được loan báo “cho đến
mút cùng cõi đất”.
Sách Công vụ rất lưu tâm đến khoảng không gian về
địa lý cũng như về nhân bản mà Lời Chúa phải lan rộng
tới: trong sách Tin Mừng III, công việc mặc khải của
Chúa Giêsu bắt đầu ở Nagiarét và kết thúc ở Giêrusaslem.
Trong sách Công vụ, Tin Mừng phát xuất từ Giêrusalem,
lan rộng dần qua các dân ngoại và sau cùng được đưa tới
Rôma. Như vây, Lời Chúa đạt tới “mút cùng cõi đất” theo
ý muốn của Đức Giêsu Phục Sinh (1,8).
Việc rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, đó là chủ đề
chính của tác phẩm. Sự trở lại của Cornêliô, việc truyền
giáo cho người Hy-lạp tại Antiokia, cuộc hành trình của
Barnaba và Phaolô, đó là những giai đoạn đầu của việc
đưa Tin Mừng cho dân ngoại. Công việc ấy bị đặt vấn đề
tại Antiokia và Giêrusalem, nhưng rồi vẫn được giữ vững.
Bởi vậy, Phaolô có thể khởi sự một sứ vụ lớn lao, là đưa
Tin Mừng khắp Tiểu Á và cuối cùng tới Rôma, kinh đô
của thế giới ngoại giáo. Đó là chương trình của sách Công
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
vụ: trình bày cho ta những giai đoạn địa lý và nhân bản
mà Lời Chúa lan rộng tới.
4. Sự trở lại, đức tin, phép Rửa và ơn Thánh Khí
Lời rao giảng mời gọi các thính giả hãy hoán cải
(3,19), hãy bước ra khỏi cõi vô tri (sự vô tri của người Do-
thái nằm ở chỗ không nhận biết các sấm ngôn: 3,17;
13,27; sự vô tri của người ngoại là không biết nhìn nhận
Đấng Tạo Hóa qua các tạo vật: 17,23.30), nói tóm lại hãy
tin nhận Đức Giêsu là Chúa và là Kitô (2,36).
Đức tin là một động tác tự do của con người, nhưng
đồng thời cũng là một ơn huệ của Thiên Chúa (5,31;
11,18; 15,9; 16,14 v.v…), là Đấng “mở” cửa đức tin
(14,27) và cứu độ ta nhờ Chúa Giêsu (4,12; 15,11).
Ơn của Thiên Chúa nằm ở chỗ tha tội (5,31; 10,43
v.v…) và làm cho ta được thông phần vào Thánh Khí mà
Đức Giêsu Phục Sinh đổ xuống (2,38; 10,45; 11,17). Hai
ơn ấy tương ứng với hai nghi thức mà Giáo Hội cử hành:
làm phép Rửa “nhân danh Đức Giêsu Kitô” (2,38: TOB,
p.368/note t; 19,5) để tha tội và đặt tay để ban Thánh Khí
(8,17; 19,6). Như thế, các tín hữu được lãnh “phép Rửa
trong Thánh Khí” (1,5; 11,6) và tham dự vào các lời hứa.
Lưu ý:
a/ Những chữ “Nhân danh Đức Giêsu Kitô” nói lên mối
tương quan lệ thuộc và hiệp thông với Đức Giêsu (1Cr
1,13.15). Còn lời kinh đọc khi rửa tội thì chắc là nhắc
đến Thiên Chúa Ba Ngôi. - Cf.Bonsirven, Théologie du
Nước Trời, p.208.
212 Dẫn nhập phê bình vào các sách
b/ Về Cv 8,17: đặt tay: một nghi lễ trước kia liên kết với
phép Thanh tẩy (1,5; 2,38) về sau được thấy tách rời
ra, mục đích riêng là ban ơn Thánh Thần (9,17;
19,5+). Đây là có gốc tích của bí tích thêm sức sau
này. Chú giải của Cha Thuấn, Kinh Thánh T.Ư/tr.274.
ngôn đã được thực hiện. Hầu hết các thư - các thư của
Phaolô, các thư mục vụ, các thư công giáo - kể cả thư
Hípri và sách Khải huyền đều lệ thuộc vào truyền thống
nguyên thủy. Bởi thế chúng ta đừng nghĩ sách Công vụ
chuyển đạt cho ta một cách trọn vẹn Kitô học ban đầu.
Chúng ta sẽ nhầm lẫn nếu chỉ dựa trên sách Công vụ để
tìm nội dung của niềm tin thời nguyên thủy rồi nhấn mạnh
một cách quá đáng đạo lý của thánh Phaolô và ảnh hưởng
của tác giả về sau 20.
A. Sách Công vụ và các sách Tin Mừng
Sách Công vụ trình bày một cách khá đầy đủ về nhân
tính của Đức Kitô, về địa vị Mêsia và quyền làm Chúa Tể
của Người. Nhưng về nhiều điểm thì trong lúc các sách
Tin Mừng nhấn mạnh, sách Công vụ lại ít chú ý tới. Ví
dụ: sách Công vụ nói nhiều tới tác động của Thánh Khí
trong phép Thanh Tẩy và trong đời sống các cộng đoàn,
nhưng không nói gì tới mối tương quan giữa Thánh Khí
và Chúa Giêsu. Sách chỉ nói là Chúa Giêsu đã lãnh nhận
Thánh Khí và ban xuống cho những ai tin và chịu phép
Rửa nhân danh Người (10,38; 1,38). Để nhận thấy giáo lý
đã được khai triển như thế nào về những mối tương quan
giữa Chúa Kitô và Thánh Khí thì ta phải chạy tới với các
tác giả khác của Tân Ước.
Tác phẩm không nói gì tới việc Chúa sinh ra từ một
người nữ đồng trinh. Tước hiệu “Con Người”, được dùng
nhiều lần trong các sách Tin Mừng, chỉ xuất hiện một lần
nơi miệng của Stêphanô hấp hối (Cv 7,56). Điểm đáng
ngạc nhiên hơn nữa là tước hiệu “Con Thiên Chúa” cũng
chỉ được dùng một lần trong lời rao giảng của Phaolô tại
Đamas (9,20).
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
Nhưng Đức Giêsu không phải chỉ là một tiên tri tràn
đầy Thánh Khí, bị những người đồng hương gét bỏ rồi
giết chết. Các tông đồ còn quả quyết là Thiên Chúa đã cho
người sống lại và sự chết không thể cầm giữ Người.
2. Sách Công vụ nhấn mạnh tới Đức Giêsu là Đấng
“Kitô hay là Mêsia.” Tước hiệu “Kitô” xuất hiện ít nhất là
mười hai lần. Đối với Luca, người ta loan báo Đức Giêsu
là Kitô (5,42; 8,5), làm chứng về Người như vậy (9,22;
17,3; 18,5; 5,28), giảng giải là Đức Kitô phải đau khổ
(17,3; 26,23). Trong những đoạn văn ấy, không có dấu vết
nào phản ánh một quan niệm chính trị về vai trò của Đấng
Mêsia. Trái lại, người ta cắt nghĩa là trời cao phải đón lấy
Đức Giêsu “cho đến thời buổi phục hồi vạn vật” (3,21).
Các tông đồ còn tặng cho Chúa Giêsu nhiều tước hiệu
khác biểu lộ địa vị Kitô: “Đấng Công Chính” (3,14; 7,52;
22,14), - “Viên Đá bị các người thợ xây loại bỏ nhưng lại
trở nên viên đá đỉnh góc” (4,11; xem thêm: Rm 9,32-33;
1Pr 2,5-8).
Các vị giảng thuyết tiên khởi đã đặc biệt chú ý tới chức
quyền Kitô của Đức Giêsu là vì ảnh hưởng của biến cố sống
lại; đường khác sự dè dặt của Đức Giêsu ngày xưa về điểm
này chỉ còn là một kỷ niệm. Bởi thế Phêrô đã hô lớn: “Xin
toàn thể nhà Israel hãy biết chắc là: Thiên Chúa đã đặt làm
Chúa và làm Kitô Đức Giêsu mà các người đã đóng đinh
kia” (2,36).
3. Một điểm đáng lưu ý là ý tưởng về Đức Giêsu là
Tôi tớ của Thiên Chúa. Cũng như các sách Tin Mừng,
sách Công vụ nói tới việc Đức Kitô “phải đau khổ” (17,3;
26,23). Nhưng sách Công vụ khác với các sách Tin Mừng
ở chỗ áp dụng một cách rõ ràng cho Đức Giêsu tước hiệu
Tin Mừng Nhất Lãm và Tông Đồ Công Vụ
CHƯƠNG III.
TÁC GIẢ VÀ
NĂM XUẤT BẢN TÁC PHẨM
I. TÁC GIẢ
1. Tác giả là người bạn đồng hành của
Thánh Phaolô
Ba lần tác giả tự giới thiệu mình là một người bạn
đồng hành của Phaolô. Ông dùng chữ “chúng tôi” trong ba
đoạn văn:
- Năm 51-52, khi tông đồ đi từ cảng Troa sang thành
Philip ở Makêđonia (Cv 16,10.17)
- Vào dịp Phục Sinh năm 58, khi tông đồ trở lại Philip để
đi Giêrusalem (20,5+)
- Đầu mùa thu 60, khi tông đồ bị dẫn từ Kaisaria tới
Rôma như một tù nhân (27,1+)
Qua kiểu nói đó, tác giả muốn ngụ ý là ông cũng có
mặt trong các biến cố mà ông kể. Đường khác lời văn của
các đoạn này hòa đồng với lời văn của các phần khác, nên
phải chấp nhận rằng chính tác giả của toàn tác phẩm đã
đưa ra đây những lời ghi chú của mình về các cuộc hành
trình, chứ không phải những lời ghi chú của một chứng
nhân khác.
222 Dẫn nhập phê bình vào các sách
tựu”. Nếu dị bản này xác thực thì Luca đã gia nhập cộng
đoàn rất sớm (có thể trước 43-44).
Ông đã nhập đoàn với Phaolô trong cuộc hành trình
truyền giáo II (năm 44) và theo thánh tông đồ đi Troa và
Philip thuộc Makêđonia. Sau khi Phaolô ra đi, Luca ở lại
trong thành này cho tới năm 58 lúc Phaolô trở lại (Cv
16,10-17). Sau đó Luca đi theo Phaolô mãi cho tới lúc
tông đồ qua đời: đi về Giêrusalem (Cv 20,5-15; 21,1-18),
đi Rôma (Cv 27,1-28; Plm 24; Cl 4,14). Thư 2Tm 4,11
trình bày Luca như người bạn thân cận nhất của Phaolô
trong những ngày lao tù.
Cuộc đời về sau của Luca thế nào, không ai biết rõ.
Theo truyền thống thì Luca tử đạo tại Thèbes (ngày nay là
Thivai), thuộc tỉnh Beotie bên Hy-lạp.
Sách Tin Mừng III và sách Công vụ cho thấy tác giả là
một người học thức. Vào thời bấy giờ các y sĩ thường có
một vốn liếng văn chương rộng rãi. Tác giả có tâm hồn ôn
hòa, dịu dàng, còn Phaolô thì trực tính và bén nhạy. Nếu tình
bạn thường nối kết những cái gì tương phản, thì chắc đó là
một lý do để làm cho hai người thành bạn hữu nghĩa thiết.
Thánh tông đồ gọi Luca là “lương y quý mến” (Cl 4,14).
II. THỜI GIAN
Về thời gian sáng tác, chỉ có một điểm rõ ràng là tác
phẩm được viết sau quyển Tin Mừng III (Cv 1,1). Trong thời
thượng cổ Kitô giáo, cho tới thế kỷ IV, người ta nghĩ rằng
quyển Tin Mừng III được viết sau khi tông đồ Phaolô đã
qua đời (66/67) và còn nói rõ là được viết ở Hy-lạp
(Akhaia).
224 Dẫn nhập phê bình vào các sách
THƯ MỤC
CHÚ THÍCH
13. Người cháu của Ben Sira, đã dịch sang tiếng Hy lạp
tác phẩm của ông nội mình và đã thêm vào một lời
tựa.
14. Về các nguồn sử của Lucca 1-2, xem ra lời trình bày
tóm lược của Nguyễn An Ninh : «Notes exégétiques…
de l’Ev. Selon St Luc, p. 2-3. – Ba giả thuyết chính:
a/ Các chương 1-2 dựa trên nguồn sử Do thái đã được
viết thành tài liệu rồi và Luca đã được biết qua một
bản dịch bằng tiếng Hy lạp. Giả thuyết này cắt nghĩa
được nhiều thành ngữ Do thái trong bản văn Lc 1-2.
232 Dẫn nhập phê bình vào các sách
MỤC LỤC
Phần I.
CÁC VẤN ĐỀ VĂN CHƯƠNG VÀ LỊCH SỬ
CỦA CÁC SÁCH TIN MỪNG..........................9
3. Các giai đoạn trong sự hình thành của các sách Tin
Mừng
I. NGÔN - HÀNH CỦA CHÚA GIÊSU......................11
1. Các lời của Chúa (logia)
2. Các bài trình thuật về hành vi của Chúa Giêsu
II. TRUYỀN THỐNG CÁC TÔNG ĐỒ.......................19
A. Các tông đồ
B. Lời loan báo Tin Mừng
của các tông đồ
C. Các môi sinh của
truyền thống Tin Mừng
D. Các đơn vị văn chương
tiền nhất lãm
E. Phương pháp văn-hình sử
F. Vấn đề giải trừ huyền thoại
III. CÁC TÁC GIẢ VIẾT SÁCH TIN MỪNG..............39
A. Lịch sử công tác biên soạn
B. Vấn đề nhất lãm
Phần II.
TIN MỪNG THEO THÁNH MATTHÊU..............77
Phần III.
TIN MỪNGTHEO THÁNH MÁCCÔ......................115
3. Giai đoạn thực hiện lời hứa: thời gian của Giáo Hội