Professional Documents
Culture Documents
II/ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH
1. Vai trò của Marketing
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp tồn tại và phát triển được thì hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp phải gắn với thị trường; hiểu biết cặn kẽ thị trường. Muốn vậy doanh nghiệp phải
làm tốt công tác quản lý marketing
Marketing đóng vai trò hết sức quan trọng trong kinh doanh. Nó hướng dẫn chỉ đạo và phối hợp
các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng to lớn quyết định đến
doanh số, chi phí, lợi nhuận. marketing trong kinh doanh đã có những thay đổi rất nhiều cùng với quá
trình phát triển , nó được đánh giá qua các thời kì khác nhau
- Thời kì 1900- 1925: thời kì này các doanh nghiệp đã nhận thức , trong hoạt động sản xuất kinh
doanh doanh nghiệp có 4 mặt hoạt động cơ bản, đó là quản trị sản xuất (S), quản trị tài chính
(T), quản trị nguồn lực (N) và quản trị Marketing (M). Marketing thời kì này các nhà kinh doanh
chú ý. ở mức độ còn rất hạn chế, nhiều khi còn chú ý yếu tố quản trị sản xuất.
- Thời kì 1925 đầu những năm 50 : các hoạt động marketing đã trở nên quan trọng hơn so với 3
mặt còn lại. quản trị kinh doanh thời kì này được đặc trưng bởi quan điểm định hướng vào hoàn
thiện sản phẩm
- Thời kì những năm 50 đến đầu những năm 60: các nhà quản trị đã coi Marketing đã trở thành
hoạt động chủ yếu , là khâu trung tâm mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, ba mặt còn lại trở
thành công cụ
- Thời kì những năm 60 đến những đầu năm 70: quản trị kinh doanh thời kì này được đặc trưng
bởi quan điểm kinh doanh theo cách thức marketing. Chìa khóa để đạt được những mục tiêu
trong kinh doanh của doanh nghiệp là doanh nghiệp phải xác định đúng những nhu cầu mong
muốn của thị trường
- Thời kì từ những năm 70 trở lại đây: hoạt động marketing trở thành cầu nối giữa doanh nghiệp
và khách hàng
Nhận xét chung:
- Các nhà kinh doanh lúc đầu cho rằng các yếu tố quyết định sự thành công của doanh nghiệp là sản
xuất tài chính, nhân sự và marketing , bốn yếu tố này về cơ bản có vai trò ngang nhau
- Theo thời gian, từ thực tế kinh doanh nhà doanh nghiệp đã thấy vai trò của marketing quan trọng
hơn
- Do sản xuất phát triển nhanh, tiêu thụ hàng hóa ngày càng khó khăn, cạnh tranh gay gắt , thị trường
trở thành vấn đề song còn của doanh nghiệp. Marketing được coi là hoạt động trung tâm chi phối
các hoạt động sản xuất tài chính nhân sự
- Dần dần nhiều nhà kinh doanh đã hiểu sự thành công trong kinh doanh chỉ đạt được khi hiểu rõ
khách hàng, khách hàng là trung tâm yếu tố quyết định , chi phối
- Theo quan niệm đúng, gần đây được nhiều người chấp nhận là: Người mua, khách hàng là yếu tố
quyết định. Marketing đóng vai trò cực kì quan trọng trong sự liên kết, phối hợp giữa các yếu tố con
người với sản xuất, tài chính.
Hầu hết mọi người đều tin rằng việc quảng cáo chủ yếu là để tung sản phẩm hay dịch vụ mới ra
thị trường, để xây dựng nhận biết thương hiệu và để thu hút khách hàng. Thật ra, những mục tiêu này
đều đúng cả, tuy nhiên nếu chỉ có vậy thì ý nghĩa của việc quảng cáo chưa được trọn vẹn. Sau đây là 6
lý do chính yếu cho việc quảng cáo, tuy vậy không phải lý do nào cũng dễ nhận biết:
- Tạo động lực thúc đẩy cho “đội quân” của bạn: Việc quảng cáo có khả năng tạo động lực thúc
đẩy nhân viên của bạn và nếu được thực hiện hiệu quả nhân viên sẽ cảm thấy tự hào về công ty và bản
thân họ. Những mẫu quảng cáo mới nên được đem ra xem xét nội bộ trong các cuộc họp nhân viên.
Điều này sẽ tạo ra sự phấn khích và nhân viên sau đó sẽ thảo luận với gia đình và bạn bè của họ về
chiến dịch quảng cáo. Nhớ thông báo cho nhân viên biết khi nào mẫu quảng cáo sẽ xuất hiện và trên
phương tiện truyền thông nào.
- Nhắn nhủ với khách hàng hiện tại về tầm quan trọng của họ: Bạn cần gửi thông điệp này tới
khách hàng để họ thấy được rằng quả không sai lầm khi chọn công ty bạn làm đối tác kinh doanh – một
ý tưởng mà khách hàng sẽ chẳng bao giờ tự thân nghĩ đến. Qua việc tăng cường nhận thức cũng như
củng cố trí nhớ của khách hàng về sản phẩm hay thương hiệu công ty, việc quảng cáo khuyến khích
khách hàng hỗ trợ thêm cho chiến dịch quảng cáo của ban. Hầu hết những mối kinh doanh “mới” có
được nhờ quảng cáo là từ khách hàng hiện tại của bạn.
- Có thêm khách hàng mới: Ai cũng muốn có thêm nhiều khách hàng, nhưng những khách hàng
tiềm năng này cần được trang bị thêm thông tin. Do vậy, bạn cần đảm bảo rằng địa chỉ website hoặc số
điện thoại phải được in rõ ràng và dễ nhìn thấy. Bạn cũng cần nói rõ khách hàng có thể phản hồi trên
phương tiện nào hoặc hướng dẫn chính xác cách thức và địa điểm mà khách hàng có thể mua được sản
phẩm của bạn. Hãy luôn đặt ra thời hạn cụ thể.
- Tuyển dụng nhân tài của đối thủ cạnh tranh: Nếu nhân sự từ đối thủ cạnh tranh liên hệ và hỏi
bạn về cơ hội việc làm sau khi xem mẫu quảng cáo của công ty, bạn biết rằng mình đã thành công.
Ngay cả khi họ không đề cập gì đến mẫu quảng cáo, bạn vẫn có thể biết được đó là lý do chính đã thu
hút và khiến họ liên hệ với bạn.
- Tăng cường hình ảnh quảng bá tích cực cho công ty: Các phương tiện truyền thông cũng sẽ
theo dõi mẫu quảng cáo của bạn. Rất có thể phóng viên sẽ đề nghị phỏng vấn bạn sau khi chiến dịch
quảng cáo bắt đầu. Hãy tận dụng cơ hội này và tỏ ra cộng tác với họ. Điều này tương tự như việc bạn
làm hướng dẫn viên du lịch để quảng bá về những điều tốt đẹp của công ty mình qua chiến dịch quảng
cáo.
- Xây dựng thương hiệu: Một điều rất đơn giản là càng nhiều người biết đến công ty bạn càng
tốt.
Có rất nhiều doanh nghiệp nhờ vào chức năng này của Marketing mà đạt được lợi nhuận cao hơn
nhiều. Ở Việt Nam, chúng ta đã quá quen thuộc với những thương hiệu như Bitis có slogan là “Nâng
niu bàn chân Việt”, hãng sữa Vinamilk với những quảng cáo rất thân thiện hướng đến trẻ thơ, nhiều bài
hát ngộ nghĩnh trong quảng cáo trở nên phổ biến, Viettel với những hoạt động từ thiện, dịch vụ hậu mãi
được đánh giá cao…Mỗi thương hiệu chọn một cách để giới thiệu sản phẩm của mình, doanh nghiệp
của mình đến với khách hàng, thỏa mãn khách hàng ở những phương diện khác nhau tùy vào đặc tính
sản phẩm.
Hoặc như Heineken là hãng bia có những quảng cáo luôn được người tiêu dùng mong chờ.
2.5. Ví dụ
Tại Anh, Heineken là một trong những thương hiệu lâu đời và nổi tiếng nhất. Heineken có một
vị trí đặc biệt trong tâm trí người tiêu dùng nhờ vào những chiến dịch quảng cáo có thể được liệt vào
hàng kinh điển trong thập niên 80 và 90. “Heineken refreshes the parts other beers cannot reach” là một
trong những chiến dịch quảng cáo kéo dài nhất và nổi tiếng nhất trong ngành quảng cáo ở Anh. Bên
cạnh đó, Heineken còn giành được nhiều giải thưởng quảng cáo nhờ vào tính hài hước dễ mến, điển
hình là “The water in Majorca don’t taste like like what it oughta.” Thành công của những quảng cáo
này đã là nền tảng cho sự phát triển nhanh chóng của Heineken trong thập niên 80.
Quyết định thay thế Heineken Cold Filtered và Export bằng Heineken Premium tại Anh trong
năm 2003 đã phải nhờ đến sự trợ giúp của đội ngũ tiếp thị tại Heineken một lần nữa.
Thông điệp chính cho đợt giới thiệu lại sản phẩm lần này rất đơn giản: “Bia Heineken cũ sắp ra
đi và được thế chỗ bằng Heineken Premium 5%”. Những yếu tố chính được truyền đạt qua PR với
thông điệp “Heineken đã thay đổi”, thể hiện một cách sống động qua một chiến dịch với sự giúp đỡ của
nhiếp ảnh gia hàng đầu Rankin. Ông đã chụp hình 7 ngôi sao nổi tiếng nhất ở Anh và thay đổi từng
gương mặt với nhau để diễn tả thông điệp chính của chiến dịch. Ví dụ như gương mặt của siêu người
mẫu Jodie Kidd được dần dần chuyển sang một tay ganster sừng sỏ hay ca sĩ R&B bảnh trai Craig
David hoá thành một rocker chính hiệu.
Các báo như The Sun và The Mirror đã dành ra những trang bài và hình ảnh sau khi những bức
ảnh quảng cáo của Rankin đựơc công bố. Bên cạnh đó Channel 4 cũng phát sóng một phim tư liệu dài
30 phút với mọi thông tin chi tiết về chiến dịch này từ khởi đầu cho đến kết thúc. Tổng cộng đã có 1.5
triệu bảng Anh đã được đầu tư vào công tác PR chỉ trong vòng 2 tuần.
Giai đoạn kế tiếp của chiến dịch là khi tung ra sản phẩm trên thị trường, được dựa vào ý tưởng
cho các két bia Heineken “nhảy dù” xuống nuớc Anh. Các poster quảng cáo ngoài trời được hỗ trợ
thêm bởi sự góp mặt của những chiếc xe tải kéo theo xe hơi rõ ràng đã bị các két bia Heineken “hạ
cánh” xuống. Những “đội quân” hỗ trợ này đi diễu hành khắp các đường phố trung tâm và đi đến cả
những nơi diễn ra các sự kiện quan trọng như cuộc thi London Marathon.
Một chiến dịch khác nhằm củng cố lại chất lượng hàng đầu của Heineken được dựa trên ý tưởng
“Heineken đã được kiểm nghiệm trên khắp các đường phố ở mọi nơi trên thế giới và chắc chắn rằng
Heineken là lựa chọn đúng đắn nhất dành cho bạn” được thể hiện qua nhiều hình ảnh cho dân chúng ở
Anh thấy rằng bia Heineken được yêu mến thế nào trên toàn thế giới.
Những quảng cáo này bao gồm “Dutch tolerance test” (bài kiểm tra sức chịu đựng của dân Hà
Lan) cho thấy người dân xứ hoa tulip có thể dễ chấp nhận mọi việc như thế nào trừ khi chứng kiến
người khác chọn một loại bia không phải là Heineken. Hay một đoạn quảng cáo khác về “Swiss
neutrality test” (bài kiểm tra khả năng giữ thế trung lập của người Thụy Sỹ) cho thấy người dân nước
này sẵn sàng dẹp bỏ bộ mặt ôn hoà, thậm chí khơi màu chiến tranh khi đụng đến bia Heineken của họ.
Để tạo cho mình vị thế hàng đầu, Heineken tiếp tục với các chương trình tài trợ và sử dụng đây
như một nền tảng giúp thương hiệu tạo dựng được sự tín nhiệm và khiến người khác muốn uống thử
Heineken. Một trong những sự kiện quan trọng của năm 2003 là Heineken Cup, giải đấu rugby uy tín
của Châu Âu và Cúp rugby thế giới, một trong những sự kiện quan trọng đối với Heineken nhờ vào
bảng vàng thành tích của đội tuyển Anh tại giải này bao lâu nay. Trong năm 2004, Heineken sẽ tập
trung vào những sự kiện quan trọng khác sau khi công bố sự liên kết giữa Heineken UK và Hiệp hội
Olympic của Anh, cùng hướng đến Thế vận hội Athens 2004.
Giá trị thương hiệu
Kể từ khi thành lập vào năm 1873 cho đến nay, thương hiệu Heineken luôn được xem là đồng
nghĩa với chất lượng, không chỉ trong hương vị bia mà còn ở các mối quan hệ kinh doanh, trong công
việc cũng như trong tư tưởng tiến bộ.
Một trong những giá trị quan trọng khác được thể hiện qua sự khát khao học hỏi những kinh
nghiệm mới, tự tin cởi mở, năng lực và sự sành điệu. Đây cũng là những yếu quan trọng nhất góp phần
định vị và phân biệt thương hiệu Heineken trên thị trường.
Bên cạnh đó, thương hiệu Heineken cũng cổ vũ cho tinh thần nhiệt tình hăng hái. Ngoài ra
Heineken luôn có mối liên hệ chặt chẽ với khách hàng và với những gì đang diễn ra ở thế giới bên
ngoài.
Kết hợp với những giá trị trên còn là quan điểm của Heineken, được miêu tả là thân thiện, hay
tìm tòi học hỏi, thông minh và hài hước. Những nét đặc sắc này đã góp phần mang lại thành công cho
Heineken cả về mặt xã hội lẫn kinh doanh.
III/ PHÂN LOẠI MARKETING HAY NHỮNG HÌNH THỨC MARKETING CHỦ YẾU
1. Căn cứ theo thời gian và mức độ hoàn thiện của lý luận Marketing người ta chia ra hai loại:
1.1. Marketing truyền thống (Traditional Marketing)
Là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm hướng dòng sản phẩm từ nhà sản xuất đến tay người
tiêu dùng một cách tối ưu.
Chủ yếu tập trung vào nghiên cứu khâu bán hàng, tìm hiểu, nghiên cứu thị trường để tổ chức
tiêu thụ khối lượng hàng hoá đã được sản xuất ra (bán cái có sẵn).
1.2. Marketing hiện đại (Modern Marketing)
Là hoạt động của con người nhằm hướng dẫn việc thoả mãn các nhu cầu, mong muốn thông qua
quá trình trao đổi hàng hoá.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường, tìm hiểunhu cầu của khách hàng sau đó tiến hành sản xuất
và kết thúc ở chỗ thoả mãn nhu cầu thị trường (bán cái thị trường cần, không phải cái mình có sẵn).
Coi thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng hoá
Như vậy tư tưởng chính của Marketing hiện đại trong quá trình sản xuất kinh doanh là khám phá
nhu cầu của khách hàng để cung ứng hàng hoá phù hợp, chỉ bán cái khách hàng cần chứ không phải
bán cái mà nhà sản xuất có sẵn.
Mar cổ Hàng hoá (Doanh số Nỗ lực bán và các biện pháp kích LN thông qua doanh số
điển bán) thích bán
Sự giống nhau
Tuy có sự khác nhau như vậy nhưng Marketing hiện đại và Marketing truyền thống vẫn có sự
giống nhau và gắn bó nhất định :
Từ những đặc trưng của Marketing hiện đại có thể kết luận là những điều kiện kinh tế xã hội sau
CT TG thứ II là những yêu cầu khách quan để xuất hiện Marketing hiện đại , không phủ nhân
Marketing truyền thống là cơ sở quan trọng để hình thành Marketing hiện đại .Marketing hiện đại hoàn
chỉnh hơn Marketing truyền thống và chỉ đến khi đó mới khẳng định được đối tượng nghiên cứu độc
lập của môn khoa học này.
Marketing truyền thống và hiện đại đều là những biện pháp chủ trương trong kinh doanh nhằm
đem lại lợi nhuận cao nhất. Nhưng Marketing truyền thống chỉ như là 1 bộ phận nhỏ trong các chính
sách của Marketing hiện đại .Markeitng hiện đại đầy đủ hơn , rộng lớn và bao gồm Marketing truyền
thống .Nếu như Marketing truyền thống là toàn bộ nghệ thuật nhằm để tiêu thụ ở khâu lưu thông, thì
cao hơn thế Marketing hiện đại không chỉ bao gồm các biện pháp để bán hàng mà còn từ việc phát hiện
ra nhu cầu , sản xuất hàng hóa theo nhu cầu đó và đưa đến tiêu thụ cuối cùng . Nếu Marketing truyền
thống chỉ góp phần tiêu thụ những nhu cầu đã có thì bao quát hơn Markeitng hiện đại còn hình thành
nhu cầu mới , thay đổi cơ cấu nhu cầu , và làm cho nhu cầu ngày càng phát triển đồng thời tiêu thụ
nhiều những nhu cầu tiêu thụ cung ứng.
Như vậy có thể nói Marketing truyền thống như là cơ sở là cái gốc của Marketing hiện đại .
Nhưng Marketing hiện đại đã phát triển hơn, bao quát hơn. Sự phát triển nhanh chóng của môn
Marketing cũng như chỉ bắt đầu từ khi xuất hiện Marketing hiện đại.
Sự khác nhau
Marketing truyền thống có những đặc điểm sau:
- Sản xuất xong rồi tìm thị trường.Sản xuất là khâu quyết định toàn bộ quá trình tái sản xuất ; các
biện pháp đều nhằm vào mục tiêu bán đc những hàng đã đc sản xuất ra ( bán cái đã có)
- Hoạt động Marketing không mang tính hệ thống ( toàn bộ hoạt động Marketing chỉ diễn ra trên
thị trường ) chỉ nắm 1 khâu trong quá trình tái sản xuất ( khâu lưu thông) chỉ nghiên cứu 1 lĩnh
vực kinh tế đang diễn ra , chưa nghiên cứu đc những ý đồ và chưa dự đoán đc tuơng lai.
- Tối đa hóa thị trường trên cơ sở tiêu thụ khối lượng hàng hóa sản xuất ra thị trường chưa rõ mục
tiêu xác thực có nghĩa là có thể thực hiện đc hay không thể thực hiện đc.
Marketing hiện đại có những đặc điểm sau :
- Nghiên cứu thị trường rồi mới tiến hành sản xuất .Theo đặc điểm Marketing hiện đại thị trường
là nơi quyết định toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa .Trên thị trường người mua nhu cầu có
vai trò quyết định: nhu cầu là yếu tố quyết định của quá trình kết thúc sản xuất.
- Marketing hiện đại có tính hệ thống, đc thể hiện :
+ Nghiên cứu tất cả các khâu ttrong quá trình tái sản xuất, Marketing hiện đại bắt đầu từ nhu cầu
trên thị trường đến sản xuất phân phối hàng hóa và bán hàng để tiêu thụ những nhu cầu đó .
Trong Mar hiện đại tiêu thụ sản xuất , phân phối và trao đổi đc nghiên cứu trong thể thống nhất.
+ Nghiên cứu tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội,thể thao..
+ Nó không chỉ nghiên cứu hành động đang diễn ra , mà nghiên cứu đc cả những suy nghĩ diễn
ra trước khi hành động , và nó dự đoán độ tương lai.
- Tối đa hóa trên cơ sở tiêu thụ những tối đa nhu cầu khách hàng. Như vậy các nhà DN thu được
lợi nhuận.
Ngoài ra Marketing hiện đại còn có sự kiên kết giữa các DN trong kinh doanh. Điều này không
có trong Marketing truyền thống.
2. Căn cứ vào đối tượng quản lý người ta thường phân loại Marketing thành hai nhóm:
2.1. Nhóm 1: Macro – Marketing ( đối với quản lý vĩ mô) : ứng dụng cho các hệ thống lớn
nhằm điều tiết sự phát triển kinh tế mỗi nước, mỗi khu vực và trên toàn thế giới.
Ví dụ: Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn nhất nước. Các hoạt động kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội trên địa bàn Thành phố là một bộ phận của nền kinh tế nước ta, có vị trí quan trọng
trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Việc quảng bá hình ảnh thành phố, cũng như việc xác định và
chỉ ra những lợi thế của nó có tác dụng rất tích cực và thu hút và giữ được nhân tài, thu hút đầu tư
trong nước và nước ngoài, phát triển xuất khẩu và du lịch, trên cơ sở đó mà xác định được định hướng
và chiến lược Marketing của thành phố một cách đúng đắn, góp phần làm cho nền kinh tế của thành
phố cũng như các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống người dân được phát triển bền vững.
2.2. Nhóm 2: Micro – Marketing ( đối với quản lý vi mô): ứng dụng những hệ thống nhỏ các
công ty; xí nghiệp;nhà hàng…
Ví dụ: các hãng điện tử như Samsung, sony,…các công ty như: cocacola, cà phê Trung Nguyên
Khái niệm Marketing nói chung thường đồng nhất với Micro = Marketing. Người ta thường
quan tâm, nghiên cứu cho Marketing của một hãng, một công ty.