You are on page 1of 39

Chương I : Tổng quan về nguồn vốn ODA

1.LÝ THUYẾT CHUNG VỀ ODA

1.1 Khái niệm


ODA (Official Development Assistance) các khoản viện trợ không hoàn lại, viện
trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các chính phủ, các tổ chức liên chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức
tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Các đồng vốn bên ngoài chủ yếu chảy vào các nước đang phát triển và chậm phát
triển gồm có: ODA, tín dụng thương mại từ các ngân hàng, đầu tư trực tiếp nước
ngoài( FDI) , viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ (NGO) và tín dụng
tư nhân. Các dòng vốn quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau.
Nếu một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải
thiện các cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn
vốn FDI cũng như vay vốn tín dụng để mở rộng kinh doanh nhưng nếu chỉ tìm
kiếm các nguồn ODA mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn
tín dụng khác thì không có điều kiện tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ và sẽ
không có đủ thu nhập để trả nợ vốn vay ODA.

1.2 Phân loại

a. Phân theo phương thức hoàn trả: ODA có 3 loại.


- Viện trợ không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận không
phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự thoả thuận
trước giữa các bên.
Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng:
+ Hỗ trợ kỹ thuật.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
- Viện trợ có hoàn lại: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo
một quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích
hợp.
Những điều kiện ưu đãi thường là:
+ Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay).
+ Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
+ Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
- ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không hoàn
lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của tổ chức Hợp tác kinh
tế và phát triển.
b. Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có hai loại:
- ODA song phương: Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia
thông qua hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ.
- ODA đa phương: là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB1...)
hay tổ chức khu vực (ADB, EU,...) hoặc của một Chính phủ của một nước dành
cho Chính phủ của một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các
tổ chức đa phương như UNDP (Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF
(quĩ nhi đồng Liên Hiệp quốc)... có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu:
+ Ngân hàng thế giới (WB).
+ Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF).
+ Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)

1.3 Đặc điểm của ODA

+ Vốn ODA mang tính ưu đãi. Vốn ODA có thời gian cho vay( hoàn trả vốn dài),
có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian
hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm.
+ Vốn ODA mang tính ràng buộc. ODA có thể ràng buộc ( hoặc ràng buộc một
phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước
cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc
này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật
đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật.
+ ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn
ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước
do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng
sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ.

1.4 Vai trò của ODA đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam

- Là nguồn bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Sự nghiệp CNH, HÐH
mà Việt Nam đang thực hiện đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn mà nếu chỉ
huy động trong nước thì không thể đáp ứng được. Do đó, ODA trở thành nguồn
vốn từ bên ngoài quan trọng để đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển
- ODA giúp cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và
phát triển nguồn nhân lực. Một trong những yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh
quá trình CNH, HÐH đất nước đó là yếu tố khoa học công nghệ và khả năng tiếp
thu những thành tựu khoa học tiên tiến của đội ngũ lao động. Thông qua các dự án
ODA các nhà tài trợ có những hoạt động nhằm giúp Việt Nam nâng cao trình độ
khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực như: cung cấp các tài liệu kỹ
thuật, tổ chức các buổi hội thảo với sự tham gia của những chuyên gia nước ngoài,
cử các cán bộ Việt Nam đi học ở nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan
học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử trực tiếp chuyên gia sang Việt
Nam hỗ trợ dự án và trực tiếp cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công
nghệ hiện đại cho các chương trình, dự án. Thông qua những hoạt động này các
nhà tài trợ sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học, công nghệ và
phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và đây mới chính là lợi ích căn bản, lâu
dài đối với chúng ta.
- ODA giúp cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh t ế . Các dự án ODA mà các nhà tài
trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ
thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cân đối
giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả nước. Bên cạnh đó còn có một số dự
án giúp Việt Nam thực hiện cải cách hành chính nâng cao hiệu quả hoạt động của
các cơ quan quản lý nhà nước. Tất cả những điều đó góp phần vào việc điều chỉnh
cơ cấu kinh tế ở Việt Nam.
- ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư
phát triển . Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào một nước,
trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó. Do đó,
một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương tiện
thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng không đủ
cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả cho
việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc hậu
cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ
thống thanh toán và sự thiếu thốn các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm
phí tổn đầu tư gia tăng dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các cơ sở
hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi
trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ
tầng là rất lớn và nếu chỉ dựa vào vốn đầu tư trong nước thì không thể tiến hành
được do đó ODA sẽ là nguồn vốn bổ sung hết sức quan trọng cho ngân sách nhà
nước. Một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn
FDI. Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản
xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận.
Rõ ràng là ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho
phát triển, nó còn có tác dụng nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, điều chỉnh
cơ cấu kinh tế và làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI góp phần quan
trọng vào việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HÐH đất nước.
Chương II :
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM

I, Cơ chế chính sách và khuôn khổ thể chế.

1, Cơ chế chính sách.

Từ sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi cơ chế
quản lý kinh tế từ cơ chế tập trung sang cơ chế thị trường. Là một nước nông
nghiệp lạc hậu với thu nhập đầu người thấp, tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn hạn
chế, để đạt được mục tiêu đề ra về phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu vốn của nước
ta rất lớn,đặc biệt là các nguồn vốn từ nước ngoài trongđó có nguồn vốn ODA.
Văn kiện đại hội Đảng 8 đã chỉ rõ: “ Tranh thủ thu hút nguồn tài trợ phát triển
chính thứcđa phương và song phương, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nâng cao trìnhđộ khoa học công nghệ và quản lý,đồng
thời dành một phần vốn tín dụngđầu tư cho các ngành nông- lâm ngư nghiệp, sản
xuất hàng tiêu dùng,ưu tiên dành viện trợ không hoàn lại cho những vùng chậm
phát triển, các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác
định rõ trách nhiệm trảnợ, không được gây thêm gánh nặng nợnần không trả
được. Phảisửdụng nguồnvốn ODA có hiệu quả và có kiểm tra, quản lý chặt chẽ
chống lãng phí tiêu cực".
Nhờ thực hiện chính sáchđa phương hoá,đa dạng hóa các quan hệ đối
ngoại, kể từ năm 1993 Việt Namđã chính thức lập quan hệ ngoại giao và tiếp nhận
được nhiều nguồn ODA từ các quốc gia, các tổchức Quốc tế trên thếgiới. Khối
lượng ODA vào Việt Nam không ngừng tăng lên qua các năm. Trong giaiđoạn
1996-2000 mục tiêuđặt ra về vậnđộng nguồn vốn ODA cam kết là trên 10 tỷ
USD.
Trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA,để có thể khai thác triệt để
thế mạnh của ODA cũng như hạn chế những tác động xấu do ODA mang laị,Đảng
và nhà nước tađãđưa ra hệ thống các quanđiểm về quản lý và sử dụng ODA.
Hệ thống các quanđiểm củaĐảng và nhà nước về quản lý và sử dụng
ODA.
Quanđiểm 1: ODA là một nguồn ngân sách. Việcđiều phối quản lý và sử
dụng ODA cho có hiệu quả thuộc quyền hạn của Chính phủ và phải phù hợp với
các thủ tục quản lý ngân sách hiện hành.
Quanđiểm 2: Tranh thủ các nguồn vốn ODA không gắn với các ràng buộc
về chính trị, phù hợp với chủ trươngđa phương hoáđa dạng hoá, quan hệ kinh tế
đối ngoại ởViệt Nam.
Quanđiểm 3: Phối hợp sử dụng ODA cùng với nguồn vốn FDI và các nguồn
vốn trong nước khác.
Quanđiểm 4:Ưu tiên sử dụng ODA để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh
tế xã hội, phát triển nguồn nhân lực và tăng cường thểchế.
Quanđiểm 5:Đầu tư vốn ODAđể phát triển hạ tầng kinh tế có trọng tâm
trọngđiểm.
Quanđiểm 6:Ưu tiên bố trí viện trợ không hoàn lại cho các dự án văn hóa
xã hộiở miền núi, vùng sâu vùng xa trên cơ sở định hướng chung và các quan
điểm, mục tiêu của việc thu hút và quản lý sửdụng ODA.
Tại hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 1996, Chính phủ Việt Nam
đã đưa ra ba định hướng ưu tiên trong giai đoạn 1996-2000 nhằm kêu gọisự chú ý
của các nhà tài trợ như sau:
- Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội.
-Đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thể chế.
- Chuyển giao công nghệ.
Với ba hướngưu tiên nói trên, nguồn ODAđã và sẽ sử dụngđể trợ giúp
thực hiện 11 chương trình phát triển kinh tế xã hộiđề ra trong kế hoạch 5 năm
1996-2000, tập trung vào một số lĩnh vực như sau:

*Phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn:Đây là một lĩnh vực
ưu tiên đầutư chính của Việt Nam. Các lĩnh vực ưu tiên để phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn là chuyểnđổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, giải quyết các vấn đề đời sống xã hội, việc làm, xoáđói
giảm nghèo... và xây dựng hạ tầng cơ sở nông thôn.
*Trong lĩnh vực công nghiệp: Việt Nam là một nước kém phát triển,đặc biệt
là về công nghiệp. Việt Nam dự kiến dành một phần ODAđể xây dựng các nguồn
điệnlớn, khôi phục và phát triển các trạm và hệthống đường dây phân phối, nhất
làở các thành phố, thị xã, thị trấn.
*Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở: ODAđặc biệtđượcưu tiên cho phát triển hạ
tầng cơ sở, trước hết cho khôi phục và nâng cấp các tuyến trụcđường quốc gia như
quốc lộ 1, quốc lộ 5, quốc lộ 10... Phát triển giao thông nông thôn cũngđượcưu
tiên nhất là cho các tỉnh biên giới, miền núi, các tuyếnđườngđến các huyện xa xôi
hẻo lánh.
*Ưu tiên phát triển nhân lực và thểchế sẽ được thể hiệnở việcưu tiên sử
dụng nguồn vốn ODA cho giáo dục vàđào tạo, bao gồm cả giáo dục phổ thông,
dạy nghề vàđại học,đặc biệt chú trọng nâng cao trìnhđộ giáo viên và cải cách
chương trìnhđại học, tăng cường trang thiết bị,đồ dùng dạy học.
*Trong lĩnh vực văn hoá xã hội: Sẽ sử dụng ODA từ nhiều nguồnđể trợ
giúp thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe banđầu, chương trình dân số
và kế hoạch hoá giađình, chương trình tiêm chủng mở rộng...
2, Khuôn khổ thể chế.
2.1, Giaiđoạn trước năm 1993.
Trước 1993 Việt Nam chưa nối lại quan hệ với các tổ chức Quốc tế do Mỹ
cấm vận và do quan niệm sai lầm cho rằng ODA là khoản cho không nên khối
lượng ODAđến Việt Nam không lớn, hệ thống quản lý ODA chủ yếu là không có
hiệu quả.
Trong thời kỳ này, Văn phòng Chính phủ là cơ quanđầu mối quản lý
ODA phối hợp với một số cơ quan khác như Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài
chính, Bộ Ngoại giao và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng chức năng và
nhiệm vụ của các cơ quan liên quan này chưađược xácđịnh rõ ràng. Trong suốt
thời gian này không có quy chế rõ ràng về đấu thầu, mua sắm và giải ngân. Các dự
án ODA chủ yếuđược thực hiện theo quy chế của từng nhà tài trợ cụ thể.
2.2, Giaiđoạn sau năm 1993.
Nếu như trướcđây, mọi công việc trong lĩnh vực này áp dụng theo NĐ20/
CP(Điều lệ quản lýđầu tư và xây dựng từ nguồn vốn ODA) và NĐ58/ CP ban
hành
quy chế vay và trả nợ nước ngoài thì hiện nay chủ yếu áp dụng NĐ52/ CP và
NĐ12/ CP(Quy chế quản lýđầu tư và xây dựng) và nghị định 17/2001/NĐ-CP(
Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức).
Về phía quốc tế, Liên hiệp quốcđãđặt vấnđề dành 0,7% GDP cho ODA
đối với các nước phát triển. Nhưvậy nguồn ODA sẽtrở thành một sốvốn khá lớn
phải huyđộng và mục tiêu này rất khóđạt.Với Việt Nam càng khó khăn hơn vì
hàng năm, chúng ta còn phải cânđối trong tổng số chi từ 3%-5% từ GDPđể trả nợ
nước ngoài.
Sau 1993, Việt Namđã chính thức nối lại quan hệ với nhiều tổ chức và
Quốc gia trên thế giớiđánh dấu một giaiđoạn mới trong tài trợ phát triển chính
thứcđối với Việt Nam. Khối lượng ODAđến Việt Namđã tăng nhanh lên nhanh
chóng. Nhận thứcđúngđắn về vai trò của ODA trong phát triển kinh tế xã hội,
Chính phủ đã quan tâm nhiều hơnđến việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách
đểquản lý và sửdụng ODA có hiệu quả. Nhiềuvănbản pháp quy đã ra đời nhằm
đưa ra những hướng dẫn về quy trình, thủtục thực hiện và quản lý ODA làm rõ
trách nhiệm của từng cơ quan trong việc quản lý và sử dụng ODA.
Nghị định 20/ CP tháng 3/1994 là lầnđầu tiên Chính phủ Việt Namđã thể
chế hóa việc vậnđộng thu hút và sử dụng ODA. Trong quá trình thực hiện Nghị
định 20/CP đã tỏ ra còn nhiều mặt phải hoàn thiện như nâng cao trách nhiệmcủa
từng bộ, tỉnh, thành phố, xácđịnh rõ hơn nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà
nước, tạođiều kiện pháp lý thuận lợi hơnđể lập quan hệ hợp tác lâu dài với các nhà
tài trợ. Phù hợp với phương hướng trên, ngày 5/8/1997 Chính phủ Việt Nam ban
hành Nghị định 87/CP thay thế Nghị định 20/CP về quy chế quản lý và sử dụng
ODA. Trong nghị định 87/CP có ba nội dung cốt lõi được xác định rõ ràng đó là:
*Chính phủ thống nhất quản lý ODA trên cơ sở chủ trương chính sáchđối
với nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thông qua quy hoạch về thu hút và sử
dụng ODA, danh mục các chương trình và dự ánưu tiên sử dụng ODA.
*Phân cấp cho các bộ, các tỉnh, thành phố phê duyệt một số loại dự án
ODA tuỳ thuộc vào nội dung và quy mô của dự án.
*Phânđịnh rõ ràng nhiệm vụ của các cơ quan tổng hợp của Chính phủ, các
Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các Tỉnh, Thành phố
trực thuộc TW cũng như của cácđơn vị thụ hưởng ODA trong quá trình thu
hút và sử dụng nguồn lực này.
Đểphối hợp có hiệu quả và xử lý nhanh những vướng mắc của dựán
ODA, tạiđiều 27 Nghị định 87/CP, chính phủ đã quyết định thành lập “ Ban công
tác ODA” do Bộ Kế hoạch vàĐầu tư là trưởng ban.Đồng thời với việc ban hành
các Nghị định nói trên, Chính phủ cũngđã ban hành các nghị định 92/CP và 93/CP
nhằm bổ sung và hoàn chỉnh Nghị định 42/CP về quản lýđầu tư xây dựng và Nghị
định 43/CP về công tác đấu thầu và xét thầu đã ban hành trước đây theo hướng
phân cấp vàđơn giản hoá thủ tục.

II. Ti ếp nh ận và s ử d ụng ODA t ại Vi ệt Nam

1. Số lượng vốn ODA thu hút và sử dụng ngày càng tăng


Trước hết, chúng ta biết rằng ODA là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức.
Đây là một hình thức đầu tư nước ngoài được giải thích như sau:
- Gọi là hỗ trợ, bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay với thời
hạn dài không lãi suất hoặc lãi suất thấp, đôi khi còn gọi là viện trợ.
- Gọi là Phát triển vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là nhằm phát
triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước được đầu tư.
- Gọi là Chính thức, vì thường là cho Nhà nước vay.
Như vậy, vốn ODA là nguồn vốn của các nước phát triển hay của các tổ chức
quốc tế cho chính phủ các nước đang phát triển vay nhằm mục tiêu phát triển kinh
tế và góp phần xóa đói giảm nghèo ở nước được nhận đầu tư.

* Tình hình cam kết vốn ODA cho Việt Nam

Theo tập quán tài trợ quốc tế, hàng năm các nhà tài trợ tổ chức Hội nghị viện
trợ quốc tế để vận động tài trợ cho các quốc gia đang phát triển. Đối với Việt
Nam, sau Hội bàn tròn về viện trợ phát triển dành cho Việt Nam diễn ra lần đầu
tiên vào năm 1993, các hội nghị viện trợ tiếp theo được đổi tên thành Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (gọi tắt là Hội nghị CG) và Việt
Nam từ vị thế là khách mời đã trở thành Đồng chủ trì Hội nghị CG cùng với Ngân
hàng Thế giới. Địa điểm tổ chức Hội nghị CG cũng thay đổi từ việc tổ chức tại
nước tài trợ như tại Pháp, Nhật Bản,... sang về tổ chức tại Việt Nam.
Hội nghị CG thường niên thực sự là diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và
cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế về chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển
kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó quan hệ hợp tác phát triển và việc cung
cấp, sử dụng viện trợ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm
nghèo là một nội dung gắn kết chặt chẽ, không tách rời. Ngoài Hội nghị CG
thường niên, còn tổ chức Hội nghị CG giữa kỳ không chính thức tại các địa
phương, tạo điều kiện cho các nhà tài trợ gần với người dân và nắm bắt được nhu
cầu phát triển cần được hỗ trợ của họ.
Là diễn đàn đối thoại về chính sách và viện trợ, song không khí chung của tất
cả các Hội nghị CG cho đến nay là dựa trên tinh thần quan hệ đối tác và mang tính
xây dựng, trong đó các nhà tài trợ tôn trọng vai trò làm chủ và lãnh đạo quốc gia
của Việt Nam trong quá trình phát triển.

Mức cam kết năm sau cao hơn năm trước và đạt đỉnh điểm trong năm 2006 (4,4 tỷ
USD). Trong thời kỳ 1993-2006, tổng giá trị ODA cam kết là 37,011 tỷ USD;
tổng vốn ODA ký kết đạt khoảng 27,810 tỷ USD, tương đương 75% tổng vốn
OĐA cam kết; tổng vốn ODA giải ngân đạt xấp xỉ 17,684 tỷ USD, tương đương
63,54% tổng vốn ODA ký kết.

ODA được cung cấp theo dự án hoặc chương trình dưới hình thức viện trợ không
hoàn lại và vay ưu đãi. Khoảng 15 - 20% số vốn ODA cam kết nói trên là viện trợ
không hoàn lại, hầu hết là các dự án hỗ trợ kỹ thuật, còn lại một phần nhỏ là các
dự án đầu tư xây dựng quy mô nhỏ và phi dự án (viện trợ hàng hóa). Các khoản
vay ưu đãi tập trung cho các dự án đầu tư xây dựng, trong đó có các dự án cấp
quốc gia với giá trị hàng trăm triệu đô la Mỹ. Ngoài ra, còn có các khoản vay theo
chương trình gắn với việc thực hiện khung chính sách, như khoản vay thể chế tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo của IMF, chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo
của WB.
Bảng 1: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2006

Đơn vị: Triệu USD

Năm Cam kết Ký kết Giải ngân


1993 1.860,80 816,68 413
1994 1.958,70 2.597,86 725
1995 2.311,50 1.443,53 737
1996 2.430,90 1.597,42 900
1997 2.377,10 1.685,81 1.000
1998 2.192,00 2.444,30 1.242
1999 2.146,00 1.503,15 1.350
2000 2.400,50 1.772,02 1.650
2001 2.399,10 2.427,42 1.500
2002 2.462,00 1.826,17 1.528
2003 2.838,40 1.772,98 1.422
2004 3.440,70 2.569,22 1.650
2005 3.748,00 2.529,11 1.782
2006 4.445,60 2.824,58 1.785
Tổng số 37.011,30 27.810,25 17.684,00

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Qua bảng trên cho thấy tổng lượng vốn ODA cam kết trong 17 năm qua đạt
khoảng 57,5 tỷ USD . Như vậy, tốc độ tăng trưởng thu hút vốn ODA của nước ta
tăng khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 1993- 2009 với mức tăng trưởng
bình quân 10%/năm, đặc biệt trong 3 năm trở lại đây vốn ODA cam kết tăng khá
mạnh. Tỷ lệ vốn ký kết trên vốn cam kết cũng đạt khá cao, trung bình cả giai đoạn
từ 1993 đến 2009 là trên 86%. Điều đó thể hiện sự ủng hộ chính trị và lòng tin của
các nhà tài trợ đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam. Mặt khác, nó cũng thể
hiện nhu cầu về nguồn vốn của Việt Nam là rất lớn để đầu tư cho hạ tầng kinh tế -
xã hội phục vụ cho việc phát triển và xoá đói giảm nghèo. Trong tổng ODA cam
kết thì 20% là viện trợ không hoàn lại và 80% là vốn cho vay với thời hạn dài
(thường lên đến 30- 40 năm), lãi suất cho vay khá thấp so với lãi suất vay thương
mại (thời gian đầu thường khoảng trên 1%/năm), thời gian ân hạn khá dài (khoảng
10 năm). Các khoản nợ nước ngoài nói chung và nguồn vay nợ ODA nói riêng
hiện tại đảm bảo trong giới hạn an toàn cho phép; có lãi suất, thời hạn và đồng tiền
vay hợp lý. Nguồn ODA chiếm khoảng 10% vốn đầu tư toàn xã hội; đây là nguồn
tài chính quan trọng bổ sung cho ngân sách nhà nước, đảm bảo cho đầu tư phát
triển, tăng trưởng kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết các vấn đề về an sinh xã
hội, đặc biệt là vấn đề xóa đói giảm nghèo, tăng cường và củng cố thể chế pháp lý,
pháp triển quan hệ đối tác chặt chẽ với nước ngoài. Tuy nhiên, khả năng thu hút
ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực hiện vốn cam kết hay
nói cách khác là quá trình sử dụng ODA của Việt Nam chưa đạt được hiệu quả
như mong muốn. Qua bảng trên cho thấy tỷ lệ giải ngân chưa cao, trung bình trong
giai đoạn từ 2000 đến 2008 khoảng trên 69%, nhiều năm tỷ lệ giải ngân chỉ đạt
trên 50%. Chính việc sử dụng chưa có hiệu quả nên đã gây ra việc lãng phí, thất
thoát vốn, tạo ra gánh nặng nợ không cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng
xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc tế khác.

Sau thành công của Hội nghị Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam
giữa kỳ tổ chức tại Nha Trang vào tháng 6 năm 2006, Hội nghị CG thường niên
tháng 12 năm 2006 được đánh giá là Hội nghị thành công nhất từ trước đến nay
trước bối cảnh Việt nam bước vào một giai đoạn phát triển mới. Tại Hội nghị này,
Thủ tướng Chính phủ đã đối thoại trực tiếp với các nhà tài trợ trên tinh thần thẳng
thắn, mang tính xây dựng về những vấn đề cùng quan tâm như thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, phát triển xã hội và môi trường bền
vững, xây dựng nền tảng pháp luật và thể chế, hội nhập quốc tế và khu vực, hài
hoà thủ tục và nâng cao hiệu quả viện trợ... Các nhà tài trợ đánh giá cao những nỗ
lực của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA. Tại Hội
nghị này Việt Nam và các nhà tài trợ đã thông qua mức cam kết ODA kỷ lục, cao
nhất từ trước đến nay là 4,445 tỷ USD và cho thấy xu thế gia tăng liên tục nguồn
vốn ODA cam kết trong suốt thời gian qua.

* Tình hình ký kết vốn ODA cho Việt Nam

Trên cơ sở số vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ đa phương và song phương,
Chính phủ Việt Nam đã ký kết với các nhà tài trợ các Điều ước quốc tế về ODA
(như hiệp định, nghị định thư, dự án, chương trình). Tính từ năm 1993 đến 9/2006,
tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã được ký kết ước đạt khoảng 31,6 tỷ
USD. Trong đó, vốn vay là 25,65 tỷ USD với 559 hiệp định; viện trợ không hoàn
lại khoảng 6 tỷ USD.

Phần lớn các hiệp định vay đều có lãi suất rất ưu đãi, thời hạn vay và ân hạn dài.
48,8% số hiệp định vay đã ký có lãi suất dưới 1%/năm, thời hạn vay trên 30 năm,
trong đó có 10 năm ân hạn; 33,9% hiệp định vay đã ký có lãi suất từ 1 –
2,5%/năm; khoảng 17,3% hiệp định vay đã ký có điều kiện vay kém ưu đãi hơn.

Trong năm 2006, nguồn vốn ODA được hợp thức hoá thông qua việc ký kết các
hiệp định với các nhà tài trợ đạt 2.824,58 tiệu USD, trong đó ODA vốn vay là
2.423,64 triệu USD và ODA viện trợ không hoàn lại 400,94 triệu USD. Nguồn
vốn ODA được ký kết tiếp tục tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên như: Công
nghiệp- năng lượng (30,78%); Giao thông vận tải-Bưu chính viễn thông (20,51%);
Nông nghiệp và phát triển nông thôn (14,31%); Tài chính ngân hàng (13,19%).
Bảng 2: Cơ cấu ODA ký kết theo ngành, lĩnh vực năm 2006

Đơn vị: Triệu USD

Ngành lớn Tổng số ODA vay ODA viện %


trợ
Công 869,43 861,46 7,97 30,78
nghiệp-năng
lượng
Giao thông 579,42 579,07 0,35 20,51
vân tải-Bưu
chính viễn
thông
Nông 404,06 377,68 26,38 14,31
nghiệp và
phát triển
nông thôn
Tài chính 372,62 291,02 81,60 13,19
ngân hàng
Y tế-Giáo 219,53 131,76 87,77 7,77
dục-Xã hội
Khoa học- 186,00 171,40 14,60 6,59
Công nghệ-
Môi trường
Quản lý Nhà 233,80 0 23,80 0,84
nước-Cải
cách hành
chính
Ngành khác 169,72 11,25 158,47 6,01
Tổng số 2.824,58 2.423,64 400,94 100
* Tình hình giải ngân vốn ODA

Nguồn vốn ODA đã được giải ngân tính cho ngân sách Nhà nước (không bao gồm
phần giải ngân cho các khoản chi tại nước tài trợ, chi cho chuyên gia...) trong giai
đoạn từ năm 1993 đến hết năm 2006 ước đạt khoảng 15,9 tỷ USD, bằng 64,9%
tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA đã ký kết và bằng khoảng 55,0% tổng
lượng ODA đã cam kết trong thời kỳ này.

Tỷ lệ giải ngân thấp này đồng hành với việc tiến độ giải ngân vốn ODA chậm, chỉ
đáp ứng được 70 – 80% yêu cầu giải ngân bình quân một năm của thời kỳ kế
hoạch.

Mức giải ngân ODA khác nhau giữa các nhà tài trợ và giữa các loại hình dự án.
Các dự án hỗ trợ kỹ thuật thường có mức giải ngân cao (chủ yếu là chi cho chuyên
gia, mua sắm thiết bị, máy móc và đào tạo). Các dự án đầu tư xây dựng thường
giải ngân chậm (chi phí nhiều thời gian cho công tác chuẩn bị như đền bù, di dân
và tái định cư).

Tổng mức giải ngân năm 2006 đạt trên 1.785 triệu USD, cao hơn kế hoạch đề ra
(1.750 triệu USD), trong đó vốn vay đạt khoảng 1.550 triệu USD, viện trợ không
hoàn lại đạt khoảng 235 triệu USD. trong tổng giá trị giải ngân năm 2006, vốn vay
của 5 ngân hàng phát triển (WB, ADB, JBIC, KFW và AFD) đạt trên 1.400 triệu
USD, chiếm 78,5% tổng số vốn ODA giải ngân.

Năm 2010: Giải ngân được 3,5 tỷ USD

Sau con số cam kết kỷ lục 8 tỷ USD cho năm tài chính 2010, năm 2011,
Việt Nam sẽ nhận được bao nhiêu từ các nhà tài trợ để bổ sung cho đầu
tư phát triển bền vững? Câu hỏi luôn thu hút sự quan tâm lớn của công
luận đó sẽ được trả lời vào cuối chiều nay 8-12, khi Hội nghị thường niên
Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 2010 (CG 2010) khép lại.

Không thể phủ nhận rằng nhu cầu về vốn ODA của Việt Nam còn rất lớn,
nhất là trong bối cảnh năm 2011 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện Kế
hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược 10 năm
2011-2020. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7%-7,5% và thực hiện
đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại, trong
đó tập trung vào hệ thống giao thông, hạ tầng đô thị lớn... trong giai đoạn
5 năm tới, nước ta cần huy động lượng vốn đầu tư phát triển hàng năm
tương đương 40% GDP. Trong đó, nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng
30%. Tuy nhiên, theo đại diện các nhà tài trợ, cũng như các chuyên gia
kinh tế hàng đầu của Việt Nam, không nên lúc nào cũng kỳ vọng hỗ trợ
ODA của các nhà tài trợ năm sau cao hơn năm trước.

Trong phát biểu khai mạc hội nghị, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới
tại Việt Nam, bà Victoria Kwakwa, nhấn mạnh, vai trò và vị thế của Việt
Nam đã có sự thay đổi lớn. Việt Nam đã từ một nước nghèo và phụ thuộc
đã trở thành một đối tác tích cực trên trường quốc tế. Điều quan trọng
nhất hiện nay là Việt Nam cần hết sức tránh “rơi vào sự trì trệ của một
quốc gia có thu nhập trung bình (MIC)”. Đây cũng là khuyến cáo của ông
John Hendra, Điều phối viên LHQ tại Việt Nam và nhiều nhà tài trợ khác
ngay tại phiên họp đầu tiên của hội nghị.

Theo tập quán tài trợ quốc tế, với MIC, Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các
nguồn vốn vay ODA ưu đãi như hiện nay, các khoản viện trợ không hoàn
lại và hỗ trợ kỹ thuật cũng có xu hướng giảm. Mặc dù đây không hoàn
toàn là điều bất lợi, bởi Việt Nam vẫn có thể tiếp cận nguồn vốn vay rất dồi
dào từ các định chế tài chính khác, tuy ít ưu đãi hơn giai đoạn trước,
nhưng hạn mức vay lớn và thời hạn cho vay dài. Song vấn đề lớn đang
đặt ra cho Việt Nam hiện nay là hiệu quả sử dụng nguồn vốn.

Sau con số 4,1 tỷ USD vốn ODA giải ngân trong năm 2009, với 3,5 tỷ USD
vốn ODA được giải ngân trong năm 2010, sự nghi ngại về khả năng hấp
thụ vốn ODA của nền kinh tế Việt Nam đã phần nào được giải tỏa. Tại hội
nghị hôm qua, nhiều nhà tài trợ khẳng định, Việt Nam còn có thể làm tốt
hơn thế. Điều này có thể hiểu, nhà tài trợ thể hiện lòng tin vào Việt Nam,
nhưng cũng mong muốn Việt Nam tiếp tục có những cải thiện mạnh mẽ
hơn nữa.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trong 2 tháng đầu năm,


ước tổng giá trị giải ngân vốn ODA đạt khoảng 125 triệu
USD.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 2 tháng đầu năm 2011 đã có
7 chương trình, dự án ODA được ký kết thông qua các hiệp định
với nhà tài trợ, tổng giá trị đạt 927,16 triệu USD.
Trong số này, có 1 dự án viện trợ không hoàn lại trị giá 4,2 triệu
USD; 6 dự án vay với tổng giá trị là 922,96 triệu USD. Đáng chú ý
là dự án xây dựng nhà máy điện Nghi Sơn 2 trị giá 365,82 triệu
USD; dự án xây dựng cầu Nhật Tân 2 trị giá 304,25 triệu USD…
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 2 tháng đầu năm nay,
ước tổng giá trị giải ngân ODA đạt khoảng 125 triệu USD, trong
đó vốn vay khoảng 98 triệu USD và vốn viện trợ không hoàn lại
khoảng 27 triệu USD. Mức giải ngân đạt 5,2% so với kế hoạch.

http://www.kenhsinhvien.net
Giải ngân vốn ODA có tiến bộ, song chưa đủ
Việt Nam nhận thức rằng cam kết vốn ODA mới chỉ là sự ủng hộ về chính
trị của cộng đồng tài trợ quốc tế, việc giải ngân nguồn vốn này nhằm tạo ra các
công trình, sản phẩm kinh tế - xã hội cụ thể để đóng góp vào quá trình phát triển
của đất nước mới là quan trọng.
Có thể nhận thấy trong thời kỳ này tình hình giải ngân vốn ODA có những
cải thiện nhất định với chiều hướng tích cực qua các năm. Tuy nhiên, mức giải
ngân này vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm và tỷ lệ giải ngân vẫn còn thấp hơn mức trung bình của thế giới và khu vực
đối với một số nhà tài trợ cụ thể.

2. Đa phương hoá quan hệ giữa Việt Nam với các nhà tài trợ

Hiện nay có 28 nhà tài trợ song phương, trong đó có 24 nhà tài trợ cam kết ODA
thường niên (úc, Bỉ, Canađa, Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Italy, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Lux-xem-bua, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy
Điển, Thụy Sỹ, Thái Lan, Anh, Hoa Kỳ, Ailen, ); 4 nhà tài trợ không cam kết
ODA thường niên (áo, Trung Quốc, Nga, Singapore) mà cam kết ODA theo từng
dự án cụ thể. Ví dụ, gần đây Trung Quốc cam kết cung cấp 85 triệu USD vốn vay
ưu đãi để thực hiện dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn.

Hiện có 23 tổ chức tài trợ ODA đa phương cho Việt Nam, bao gồm ADB, WB,
JBIC, KFW, AFD, (nhóm 5 ngân hàng), Uỷ ban Châu Âu (EC), Quỹ các nước
xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Quỹ Kuwait, Chương trình Phát triển của Liên hiệp
quốc (UNDP), Quỹ Dân số Thế giới (UNFPA), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF), Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế
(IFAD), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ môi trường toàn cầu
(GEF) và Quỹ Đầu tư phát triển của Liên hiệp quốc (UNCDF), IMF.

Bảng 3: Số vốn ODA cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu

Cho Việt Nam giai đoạn 1993-2006

Đơn vị: Triệu USD

Nhà tài trợ Số lượng vốn cam kết


Nhật Bản 8.469,73
WB 5.329,82
ADB 2.900,97
Pháp 912,26
Đức 597,35
Đan Mạch 549,48
Thuỵ Điển 412,83
Trung Quốc 301,08
ôxtrâylia 282,32
EU 269,83

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Ngoài ra còn có trên 350 NGOs hoạt động tại Việt Nam, cung cấp bình quân một
năm khoảng 100 triệu USD viện trợ không hoàn lại.

Trong số các nhà tài trợ, có 3 nhà tài trợ có quy mô cung cấp ODA lớn nhất là
Nhật Bản, WB và ADB, chiếm trên 70% tổng giá trị các điều ước quốc tế về ODA
được ký kết trong thời kỳ 1993 - 2006, trong đó Nhật Bản chiếm trên 40%.
Bảng 4: Cơ cấu ODA theo vùng (1993-2006) của các nhà

tài trợ đa phương và UNDP

Đơn vị tính: Triệu USD

Chương
Ngân hàng trình Phát
Ngân hàng
Vùng Phát triển triển Liên
Thế giới (WB)
Châu á (ADB) Hiệp quốc
(UNDP)
Tây Nguyên 50,81 70,29
Đồng bằng sông
135,71 434,61
Cửu Long
Miền núi trung
137,14 133,58 4,62
du phía bắc
Đồng bằng sông
239,23 210,31 2,08
Hồng
Bắc Trung Bộ 273,08 209,83 1,60
Duyên hải miền
337,10 186,96 14,86
Trung
Đông Nam Bộ 409,39 329,25 7,65
Liên vùng 795,03 2.560,19 12,70

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư


Bảng 5: Cơ cấu ODA theo vùng (1993-2006) của các nhà tài trợ song
phương

Đơn vị tính: Triệu USD

Nhà tài Tây Đồng Miền Đồng Bắc Duyên Đông Liên
trợ Nguyên bằng núi bằng Trung hải Nam Bộ vùng
sông trung sông bộ miền
Cửu du Hồng Trung
Long phía
bắc
Vương
quốc 1,53 1,77 1,40 2,15 131,04
Anh
Canađa 10,18 1,14 1,98 13,3 13,3
Đan
35,89 56,6 19,82 27,77 62,41 3,57 1,02 128,18
Mạch
CHLB
19,67 32,01 55,00 36,94 55,63 14,98 9,14 160,24
Đức
Hà Lan 6,30 23,03 2,00 19,34 3,07 14,43 47,22
Hàn
1,00 24,10 6,50 5,90 75,5 55,94
Quốc
Nhật
819,62 1.038,60 894,95 1.239,61 138,11 211,98 1.418,24 2.473,68
Bản
ôxtrâyli
2,16 118,06 3,86 6,68 10,45 35,37 2,25 4,9
a
Phần
1,92 8,50 84,02 43,91 1,96 8,00 23,45
Lan
Pháp 38,24 9,77 43,81 92,62 35,37 48,05 125,96 264,40
Thuỵ
5,31 63,93 6,77 26,696 51,09 22,62 63,93
Điển

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

3. ODA được quản lý chặt chẽ và hiệu quả


Với nhận thức ODA là một bộ phận của đầu tư công nên phải được quản lý chặt chẽ và
hiệu quả, trong 15 năm qua Chính phủ không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức và quản lý
nguồn vốn này. Theo tinh thần đó, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trong đó
có phân công trách nhiệm và quyền hạn cụ thể cho từng cơ quan với một cơ chế phối hợp nhịp
nhàng, cụ thể Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối về điều phối, quản
lý và sử dụng nguồn vốn ODA; Bộ Tài Chính thực hiện chức năng quản lý tài chính đối với
nguồn vốn này; Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp, Ngân hàng Nhà nước, Văn phòng Chính phủ,...
tham gia quản lý nhà nước về ODA theo chức năng và nhiệm vụ cụ thể của mình trong chu
trình ODA; các Bộ, ngành và địa phương với vai trò cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm quản
lý và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA thông qua chủ dự án và Ban quản lý dự
án.
Về khung thể chế pháp lý, công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA từ năm 1994
đến nay được thực hiện trên cơ sở các Nghị định của Chính phủ. Trong 15 năm qua Chính phủ
đã ban hành 4 Nghị định về quản lý và sử dụng ODA (Nghị định 20/CP (1994), Nghị định
87/CP (1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (2001) và Nghị định 131/2006/NĐ-CP (2006)) đáp
ứng đòi hỏi từ thực tiễn cung cấp và tiếp nhận nguồn vốn ODA ở từng thời kỳ.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG HIỆU ỨNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CÓ THỂ MANG LẠI CỦA
ODA Đ/V TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VN

I. Tích cực :
1. Vốn ODA đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện và phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội Việt Nam.

Việt Nam đã tranh thủ được một nguồn vốn ODA khá lớn bổ sung cho đầu tư, có ý nghĩa quan
trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Trong 5 năm 1996 - 2000, đầu tư bằng vốn
ODA chiếm khoảng 12% tổng đầu tư toàn xã hội, bằng 24% tổng vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước và bằng 50% vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.

Với tỷ lệ vốn ODA trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, ODA đã góp phần nhất định vào tăng
trưởng kinh tế. Tỷ lệ vốn giải ngân trong tổng đầu tư toàn xã hội qua các năm cụ thể như sau:
Bảng 6: Vốn ODA giải ngân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội

Đơn vị: triệu USD

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003


1. GDP 24578 26581 28113 29455 31429 33566 35983 38588
2. Tổng vốn đầu tư 6636 7328 6986 7508 8736 10279 11341 14655

toàn xã hội
3. Vốn FDI 2400 2655 1761 1351 1607 2200 1550 2650
4. Vốn ODA 726 1000 1242 1350 1650 1710 1527 1720
5. Vốn ODA/ tổng vốn 10,9 13,6 17,8 17,9 18,9 14,7 13,5 11,7

đầu tư (%)
6. Vốn ODA/GDP (%) 2,95 3,76 4,41 4,58 5,25 4,40 4,20 4,25

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Căn cứ vào chính sách ưu tiên sử dụng ODA của Chính phủ, Việt Nam đã định hướng nguồn
vốn này ưu tiên cho các lĩnh vực như giao thông vận tải; phát triển năng lượng điện; phát triển
nông nghiệp và nông thôn bao gồm cả thủy lợi, thủy sản, lâm nghiệp; cấp thoát nước và bảo
vệ môi trường; y tế, giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ...

* Vốn ODA đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế.

Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận nhiều ODA
nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông vận tải, truyền thông
và năng lượng.

Hơn 4,5 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang được thực hiện
để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ, đường biển và giao
thông nông thôn.

Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676 km đường quốc lộ;
khôi phục và cải tạo khoảng 1.000 km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội-
Vinh; đoạn TP. Hồ Chí Minh-Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh-Nha Trang); làm mới và khôi phục
188 cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18 với tổng chiều dài 33,7 km; cải
tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ;
Cầu Mỹ Thuận; xây dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,62 km (khẩu độ bình quân
khoảng 25 – 100 m).
Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cho cảng Hải Phòng để có thể bốc xếp được
250.000 TEV/năm; nâng cấp cảng Sài Gòn có công suất bốc xếp từ 6,8 triệu tấn/năm lên 8,5
triệu tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.

Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện với tổng cam kết cho đến năm 2003 là
3,7 tỷ USD, hiện chiếm 40,3% trong tổng vốn đầu tư với 7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú
Mỹ 2, Hàm Thuận - Đa Mi, Sông Hinh, Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế
chiếm 40% tổng công suất của các nhà máy điện ở Việt Nam xây dựng trong kế hoạch 5 năm
1996 – 2000. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư bằng nguồn vốn ODA là 3.403
MW, bằng tổng công suất điện từ trước cho tới năm 1995. Trong ngành năng lượng điện, vốn
ODA còn đầu tư để phát triển hệ thông đường dây và mạng lưới điện phân phối điện, bao gồm
các dự án đường dây 500 KV Plâyku – Phú Lâm, đường dây 220 KV Tao Đàn – Nhà Bè, gần
50 trạm biến áp của cả nước, cải tạo nâng cấp mạng lưới điện thành thị và nông thôn ở trên 30
tỉnh và thành phố.

Trong số 4,45 tỉ USD vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết danh cho Việt nam đưa ra tháng
12 năm 2006, các nước tài trợ cũng dành ưu tiên viện trợ cho các lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Nhật
bản, nước ở vị trí dẫn đầu với mức cam kết 890,3 triệu USD cho biết số ưu tiên này sẽ ưu tiên
cho phát triển cơ sở hạ tầng, cụ thể là tuyến đường săt cao tốc Bắc – Nam và bảo vệ môi
trường. Pháp với vốn viện trợ cam kết lớn thứ hai trong các nhà tài trợ và đứng đầu khối EU là
370,4 triệu USD cũng cho biết nguồn vốn ODA sẽ được sử dụng trong bốn lĩnh vực ưu tiên là
giao thông đô thị, đường sắt, môi trường (quản lý nước và rác thải), phát triển nông thôn.
Ngoài ra, các cam kết này cũng sẽ hỗ trợ các hoạt động trong lĩnh vực y tế và hiện đại hoá
ngành tài chính. Nguồn vốn ODA dành cho năng lượng điện và giao thông chiếm tới hơn 40%
vốn ODA của Việt Nam.

Bảng 7: Một số dự án lớn sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Thời gian Tổng vốn


STT Tên dự án Địa điểm
thực hiện đầu tư
Dự án vay vốn JBIC
Thành phố Hải
1 Dự án cầu Bính 1994-2001 176,5
phòng
2 Cải tạo nâng cấp quốc lộ 5 1994-2003 215,6
Khôi phục cầu quốc lộ 1 (giai
3 1994-2002 162,2
đoạn 1)
Khôi phục cầu quốc lộ 1 (giai
4 1995-2004 211
đoạn 2)
Khôi phục cầu đường sắt Hà
5 1994-2004 119
Nội-TP Hồ Chí Minh
Cải tạo cảng Hải Phòng giai 1994-2002 40
đoạn khẩn cấp
Dự án khôi phục 10 cầu
đường sắt trên tuyến đường 1994-2006 1074
sắt Thống nhất
Dự án cải tạo cảng Sài Gòn 1995-2000 500
Dự án khôi phục 9 cầu đường
sắt trên tuyến đường sắt 1995-2001 807
Thống Nhất
Cảng Cái Lân 1996-2004 108,4
Hầm đường bộ qua đèo Hải
1997-2005 251
Vân
Hệ thống thông tin duyên hải 1997-2003 34
Cải tạo nâng cấp quốc lộ 10 1998-2005 302
Cải tạo nâng cấop quốc lộ 18 1998-2005 232
Mở rộng cảng Tiên Sa 1999-2004 113
Dự án phát triển cơ sở hạ tầng
1999-2004 1933
giao thông đô thị Hà Nội
Cầu Thanh Trì &đoạn Nam
2000-2005 410
Vành đai III Hà Nội
Cầu Cần Thơ 2000-2006 370
Dự án cải tạo cảng Hải Phòng
2000-2007 2540
giai đoạn 1 và 2
Cầu Bãi Cháy 2001-2005 180
Khôi phục cầu Quốc lộ 1
2003-2007 50
đoạn Cần Thơ-Năm Căn
Dự án đường Đông Tây 2003-2006 9700
Dự án khôi phục 44 cầu
Tuyến đường
đường sắt trên tuyến đường 2004-2010 2472
sắt Thống Nhất
sắt Thống nhất
Dự án vay vốn WB
24 Dự án giao thông nội thị 2 1994-1999 162
Dự án hai tuyến đường thuỷ 1996-2001 61
Dự án khôi phục quốc lộ 1-
1997-2003 236,6
WB 1
Dự án khôi phục quốc lộ 1 –
1997-2004 89
WB3
Dự án giao thông nội thị 1 2000-2004 145
Dự án khôi phục quốc lộ 1 –
2001-2005 145
WB 2
Các trường đại
Dự án giáo dục đại học 1998-2005 108
học
Dự án phát triển giáo viên 10 tỉnh, thành
2001-2005 36
tiểu học (giai đoạn 1) phố
Dự án vay vốn ADB
Dự án khôi phục quốc lộ 1
32 đoạn Nha Trang-Thành phố 1997-2002 204,9
Hồ Chí Minh
Dự án khôi phục quốc lộ 1
1999-2005 196,5
đoạn Hà Nội – Lạng Sơn
Dự án khôi phục quốc lộ 1
1999-2005 189,54
đoạn Quảng Ngãi-Nha Trang
Dự án đường xuyên á 2000-2004 46
Dự án nâng cấp quốc lộ 9 2001-2005 130
Dự án nâng cấp tỉnh lộ 2003-2006 121
Dự án giáo dục kỹ thuật và
Các địa phương 1999-2004 121
dạy nghề

Dự án phát triển giáo dục


Các địa phương 2005-2010 80
trung học cơ sở (giai đoạn II)

Dự án phát triển giáo dục


Các địa phương 2005-2010 80
trung học cơ sở (giai đoạn II)
Các nước và tổ chức khác
Trung tâm sản xuất chương
1997-2001
trình - Đài Truyền hình Việt
41 Hà Nội
nam- Chính phủ Nhật Bản tài 2004-2007
trợ
Dự án đóng tàu tìm kiếm cứu
Thành phố Hải
nạn trên biển- ORET- Hà Lan 2002-2005 800
Phòng
tài trợ
Dự án Đoàn tàu tốc hành giai Thành phố Đà
2002-2006 701
đoạn 1 –CHLB Đức tài trợ Nẵng
Dự án 5 trường dạy nghề-Hàn
Các địa phương 2004-2007 43
Quốc tài trợ
Dự án 10 trường dạy nghề-
Các địa phương 2005-2006 12,5
Đức tài trợ

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

* ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội.

Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu USD, chiếm
khoảng 8,5 – 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu
quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc
nâng cao chất lượng dạy và học, như dự án giáo dục tiểu học, trung học và đại học, dự án đào
tạo nghề...

Nguồn vốn ODA đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình xã hội có ý nghĩa
sâu rộng như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương
trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm sóc sức khỏe
ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Nhờ vậy, thứ hạng của nước ta trong bảng xếp
hạng các quốc gia và chỉ số phát triển con người của Liên hợp quốc đều được cải thiện hàng
năm.

ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều quan trọng là đã góp
phần thay đổi nhận thức và hành vi của người dân trong các lĩnh vực xã hội đòi hỏi có sự tham
gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, như phòng chống đại dịch HIV/AIDS, phòng chống ma
túy...

* ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát triển thể chế trên nhiều
lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp luật, cải cách hành chính...

Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn các cán bộ được đào tạo và tái đào
tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại những kinh nghiệm quốc tế có giá trị
đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi
trường, quản lý nhà nước, pháp luật.

Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị đúng hạn và được
Chính phủ trình Quốc hộ thông qua góp phần đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế trong tiến trình của
Việt Nam gia nhập WTO như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Phòng chống tham nhũng...;

Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa bệnh thông
qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Chợ Rẫy và Bạch Mai và các dự
án hợp tác kỹ thuật của Nhật Bản trong lĩnh vực y tế cũng đã góp phần nâng cao năng lực của
đội ngũ cán bộ y bác sỹ cũng như trang thiết bị khám chữa bệnh, qua đó cải thiện đời sống của
nhân dân, đặc biệt là dân nghèo thành thị.

Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật Bản tài trợ,
Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho 105 doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo
nhiều công ăn việc làm ổn định. Ngoài số vốn 216 tỷ VND cho vay lại, các Ngân hàng thực
hiện tham gia đóng góp khoảng 130 tỷ VND và người vay cuối cùng góp khoảng 256 tỷ
VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền kinh tế lên khoảng 602 tỷ VND.

* ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, xóa đói
giảm nghèo.
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới năm 1986 cho tới nay, công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt
Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Số liệu các cuộc điều tra mức sống dân cư trong thời
gian qua cho thấy tỷ lệ dân nghèo đã giảm từ 58% vào năm 1993 xuống còn 37% năm 1998 và
28,9% vào năm 2002 trong khi tỷ lệ nghèo lương thực giảm từ 25% năm 1993 xuống 15% năm 1998
và 9,96% năm 2002. Trong giai đoạn 1993-1998, tốc độ giảm nghèo đói trung bình hàng năm ở Việt
Nam là 7,5% nhanh hơn tốc độ phát triển kinh tế trung bình là 6,4% cho cùng thời kỳ. Kết quả này
cho thấy Việt Nam đã vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà nước ta đã cam kết với thế giới. Điều
này cho thấy phát triển kinh tế ở Việt Nam mang tính rộng rãi, tác động lên mọi bộ phận dân cư của
cả nước.

Từ năm 1998, khi Chính phủ và các nhà tài trợ nhất trí tập trung nguồn vốn ODA cho
phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo thì việc phân bổ vốn ODA đã
có xu thế cân đối hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, ODA chủ yếu tập trung vào các
vùng kinh tế trọng điểm. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là địa bàn thu hút ODA lớn
nhất, chiếm gần 30% số vốn ODA ký kết nhưng chủ yếu tập trung vào tam giác kinh tế
gồm 3 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh. Vùng đồng bằng Sông Cửu Long thu hút
được một lượng đáng kể vốn ODA và phân bổ tương đối đồng đều giữa các tỉnh trong
vùng. Còn vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ không có lợi thế về nhiều mặt, trong đó
nguồn vốn ODA thu hút cũng ít.

Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát triển nông nghiệp và
nông thôn, chiếm 14.4% tổng mức ODA cam kết. Các dự án ODA đã góp phần cung cấp
nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển công tác khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch,
phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học.

Thông qua chương trình viện trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản, trên 30 cầu trên
các trục giao thông huyện lộ và tỉnh lộ đã được cải tạo và xây dựng, dự kiến trên 80 cầu sẽ
sớm được hoàn thành trong tương lai. Thông qua các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi, đã xây
mới và nâng cấp hơn 1700 km đường giao thông nông thôn, 13 nhà máy nước và 357 dự án
điện. Dự kiến 92 dự án phát triển đường giao thông nông thôn, 48 dự án cấp nước và 43 dự
án thuỷ lợi sẽ được hoàn thành trước năm 2007. Các dự án này đã có những đóng góp quan
trọng trong việc giảm đói nghèo ở nông thôn nước ta. Kết quả hai cuộc điều tra mức sống
năm 1993 và 1998 cho thấy các hộ dân cư sống ở nơi có đường giao thông đi qua có mức
tăng thu nhập tăng nhanh hơn những hộ dân cư sống ở những nơi không có đường giao
thông. Trong thời kỳ 1993-1998, mức tăng về tiêu dùng của hộ dân cư sống ở nơi có đường
giao thông đi qua cao hơn nơi không có đường giao thông là 16%.

II. TIÊU CỰC :


Bên cạnh những đóng góp tích cực, việc thu hút và sử dụng ODA trong 12 năm qua cũng có
những mặt hạn chế chủ yếu sau:
Quá trình tổ chức thực hiện dự án gặp nhiều ách tắc, kéo dài thời gian dẫn đến tốc độ giải
ngân vốn ODA chậm.

Những ách tắc chủ yếu diễn ra trong các khâu sau:

- Giải phóng mặt bằng: Theo tài liệu theo dõi của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì 80% các dự án
bị ách tắc, vướng mắc, chậm trễ là do nguyên nhân này. Ví dụ, dự án Đài Truyền hình Việt
Nam, thời hạn rút vốn sắp hết mà mới giải phóng xong mặt bằng; dự án nâng cáp quốc lộ 5,
thời gian giải phóng mặt bằng lâu gấp 4 lần thời gian thi công công trình, do không có cơ chế
thống nhất cho tất cả các địa phương để làm cơ sở giải quyết các vấn đề đền bù.

- Công tác đấu thầu: Thời gian tiến hành đấu thầu thường bị kéo dài do Việt Nam mới làm
quen với nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế. Các PMU thường tự đưa ra
các yêu cầu ban đầu mà không có sự tham gia của tư vấn chuyên nghiệp nên nhiều dự án gây
tranh cãi, thắc mắc trong quá trình chọn nhà thầu hoặc kéo dài thời gian xét thầu.

Chất lượng các nhà thầu được lựa chọn thấp, không đáp ứng được yêu cầu của dự án đặt ra.
Các PMU không tiến hành xác minh những khả năng của nhà thầu như khả năng tài chính,
khả năng kỹ thuật, tiến độ thi công... Vì vậy, khi thực hiện xảy ra tình trạng: nhà thầu không
tuân thủ nghiêm ngặt quy trình, nội dung trong bản thiết kế chi tiết để giảm chi phí hoặc cần
tăng tiến độ thực hiện thì phía nhà thầu không có khả năng huy động đủ nguồn lực về tài
chính, máy móc thiết bị, con người...

Giải ngân chậm dẫn tới các hậu quả sau đây:

+ Giải ngân vốn ODA bị kéo dài làm thay đổi các thông số của F/S của các dự án, dẫn tới làm
giảm hiểu quả của dự án, hạn chế khả năng trả nợ, là nguy cơ làm tăng nợ quá hạn cho Chính
phủ, làm ùn đọng vốn ODA cam kết và ký kết.

+ Chậm đưa công trình vào sử dụng gây lãng phí, thất thoát nguồn lực, công trình kém hiệu
quả.

+ Làm giảm tính ưu đãi của vốn vay (rút ngắn thời gian ân hạn, kéo dài thời gian trả phí cam
kết).

+ Làm giảm uy tín của ta đối với các nhà tài trợ về năng lực tiếp nhận và sử dụng ODA, ảnh
hưởng trực tiếp đến việc vận động nguồn vốn này.

Chất lượng một số công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm

Phần lớn các chương trình dự án tập trung vào lĩnh vực xây dựng cơ bản. Chất lượng một số
công trình sử dụng vốn ODA chưa bảo đảm đúng những tiêu chuẩn định mức của bản thiết kế
đặt ra. Ban vận hành phải bỏ chi phí đáng kể ra để bảo dưỡng tu sửa. Nguyên nhân là trong
quá trình thực hiện xảy ra thất thoát, lãng phí. Thất thoát trong xây dựng cơ bản hiện nay của
Việt Nam chiếm khoảng 20%-30% tổng vốn đầu tư trong từng dự án. Chẳng hạn trường hợp
PMU đã không tiến hành xác minh các khả năng khác của nhà thầu như: khả năng tài chính,
kỹ thuật, tiến độ thi công nên dẫn đến trường hợp nhiều nhà thầu đã ăn bớt, thay đổi nguyên
liệu so với tiêu chuẩn kỹ thuật của bản thiết kế đề ra như công trình quốc lộ 18, nhà thầu thay
cát vàng bằng cát đen...

Mặt khác, chất lượng, nội dung thiết kế kỹ thuật tổng thể và chi tiết không phù hợp với thực
tế, không lường hết được biến cố kỹ thuật cũng như sự thay đổi bất thường của môi trường
nên phải chỉnh sửa thiết kế hoặc thiết kế lại toàn bộ nội dung. Ví dụ, dự án đường xuyên á
phải thiết kế lại gần như toàn bộ, và chậm so với thời gian tiến độ ban đầu là một năm; tiểu dự
án đường Tuy Phong- Nha Trang với hợp đồng R100-R200 thì khối lượng công việc tăng lên
30% (Thay đổi đường từ 12,5m lên 18,6m và làm thêm 6 đường tránh).

Một số dự án hỗ trợ kỹ thuật viện trợ không hoàn lại cũng chưa đạt được hiệu quả như mong
muốn vì dự án còn nặng về các yếu tố đầu vào (nhập xe con, đi khảo sát ở nước ngoài...), nhẹ
về các kết quả đầu ra. Hậu quả là nhiều dự án chồng chéo nhau về nội dung, kết quả dự án
không được khai thác và sử dụng một cách thích đáng...

Công tác quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế

Quản lý nhà nước là nguyên nhân bao trùm của những hạn chế trong việc thu hút và sử dụng
ODA. Bất cập trong công tác quản lý nhà nước thể hiện ở việc phân cấp, phân định chức
năng , nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước; hệ thống chính sách và những văn bản
pháp luật liên quan đến vốn ODA; việc thẩm định phê duyệt, bố trí vốn đối ứng, theo dõi,
giám sát các dự án ODA...

Chương 4 :
GIẢI PHÁP THU HÚT VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN ODA
I/Kinh ng hiệm quản lý và sử dụng ODA rút rađược từ một số nước
Lịch sử của các nước trên thế giớiđã chứng minh rất rõ rằng vốnđầu tư
và hiệu quả vốnđầu tư là một trong những yếu tố quan trọng nhất
tácđộngđến sự phát triển nói chung và tăng trưởng kinh tế nói riêng của mỗi
quốc gia . Vốnđầu tư bao gồm: vốn trong nước, vốn thu hút từ nước ngoài
(ODA, FDI) và các khoản tín dụng nhập khẩu.Đối với các nước nghèo, thu
nhập thấp, khảnăng tích luỹnguồn vốn từ trong nước rất hạn chế thì nguồn
vốn nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng .
Nghiên cứu kinh nghiệm quản lý và sử dụngODA của một số nước, ta
thấy nổi lên các vấn đề đáng chú ý sau :
1,Xácđịnh chiến lược sử dung ODA
Xácđịnh chiến lược sử dụng ODA là yêu cầuđầu tiên của công tác quản
lý ODA. Việc xácđịnh chiến lược sử dụng ODAđúng mụcđích và không
dẫnđến gánh nặng nợ nần cho các nước nhậntài trợ . Nhưng một số nước
không quan tâm đến vấn đề này, khi nguồn viện trợ ODA ngày càng tăng thì
việc lãng phí đầu tư tràn lan cũng có xu hướng ngày càng tăng, nhất là
giaiđoạnđầu của vốn vay, khi nghĩa vụ trả nợ gốc cònẩn dấu sau thời gianấn
hạn . Họ đã không cân nhắcđến nhu cầu thực tế,đến khả năng hấp thụ ODA,
khả năng trả nợ củađất nước màđã xácđịnh những dự án thiếu căn cứ khoa
học và luận chứng kỹ thuật chưa chặt chẽ, dẫnđến tình trạng phiêu lưu trong
sử dụng vốn .Vì thế điếu quan trọng trước hết đối với một số nước tiếp nhận
ODA là cần xácđịnh rõ chiến lược sử dụng ODA sao cho vừa phù hợp với tôn
chỉ mục tiêu của nước viện trợ , vừa phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội nhằm phát huy thế mạnh , tiềm năng vốn có củađất nướcở từng
giaiđoạn phát triển . Một chiến lược ODAđúngđắn phải bao gồm các
yếu tố sau
Một là : Nắm được nguyên tắc , bản châtý vàđiều kiện cấp viện trợ của các
cấp viện trợ
Hai là: Xácđịnh lĩnh vựcưu tiên
Ba là: Quiđịnh mức vay và trả nợ hàng năm
Bốn là: Chuẩn bị tốt cho dự án xin viện trợ
2, Vai trò quản lý của NN.
Thực tế cho thấy hiệu quả của viện trợ phụ thuộc chủ yếu vào các chính
sách và thể chế của các nước nhận viện trợ. Với các nước quản lý kinh tế tốt,
viện trợ sẽ làm tăngđầu tư tư nhân , thúcđẩy tăng trưởng ,đẩy nhanh quá
trình giảm đói nghèo. Nhưvậy là có một mối quan hệ rất chặt chẽ giữa
trìnhđộ quản lý của
Nhà nước với tácđộng của viện trợ .Những vấn đề đượcđa số các nước quan
tâm đến là:
- Tính chất bộ máy : Hầu hếtở các nước hàng năm tiếp nhận lượng ODA lớn
đều có bộ máy có tính chất riêng đảm bảo thống nhất việc quản lý và sửdụng
ODA có hiệu quả .Việc tập trung quản lý ODA cũng cần phải kết hợp chặt
chẽ giữa các bộ, ban, ngành ,địa phương theo sự phân công trách nhiệm
nhằm phát huyđược tính hiệu lực của tổ chức.
- Việc sử dụng ODAphải tuân thủ những nguyên tắc và những tiến trình cụ
thể được quiđịnh trong các bản pháp luật . Ngoài ra cần phải kiểm tra chặt
chẽ việc chi tiêu vàđánh giá tổng hợp của các nguồn vốn ODA .Với
nhữngđiều trên , học tập những kinh nghiệm của các nước sẽ giúp VN
sớmđiđến thành công hơn.
3, Bài học kinh nghiệmđối với Việt Nam.
Kinh nghiệm của thế giới cũng như thực tế quản lý nguồn tài chính nước
ngoài của nước ta trong những năm quađã cho chúng ta nhiều bài học kinh
nghiệm.
Một là , ODA gắn liền với cácđiều kiện chính trị , ngoại trừ một số
khoản có tính chất cứu trợ khẩn cấp , viện trợ của nước ngoài nhìn chung có
thể được coi là "đầu ra" của một chính sách đối ngoại và việc thực hiện
những mục tiêu của chính sáchđối ngoại .
Tuy nhiên bằng chính sáchđối ngoại khôn khéo, các nước tiếp nhận viện
trợ vẫn có thể đa phương hoá quan hệ hỗ trợ phát triển của mình , sử dụng
có hiệu quả các nguồn ODA phục vụ cho các mục tiêu phát triển trong khi
vẫn giữ được độclập,tựchủcủa đấtnước.
Hai là , phải coi trọng hiệu quả sử dụng ODA hơn là số lượng ODA
đượcsửdụng . Vớilượng ODA không đổi,tổng lợi ích sẽ cao hơn. Coi trọng
hiệu quả hơn số lượng còn tránh cho nền kinh tế nguy cơ chịuđựng gánh
nặng nợ nần nước ngoài.
Ba là , tính chủ động của bên nhận viện trợ là yếu tố có tính chất quyết
định đến thành công của việcsửdụng vốn ODA.
Bốn là , vốn ODA là quan trọng nhưng vốn trong nước là quyếtđịnh .
Đốivới các nước đang phát triển, vốn ODA là vô cùng quan trọng nhưng nó
chỉ là chất xúc tác cho các nướcđang phát triển khai thác tiềm năng bên
trongđể phát triển . Vốn ODA không thể thay thế cho nguồn vốn trong nước
vì :
+ Vốn ODA chỉ được sử dụng trong khu vực hạ tầng kinh tế xã hội , tức là
chỉ gián tiếp tácđộngđến phát triển sức mạnh củamột quốc gia . Điều này là
tôn chỉ , là mụcđích của các nhà tài trợ .
+ Vốn ODA chỉ được thực hiện theo mức khả năng hấp thụ của nền kinh tế
trong nước, có nghĩa là nó phụ thuộc vào tích lũy nội bộ của nền kinh tế.
+ Vốn ODA gắn với khoản nợ nước ngoài của nền kinh tế, do vậy khi tính
toán nhu cầu vay ODA càn phải tínhđến khả năng trảnợcủanền kinh tế.
III,Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA
1, Cần năngđộng trong nhận thức về ODA.
Qua theo dõi thường xuyên tình hình hộiđàm quốc tế thì cácđiều kiện
đặt ra đểgiải ngân đượcvốn ODA đã gia tăng đáng kể . Trong tình hình đó
việc nắm được các điều ước quốc tế mới ký kết và các thông lệ quốc tế trong
hợp tác phát triển và tăng cường khả năng vận dụng nhuần nhuyễn các hiểu
biết này đểký kết các hiệp định vay vốn là cần thiết . Mục tiêu của công tác
này là tạođiều kiện cho VN có quyền làm chủ và để được chủ độngđề xuất và
sử dụng vốn ODA. Cần phải thấy rằng ODA không phải là khoản cho không
mà phải kèm theo nó là các điều kiệnvề kinh tế - chính trị.Mặt khác , chúng
ta phải hoàn trảnợcảgốclẫn lãi . Vì vậy nếu sử dụng không hiệu quả có thể rơi
vào tình trạng khủng hoảng , nợ nần.
2, Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chiến lược thu hút vốn và quản lý sử
dụng ODA.
Hiện nay xu hướng chung của các dự án có sự trợ giúp quốc tế đangđối
diện với các thách thức không nhỏ và phải chuyển các trọng tâm nội dung
sang một số xu thế mới là: có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân và
tăng cường tham gia quản lý của cộngđồng dân cư tại chỗ . Nếu chúng ta
chưa chuẩn bị cho sự chuyểnđổi này thì các nguồn vốn nước ngoài sẽ mau
chóng tìm cách rút lui khi tình hìnhđượcđánh giá là không thuận lợi .
Trong khiđóđầu tư của khu vực Nhà nước chiếmđại bộ phận trong cơ
cấuđầu tư của quốc gia , từ 38%năm 1995 lênđến 53% năm 1998 và hiện nay
còn cao hơn mức này . Vì vậy chọn hướng "tham gia của cộngđồng " cho các
dự án ODA là tươngđối thích hợp (ởdạng nhưdự án cơsởhạtầng nông thôn
dựa vào cộngđồng mà chúng ta vừa ký kết mới WB vào tháng 6 năm 2001
vừa qua).
Trước tình hình như vậy , các quiđịnh của chính phủ nênđược xem xét ,
điều chỉnh lại cho phù hợp trong việc triển khai các dự án ODA, bởi vì chúng
có tácđộng hạn chế đến những tiềm năng nội lực của từng vùng và từng lĩnh
vực đượcgắnvới những yếutố"dựa vào cộng đồng " ở qui mô rất nhỏ , chưa
có những "sân chơi " riêng.
3,Ưu tiên nguồn vốn hỗ trợ cho các khu vực nghèođói .
Trong quan hệ với các tổ chức phi chính phủ quôc tế , cần phải có sự phối
hợp chặt chẽ giữa chính phủ VN với các tổ chức phi chính phủ , hướng các
nguồn viện trợ của họ tới các vùng nghèo nhất của VN như vùng Tây nguyên,
vùng đồng bằng sông Cửu Long và các vùng nùi phìa bắc. Hiện nay một số
nhà tài trợ vẫn có xu hướng cung cấp viện trợ cho Hà Nội hơn là các số vùng
xa xôi , hẻo lánh và vùng nghèođói của VN. Chính phủ cần có biện pháp cải
thiện tình trạng này , chẳng hạnđưa ra các quiđịnhđối với các hoạtđộng của
họ theo khu vựcđịa lý , đưa ra các danh mục cho các chương trình , quốc gia
vềlĩnh vực xã hội như chương trình quốc gia vềviệc làm , về dân số và
KHHGĐ, chương trình quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn, chương trình quốc gia về phòng chống HIV/AIDS , danh mục các xã
vùng nghèođói của VNđể kêu gọi sự chú ý của các nhà tài trợ .
4, Hoàn thiện môi trường pháp lýđối với quản lý ODA và quà trình
phân công , phân cấp ra quyếtđịnh trong qui trình dự án Viện trợ nước ngoài
có liên quanđến nhiều cơ quan , chức năngở trong nước, trong suốt quá trình
từ lúc vậnđộng tài trợ chođến khi hoàn tất cam kết hoàn trả cho nên thiết lập
một cơ chế nhằmđảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng thông suốt của cả hệ thống
tổ chức liên quanđến viện trợ là mộtđiều quan trọng . Về công tác quản
lý ,đầu tư xây dựng : Trong thời gian tới cần tiếp tục hoàn thiện nghị định
42/CP, 92/CP về qui chế đấu thầu . Nhưng cần quiđịnh trách
nhiệm rõ ràng hơn của từng cơ quan và cácđon vị trong quá trình thẩmđịnh
và phê duyệt dự án , tăng cường trách nhiệm của từng cơ quan theo hướng
giảm các thủ tục trình duyệt qua nhiều cấp . Tiếp tục hoàn thiện các nghị
định trên tiến tới hài hòađộ "vênh" giữa các thủ tục về phía nhà tài trợ và
phía VN , tránh làm phức tạp hoá chu trình thực hiện dự ánở VN. Thực tế
hiện nay công tác thẩmđịnh dự án ởnước ta còn thực hiện quá chậm . Có
những dự án trình cấp trên phê duyệt đặc
biệt là các dự án lâm nghiệp , nằmở các bộ rất lâu mà không có hồi âm.
Trong thời gian tới ,Chính phủ nên quiđịnh rõ thời gian trả lời khâu
thẩmđịnh dự ánở các cơ quan cấp bộ , và các cơ quan thuộc chính phủ bố trí
các cán bộ kiêm nhiệmđể công tác thẩmđịnh dự ánđược tiến hành nhanh hơn
, chính xác hơn . Công tác táiđịnh cư: Cũng cầnđược chú trong hơn nữa .
Hạn chế lớn nhất của công tác táiđịnh cư hiện nay là các quiđịnh về đền bù
thiệt hại về đất và các tài sản gắn liền vớiđất . Có nhiều dự ánđã không quan
tâmđến hỗ trợ ổn định cuộc sống , phương tiện sinh sống cho người táiđịnh
cư mà còn làm cho cuộc sống của họ khó khăn hơn trước khi giải tỏa . Số
tiềnđền bù có lớn cũng chỉ đủ để các hộ tạo lập tài sản, nhà cửa tại nơiở mới
chứ chưa tạo cho họ phương tiện sản xuất mang lại thu nhập tương đương
vớimức thu nhậpcũ.
Những bất hợp lý trong việc tái tạo các nguồn tài nguyên cho người dân
thuộc vùng giải tỏa làđiểm tồn tại mấu chốt trong công tác táiđịnh cư hiện
nay cần sớmđược giải quyết . Trong thời gian tới cần phải có các quiđịnh rõ
ràng về qui trình lập và thẩmđịnh kế hoạch táiđịnh cư . Nên có kế hoạch giải
tỏađền bù người di dân một cách có hệthống , tạo ra đượcsựphối hợp nhịp
nhàng giữa nhà đầu tưvới cộng đồng giải toả , giữa nhà đầu tưvới chính
quyền địa phương đặc biệt là giữa cộngđồngđầu tư với nơi tiếp nhận dân di
cư . Để đảmbảodựán đầutư không tạo ra các sức ép vềmặt xã hội khi giải
tỏa thì chính sách tái định cưphải đảmbảotương lai xã hội, đảmbảo ổn định
cho các hộ di cư .Điều nàyđòi hỏi chính sách táiđịnh cư phải bao hàm toàn bộ
quá rình từ đền bù, di chuyển , tạo tài nguyên , phát triển sản xuất và nâng
caođiều kiện sống cho các hộ dân cư chư khôngđơn thuầnđưa ra một
khoảnđền bù mà rất khó xácđịnhđã hợp lý hay chưa .
Về cơ chế tài chính trong nước: Cơ chế tài chínhđã dần dầnđược cải
thiện ,đã ban hành qui chế vốnđốiứng và qui trình thủ tục vốnđối với các
dựán ODA .Tuy nhiên vẫn cần phải theo dõi chặt chẽ đảm bảo tín hiệu
theođúng qui trình ,đồng thời tiếp tục nghiên cứuđiều chỉnh những bất cập
mới nảy sinh . Vốnđốiứng cho các dự án ODAđềuđược bố trí từ ngân sách .
Vấnđề là các cơ quan TW cũng như địa phương phải giải quyết như thế nào
chođủ vốn khi mà ngân sách NN còn hạn hẹp . Muốn giải quyết vấn đề này
trước hết phải kiểm soát chặt chẽ việc lập kế hoạch cânđối nguồn
vốnđốiứngđể kịp thờiđảm ảo vốnđốiứng cho các chương trình, dự án ODA
.Thứ hai vốnđốiứng cầnđược giao theođúngđịa chỉ của từng chương trình dự
án cụ thể , khôngđược tuỳ tiện giao cho các mục tiêu khác . Chính phủ cần
kiểm soát chặt chẽ các cam kết của chính phủ trong cácđiềuước Quốc tế về
ODA. Các cơ quan chủ quản và cơ quan
thực hiện dự ánđều phải cânđối với vốnđốiứng trong kế hoạch ngân sách
hàng năm của mình .
5, Hoàn thiện hơn nữa công tác kế hoạch hoá.
Trướcđây, trên cơ sở kim ngạch viện trợ mới tiếp cận dự án , nay từ dự
án mới tiếp cận viện trợ . Chính vì thếđã làm thayđổi vai trò của chính phủ
và chủ dự án so với viện trợ . Chính phủ từ chỉ huy hoàn toàn chuyển sang hỗ
trợ , thúc đẩy . Chủdự án từchỗbị động , hành động hoàn toàn theo mệnh
lệnh cấp trên thì nayđã có những quyền chủ động nhấtđịnh trong việc hoàn
thành, thực hiện dự án .Như vậy cần phải có một qui hoạch tổng thể ODA
nhằmtăng cường chất lượng đầu vào của công tác kếhoạch hoá đầu tưbằng
vốn ODA. Qui hoạch nếu được Chính phủ thông qua sẽ là căn cứ pháp lý
quan trọng nhấtđể cơ quanđiều phối viện trợ, hình thành kế hoạch viện trợ.
Cùng với công tác trên , việc tinh giảm bộ máy cồng kềnh trong quản lý
đểgiải ngân đỡphứctạp , có những chính sách ưu đãi thiết thực cho cơsở là
nội dung chính của các thông tư hướng dẫn thực hiện nghị định (17/2001/NĐ-
CP, ngày 04/5/2001) của chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức .
6, Nâng cao công tác thông tin và theo dõi dự án ODA.
Thông tin là yếu tố quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản
lý và sử dụng ODA .Thông tinđầyđủ và chính xác sẽ là những căn cứ để cơ
quan quản lý ra quyếtđịnh . Thời gian quaở VN thông tin về ODA thường
thiếu, không đầy đủ gây khó khănrất nhiều cho các cơ quan chính phủ trong
quản lý ODA. Cần khẩn trương thiét lập một hệ thống thông tin hữu hiệu về
ODA, những thông tinđó phải thể hiện rõ vấn đềsau:
- Chiến lược hànhđộng, cơ sở hợp tác, quy trình thủ tục ODA của từng nhà
tài trợ. Nêu nhữngđặcđiểm , nguyên tắc luật lệ của từng nhàđối tác viện trợ.
- Cácđiềuước quốc tế về hợp tác phát triển , qui chế mà chính phủ tađã kí
kết với các nhà tài trợ để đảm bảo thi hành nhất quán các văn bản này.
- Thông tin về cam kết ODA của các nhà tài trợ, định hướng ưu tiên chiến
lược sử dụng ODA của chính phủ , tình hình giải ngân ODA theo nghành ,
vùng, lĩnh vực cụ thể.
- Thông tin về hệ thống văn bản luật , các quiđịnh , qui chế trong quản lý
sử dụng ODA, các hướng dẫn về qui trình thủ tụcđối với một dự án ODA cụ
thể.
7, Tăng cường công tác kiểm tra , kiểm soát các dự án ODA.
Kiểm tra, kiểm soát là khâu quan trọng không thể thiếuđược trong quá
trình quản lý và sử dụng ODA. Kiểm soátđược thực hiệnđầyđủ làm giảm
tham nhũng , thực hiện tiết kiệm và tăng cường năng lực thực hiện dự án.
Thông thườngđối với các dự ánđầu tư bằng vốn vay , các nhà tài trợ
thường yêu cầu Chính phủ thuê chuyên gia tư vấn , phối hợp với cácđối tác
và ngườiđược hưởng thụ tiến hànhđánh giá , giám sát dự án. Những công
việc này chỉ được thực hiện trong giaiđoạn thực hiện dự án hoàn thành.
Trong thời gian tới , chính phủ cần quan tâm hơn nữađến kiểm tra ,giám sát
dự ánở giaiđoạn sau dự án . Công tác kiểm tra , giám sát thực hiệnđầyđủ góp
phần làm tăng tính bền vững của dự án, tạo khả năng giải ngân nhanh và
củng cố niềm tin của các nhà tài trợ đối với Việt Nam.
Các đơn vị thực hiện ODA cần phải thực hiện nghiêm chỉnh và
thường xuyên báo cáo vốnđầu tư thực hiện và quyết toán vốnđầu tư khi dự
án hoàn thành .Báo cáo quyết toán cần phảiđược kiểm toán để đảm bảo tính
chính xác trước khi gửiđến các cơ quan chức năng thẩm tra phê duyệt quyết
toán.
8, Tăng cường công tácđào tạo vàđiều phối bố trí cán bộ trong quản lý
và sử dụng ODA.
Đào tạolại và bồidưỡng lựclượng cán bộquản lý, điều phối và sửdụng
ODA là một biện pháp quan trọng nhằm hoàn thiện công tácđiều phối, quản
lý và sử dụng ODA hiện nay. Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng
rãi để tạo ra những thayđổi về nhận thức, tháiđộ và kỹ năngở tất cả các cấp,
tăng cường công tác quản lý nhà nước về ODA. Các cán bộ quản lý ODA
phải có kiến thức đầy đủvề các mặt:
- Các loại hình viện trợ có thể vậnđộng và các chi phí có liên quanđể hấp
thụ viện trợ.
- Chính sách và lợi ích của các nhà tài trợ.
- Chu kỳ dự án, sự phối hợp giữa các cơ quan cũng như trách nhiệm, quyền
hạn của mỗi cơ quanở từng giaiđoạn của chu kỳ dự án.
- Các kiến thức về kinh tế thị trường, phương pháp phân tích chính sách
kinh tế phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
- Những kiến thức cơ bản về ngoại giao, luật pháp quốc tế, trìnhđộ ngoại
ngữ…
Công tácđiều phối bố trí cán bộ tham gia quản lý dự án ODA cũng cần
phải xem xét lại. Việc bố trí lựa chọn các chuyên gia có trình độ để quản lý
cho dự án là một yếu tố có tính chất quyếtđịnh cho thành công của dự án.
Cán bộ được bố trí và các ban quản lý dự án phảiđảm bảo là những người có
năng lực thực sự, có trìnhđộ chuyên mônđượcđào tạo chính quy đủ để điều
phối và quản lý dự án.
Trong quá trình thực hiện dự án, không nên thay thếnửa chừng các cán
bộchủ chốt của dự án, nhất là người quản lýđiều hành vì làm như vậy sẽ
dẫnđến tình trạng mất tính liên tục của dự án,đứtđoạn cho công tác thực thi
dự ánđúng tiến độ.Các cán bộ tham gia quản lý dự án cũng nên không ngừng
học hỏi và tự đào tạolại mình, bắt kịp nhu cầu chung của thời đại cũng như
đảmbảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.Trong công tácđào tạo và bố trí
cán bộ, cần chú trọng hơn nữa tới việc đào tạo các cán bộcấptỉnh, thành phố.
Hiện nay chính phủ đã thực hiện phân cấp quản lý các tỉnh, thành phố được
tiến hành phê duyệt một số loại dự án ODA tùy thuộc vào nội dung và quy
mô của dự án. Việc tăng cường công tácđào tạo và bố trí cán bộở các tỉnh,
thành phố sẽ tạođiều kiện, tiềnđề cho công tác quản lý và sử dụng ODA ở các
dự án loại này có hiệu quả.
KẾT LUẬN: Nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và nguồn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) nói riêng có tác dụng rất lớn trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Để
phát triển kinh tế với tốc độ nhanh trong khi quy mô nền kinh tế nhỏ đang thiếu vốn nghiêm
trọng và tiết kiệm trong nước còn quá thấp thì cần phải bổ sung vốn đầu tư bằng khối lượng
lớn nguồn vốn nước ngoài rất cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
để hoà nhập với nền kinh tế thế giới, thì chúng ta cần phải tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát
triển chính thức ODA. Muốn vậy Nhà nước ta cần có các chính sách phù hợp cũng như các
địa phương, tổ chức nhận vốn ODA cũng phải có định hướng đúng đắn và thận trọng để thu
hút và sử dụng nguồn ODA có hiệu quả hơn và có những biện pháp thực hiện các chính sách
đó một cách triệt để và hợp lí. Có như vậy chúng ta mới sử dụng và quản lí có hiệu quả nguồn
vốn này, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đi lên theo định hướng XHCN mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã vạch ra.

You might also like