You are on page 1of 69

Khủng hoảng

kinh tế Mỹ
và ảnh hưởng ở Việt Nam

Vũ Quang Việt
http://www.youtube.com/watch?v=V8EXqhSo_RQ&feature=related

Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy
thoái trong chu kỳ kinh tế.

Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế chính trị của Mác-Lênin.
Từ ngữ chỉ này khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài viết
này chủ yếu về khái niệm Khủng hoảng kinh tế của Karl Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành
trong Kinh tế chính trị Marx. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị suy
sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột giữa các giai tầng trong xã hội thêm
căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một quá trình tích tụ tư bản mới.

Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự bản thân Karl Marx không đưa
ra kết luận cuối cùng về bản chất của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy,
những nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận khác nhau mà tất cả chúng đều gây tranh cãi. Một
đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và không tự
nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hình thái xã hội. Marx
viết, “cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản”.

Những lý luận này bao gồm:

• Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng chung của mức
độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư
bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
• Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai cấp với mục
đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư,
khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là nhu cầu tiêu dùng không
tương xứng với quy mô sản xuất và tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
• Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn tăng lên và
làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi
đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh tế.

Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có thể đóng vai trò là
những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng hoảng kinh tế.

Tình hình khủng hoảng ở Mỹ

Đối với những người theo dõi kinh tế Mỹ, những yếu kém của nền kinh tế này đã bộc lộ rõ từ
trước năm 2000 nhưng đến nay mới bùng nổ. Thiếu hụt cán cân thanh toán nước ngoài đã tới
trên 400 tỷ từ 2000, trên 4% GDP và tiếp tục tăng mức thiếu hụt, đạt 811 tỷ năm 2006 bằng 6%
GDP. Năm 2007, đồng đô la mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt xuống 734 tỷ nhưng cũng ở
mức rất cao. Các nước khác nếu thiếu hụt ở mức 3% GDP thì đã phải lo lắng bằng mọi cách
nhằm điều chỉnh để giảm mức thiếu hụt này.

Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin tưởng của cả thế giới, nên tiền đổ vào
để cho dân chúng đầu tư và tiêu sài. Để dành của dân chúng vào năm 2006 chỉ có 34 tỷ, gần như
0% GDP, và tỷ lệ để dành thấp này chỉ khoảng 1-2% đã kéo dài từ cả chục năm nay. Đầu tư của
Mỹ bằng 19% GDP, chủ yếu dựa vào lợi nhuận công ty, nhưng đến 30% số tiền đầu tư là do vay
mượn nước ngoài. Tình hình tài chính của Mỹ chẳng khác gì một nước đang phát triển không
kiểm soát nổi hầu bao mình. Các nước ở châu Mỹ Latin và ở châu Á sau cuộc khủng hoảng tài
chính những năm 90 đã cố gắng làm sạch sẽ tài chính, tăng cường để dành, và trở thành nguồn
tài chính tài trợ tiêu dùng của Mỹ. Mỹ đang mất vốn vì giá xuống thì đầu tư của các nền kinh tế
của những nước này cũng sẽ không thể không bị cụt vốn theo. Nói thế không có nghĩa là mọi
người có tiền trên thế giới đầu tư vào Mỹ sẽ lo sợ, ồ ạt rút khỏi Mỹ vì thực sự họ cũng sẽ khó
kiếm chỗ thay thế an toàn và tạo ra lợi nhuận, nhưng việc rút ra một phần cũng tạo ảnh hưởng
không nhỏ.
Tiền đổ vào làm thị trường chứng khoán và tài sản lên giá quá mức giá trị của nó. Điều này thì ai
cũng biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể xuống. Đặc biệt là các nhà kinh
doanh tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá, càng say sưa với thị trường thì giao dịch càng
tăng, vay mượn càng nhiều và phí dịch vụ càng lớn. Giá cổ phiếu Mỹ đã qua thời kỳ điều chỉnh,
đặc biệt là giá các công ty công nghệ thông tin được thổi phồng, chỉ số Nasdaq lên trên 5000
năm 2000 và hiện nay chỉ còn trên 2000, bằng ½ trước đây. Chỉ số Dow Jones ít bị ảnh hưởng
của việc thổi phồng, cũng giảm từ cao điểm gần 12000 năm 2000, xuống tới mức 7540 và sau đó
phục hồi để sau 7 năm mới trở lại thời năm 2000. Bong bóng thị trường chứng khoán đã tự nó
giải quyết bằng cách xuống giá, và để nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột dốc, Cục dự trữ Liên bang
(Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu, đầu tư vào nhà cửa tiếp tục
tăng, giá nhà cửa trở thành bong bóng. Trong 5 năm qua giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các
bang hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ tăng hơn gấp đôi. Nếu
kể từ năm 1980, giá nhà ở những bang như New York, California, Massachussets tăng 5, 6 lần,
trong khi lương danh nghĩa ở những vùng trên chỉ tăng gần 3 lần. Kể từ năm 1997 đến nay
những nơi này tăng giá 3 lần.

Nước Mỹ đang gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính. Thứ nhất sự phát triển không kiểm soát của
thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn, có nghĩa là không cần đặt cọc, không cần đủ thu nhập để
chi trả mà vẫn được vay. Thứ hai cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà tuần qua City
Group là nạn nhân đầu tiên về thẻ tín dụng, lỗ 18 tỷ, mà chỉ một phần nhỏ là nợ dưới chuẩn vì
tháng 9 vừa qua họ chỉ có 2,7 tỷ nằm trong khoản dù hiện nay giá trị còn lại chỉ còn 5%. Thứ ba,
khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đế cả khu vực đầu tư địa ốc văn phòng, chứ không chỉ tập
trung vào khu nhà ở. Các công trình xây dựng có thể trở thành dở dang vì không kiếm được tiền
cho xây dựng tiếp tục. Giá nhà nói chung trong thời gian vừa qua đã xuống 7%, nhưng nhiều nhà
kinh tế cho rằng giá nhà sẽ tiếp tục xuống vào năm 2008 và có thể tiếp tục vào năm 2009, và có
thể tới mức 30%. Tất nhiên những bang lên giá nhiều sẽ xuống giá nhiều, bang lên giá ít sẽ
xuống giá ít. Chưa biết được rõ nền kinh tế sẽ suy thoái mạnh yếu như thế nào, nhưng suy thoái
là điều khó tránh.

Phân tích nguyên nhân

Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ mà giá nhà tăng trong thời gian dài và đến mức cao như
vậy. Trong thời gian dài, giá nhà tăng mạnh cũng vì các thủ thuật tài chính của toàn bộ khu vực
tài chính nhằm khuyếch tán ảo tưởng giá nhà lên không có chỗ ngừng, vượt cả khả năng chi trả
của rất nhiều người đầu tư vào địa ốc. Nhưng nếu giá cứ lên thì có gì phải lo, đó là tâm lý đại
chúng cho đến thời gian vừa qua. Thủ thuật tài chính này là sự ra đời của CDO và phát tán rộng
rãi trong thị trường địa ốc. Vậy CDO là gì?

CDO (collaterized debt obligation) có thể dịch tạm là trái phiếu hay nghĩa vụ nợ có thế chấp. Thế
chấp có' thể là trái phiếu (bonds) hay các khoản nợ cho vay mua nhà (mortgage). Trường hợp sau
được gọi là CMO (collaterized mortgage obligation hay security) có thể tạm dịch là trái phiếu
hay chứng khoán thế chấp bằng nợ cho vay mua nhà, nói chung là địa ốc.

Cách làm khá đơn giản. Thí dụ ngân hàng A cho nhiều người vay mua địa ốc với tổng số tiền là
100 tỷ. Để có số tiền này, ngân hàng phải thu hút tiền ký gửi ít nhất 100 tỷ. Đây là cách làm rất
thông thường. Ngân hàng thu hút tiền gửi ngắn hoặc trung hạn và cho vay dài hạn. Ngân hàng có
thể chịu rủi ro nếu như người ký gửi rút tiền ra mà ngân hàng không có để trả. Do đó để giảm rủi
ro, họ cần đa dạng hoá người vay và đa dạng hoá vùng hoạt động của người vay. Tất nhiên nếu
cho vay nhiều người, không chỉ để mua nhà mà để tài trợ nhiều hoạt động kinh tế khác nhau, thì
độ rủi ro giảm. Khách hàng có người gặp khó khăn, nhưng hầu hết là không. Một vài hoạt động
kinh tế có thể có rủi ro cao nhưng hầu hết các hoạt động kinh tế khác thì không.

Người Mỹ luôn luôn tìm tòi cách làm mới để sinh lợi. Một cách làm khác, được coi là khám phá
thần kỳ, là ngân hàng có thể tập hợp nhiều giấy nợ đó lại thành một gói, thí dụ ở đây là 100 tỷ,
rồi dùng chúng làm thế chấp, chia ra nhiều giấy nợ nhỏ tức là chứng khoán (cổ phiếu cũng là một
loại chứng khoán, security) đem bán đại trà cho người đầu tư nhỏ. Làm như vậy ngân hàng thu
lại 100 tỷ và biến người mua chứng khoán thành người cho vay. Ngân hàng ăn phí nhiều chặng
(phí tính trên người đi vay mua nhà, phí tính vào việc tổ chức đóng gói nợ tức là tính vào người
đầu tư nhỏ, và phí tính vào việc thu nợ từ người đi vay và chia lại số thu này cho người đầu tư
chứng khoán. Ngân hàng đẩy toàn bộ rủi ro sang cho người đầu tư chứng khoán. Người ta mua
chứng khoán vì lãi suất cao hơn, có thể dễ dàng bán ra và tin là nó có độ rủi ro thấp. Các chứng
khoán này thường có thời gian chuộc lại từ 5 đến 30 năm, ngân hàng hoặc công ty dịch vụ tài
chính nào đó sẽ làm việc thu tiền trả nợ của người vay gồm cả khoản vay gốc và lãi đem chia đều
cho các chứng khoán. Tất nhiên họ tính phí.

Cách làm này được coi là một sáng kiến diệu kỳ của Michael Milken, một ông trùm tài chính, trở
nên giàu sụ vì chuyện này, nhưng rồi sau đó bị bắt tù về tội về tội gian lận trong buôn bán trái
phiếu vì dùng thông tin nội gián. Ông ta mua những trái phiếu công ty dưới chuẩn, được mệnh
danh là rác (junk bonds), đóng thành gói, dùng chúng làm thế chấp, tạo ra các chứng khoán mới.
Ngân hàng thương mại (cho vay tiền) chỉ mới bắt tay vào hoạt động này trong vài năm gần đây,
còn chủ yếu việc làm này là của công ty tài chính thường được gọi là ngân hàng đầu tư (chỉ làm
chuyện đóng gói, buôn bán chứng khoán). Ngân hàng thương mại nhảy vào vùng cấm trước đây
vì luật Mỹ thay đổi cho phép đa dạng hoá họat động tài chính. Cũng vì thế mà thị trường tài
chính thế giới trở nên bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước. Hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ
đang lỗ to vì theo chân sang kiến của Michael Miken

Hiện nay số tiền đầu tư vào trái phiếu ở Mỹ lên tới 25,9 ngàn tỷ tính tới tháng 5 năm 2006 trong
đó CMO liên quan tới địa ốc chiếm tới 6,1 ngàn tỷ (theo Research Quarterly của Hội buôn trái
phiếu). Tiền làm nhanh, rủi ro tưởng ít vì các công ty đánh giá chúng cao ở mức cao AAA (cần
biết là họ đánh giá Việt Nam ở mức BB, thấp hơn A). Nói chung, CMO có thể lành mạnh nếu
chúng không phát triển ồ ạt vào khu vực dân cư ít khả năng trả nợ chỉ vì mục đích làm tiền.

Các nhà đầu tư địa ốc đã mở rộng thị trường bất kể quyền lợi của người tiêu dùng, gây vốn cho
vay cả những người thu nhập thấp ít khả năng trả nợ, bằng cách khuyến khích vay với lãi suất lúc
đầu thật thấp, và sau đó ít lâu tăng lên theo lãi suất thị trường. Những người đi vay này tưởng
rằng giá nhà sẽ lên mãi mãi, lãi suất sẽ thấp mãi, nên họ đâm đầu thi nhau mua nhà. Đây là thị
trường được gọi là thị trường dưới chuẩn. Không những dân chúng mua, mà các ngân hàng,
công ty tài chính, quĩ tín dụng, nhà đầu tư nước ngoài cũng tin tưởng mù quáng vào tương lai của
thị trường nhà cửa. Ngân hàng thay vì hoạt động môi giới giữa người ký gửi tiền và người đi vay
thì họ cũng xông vào đầu tư, mua giữ các CMO rác này. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2007, 8
ngân hàng lớn và công ty tài chính lớn của Mỹ như Merrill Lynch, Golden Sachs, City Group,
Morgan Chase, Bank of America đã phát hành 286 tỷ CMO dưới chuẩn.

Và việc phải đến đã đến. Khi lãi suất tăng, dù không nhiều, tiền mượn mua nhà mất khả năng chi
trả, các CMO trở thành rác thật, không còn mang giá trị gì nữa vì chúng chỉ có giá khi có tiền chi
trả của người đi vay. Các ngân hàng, công ty tài chính, không những ở Mỹ mà ở khắp thế giới
đang mất vốn lớn và có thể đi đến phá sản. Tháng 10 và 11 vừa qua, tập đoàn City Group khai
mất 8,4 tỷ vốn, công ty Morgan-Stanley mất 3,7 tỷ vốn và nhiều ngân hàng như Bank of
America và nhiều quĩ tài chính khác mất vốn lên hàng tỷ. Nhiều tên tuổi khác sẽ tiếp tục khai
mất vốn vì đây chỉ là khởi đầu của khủng hoảng.

Suy thoái và giải pháp

Có lẽ chưa có một cuộc suy thoái nào chủ yếu gây ra vì một thị trường tài chính vượt ra ngoài sự
điều hành của thể chế kinh tế được thiết lập sau đại khủng hoảng kinh tế năm 1930. Mặc dù vẫn
chấp nhận thị trường tự do, cuộc khủng hoảng tài chính lớn này đã tạo ra một số chuẩn kiểm soát
nhất định nhằm bảo vệ người ký quĩ tiền, như bảo hiểm tiền để dành, tạo luật để lãi suất cho vay
không vượt một lãi suất thị trường ở một mức nhất định. Nhưng hiện nay với những cái gọi là
“sáng tạo tài chính”, nhiều hoạt động nằm ngoài ngân hàng, nhằm vượt qua những chuẩn mực
kiểm soát nhất định, thí dụ ngân hàng liên kết hoặc mở ra các quĩ tài chính “độc lập”, phát hành
trái phiếu (hay chứng khoán) vốn để cho vay dưới chuẩn với lãi cắt cổ những người không có
khả năng chi trả. Cũng vậy các công ty tín dụng hoạt động với ngân hàng cho vay qua thẻ tín
dụng, đặc biệt là người nghèo, với lãi suất cắt cổ, trên 30% là bình thường để khuyến khích tiêu
xài.

Trước đây, kinh tế suy thoái vì nhà nước phải tiêu dùng cho chiến tranh quá nhiều, mà lại tài trợ
bằng in tiền nên gây lạm phát, hoặc giá dầu tăng quá mức mà chính sách tiền tệ không được sử
dụng nhằm ngăn cản lạm phát, hoặc nền kinh tế phát triển quá nóng do đó cần có sự điều chỉnh
của thị trường.

Lần này khác hẳn, nền kinh tế đang phải đối phó với các công cụ tài chính mới được đẻ ra nhằm
tăng cường lợi nhuận cho ngân hàng và các công ty tài chính mà không bị đặt dưới sự kiểm soát
nào cả như đã nói ở trên. Do đó việc cứu nguy nền kinh tế cũng không dễ dàng vì không ai nắm
rõ ai mượn ai.

Đến nay tổng số tiền các công ty tài chính và ngân hàng tuyên bố lỗ đã lên đến 100 tỷ đô la.
Làm thế nào để giải quyết? Có thể nói đây là cuộc khủng hoảng dường như ngày càng trầm trọng
hơn, nhưng không ai rõ nó tiếp tục vỡ bùng thêm ở chỗ nào, vì bản thân của vấn đề là mới và vì
như đã nói, các “sáng tạo tài chính” không nằm trong tầm phải minh bạch trong báo cáo tài
chính, và do đó nằm ngoài tầm kiểm soát và hiểu biết của các cơ quan điều hành thị trường tài
chính như Cục Dự trữ Liên bang.

Tổng thống Bush, nhiều ứng cử viên tổng thống, nhiều nghị sĩ gần như đồng thanh phải nhanh
chóng bỏ ra khoảng 150 tỷ đô la để giảm thuế, nhằm tăng tiêu dùng, giảm bớt khả năng suy
thoái. Đây thực ra chỉ là hành động mị dân, vỗ về dân chúng. Số tiền này chỉ là liều thuốc bổ cho
người bị sốt rét. Lý thuyết kinh tế của hai nhà kinh tế lớn là Milton Fridman (bảo thủ) và Franco
Modigliani đã chứng minh rằng (và được nhiều lần kiểm nghiệm) là tiêu dùng là phương trình
của thu nhập được coi là vĩnh viễn (permanent income). Khuynh hướng của người tiêu thụ là
không tiêu nhiều thu nhập nhất thời. Do đó chi tiêu như trên sẽ không có kết quả. Cái có kết quả
là giảm lãi suất, là chi đầu tư của nhà nước. Mà hai thứ trên thì cần thời gian mới có tác dụng. Và
chưa chắc nó đã liều thuốc đúng, Mỹ đang cần tiền từ các nước, giảm lãi suất sẽ giảm sức hút
tiền vào Mỹ, đồng thời đẩy mạnh thêm lạm phát, hiện nay đã lên trên 4% năm. Vấn đề là Mỹ
đang tiêu xài nhiều hơn cái họ có. Các giải pháp ngắn hạn và cả suy thoái cũng không thể giải
quyết được vấn đề dài hạn này.

Khủng hoảng Mỹ và kinh tế Việt Nam

Ít nhất là ngày 21 tháng giêng, cuộc khủng hoảng Mỹ đã lan ra thị trường thế giới. Các sàn
chứng khoán của các nước đã giảm 2 đến 7%. Nhiều nền kinh tế đều có đầu tư vào Mỹ, do đó
mất giá ở Mỹ sẽ đẩy mạnh mất giá trên toàn cầu. Cụt vốn khắp nơi không thể không ảnh hưởng
đến đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, nếu khủng hoảng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất vì giảm
tiêu dùng như đang hình thành ở Mỹ thì hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ giảm, đưa đến giảm xuất
khẩu của nhiều nước. Việt Nam cũng khó tránh khỏi vấn đề này, nhất là thị trường Mỹ vào năm
2007 đã chiếm tới 24% trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam.

Bài học lớn hơn Việt Nam cần rút ra là mối đe đoạ về một cuộc khủng hoảng tương tự về tài
chính đang tiềm ẩn mà Việt Nam dường như chưa thấy mối nguy cơ. Có hai thị trường ở ta mà ai
cũng thấy là bong bóng: đó là thị trường nhà đất và thị trường chứng khoán. Cộng thêm là mối
đe doạ lạm phát mạnh đang đè nặng. Thay vì áp dụng các biện pháp nhằm giảm bong bóng trên
thị trường nhà đất (như đánh thuế nhà đất, đánh thuế lãi bán địa ốc như thu nhập) và để thị
trường chứng khoán tự nó giải quyết nó, khó lòng hiểu được quyết định của nhà nước vừa qua
như tin loan trên KinhtếSaigononline (2/1/08):

Ngân hàng Nhà nước đã quyết đinh sẽ mua vào ngoại tệ từ ngày 15-1 để nhằm bơm tiền đồng
vào thị trường chứng khoán, đồng thời sẽ có phương án cho phép các ngân hàng cho vay đầu tư
chứng khoán tùy theo năng lực của mình để đẩy giá chứng khoán lên.
Cho phép ngân hàng cho vay mua chứng khoán theo năng lực và đẩy tiền mua ngoại tệ với hy
vọng bơm tiền thêm vào bong bóng. Hành động trên có hai tác động xấu. Thứ nhất, nó sẽ làm
suy yếu hệ thống ngân hàng vì đồng tiền của dân không còn được bảo đảm: sự suy sụp của
chứng khoán sẽ kéo theo sự suy sụp của ngân hàng do mất khả năng thanh toán. Thứ hai nó sẽ
đẩy mạnh thêm lạm phát, làm khốn khổ thêm đời sống của nhân dân và làm suy yếu toàn bộ nền
kinh tế. Và tại sao lại phải cứu thị trường chứng khoán, khi trong thời gian qua nó đang từ từ trở
về giá trị đúng của nó? Không lẽ bộ máy nhà nước được dùng để cứu nguy đại gia? Có người
cho rằng thay vì bơm tiền đồng thì cho phép nước ngoài dùng tiền ngoại để mua, điều này cũng
khá quái gở vì thứ nhất tiền không lẽ được đút túi quần (dù là tiền gì) và thứ hai tại sao lại cổ võ
dùng đồng ngoại. Nếu thế tại sao không dẹp luôn tiền đồng và dùng tiền đô như một vài nước
đang làm và qua đó dẹp luôn khả năng nhà nước có chính sách tiền tệ và tài chính độc lập.

Việt Nam và 4 dấu hiệu khủng hoảng tài chính

E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ:


Ý kiến (0)

Hệ thống tài chính của Việt Nam vẫn chịu sự chi phối bởi các ngân hàng thương mại không được kiểm
soát một cách hiệu quả với lượng nợ xấu khá lớn.

▪ THÙY TRANG
10:01 (GMT+7) - Thứ Năm, 21/2/2008

Nhiều chuyên gia cho rằng, nhiều dấu hiệu yếu kém từng là nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng 1997 đang xuất hiện ở Việt Nam

Liệu Việt Nam có đang đứng trước một cuộc khủng hoảng tài chính?

Xét về mặt ngắn hạn, câu trả lời được Giáo sư David Dapice, Chuyên gia kinh tế trưởng Chương trình
“Việt Nam cùng các cộng sự” đưa ra là “Không”.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, nhiều dấu hiệu yếu kém từng là nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng 1997 đang xuất hiện ở Việt Nam.

Những lập luận cho nhận định trên được các giáo sư, chuyên gia của Đại học Harvard danh tiếng nói tới
trong bài viết “Lựa chọn thành công” đã được chúng tôi đề cập gần đây. Đây là một công trình nghiên
cứu có chất lượng không chỉ bao trùm các vấn đề mang tính chiến lược phát triển lâu dài mà còn đề cập
nhiều ý tưởng về các biện pháp cho những vấn đề nóng hổi mang tính thời sự hiện nay.
Lịch sử có lặp lại?

Nhóm chuyên gia nhìn nhận Việt Nam đã có nhiều thay đổi qua 20 năm với thành tích tăng trưởng cao và
rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát nghèo. Họ nói: “Với tư cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng
nhận được sự nể trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn trong cộng đồng quốc tế”.

Theo các chuyên gia, bên cạnh những thành quả đó, Việt Nam cần hành động một cách quả quyết nhằm
ngăn chặn những nguy cơ làm suy giảm tốc độ tăng trưởng. Một trong những nơi có thể xảy ra là hoạt
động của hệ thống tài chính. Bên cạnh yếu tố lạm phát thì vấn đề trung tâm được các chuyên gia đề cập
đến chính là hiệu quả đầu tư.

Các chuyên gia nhận xét: “Trong khi khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra hơn 90% việc làm trong
khu vực công nghiệp và gần 70% sản lượng công nghiệp thì phần lớn tín dụng và đầu tư của Nhà nước
lại được dành cho khu vực kinh tế quốc doanh”. Và “giao dịch nội gián đã trở thành hiện tượng phổ biến
trên thị trường chứng khoán, trong đó nạn nhân là các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Đồng thời, các giám đốc và
những người “chủ” doanh nghiệp vẫn tiếp tục lợi dụng kẽ hở của thị trường để trục lợi cho mình”.

Đề cập đến những dấu hiệu chủ yếu đang xuất hiện ở Việt Nam cũng từng là nguyên nhân dẫn đến cuộc
khủng hoảng tài chính châu Á 1997, Giáo sư Đại học Harvard đưa ra 4 dấu hiệu chính.

Đầu tiên, mặc dù thị trường chứng khoán đã phát triển rất nhanh trong thời gian qua nhưng hệ thống tài
chính của Việt Nam vẫn chịu sự chi phối bởi các ngân hàng thương mại không được kiểm soát một cách
hiệu quả với lượng nợ xấu khá lớn.

Thứ hai, đầu tư quá mức (gần 40% GDP) và hệ số ICOR 4,4 (có nghĩa là Việt Nam hiện cần 4,4 đơn vị
đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng) là rất cao so với các nước khác trong khu vực ở những giai
đoạn phát triển tương đương như Việt Nam bây giờ (hệ số ICOR trung bình của các nước trong khu vực
là khoảng 3).

Thứ ba, một lượng tiền lớn có nguồn gốc tham nhũng, rửa tiền, và đầu tư nước ngoài đang đổ vào thị
trường bất động sản và chứng khoán, tạo nên bong bóng tài sản.

Thứ tư, thâm hụt thương mại tăng nhanh và tỷ giá dao động bất thường là những dấu hiệu của những rủi
ro ngầm ẩn. Việt Nam cũng đang tích luỹ một lượng lớn nợ ngoại tệ không được phòng vệ.

Theo nhóm chuyên gia, tất cả những rủi ro trên chưa dẫn tới một cuộc khủng hoảng tài chính là nhờ Việt
Nam vẫn chưa tự do hóa tài khoản vốn, dư nợ nước ngoài ngắn hạn của Việt Nam còn ở mức kiểm soát
được, và lượng vốn đầu tư nước ngoài vẫn đang tiếp tục đổ vào giúp cân đối lại phần nào cán cân tài
khoản vãng lai.

Tuy nhiên, trong số 10 triệu chứng dẫn đến khủng hoảng 1997, thì các chuyên gia thống kê được có 8
triệu chứng Việt Nam bị “dính”, gồm: thâm hụt tài khoản vãng lai, bong bóng tài sản, vay ngoại tệ không
phòng vệ, hệ số ICOR cao, đầu tư công kém hiệu quả, kiểm soát bất cẩn đối với ngân hàng, nợ xấu cao,
vay nợ chéo trong tập đoàn; và chỉ có 2 triệu chứng là không có, gồm: nợ nước ngoài ngắn hạn và tự do
hóa tài khoản vốn.

Sứ mệnh khó khăn

Trong khi các chuyên gia đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng một hệ thống tài
chính hiện đại vào một thời điểm tương đối thuận lợi khi thị trường vốn quốc tế, đặc biệt ở châu Á đang
có tính thanh khoản rất cao, thì cũng có không ít những góp ý được nêu ra.

Theo các chuyên gia, chênh lệch lãi suất của trái phiếu quốc tế đầu tiên của Việt Nam được phát hành
cuối năm 2005 (được kỳ vọng sẽ là cơ sở để các tập đoàn nhà nước vay vốn trên thị trường quốc tế)
luôn thấp hơn mức EMBI trung bình (chỉ số EMBI của JP Morgan đo lường khoảng chênh lệch giữa lãi
suất trái phiếu của Chính phủ Mỹ và của các nền kinh tế mới nổi).
Điều này có nghĩa là các nước đang phát triển như Việt Nam có thể vay vốn từ thị trường quốc tế với
mức lãi suất thấp, và đây thực sự là một cơ hội cho Việt Nam nếu việc tài trợ bằng vốn vay nước ngoài
được thực hiện một cách cẩn trọng. Tuy nhiên, các chuyên gia khẳng định sẽ có một nguy cơ là Chính
phủ và các công ty trong nước trở nên phụ thuộc quá nhiều vào các khoản vay nước ngoài.

Theo phân tích của nhóm chuyên gia, các doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng vốn một cách kém hiệu
quả. Nếu tình trạng này tiếp diễn và các doanh nghiệp này lại được phép tiếp cận với thị trường vốn quốc
tế thì một rủi ro thực tế là Việt Nam sẽ phải trả một cái giá khá đắt cho những khoản vay không mang lại
mấy giá trị.

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng lưu ý rằng ngay cả trong giai đoạn thị trường thuận lợi thì Nhà nước
vẫn phải thận trọng trong việc giữ nợ ở mức kiểm soát được để tránh những cú sốc chắc chắn sẽ xảy ra
trong tương lai. Các chuyên gia cũng nhận xét cải cách khu vực ngân hàng ở Việt Nam đã có nhiều tiến
bộ.

Song để phát triển bền vững thì Việt Nam cần có một ngân hàng trung ương thực thụ, có thẩm quyền và
khả năng điều tiết, giám sát hệ thống ngân hàng,và điều hành chính sách tiền tệ. Điều này chỉ có thể trở
thành hiện thực khi ngân hàng trung ương phải được độc lập trên các phương diện cơ bản, bao gồm độc
lập về mặt tài chính, nhân sự, công cụ, và mục tiêu.
thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN

Số 17 - Tháng 11/2009

Khủng hoảng kinh tế Việt Nam 2008:


sự sai lầm về chính sách
và vai trò của tập đoàn kinh tế quốc doanh*
Vũ Quang Việt

*Đây là bản viết lại bài “Vietnam’s Economic Crisis: Policy Follies and the Role of
State-Owned Conglomerates” trong
Southeast Asian Affairs 2009, tr. 389-417

Nhập đề

Năm 2007 đã để lại một dấu ấn quan trọng trong lịch sử kinh tế khi Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) vào
ngày 11 tháng 1 năm 2007 sau khi gói đề nghị của Việt Nam được Đại Hội đồng của
WTO chấp nhận vào ngày 7 tháng 11 năm 2006. Đối với giới lãnh đạo chính trị và dân
chúng Việt Nam, trở thành thành viên WTO là cuộc vượt rào cản cuối cùng để Việt
Nam hoàn toàn có thể hòa nhập với cộng đồng thế giới, đặc biệt khi mà Mỹ lúc đó vẫn
có khả năng ngăn chận chuyện này, và như thế chặn đường phát triển kinh tế của Việt
Nam nhằm mục đích đòi hỏi các nhân nhượng về chính trị. Việc gia nhập WTO do đó
được các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam coi là một thắng lợi lớn. Và như tất
cả các cuộc thắng lợi lớn trong quá khứ, dù là đối với Pháp hay với Mỹ, họ như được
uống liều thuốc thánh, trở nên mê hoặc với các kế hoạch vĩ đại bất chấp thực tế.

Lần này, chính quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tin rằng việc nhanh
chóng bắt kịp các nước trong khu vực đã nằm trong tầm tay. Kế hoạch năm 2008 đặt
mục tiêu tăng GDP ở mức 8.5-9%, bằng cách vừa tập trung kêu gọi nước ngoài đầu tư
trực tiếp và đầu tư tài chính gián tiếp, vừa tăng cường vai trò của các tập đoàn quốc
Kinh tế Việt Nam có bị khủng hoảng?

Tốc độ tăng trưởng cao nhưng lạm phát phi mã, gia tăng các hoạt động đầu cơ đang khiến kinh tế
VN để lộ nhiều “khoảng trống”. Tuy nhiên các chuyên gia của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế
Trung ương (CIEM) đều đồng thuận quan điểm: Khủng hoảng kinh tế khó có thể chạm tới VN.

Hệ luỵ đằng sau những con số “vượt quá mong đợi”

Năm 2007, FDI vào VN chỉ có thể gói gọn trong hai chữ “bùng nổ” và vượt quá mong đợi. Tuy
nhiên, một phần vốn lớn trong tổng số 20,3 tỷ USD cam kết vào VN lại không tập trung cho sản
xuất mà chủ yếu rót vào hoạt động đầu cơ chứng khoán, bất động sản vốn đầy may rủi và bất an.

Trong khi, thị trường chứng khoán - sức hút của nền kinh tế VN cũng đang trải qua quá nhiều “bĩ
cực”. Sau giai đoạn thăng hoa với quy mô vốn hoá tăng từ 1,1%GDP (cuối năm 2005) lên trên
40% (cuối năm 2007), sự tăng trưởng quá nóng của thị trường đã kéo theo hệ luỵ tất yếu là tình
trạng đổ nhào và tốc độ rớt giá vô cùng khủng khiếp của tất cả chứng khoán niêm yết.

Chỉ tính trong vòng một năm trở lại đây, đà sụt giảm của VN-Index đã khiến chứng khoán VN
đánh mất không dưới một nửa thành quả phấn đấu trong suốt 7 năm ròng. Từ đỉnh 1170,67 điểm
lập ngày 12/3/2007, VN-Index tính đến hết phiên giao dịch sáng 2/4 chỉ còn giữ được mức
525,11 điểm. Hầu hết cổ phiếu đều giảm từ 50% đến 60 - 70% thị giá so với đỉnh xác lập cách
đây đúng tròn một năm .

Khi thị trường chứng khoán rơi vào chuỗi ngày “tăm tối”, lạm phát đẩy chi phí tiêu dùng, sản
xuất đội lên 20 - 30%, người dân phàn nàn, doanh nghiệp trong nước kêu than... không ít nhà đầu
tư đã tỏ ra lo ngại về những mỹ từ sớm được mặc định cho VN - “ngôi sao đang lên”, “con rồng
đang thức tỉnh ở Đông Á”… Những “khoảng trống” khó có thể hàn lấp một sớm một chiều dần
lộ diện làm dấy lên không ít trăn trở cho tương lai phát triển của kinh tế VN. Liệu một cuộc
khủng hoảng tài chính của năm 1997 có một lần nữa tái hiện?

Tuy nhiên, câu trả lời cho những ai đang quan ngại về nguy cơ một cuộc khủng hoảng kinh tế có
thể đổ bộ đến VN đã được các chuyên gia kinh tế CIEM khẳng định là “không”.

Mấu chốt để kinh tế VN đứng vững

Nếu nhìn một cách thẳng thắn, khó có thể phủ nhận những dấu hiệu bất ổn đang chớm xuất hiện
trong kinh tế vĩ mô của VN theo như nhận định của TS. Ulrike Maenner, Giám đốc kỹ thuật của
Chương trình cải cách kinh tế vĩ mô GTZ VN.

Chính sách tiền tệ và điều hành tỷ giá đang bộc lộ sự thiếu nhất quán trong mục tiêu kiềm chế
lạm phát và bình ổn tỷ giá. Năng lực quản trị rủi ro còn non kém của đa số doanh nghiệp trong
nước… Chưa kể, khả năng thu thập, phân tích, xử lý và dự báo thông tin liên quan đến biến động
giá cả hàng hoá, thị trường tài chính tiền tệ thế giới cũng là thách thức không nhỏ đặt ra cho các
nhà hoạch định chính sách VN.

Chỉ riêng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) ba tháng đầu năm 2008 của VN đã là 9,2%, trong khi cả năm
2007 con số này ở mức 12,6% đã khiến người dân hoảng sợ. Nếu không kiềm chế được lạm
phát, luồng vốn lớn sẽ đổ vào các hoạt động đầu cơ thay vì tập trung hợp lý cho hoạt động sản
xuất tạo giá trị gia tăng đich thực cho nền kinh tế - cũng là cảnh báo cấp thiết được các chuyên
gia của CIEM đưa ra.

Bài toán hoá giải mối quan hệ: tăng trưởng kinh tế - kiềm chế lạm phát đang là một phương trình
không dễ tìm ra đáp số đối với các nhà quản trị, điều hành kinh tế của VN.

Tuy nhiên, vẫn có những cơ sở chắc chắc để các chuyên gia của CIEM khẳng định - kinh tế VN
sẽ không rơi vào khủng hoảng - mấu chốt là do VN vẫn chưa tự do hoá tài sản vốn và Chính phủ
VN đang nỗ lực điều hành, bình ổn thị trường .

Nhìn một cách tích cực, thâm hụt thương mại khá nặng nề của VN âu cũng là điều tương đối dễ
hiểu với một nước đang phát triển nhanh chóng cần nhập lượng lớn máy móc, thiết bị tăng cường
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.

Trong khi, nợ nước ngoài của VN vẫn đang trong “tầm kiểm soát”, cán cân thanh toán quốc tế
nhờ lượng kiều hối, FDI và vốn đầu tư gián tiếp vẫn duy trì được thặng dư. Đặc biệt, nỗ lực
“chìa vai” gánh vác, ổn định thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán, của Chính phủ
VN hiện nay đang là cơ sở cho niềm tin lớn của nhà đầu tư vào sự ổn định và phát triển của kinh
tế VN.

KINH TẾ VIỆT NAM TRƯỚC KHỦNG HOẢNG TÀI


CHÍNH TOÀN CẦU
Posted on 14/06/2009 by Civillawinfor

TS. NGUYỄN VĂN TẠO – Trường BDCB Tài chính – Bộ Tài chính

I. Đánh giá tác động của khủng hoảng tài chính tòan cầu đến Việt Nam

1. Đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế

Tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của
nước ta chậm lại. Kế hoạch đầu năm 2008, tăng trưởng GDP dự kiến từ 8,5 – 9%. Tháng 5 năm
2008 Quốc hội đã điều chỉnh tỷ lệ tăng trưởng GDP xuống 7%, nhưng đến tháng 10 năm 2008 tỷ
lệ tăng trưởng GDP thực tế là 6,52%, dự kiến năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ từ 6,5 đến
6,7%.

2. Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng

Mặc dù hiện tại hệ thống tài chính ngân hàng của Việt Nam chưa chịu tác động mạnh từ cuộc
khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu
của hội nhập; nhưng trước mắt sẽ có những hạn chế trên một số lĩnh vực như:
- Mức độ liên thông giữa hệ thống ngân hàng Việt Nam với thị trường tài chính bên ngoài và với
ngân hàng Mỹ sẽ gặp khó khăn;

- Trong ngắn hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân
hàng có thể giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống
ngân hàng tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong một vài năm;

- Khả năng giao dịch ngân hàng, tài chính quốc tế sẽ giảm, ảnh hưởng đến nợ vay ngắn hạn của
Việt Nam tại các ngân hàng và doanh nghiệp.

3. Đối với hoạt động xuất khẩu

Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chiếm khoảng 20-21% kim ngạch xuất
khẩu. Khủng hoảng tài chính đã tác động đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ do
cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ đang trên đà giảm mạnh. Việc suy giảm tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu vào thị trường Mỹ sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của ViệtNam
trong năm 2008 và cả năm 2009 (nếu nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi). Tuy nhiên,
mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng.

Khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác trên thế giới, đặc biệt
là EU và Nhật Bản – đây là hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. Do tác động của
khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt giảm chi tiêu, các nhà nhập khẩu
không có khả năng thanh toán do khó khăn về tài chính, theo đó nhập khẩu đối với hàng hoá xuất
khẩu của Việt Nam sẽ có xu hướng giảm. Thực tế những tháng gần đây, với tác động tiêu cực
của khủng hoảng tài chính, xuất khẩu của Việt nam đã bắt đầu có biểu hiện giảm sút, kim ngạch
xuất khẩu tháng 11 đã tiếp tục giảm và xuống dưới ngưỡng 5 tỷ USD/tháng. Đây là tháng thứ ba
kim ngạch xuất khẩu suy giảm. Tháng 11 năm 2008 kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ còn 4,8 tỷ
USD giảm so với mức 5,044 tỷ USD của tháng 10. Trong đó: Dệt may giữ được kim ngạch ở
mức 780 triệu USD, giày dép tăng nhẹ lên 400 triệu USD so với 396 triệu USD của tháng
10/2008. Một số mặt hàng khác cũng suy giảm trong đó đặc biệt là dầu thô giảm mạnh do giá
dầu đã giảm 60% so với mức tháng 7/2008. Dấu hiệu của suy giảm kinh tế đã bắt đầu xuất hiện.
Khủng hoảng tài chính sẽ dẫn đến suy thoái kinh tế, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam sẽ
giảm giá và chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu.

4. Đối với vốn đầu tư của nước ngoài kể cả đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp

Với tình hình khủng hoảng như hiện nay, chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất khẩu
có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào ViệtNam có khả năng giảm sút. Thêm vào đó, hầu
hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài chính, các ngân hàng gặp khó khăn sẽ làm cho nhiều
hợp đồng vay vốn không được ký kết hoặc không thể giải ngân được. Tuy nhiên, theo dự báo
(tháng 11 năm 2008) Việt Nam vẫn thực hiện khoảng 10 tỷ USD vốn giải ngân, bằng 16,2% vốn
đăng ký và tăng 44% so với cùng kỳ năm 2007. Qua xem xét luồng vốn FDI trong 11 tháng đầu
năm nay, có thể nhận thấy hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài là từ châu Á (13% từ Nhật Bản và
67% từ các nước châu Á khác), trong đó các nhà đầu tư đến từ châu Âu và Mỹ chiếm một tỷ lệ
khá khiêm tốn khoảng 5% trong số vốn đăng ký, gần 60 tỷ USD. Do vậy, năm 2008 Việt Nam có
cơ sở để tin tưởng việc triển khai thực hiện các dự án đăng ký trong năm 2008 sẽ không gặp
nhiều khó khăn và trong năm 2009 hy vọng sẽ tăng lên hoặc có thể giữ ở mức như năm 2008.

Tình hình chung do khủng hoảng tài chính với việc làm khó khăn, thu nhập giảm, tiêu dùng giảm
lượng kiều hối có khả năng sụt giảm. Tuy nhiên, cho đến nay lượng kiều hối vẫn tăng ổn định,
dự kiến năm nay đạt khoảng 8 tỷ USD tăng 60% so với năm 2007. Mặc dù vậy nếu khủng hoảng
vẫn còn kéo dài, lượng kiều hối sút giảm là điều không thể tránh khỏi.

5. Hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ gặp khó khăn, bất lợi cho các nhà đầu

- Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới, theo đó các
nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc huy động vốn, hoặc họ
sẽ có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị trường lớn của họ đang gặp
khó khăn và việc họ cơ cấu lại chứng khoán Việt Nam là điều có thể xảy ra.

- Có thể có khả năng các nhà đầu tư ngoại rút vốn khỏi thị trường Việt Nam để ứng cứu cho công
ty mẹ tại các thị trường lớn, nhưng khả năng này rất ít vì lượng vốn đầu tư của mỗi nhà đầu tư ở
thị trường Việt Nam là không nhiều và hiện Việt Nam vẫn là địa điểm đầu tư an toàn có độ tin
cậy cao. TTCK Việt Nam là một nơi có ưu thế đầu tư khi tình hình kinh tế vĩ mô ViệtNam đang
có chiều hướng tốt dần…

- Do tác động của khủng hoảng tài chính, các doanh nghiệp đang niêm yết trên thị trường chứng
khoán sẽ không tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ
phiếu có thể sụt giảm.

- Khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt
Nam, TTCK lập tức bị tác động xấu vì những lo ngại của các nhà đầu tư trong nước. Yếu tố tâm
lý là khá quan trọng, vì vậy cần có những giải pháp, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền đầy đủ để
củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư; hạn chế những lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến
TTCK.

6. Đối với thị trường bất động sản (BĐS)

Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam tiềm lực tài chính khá hạn
hẹp mà phần lớn phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ
chức tín dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng
hoảng tài chính hiện nay.

Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với giá trị
thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 nền kinh tế Việt Nam
gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao buộc người dân phải
giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến 40%, các doanh nghiệp kinh
doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm lại phải chịu lãi suất cao do chính sách
thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng cao. Đến nay thị trường cũng chưa có dấu hiệu phục
hồi. Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho cơ
cấu vốn của ngân hàng thương mại rơi vào tình thế bất lợi.

Hiện nay khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc tuy không làm
ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng gián tiếp qua các tác
động đến thị trường tài chính tiền tệ, thị trường chứng khoán và các yếu tố tâm lý của người dân.
Tuy nhiên theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5%
tổng số dư nợ của các Ngân hàng và tổ chức tín dụng. Mặc dù vậy việc tác động gián tiếp đến thị
trường BĐS Việt Nam như đã nói ở trên là có thể.

7. Đối với thị trường hàng hoá và dịch vụ

Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dung. Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái, tình
hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung vẫn còn nhiều khó
khăn. Trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu hẹp
quy mô do chi phí sản xuất tăng, đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Một số hoạt động dịch vụ sẽ bị
thu hẹp, đặc biệt là lượng khách du lịch sẽ giảm so với năm 2007.

II. Giải pháp ứng phó của Việt Nam

Trước những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngay từ quý I năm 2008 Chính phủ
Việt Nam đưa ra một loạt giải pháp để ngăn chặn, phòng ngừa những hậu quả khôn lường của
“Cơn bão tài chính”. Rất may cho Việt Nam là đã phải chống từ đầu năm. Trận bão vào quý I
năm 2008 đã khiến Việt Nam kịp thời áp dụng các biện pháp hợp lý để phòng vệ. Các biện pháp
ổn định kinh tế vĩ mô đã phát huy tác dụng, lạm phát giảm, tính thanh khoản giữa các ngân hàng
được tăng cường, thanh khoản của thị trường được đảm bảo, thu hẹp cán cân thương mại, tăng
cường ngân sách nhà nước, thắt chặt chi tiêu công, tăng dự trữ ngoại tệ. Sự chao đảo của thị
trường thế giới khiến giá nguyên liệu giảm dẫn đến làm giảm gánh nặng trợ cấp giá nguyên liệu
của ngân sách nhà nước. Các ngân hàng thương mại cũng được hỗ trợ bằng nhiều biện pháp của
Ngân hàng nhà nước. Đến tháng 11 năm 2008 CPI tăng 20,71%, các chuyên gia nhận định CPI
năm 2008 không thể vượt quá 24% và năm 2009 sẽ chỉ ở mức 10 -12%. Tuy nhiên, tiềm ẩn nguy
cơ của khủng hoảng tài chính là rất lớn, cơn bão tài chính toàn cầu chưa có hồi kết, vì vậy việc
tiếp tục thực hiện các biện pháp để ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh và đẩy
mạnh xuất khẩu… cần phải được quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Cụ thể:

- Tiếp tục thực hiện 08 nhóm giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, 08 nhóm giải pháp nói trên được Chính phủ đưa ra từ tháng 4 năm 2008 đến nay tình
hình đã khác nhiều, vì vậy việc thực hiện các giải pháp này trong thời gian tới phải có những đối
sách phù hợp. Theo chúng tôi cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:

* Đối với chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá:

+ Năm 2009 cần áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, kích thích đầu tư. Để góp
phần tháo gỡ khó khăn hiện nay cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngân
hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp như khoanh nợ, giãn nợ, giảm lãi suất cho vay. Cùng với đó,
chính sách tài khoá cũng được xem xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu.

Chọn thời điểm để nới rộng biên độ tỷ giá, hiện nay là 3%, trường hợp cần thiết nới lên 5%.

+ Quản lý chặt chẽ thị trường giao dịch ngoại tệ tự do để tránh hiện tượng đầu cơ dẫn đến xu
hướng nhà đầu tư trong nước rút tiền chuyển thành ngoại tệ, gây sức ép lên vấn đề tỷ giá và dự
trữ ngoại tệ.

+ Thường xuyên rà soát đánh giá lại các khoản vay nợ ngắn hạn nước ngoài của Chính phủ, ngân
hàng, doanh nghiệp (kể cả khoản LC trả chậm) và danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài.

+ Nâng cao khả năng tài chính cho các ngân hàng để giữ chân luồng vốn nước ngoài.

+ Chính phủ cần nghiên cứu xem xét về cấp hạn ngạch cho việc mua trái phiếu của nhà đầu tư
nước ngoài để đảm bảo tỷ lệ kiểm soát, phòng khi nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn bằng bán
trái phiếu.

+ Tiếp tục thắt chặt chi tiêu công nhất là những dự án kém hiệu quả và chưa cần thiết.

* Khuyến khích đầu tư và xuất khẩu:

Cần tìm mọi cách để hỗ trợ xuất khẩu bao gồm: vốn, lãi suất, thuế, thủ tục mở rộng thị trường.
Bây giờ là thời điểm để thực hiện việc kích cầu đầu tư, đặc biệt đối với đầu tư vào hạ tầng, kích
thích đầu tư vào các dự án có hiệu quả không những bằng nguồn vốn ngân sách, trái phiếu Chính
phủ mà bằng cả sự tham gia của doanh nghiệp, của tư nhân, của các thành phần kinh tế khác
trong và ngoài nước. Cùng với kích cầu đầu tư cần phải tính ngay đến giải pháp kích cầu tiêu
dùng bằng biện pháp hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, giảm thuế, miễn thuế… Điều này sẽ
giải quyết được bài toán tồn đọng vốn tại ngân hàng và giảm áp lực về chỉ tiêu tăng trưởng xuất
khẩu và thị trường nội địa sẽ được kích cầu.

* Đảm bảo an sinh xã hội:

Thực hiện bằng nhiều biện pháp: Bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp, trồng trọt, chăn
nuôi, bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa xuất khẩu và hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng dễ bị
tổn thương qua cơn bão tài chính.

- Thường xuyên nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp
Nhà nước, DNNVV, công ty cổ phần, công ty niêm yết, doanh nghiệp tư nhân… để có những
giải pháp xử lý phù hợp.

- Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có
môi trường chính trị và kinh doanh ổn định. Việt Namđang có lợi thế này và vì vậy cần tận dụng
tốt cơ hội này.
- Đổi mới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu và thị trường xuất khẩu: Tập trung vào xuất khẩu những
mặt hàng Việt Nam có lợi thế. Chuyển việc xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang các thị
trường khác có lợi thế (Đông Nam Á, Châu Phi, Châu Mỹ La tinh)

- Chọn lọc nhập khẩu: Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tranh thủ nhập khẩu các mặt hàng, công
nghệ hiện đại mà các nước phát triển phải bán đi do kinh tế của họ khó khăn.

- Nâng cao năng lực công tác dự báo, đảm bảo theo dõi kịp thời diễn biến khủng hoảng tài chính
ở Mỹ và toàn cầu để đánh giá đúng và đưa ra những giải pháp phù hợp.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đặc biệt là giám sát hoạt động của các Ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính tín dụng.

- Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế bằng nhiều giải pháp như kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu
dùng, thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa…

- Khủng hoảng tài chính tuy có những tác động nhất định đến nền kinh tế Việt Nam trong ngắn
hạn. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để Việt Nam có thể thay đổi chính sách, rà soát lại các chính
sách chưa phù hợp nhằm đưa ra các chính sách phù hợp hơn như: chính sách về xuất khẩu, tỷ
giá, tiền tệ, tài khoá…

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang ở giai đoạn tồi tệ nhất, nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản và EU
đang có biểu hiện suy thoái. Vì vậy việc đánh giá hết tác động của khủng hoảng là cực kỳ khó
khăn. Hơn lúc nào hết các nước nói chung và Việt Nam nói riêng phải hết sức bình tĩnh chung
tay góp sức để có những giải pháp hiệu quả nhằm từng bước khắc phục những hậu quả của
khủng hoảng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chính phủ (2008), Báo cáo tại Kỳ họp Quốc hội tháng 11 năm 2008;

2. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế xã hội (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Báo cáo nhanh.

3. Thông tấn xã Việt Nam, Thông tin tổng hợp tháng 11/2008.

4. Trường BDCB tài chính (2008), Kết quả Hội thảo trực tuyến “Khủng hoảng tài chính phố
Wall: Những biện pháp ứng phó đối với các nền kinh tế châu Á” do Trường BDCB tài chính
phối hợp với Trung tâm Tài chính và Phát triển châu Á – Thái Bình Dương thuộc Bộ Tài chính
Trung Quốc và Trung tâm Thông tin và Phát triển Việt Nam (VDIC) thuộc Ngân hàng Thế giới
tổ chức ngày 27/11/2008.

SOURCE: TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SỐ 220 – THÁNG 2 NĂM 2009

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 là một cuộc khủng hoảng bao gồm
sự đổ vỡ hàng loạt hệ thống ngân hàng, tình trạng đói tín dụng, tình trạng sụt giá
chứng khoán và mất giá tiền tệ quy mô lớn ở nhiều nước trên thế giới, có nguồn gốc
từ khủng hoảng tài chính ở Hoa Kỳ.

Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính đến Việt Nam: Được và mất

E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ:


Ý kiến (15)

Khủng hoảng tài chính toàn cầu vẫn đang diễn biến phức tạp - Ảnh Reuters.

▪ VNECONOMY
13:48 (GMT+7) - Thứ Năm, 16/10/2008

Nội dung chính của tọa đàm - giao lưu trực tuyến diễn ra trên VnEconomy về ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính

Nội dung chính của tọa đàm - giao lưu trực tuyến diễn ra trên VnEconomy về ảnh hưởng của
khủng hoảng tài chính.

Bắt đầu từ 14 giờ và kết thúc khi đã gần 18 giờ ngày 16/10, vượt quá thời gian dự kiến, cuộc tọa đàm -
giao lưu trực tuyến tập trung nhận định về tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - hiện đang lan rộng
trên toàn cầu - đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và một số lĩnh vực cụ thể, đặc biệt trong các lĩnh
vực xuất nhập khẩu và hoạt động tài chính… Đồng thời, những đề xuất về giải pháp hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của khủng hoảng đối với kinh tế trong nước cũng là một nội dung quan trọng.

Khách mời của chúng tôi là các chuyên gia đầu ngành, các nhà nghiên cứu độc lập đang hoạt động trong
và ngoài nước, có mặt tại các "đầu cầu" trực tuyến tại Hà Nội, Tp.HCM, Mỹ và Australia:

- Ông Đào Nguyên Cát, Giáo sư kinh tế, Tổng biên tập Thời báo Kinh tế Việt Nam;

- Ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương), thành viên Hội
đồng Tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia;

- Ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thành viên Hội đồng Tư vấn
chính sách tiền tệ Quốc gia;

- Ông Bùi Kiến Thành, Chuyên gia tài chính độc lập;

- Ông Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc phụ trách nghiên cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright;

- Ông Huỳnh Thế Du, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, hiện đang có mặt tại Mỹ;
- Ông Mạc Quang Huy, Chuyên gia tài chính độc lập, hiện đang có mặt tại Australia;

Ông Đào Ông Trương Ông Cao Sỹ Ông Bùi Ông Vũ Ông Huỳnh Ông Mạc
Nguyên Cát Đình Tuyển Kiêm Kiến Thành Thành Tự Thế Du Quang Huy
Anh

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu những nội dung chính của cuộc tọa đàm - giao lưu trực tuyến này:

Nhiều bạn đọc:

Đến thời điểm này cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và ảnh hưởng của nó vẫn đang diễn biến phức tạp.
Các chuyên gia nhận định thế nào về tác động của nó đối với Việt Nam, xét ở phương diện vĩ mô?

Ông Bùi Kiến Thành:

Nguồn gốc của cuộc khủng hoảng, tôi đã phác họa qua trong một bài báo gần đây trên VnEconomy
(http://vneconomy.vn/20081006102144637P0C6/kinh-te-viet-nam-co-vuot-qua-con-bao-tai-chinh-
my.htm).

Bắt đầu từ khủng hoảng các hợp đồng cho vay bất động sản thế chấp, tổng số khoảng 12 ngàn tỷ USD,
trong đó 3 đến 4 ngàn tỷ USD là dưới chuẩn, khó đòi. Những người không có khả năng trả nợ cũng được
cho vay.

Những hợp đồng đó được chuyên gia tài chính Phố Wall gom lại và phát hành chứng khoán phái sinh,
được bảo đảm bởi những hợp đồng cho vay thế chấp này để bán ra trên khắp các thị trường quốc tế.

Khi các chứng khoán này mất giá thảm hại, thị trường không có người mua, nên các ngân hàng, công ty
bảo hiểm, các tổ chức tài chính nắm hàng ngàn tỷ USD chứng khoán đó không bán được, mất khả năng
thanh khoản, và mất khả năng thanh toán, đi đến gục ngã hoặc phá sản.

Chính phủ Mỹ đã đưa ra các gói giải pháp để mua những tài sản nhiễm độc đó, nay đổi hướng một phần
250 tỷ USD (trong gói 700 tỷ USD) mua cổ phần của các ngân hàng...

Điều này không chỉ có ở Mỹ mà các thị trường tài chính nhiều nước châu âu cũng bắt chước Mỹ phát
hành các trái phiếu phái sinh tương tự, tổng số chứng khoán phái sinh này hiện nay trên toàn thế giới
chưa thể ước lượng được, vì vậy tác động của nó trên toàn thế giới cũng chưa thể đo lường hết được.

Nhiều ngân hàng vì mất khả năng thanh khoản đã co lại, rút lại tín dụng, điều này đã khiến các doanh
nghiệp khó tiếp cận thị trường vốn và bị ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất kinh doanh.

Về phía Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp thì cũng có giới hạn vì Việt Nam chưa tham gia nhiều vào thị
trường tài chính thế giới và không tham gia mua bán chứng khoán phái sinh này.

Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng
(Libor và Sibor, tức London Inter Bank offer rate, Singapore Inter Bank Offer rate, thường được dùng làm
lãi suất cơ sở để cho các xí nghiệp và ngân hàng Việt Nam vay).
Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay
chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân
được.

Đối với thị trường chứng khoán, có khả năng nhà đầu tư nước ngoài phải thu hồi nguồn vốn và bán
chứng khoán. Điều này tác động đến dự trữ ngoại hối và giá cả trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư
nước ngoài bán ra nhiều hơn mua vào sẽ làm giảm giá chứng khoán của Việt Nam.

Gián tiếp, thì hoạt động nhập khẩu của các nước sẽ co lại, vì vậy ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt
Nam. Chúng ta xuất khẩu đến 60% GDP vì vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng.

Các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất, công xuất thừa ra sẽ như thế nào?
Thị trường lao động bị ảnh hưởng sẽ nảy sinh các vấn đề về xã hội...

Thời gian tới, các cơ quan của Nhà nước, hiệp hội cần ngồi lại với nhau để làm một nghiên cứu và đưa
ra dự báo ảnh hưởng đến mức nào, lĩnh vực nào ảnh ưởng nhiều nhất để có biện pháp xử lý.

Ông Huỳnh Thế Du:

Theo tôi, với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra sẽ không có nhiều tác động trực tiếp đến
hệ thống tài chính Việt Nam, nhưng nền kinh tế có khả năng sẽ bị ảnh hưởng lớn.

Vấn đề thứ nhất, do hệ thống tài chính Việt Nam dường như chưa hội nhập chung với hệ thống tài chính
toàn cầu, chúng ta chỉ mới mở cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra, do vậy lượng
tiền Việt Nam đầu tư ra bên ngoài dường như không đáng kể và dòng vốn gián tiếp đổ vào Việt Nam
chưa nhiều nên hệ thống tài chính của Việt nam sẽ không chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng này
so với các nước có mức độ hội nhập tài chính sâu rộng.

Những tác động chính từ cuộc khủng hoảng hiện tại đối với hệ thống tài chính Việt Nam chủ yếu là yếu tố
tâm lý. Thấy Dow Jones sụp thì VN-Index cũng xuống theo, trong khi hai thứ dường như không liên quan
nhiều với nhau.

Đối với nền kinh tế, tôi nghĩ sẽ có ba khả năng có thể xảy ra.

Thứ nhất, thâm hụt thương mại gia tăng. Trong thời gian tới, kinh tế Mỹ nói riêng, kinh tế toàn cầu nói
chung sẽ rơi vào tình trạng suy thoái, tốc độ tăng trưởng giảm sút.

Điều này sẽ dẫn đến hệ luỵ là cầu đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm, trong khi cung
đối với các mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng do các nhà sản xuất bị giảm thị trường ở các nước phát triển sẽ
tìm cách mở rộng các thị trường khác.

Như vậy, khả năng xuất khẩu bị giảm mạnh là rất cao trong khi nhập khẩu nếu có giảm cũng sẽ giảm ít
hơn so với xuất khẩu. Điều này sẽ làm cho thâm hụt ngoại thương của Việt nam sẽ gia tăng, nhất là
trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam đã rất mở với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt quá 160%
GDP.

Cũng có thể một số mặt hàng của Việt Nam thuộc loại hàng khiếm dụng có nghĩa là khi thu nhập giảm
xuống thì cầu sẽ gia tăng. Tuy nhiên, có lẽ loại này không nhiều lắm.

Thứ hai, sụt giảm đầu tư do sự giảm sút của dòng vốn từ bên ngoài chảy vào. Nhìn vào số liệu qua khứ
sẽ thấy dòng vốn từ bên ngoài gồm: vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp, vay nợ và kiều hối chiếm
một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam.

Với tình hình hiện tại, do chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp
nên dòng vốn đầu tư chảy vào Việt Nam có khả năng sẽ giảm sút.
Thêm vào đó, hầu hết các dự án đầu tư nói chung, dự án FDI nói riêng, phần nợ vay thường chiếm một
tỷ phần rất lớn trong tổng vốn đầu tư nên khi mà các tổ chức tài chính đang gặp khó khăn sẽ làm cho
nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết hoặc không thể giải ngân.

Mặt khác, do phần còn lại của thế giới gặp khó khăn, thu nhập của người lao động sẽ giảm sút, cuộc
sống khó khăn hơn nên lượng kiều hối chuyển về có khả năng sẽ giảm và hoạt động xuất khẩu bị giảm
sút.

Thứ ba, tiêu dùng giảm sút. Khi sản xuất bị thu hẹp, một số người có khả năng mất việc làm, hay chí ít là
thu nhập bị giảm sút cộng với dòng kiều hối chảy vào sụt giảm sẽ kéo theo sụt giảm trong tiêu dùng của
các hộ gia đình.

Như vậy với khả năng giảm chi tiêu, đầu tư và xuất khẩu trong khi nhập khẩu tăng hoặc giảm chậm hơn
sẽ tác động làm cho GDP sụt giảm và đương nhiên nhiều người có khả năng sẽ mất việc làm, hay chí ít
thu nhập cũng rơi vào tình trạng bấp bênh.

Ông Vũ Thành Tự Anh:

Cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ không chỉ gây chấn động hệ thống tài chính Mỹ mà cơn “địa chấn tài
chính” này đang lan rộng và đe dọa sự ổn định của nhiều quốc gia khác. Trong một thế giới toàn cầu hóa
như ngày nay, sớm hay muộn thì cuộc khủng hoảng này sẽ tạo ra những “sang chấn” đáng kể đổi với
nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam.

Theo tôi, các tác động cụ thể của cuộc khủng hoảng này có thể bao gồm:

(i) Nhu cầu đối với sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị thu hẹp (hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam là sang thị trường Mỹ, EU và Nhật Bản);

(ii) Nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới sẽ làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián
tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không phải là một ngoại lệ;

(iii) Tác động tới khu vực ngân hàng có vẻ như khó nhận thấy hơn. Vì mức độ và trình độ liên kết của các
ngân hàng thương mại Việt Nam đối với hệ thống tài chính quốc tế còn rất hạn chế nên chúng sẽ ít chịu
tác động trực tiếp.

(iv) Thâm hụt tài khoản vãng có thể bị nới rộng. Đồng thời các dòng vốn đổ vào (FDI, FPI, kiều hối) lại ít
đi sẽ làm cán cân thanh toán trở nên xấu đi.

v) Đối với khu vực doanh nghiệp, điều đáng lo ngại là tình trạng cạn kiệt tín dụng trên thế giới lại xảy ra
đúng vào lúc tín dụng dành cho khu vực doanh nghiệp dân doanh ở Việt Nam đang khan hiếm và lãi suất
vay vẫn đang được duy trì ở mức tương đối cao. Điều này có nghĩa là đối với các doanh nghiệp dân
doanh của Việt Nam, con đường phía trước vẫn sẽ còn nhiều khó khăn.

Ông Mạc Quang Huy:

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ là tác động mang tính hai chiều, song chủ yếu là tác động
tiêu cực tới nền kinh tế toàn cầu cũng như của Việt Nam. Do sự hội nhập ngày càng sâu và rộng của nền
kinh tế Việt Nam vào thế giới nên Việt Nam chịu những tác động nhất định, tuy không trực tiếp.

Ảnh hưởng lớn nhất đối với Việt Nam trước hết là về xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ và châu Âu
(chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Khủng hoảng kinh tế hiện đang lan sang châu Á. Quỹ
Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu sụt từ 5% năm 2007 xuống 3,9% năm 2008 và
3% năm 2009. Suy thoái kinh tế sẽ kéo theo nhu cầu tiêu thụ sụt giảm trên phạm vi toàn cầu.

Tác động thứ hai là đầu tư trực tiếp. Chi phí huy động vốn toàn cầu ngày càng tăng do biên độ tín dụng
gia tăng. Chúng ta cần nhìn nhận sự khó khăn ở góc độ toàn cầu thay vì các quốc gia đầu tư vào Việt
Nam, do bản thân các công ty mẹ là các tập đoàn đa quốc gia với hoạt động toàn cầu. Hơn nữa do nhu
cầu tiêu thụ sụt giảm nên việc giải ngân FDI sẽ chậm lại đáng kể.

Tác động thứ ba là đầu tư gián tiếp. Huy động vốn gián tiếp vào thị trường cổ phiếu Việt Nam trong thời
gian tới sẽ rất khó khăn do các nhà đầu tư sẽ hướng tới các kênh đầu tư an toàn (flight to quality). Việc
bán tháo chứng khoán khỏi thị trường Việt Nam là có thể, mặc dù xác suất không cao do tính thanh
khoản và quy mô của thị trường.

Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường chứng khoán và quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước lớn trong các năm tới. Việc huy động vốn thông qua thị trường vốn khó khăn trong khi thị
trường tín dụng thắt chặt sẽ chặn dòng vốn và đẩy chi phí tài chính của các doanh nghiệp lên cao.

Một khía cạnh khác của đầu tư gián tiếp là các giao dịch chênh lệch lãi suất (carry trade) nhằm hưởng
chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền trong khi tỷ giá ổn định. Các giao dịch này thường mang tính đầu cơ
ngắn hạn cao.

Với lãi suất toàn cầu sụt giảm và chính sách tỷ giá neo VND vào USD của Việt Nam trong khi lãi suất
VND vẫn ở mức cao, có thể dòng vốn này sẽ chảy vào trong một số giai đoạn nhất định nhằm khai thác
cơ hội chênh lệch. Trong những trường hợp thoái vốn, dòng vốn này có thể tạo áp lực tỷ giá cho VND.

Tác động thứ tư là việc phát hành chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế cũng sẽ khó khăn
và chi phí tăng cao. Chính phủ Việt Nam hiện có kế hoạch phát hành 1 tỷ USD và Vinashin có kế hoạch
huy động 400 triệu USD trên thị trường quốc tế vào 2009. Tôi nghĩ có lẽ đây sẽ là một thử thách đáng kể.

Tác động thứ năm là về kiều hối với doanh số 8-10 tỷ USD/năm là một nguồn thu rất quan trọng của Việt
Nam. Do một phần lớn nguồn kiều hối từ Mỹ nên chắc chắn nguồn này cũng giảm sút nhất định.

Các tác động trên kết hợp với khó khăn hiện tại trong nước sẽ tạo nên một tác động kép và làm cho tình
hình thêm phức tạp.

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Để xem xét ảnh hưởng của khủng hoảng ở Mỹ tới Việt Nam, cần xem xét mối quan hệ giữa kinh tế Việt
Nam với thế giới, đặc biệt là với Mỹ.

Mối quan hệ này bao gồm quan hệ về tất cả các lĩnh vực khi hội nhập có liên quan tới Mỹ, trong đó hai
lĩnh vực chính là xuất nhập khẩu và quan hệ về vốn.

Trong đó, ở mối quan hệ thứ nhất, Việt Nam chủ yếu xuất hàng nông sản sang Mỹ và nhập từ Mỹ các
loại thiết bị, máy móc.

Ở mối quan hệ thứ hai, ta tiếp nhận vốn FDI và các luồng vốn gián tiếp do các quỹ đầu tư Mỹ đổ vào thị
trường chứng khoán Việt Nam.

Tất cả các mối quan hệ này đều ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt thời kỳ kinh tế Việt
Nam đã mở cửa, có quan hệ đan xen với Mỹ và cả thế giới.

Tien Hue (tienhuetran@yahoo.com):

Thưa ông Trương Đình Tuyển, khủng hoảng tài chính khiến nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm trong đó có
xăng dầu sụt giảm và cũng có lợi cho người tiêu dùng (cá nhân và doanh nghiệp), do giá xăng dầu trên
thế giới giảm mạnh. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam người tiêu dùng được hưởng mức giảm giá xăng
dầu hết sức hạn chế. Theo ông, có giải pháp nào tốt hơn không để giải quyết mâu thuẫn về lợi ích này,
nhất là giúp doanh nghiệp hạ chi phí đầu vào để tồn tại và tăng sức cạnh tranh?

Ông Trương Đình Tuyển:


Đúng là đang có thực tế là khi giá thế giới tăng, thì giá trong nước tăng lên, có đợt lên tới 4500 đồng/lít
nhưng khi giá thế giới giảm thì mức giảm giá trong nước lại ít, không tương xứng với mức giảm giá thế
giới.

Tình hình này gây thắc mắc trong người tiêu dùng và theo tôi biết, các đầu mối nhập khẩu cũng phải chịu
sức ép rất lớn, họ cũng rất muốn thoát nhanh khỏi tình thế này.

Theo tôi tình hình này do những nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, mặc dầu có nhiều đợt điều chỉnh giá nhưng vẫn rất chậm so với sự thay đổi trên thị trường thế
giới. Mặt khác, các lần điều chỉnh dù có đợt khá cao nhưng vẫn không đủ mức nghĩa là các doanh
nghiệp nhập khảu vẫn bị lỗ lớn.

Nếu chúng ta tính bình quân gia quyền giá nhập khẩu cong với các khoản phải nộp và chi phí kinh doanh
rồi so với bình quân gia quyền gia bán trong nước trong cùng thời gian đủ dài cho đến thời điểm này thì
bình quân gia quyền giá bán trong nước vẫn thấp hơn giá ngập khẩu cọng với các khoản phải nộp và chi
phí kinh doanh.

Nghĩa là người tiêu dùng vẫn còn mua với gia thấp hơn giá thành thục tế (lưu ý là tôi nói giá bình quan
gia quyền trong một thời gian đủ dài cho đến nay). Trong khi nhà nước tuyên bố không bù lỗ mặt hàng
xăng nhưng lại bắt doanh nghiệp bán theo giá bị lỗ thì phải có cơ chế để doanh nghiệp bù lại khoản lỗ
đó. Cơ chế đó là cho phép doanh nghiệp trích ra 1.000 đồng/lít tiền lãi để hình thành quỹ bù lỗ.

Thứ hai, hiện tại doanh nghiệp vẫn đang bán hàng tồn kho nhập vào thời điểm giá thế giới tăng cao,
trong đó có lượng tồn kho dự trữ lưu thông bắt buộc theo quy chế kinh doanh xăng dầu bằng 20 ngày
cung ứng bình quân của mỗi đầu mối.( quy định này là cần thiết nếu không, sẽ có nguy cơ đứt nguồn vì
mất cân đối cung cầu trên thị trường thế giới rất khó nhập khẩu).

Nếu càng giảm giá thì số lỗ do hàng tồn kho này càng lớn. Thời gian này kéo dài đến đâu phụ thuộc vào
lượng tồn kho và thời gian giải phóng số tồn kho này nhưng chắc chắn nhiều hơn 20 ngày.

Thứ ba, hầu hết các nước đều đánh thuế nhập khẩu xăng dầu, coi thuế nhập khẩu là nguồn thu quan
trọng của ngân sách nhà nước. Do giá thế giới tăng cao, nhà nước đã phải giảm thuế tất cả các mặt
hàng xăng dầu xuống 0% trong một thời gian dài, nay nhà nước cũng tính toán đưa thuế vào để bảo đảm
các nhu cầu chi, khi nguồn thu từ dầu thô xuất khẩu bị giảm do giá giảm.

Nhưng khi nào tăng và tăng bao nhiêu doanh nghiệp không biết được nên cũng không thể chủ động giảm
giá. Đây là ba lý do mà giá trong nước không giảm tương ứng với mức giảm của giá thế giới.

Tôi gọi đây là thời kỳ quá độ. Vấn đề đặt ra là phải công khai thông tin về chi phí kinh doanh và giá thành,
xác định rõ thời gian bán hết lượng tồn kho là bao nhiêu (cũng là thời gian quá độ).

Và Bộ Tài chính là cơ quan có đủ tư cách để làm việc này. Theo như tôi được biết thì Kiểm toán Nhà
nước cũng đã kiểm toán Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam.

Vũ Thế Tuân (tuanvuthe9@gmail.com):

Xin được hỏi ngành xuất khẩu nào của nước ta sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất và dự báo xuất khẩu của
ta trong năm 2009 như thế nào?

Ông Trương Đình Tuyển:

Mặt hàng nào giá trị cao sẽ bị ảnh hưởng nhiều hơn.

Với Việt Nam những mặt hàng này không nhiều, có thể là đồ trang trí nội thất, sau đó là hàng điện tử
nhưng nếu chúng ta mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác mà ở đó thu nhập dân cư khá cao, ảnh
hưởng của khủng hoảng không lớn thì có thể hạn chế được sự suy giảm xuất khẩu.

Năm 2009 chúng ta sẽ có hiệp định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật mà hai nước vừa kết thúc đàm
phán. Đây là cơ hội mới cho hàng xuất khẩu Việt nam vì được hưởng thuế suất ưu đãi theo hiệp định.
Các doanh nghiệp cần tận dụng cơ hội này.

Ngoài ra cần mạnh dạn xuất khẩu sang các thị trường mới như các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, tăng
cường công tác xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp cần phấn đấu hạ giá thành.

Tuy có nhiều khó khăn, nhưng tôi nghĩ năm nay chúng ta vẫn có thể tăng tổng kim ngạch xuất khẩu lên
khoảng 18%, như Bộ Công Thương đã báo cáo Chính phủ.

Nguyễn (thenghiep_va@yahoo.com):

Với các biện pháp bơm tiền ra để cứu hệ thống tài chính của Mỹ và châu Âu trong những ngày gần đây,
theo các chuyên gia sẽ ảnh hưởng thế nào tới tỷ giá USD/VND, cũng như tỷ giá giữa VND với một số
ngoại tệ mạnh khác?

Ông Vũ Thành Tự Anh:

Xu thế chung là đồng Đô la Mỹ sẽ yếu đi, và nếu Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá như hiện
nay, đồng thời lạm phát giá vẫn duy trì ở mức 25-27% như hiện nay thì tỷ giá thực của VND so với USD
sẽ tăng.

Điều này nhìn chung cũng đúng cho các ngoại tệ của các nước chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng
tài chính Mỹ, tất nhiên là với các mức độ khác nhau. Việc tăng tỷ giá thực này, đến lượt mình, sẽ làm suy
giảm sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, và đó cũng là một nguyên nhân quan trọng
làm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới có thể bị giảm sút.

Điều này nhìn chung cũng đúng cho các ngoại tệ của các nước chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng
tài chính Mỹ, tất nhiên là với các mức độ khác nhau. Việc tăng tỷ giá thực này, đến lượt nó, sẽ làm suy
giảm sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam, và đó cũng là một nguyên nhân quan trọng
làm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới có thể bị giảm sút.

Nguyen The Anh (theanhcamel@gmail.com):

Xin các chuyên gia nhận định ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính đến tình hình nhập siêu của
Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009 như thế nào?

Ông Trương Đình Tuyển:

Do khủng hoảng tài chinh đang lan rộng ra trên quy mô toàn cầu, kinh tế thế giới đang phải đối đầu với
nguy cơ suy thoái.

Tình hình này sẽ tác động tiêu cực đến kinh tế nước ta. Một trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng là hoạt
động xuất khẩu. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng lại tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng; mặt hàng
có giá trị lớn ảnh hưởng nhiều hơn, mặt hàng ít tiền, lại thường dùng hàng ngày ảnh hưởng ít hơn.

Về mức nhập siêu, tôi nghĩ không ảnh hưởng nhiều. Vì xuất khẩu giảm thì nhập khẩu cũng giảm do
chúng ta đã phải nhập khẩu 70-80% nguyên liệu để làm hàng xuất khẩu, suy thoái kinh tế cũng làm cho
giá nhiều loại nguyên liệu giảm mạnh, hiện chúng ta đang chứng kiến sự giảm giá dầu mỏ, các sản phẩm
hoá dầu, phôi thép và thép xây dựng, các thiết bị công nghệ cũng sẽ bị giảm mạnh…

Mặt khác năm 2009 chúng ta vẫn tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, lãi suất ngân hàng, dù có được điều
chỉnh vẫn ở mức cao, đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước vẫn phải được kiểm soát
chặt chẽ.

Do đó, tôi tin rằng tỷ lệ nhập siêu năm 2009 sẽ được kiềm chế ở tỷ lệ so với kim ngạch xuất khẩu thấp
hơn năm 2008.

Lê Đức Thắng (thang_leduc68@yahoo.com):

Việt Nam có thể có hay không những cơ hội tốt để phát triển kinh tế do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ
mang lại bên cạnh những tác động tiêu cực của nó. Và nếu có thì chúng ta phải làm gì để nắm bắt những
cơ hội trên?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Tôi nghĩ, qua cuộc khủng hoảng này chúng ta có thể có những cơ hội sau:

Một, cơ hội trong thu hút vốn đầu tư. Dòng vốn trên thế giới sẽ tập trung vào những nơi có môi trường
chính trị và kinh doanh ổn định, Việt Nam đang có những lợi thế trong hai nhân tố này.

Hai, cơ hội trong tăng xuất khẩu, theo nghĩa tăng mạnh hoạt động xuất khẩu các mặt hàng mà Việt Nam
có lợi thế so sánh.

Ba, chọn lọc nhập khẩu. Tranh thủ nhập khẩu các mặt hàng, công nghệ hiện mà các nước phát triển phải
bán đi do kinh tế đi xuống.

Tất nhiên, Việt Nam cũng phải tiếp tục theo dõi sát tình hình trong và ngoài nước để xử lý linh hoạt và
ứng xử hợp lý.

Một số bạn đọc:

Thưa ông Huỳnh Thế Du và ông Vũ Thành Tự Anh, tôi được biết các ông là những chuyên gia tham gia
các báo cáo về tình hình kinh tế Việt Nam dưới danh nghĩa Trường Đại học Harvard thực hiện theo đơn
đặt hàng của Chính phủ Việt Nam. Tôi muốn biết khi thực hiện báo cáo này, các số liệu mà cơ quan chức
năng cung cấp cho các ông có thực sự đủ độ tin cậy? Ông đánh giá thế nào về điều hành chính sách tiền
tệ hiện nay của Ngân hàng Nhà nước?

Ông Vũ Thành Tự Anh:

Đúng là Chương trình Việt Nam (tại trường Harvard Kennedy) và Chương trình Giảng dạy Kinh tế
Fulbright (trường Fulbright) gần đây có đưa ra một số báo cáo về nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các
vấn đề kinh tế vĩ mô và có tính cơ cấu.

Trong những nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng nhiều nguồn dữ liệu khác nhau, cả bên trong và bên
ngoài. Khi sử dụng số liệu thống kê, chúng tôi luôn có một số nguyên tắc nhất định.

Thứ nhất, chúng tôi chủ yếu chỉ sử dụng các nguồn dữ liệu chính thức, được công bố rộng rãi. Trên thực
tế, chỉ trừ một số trường hợp hy hữu khi số liệu thống kê chính thức không tồn tại (chẳng hạn như về giá
bất động sản ở khu vực Nam Sài Gòn trong 2 năm trở lại đây) thì chúng tôi mới tự tiến hành điều tra.

Thứ hai, chúng tôi luôn tìm cách đối chiếu các nguồn dữ liệu khác nhau để từ đó có thể sử dụng các
nguồn dữ liệu có sự nhất quán nội tại cao. Và tất nhiên, trong một số trường hợp, chúng tôi có cơ sở để
cho rằng số liệu chính thức do các cơ quan nhà nước công bố chưa chính xác. Trong những trường hợp
này, chúng tôi sẽ trình bày cẩn thận cách chúng tôi thu thập, xử lý dữ liệu và đưa ra sự khác biệt trong
ước tính của mình so với số liệu chính thức.

Về câu hỏi thứ hai của bạn về cách điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Theo tôi,
trong đa số trường hợp, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước vẫn đi sau thị trường, và trên thực
tế, chịu nhiều sức ép của thị trường, và do vậy có thể không nhất quán. Một ví dụ khá điển hình là việc
yêu cầu 41 tổ chức tín dụng mua 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc và áp đặt lãi suất trần (tức là đi
ngược lại tiến trình tự do hóa lãi suất).

Tôi vẫn giữ ý kiến trước đây của mình rằng mặc dù Ngân hàng Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước
những quyết định chính sách của mình cũng như hệ quả của chúng đối với nền kinh tế, tuy nhiên trong
điều kiện Ngân hàng Nhà nước không được độc lập (về mặt tài chính, nhân sự, và chính sách) thì rất khó
có thể điều hành chính sách tiền tệ một cách chuyên nghiệp và hiệu quả.

Cũng cần nói thêm rằng, việc điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam không chỉ được giao cho Ngân
hàng Nhà nước mà Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia cũng đóng vai trò hết sức
quan trọng.

Ông Huỳnh Thế Du:

Về phần dữ liệu, anh Tự Anh đã đề cập. Tôi xin trao đổi trước câu hỏi về chính sách tiền tệ.

Nếu so với thời điểm đầu năm hay trước đó thì dường như Ngân hàng Nhà nước đã có sự linh hoạt và
uyển chuyển hơn trong việc điều hoà dòng chảy của tiền đồng và đã có những can thiệp cần thiết trên thị
trường ngoại hối.

Tuy nhiên, có một điểm tôi vẫn đang cảm thấy băn khoăn mà như anh Tự Anh đã nêu là vấn đề tỷ giá.

Đồng ý là trong thời gian qua dòng ngoại tệ đổ vào nhiều cộng với việc chính sách tiền tệ thắt chặt làm
cho tiền đồng có xu hướng tăng giá, nhưng xét về mức độ lạm phát khác nhau giữa tiền đồng và đồng
đô-la thì với tỷ giá như hiện nay, tiền đồng đã tăng giá rất mạnh. Điều này tác động rất lớn đến hoạt động
xuất khẩu, hoạt động mà khả năng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian tới.

Do vậy, trong bối cảnh hiện tại, theo tôi, Ngân hàng Nhà nước nên tìm cách giải bài toán tỷ giá để giảm
khó khăn cho các đơn vị xuất khẩu. Đây là bài toán khó, nhưng nếu không giải nó thì hoạt động ngoại
thương nói riêng, khả năng cạnh tranh cũng như kinh tế Việt Nam nói chung sẽ ở vào vị thế rất bất lợi.

Huyền Nhung (dohuyennhung76@yahoo.com):

Xét cụ thể về tác động của cuộc khủng hoảng này, theo các chuyên gia, những lĩnh vực nào cần lưu ý,
chúng ta có thể “mất” ở những khả năng nào?

Ông Mạc Quang Huy:

Như tôi đã phân tích ở trên, các tác động tới Việt Nam mang tính gián tiếp chứ không dẫn đến đổ vỡ
mang tính hệ thống.

Theo xác nhận của Ngân hàng Nhà nước, nguồn dự trữ ngoại tệ của Việt Nam được gửi tại các ngân
hàng an toàn. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư nhiều ra quốc tế. Với việc các quốc gia bảo lãnh
hệ thống ngân hàng thì chúng ta cũng không lo các khoản tiền gửi liên ngân hàng tại thị trường quốc tế.

Tuy nhiên tác động của khủng hoảng quốc tế trong khi tình hình trong nước còn khó khăn thì chúng ta
cũng phải hết sức thận trọng.

Theo quan điểm cá nhân tôi, Việt Nam cần ưu tiên nguồn lực để giải quyết các vấn đề của riêng Việt
Nam, đó là vấn đề lạm phát và nguy cơ bùng phát nợ xấu ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng và toàn
bộ nền kinh tế.

Một số bạn đọc:

Theo các chuyên gia đánh giá thì cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang ở giai đoạn nào của tiến
trình khủng hoảng?

Ông Huỳnh Thế Du:

Đây là một câu hỏi rất khó trả lời vì nó giống như một cơ thể đang bị bệnh hiểm nghèo chưa có tiền lệ
nên các thầy thuốc vừa chuẩn đoán vừa kê đơn.

Nếu đoán đúng bệnh và kê đúng đơn thuốc thì khả năng sẽ dứt bệnh, nếu không thì sẽ trầm trọng hơn.
Trên thực tế, có những phương thuốc được cho là mạnh nhưng lại không có tác dụng, cũng có phương
thuốc thoạt đầu có vẻ tác dụng nhưng sau một vài ngày đã lờn.

Ví dụ cách thức giải cứu các ngân hàng do chính phủ Anh khởi xướng đã có tác động mạnh vào ngày
thứ Hai, nhưng đến thứ Ba thì thị trường chựng lại và đến hôm nay khi mà các số liệu kinh tế Mỹ được
công bố lộ ra nguy cơ suy thoái đã làm cho chỉ số chứng khoán Hoa Kỳ nói riêng, chứng khoán toàn cầu
xuống dốc.

Nói chung tình hình hiện tại đang ở trong giai đoạn thử thách, rất khó nói là nó đã đến đỉnh điểm hay
chưa. Trong thời gian tới sẽ như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào các chính sách tiếp theo của các nước,
lòng tin của thị trường cũng như những số liệu, những con số sẽ được đưa ra.

Ông Mạc Quang Huy:

Cám ơn bạn nhưng đây thực sự là một câu hỏi khó. Theo quan điểm cá nhân, tôi tin rằng cuộc khủng
hoảng đã đi được một nửa quãng đường cần thiết, và đang đi tiếp quãng đường còn lại.

Sau khi xảy ra sụt giảm mạnh thị trường bất động sản tại Mỹ dẫn đến sự sụt giảm chứng khoán, chúng ta
vừa chứng kiến giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc khủng hoảng khi các nhà đầu tư bị thua lỗ lớn, biên
độ tín dụng tăng cao, thị trường tín dụng gần như đóng băng tạo ra sự đổ vỡ nhiều định chế tài chính
trên phạm vi toàn cầu.

Sau khi thị trường tài chính điều chỉnh giảm về vùng đáy thì sẽ là tác động suy thoái kinh tế. Suy thoái
kinh tế có thể dẫn đến thất nghiệp, nợ xấu và tác động ngược lại thị trường tài chính tại từng thời điểm
trong chu kỳ phục hồi. Do đó tôi cho rằng chu kỳ phục hồi diễn ra cũng có những điểm nhạy cảm.

Do nguồn vốn cạn kiệt, chi phí huy động vốn cao và sức cầu suy giảm toàn cầu nên sẽ mất nhiều năm để
nền kinh tế khôi phục. Các chính phủ hiện đang làm hết sức mình để tạo niềm tin đối với thị trường và
giữ hệ thống tài chính khỏi sụp đổ.

Trong giai đoạn tới có thể là chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm kích thích nền kinh tế phục hồi. Khi giá nhà
đất và chứng khoán đến giảm đến một mức nào đó thì sẽ có sức cầu đón mua.

Thị trường nhà đất phục hồi sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, điều này sẽ làm giá trị các chứng khoán hình
thành từ chứng khoán hóa bất động sản cũng tăng theo. Hiện tại các tài sản này được coi là tài sản xấu
(distressed assets).

Do thị trường chứng khoán luôn đi trước nền kinh tế khoảng 6 tháng, nên sự phục hồi của nền kinh tế sẽ
dẫn đến sự phục hồi của thị trường chứng khoán.

Tôi tin rằng chúng ta đang trải qua những thời khắc nguy kịch nhất và chúng ta sẽ phải đi tiếp quãng
đường còn lại. Đó là cái giá phải trả cho bất kỳ cuộc khủng hoảng nào.

Ngoc Anh:

Xin hỏi ông Cao Sĩ Kiêm. Vừa rồi qua báo chí tôi có biết được rằng hiện đã có một số ngân hàng Việt
Nam rút tiền gửi tại các ngân hàng nước ngoài về. Từng là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, ông có thể
giải thích kỹ thêm về tiền gửi này ở dạng nào, rút về như vậy có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động
ngân hàng?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Việc chuyển đổi cơ cấu các đồng tiền ở nước ngoài, gửi tiền ở các ngân hàng nước ngoài hay rút tiền
gửi đó về nước là nghiệp vụ bình thường trong kinh doanh của các ngân hàng.

Việc một số ngân hàng rút tiền gửi ở nước ngoài về để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh trong nước cũng
như chuyển sang các ngân hàng khác ở các khu vực khác an toàn hơn cũng là bình thường.

Việc rút và chuyển tiền này không ảnh hưởng gì tới hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam. Hơn thế
nữa, việc này đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này được an toàn và hiệu quả hơn.

Vũ Khánh Bình (khoabui1973@yahoo.com):

Do chênh lệch lãi suất tiền gửi USD trên thế giới và Việt Nam, nên có thể sẽ có làn sóng người nước
ngoài vay tiền từ Mỹ đem sang Việt Nam gửi tiết kiệm để hưởng chênh lệch lãi suất khoảng 4%/năm. Việt
Nam hưởng lợi gì và thiệt hại gì từ việc này? Các ngân hàng 100% vốn nưóc ngoài với lợi thế có lượng
USD lãi suất thấp sẽ tác động thế nào tới thị trường tài chính Việt Nam? Áp lực lên tỷ giá VND/USD bị
ảnh hưởng ra sao?

Ông Huỳnh Thế Du:

Thực ra không phải đến giờ này mà trong một thời gian qua khe hở giữa lãi suất tiền đồng so với ngoại
tệ trong nước, ngoại tệ trong nước so với ngoại tệ nước ngoài đã xảy ra, nhưng tôi cho rằng dòng vốn
chảy vào Việt Nam để hưởng chênh lệch lãi suất không nhiều, ngay cả ở những thời điểm kinh tế Việt
Nam rất ổn định.

Điều này không xảy ra là do cũng giống như các nước đang phát triển hay thị trường mới nổi khác, các
nhà đầu tư lo ngại những rủi ro có thể xảy ra đối với nền kinh tế.

Thứ nhất, ngay cả đối với các nhà đầu tư trong nước, cho dù tỷ giá giữa VND và USD đã được giữ ổn
định trong nhiều năm nhưng dường như cũng chưa đủ thuyết phục để những người có ngoại tệ chuyển
sang tiền đồng vì họ lo ngại khả năng đồng tiền bị mất giá. Thực ra tâm lý này xảy ra đối với hầu hết các
nước chứ không riêng gì Việt Nam.

Thứ hai, lãi suất ở Mỹ chỉ vài ba phần trăm trong khi lãi suất USD ở Việt Nam gấp vài ba lần nhưng các
nhà đầu tư bên ngoài cũng không đổ nhiều tiền vào Việt Nam vì kinh nghiệm của họ cho thấy khi có vấn
đề gì xảy ra các nước đang phát triển thường áp dụng những biện pháp hành chính mạnh làm họ không
được rút tiền ra nên họ lo ngại.

Với những gì đang xảy ra, theo dự báo dòng vốn chảy vào các nước đang phát triển, các thị trường đang
lên mà trong đó có Việt Nam sẽ giảm do khẩu vị về rủi ro của các nhà đầu tư đã giảm đi rất nhiều và họ
có xu hướng đầu tư vào những loại tài sản có tính an toàn cao hơn thay vì phiêu lưu mạo hiểm như
trước đây.

Do vậy, ở vấn đề này, tôi cảm thấy lo ngại sự giảm sút của dòng vốn chảy vào nhiều hơn. Nếu điều này
xảy ra cộng với chính sách tỷ giá gần như cố định hiện này vẫn được duy trì thì sức ép đối với đồng tiền
trong nước sẽ gia tăng.

Nhiều bạn đọc:

Nhìn lại sự ứng phó của Chính phủ Mỹ và những quốc gia lớn trên thế giới, chúng ta có thể rút ra những
kinh nghiệm nào cho Việt Nam?

Ông Bùi Kiến Thành:


Trong một thời gian dài, các cơ quan giám sát tài chính của Mỹ đã không quan tâm đến việc giám sát các
công ty tài chính của Phố Wall.

Ví dụ như đánh giá hệ số tín nhiệm (Credit Rating) các sản phẩm phái sinh này là có vấn đề, trong khi đó
các nhà đầu tư dựa trên hệ số tín nhiệm của sản phẩm này để quyết định đầu tư.

Cơ quan giám định đã không làm hết chức năng của mình để tìm hiểu thực sự các sản phẩm làm tài sản
thế chấp cho các trái phiếu phát hành.

Thứ hai, các định chế tài chính Phố Wall phát hành ra các trái phiếu phái sinh nhưng lại không kiểm tra
và đánh giá các hợp đồng cho vay thế chấp dùng làm tài sản bảo đảm có đủ tiêu chuẩn chất lượng hay
không.

Tại đầu nguồn, các tổ chức tài chính cho vay thế chấp bất động sản đã bất chấp người vay không có khả
năng thanh toán mà vẫn tạo điều kiện cho vay.

Các hợp đồng cho vay này đã hỗ trợ cho thị trường bất động sản Mỹ phát triển rất mạnh trong suốt 10
năm, nhưng điều này thì rất nguy hại cho nền kinh tế Mỹ và toàn cầu.

Việt Nam nên rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng này để thận trọng hơn trong các họat động tài chính,
đặc biệt là cho vay kinh doanh bất động sản ở Việt Nam.

Bài học quan trọng nhất là các cơ quan quản lý nhà nước phải giám định chặt chẽ hoạt động của các
định chế tài chính, tránh "ngủ gục" trên "tay lái" của mình.

Chính phủ Mỹ đang rất lo ngại về việc mất thanh khoản của thị trường tài chính và sự co hẹp của thị
trường tín dụng là một yếu tố đưa đến suy trầm và suy thoái kinh tế Mỹ. Vì vậy, Việt Nam cần xem lại
chính sách tiền tệ, thắt chặt tín dụng đang được triển khai và ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế Việt
Nam, và sự sống còn của các xí nghiệp lớn, nhỏ.

Ông Mạc Quang Huy:

Những gì diễn ra trong thời gian qua cho thấy bài học về khủng hoảng niềm tin. Để ngăn chặn khủng
hoảng niềm tin, cần có các hành động quyết đoán, triệt để, kịp thời và thống nhất trên cơ sở minh bạch
thông tin.

Như chúng ta thấy khi Hạ nghị viện Mỹ từ chối phê chuẩn gói cứu trợ 700 tỷ USD đã tạo ra làn sóng bán
tháo cổ phiếu. Việc phê chuẩn sau đó cũng như việc cắt giảm lãi suất toàn cầu đã không ngăn chặn
được làn sóng bán tháo.

Chỉ đến đầu tuần qua khi các chính phủ nhiều nước đứng ra cam kết đảm bảo thanh toán hệ thống ngân
hàng và cam kết bơm nguồn vốn lớn vào thị trường thì niềm tin mới quay trở lại.

Việt Nam cũng đã học được các bài học trên từ cuộc khủng hoảng trong nước diễn ra hồi tháng 6. Mặc
dù lúc đầu dường như khá lúng túng, song Việt Nam đã giải quyết khủng hoảng một cách sắc nét, được
thế giới đánh giá cao.

Nhóm giải pháp toàn diện chống lạm phát được đưa ra cùng các thông tin minh bạch như dự trữ ngoại
hối đã giúp khôi phục niềm tin. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cần thực hiện triệt để các giải pháp đưa ra như
việc minh bạch hóa các kết quả cắt giảm dự án công.

Hơn nữa do sự hội nhập của nền kinh tế toàn cầu, các giải pháp chống khủng hoảng ngày nay đòi hỏi sự
thống nhất giữa các quốc gia. Sự nỗ lực của các quốc gia trên phạm vi toàn cầu trong đợt khủng hoảng
vừa qua là một ví dụ minh chứng.
Thiết nghĩ ở cấp quốc gia, Việt Nam cũng cần xây dựng các chiến lược xử lý khủng hoảng trên cơ sở
phân tích tình huống nhằm chuẩn bị tốt hơn cho tương lai.

Ông Huỳnh Thế Du:

Theo tôi, trong tình huống này, bài học lớn nhất có thể rút ra là tại sao nước Mỹ nói riêng và các nước
phát triển nói chung lại để cuộc khủng hoảng tồi tệ như vậy lại có thể xảy ra.

Nhiều người cho rằng, trong thời gian tới các quy định hay luật lệ chế tài hoạt động của các tổ chức tài
chính ở Hoa Kỳ cũng như nhiều nước khác sẽ chặt chẽ là hà khắc hơn.

Trong câu chuyện này, đối với Việt Nam nói riêng các nước nói chung, theo tôi, bài học từ việc cứu thị
trường khỏi sụp đổ là không nhiều, vì khi đám cháy xảy ra việc cần làm duy nhất là dập tắt lửa trước đã.

Vấn đề ở đây là cần theo dõi chặt chẽ sự vận hành khó lường hay sự biến ảo của thị trường để có
những uốn nắn hợp lý. Thị trường luôn có những thất bại của nó, nếu để nó hoàn toàn tự do sẽ gây ra
những tác động tiêu cực, nhưng nếu can thiệp vào nó một cách thô bạo thì hậu quả cũng không kém
phần nghiêm trọng.

Letoan (le_toan11011@yahoo.com):

Kính gởi ông Vũ Thành Tự Anh, suy thoái kinh tế toàn cầu như hiện nay sẽ tác động đến Việt Nam. Vậy
ở góc độ của một nhà kinh tế, ông có những ý kiến đóng góp gì nhằm tháo gỡ những khó khăn đó cho
các nhà hoạch định chiến lược của Chính phủ Việt Nam?

Ông Vũ Thành Tự Anh:

Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới công bố ngày 8/10/2008 của IMF, tốc độ tăng trưởng GDP của
thế giới sẽ giảm từ 5% trong năm 2007 xuống còn 3,9% trong năm 2008, và chỉ còn 3% trong năm 2009.

Sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, mà tác
động tổng hợp có thể sẽ là tốc độ tăng trưởng chậm lại và thất nghiệp gia tăng. Điều này chắc chắn sẽ
tác động tới mọi tầng lớp dân cư của Việt Nam, trong đó tầng lớp công nhân lao động như anh nói sẽ
chịu ảnh hưởng trực tiếp.

Từ phương diện chính sách của nhà nước, tôi cho rằng trong giai đoạn này, điều quan trọng là cần xác
định ưu tiên thật đúng đắn.

Với những bất ổn vĩ mô trong nước (lạm phát, nhập siêu, thâm hụt ngân sách v.v.) chưa được giải quyết
triệt để, thì những diễn biến mới đây trong nền kinh tế toàn cầu sẽ đặt ra những thách thức mới cho nền
kinh tế Việt Nam.

Trong hoàn cảnh này, tôi cho rằng Chính phủ cần kiên trì với những định hướng chính sách lớn trong
năm 2008, mà cụ thể là tiếp tục đặt ưu tiên cao nhất cho nhiệm vụ chống lạm phát và bình ổn kinh tế vĩ
mô. Chúng ta phải chấp nhận tăng trưởng chậm lại trong một vài năm để bình ổn vĩ mô và đảm bảo cho
tăng trưởng dài hạn.

Như tôi được biết, mục tiêu tăng trưởng GDP trong năm 2009 của chính phủ dao động giữa hai mức
6,5% và 7%. Từ những điều phân tích ở trên, tôi cho rằng ngay cả tốc độ tăng trưởng 6,5% cũng là một
mục tiêu không dễ gì đạt được. Tất nhiên, đây không phải là nhận định của cá nhân tôi.

Báo cáo về Triển vọng Thế giới của Deutsche Bank (3/10/2008) cho rằng tốc độ tăng trưởng GDP
củaViệt Namtrong năm 2008 là 6,3% và và dự báo cho năm 2009 là 4,1%. Tương tự như vậy, The
Economists dự báo rằng tốc độ tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2011 đến năm 2020 là khoảng 5,1%.

Tất nhiên, những dự báo này dựa trên một giả định là quỹ đạo chính sách của Việt Nam vẫn giữ nguyên
như hiện nay. Còn nếu như Chính phủ thực sự quyết tâm trong việc sửa chữa những vấn đề cơ bản, có
tính cơ cấu của nền kinh tế, để trên cơ sở đó bình ổn kinh tế vĩ mô thì tôi tin tưởng rằng với tiềm năng
của mình, Việt Nam hoàn toàn có thể tăng trưởng như mức của các con rồng, con hổ trong khu vực trong
một thời gian dài.

Xin nói thêm một chút về vấn đề tỷ giá mà tôi đã nhắc đến ở trên, tập trung vào nội dung điều hành chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Nếu so với thời điểm đầu năm hay trước đó thì dường như Ngân
hàng Nhà nước đã có sự linh hoạt và uyển chuyển hơn trong việc điều hoà dòng chảy của tiền đồng và
đã có những can thiệp cần thiết trên thị trường ngoại hối.

Đinh Ngọc Thủy (bachdang_360@yahoo.com):

Ông Mạc Quang Huy có nói, tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đến Việt Nam mang tính
gián tiếp và tâm lý là chủ yếu. Vậy nếu thị trường chứng khoán thế giới suy yếu kéo dài, liệu thị trường
chứng khoán Việt Nam sắp tới sẽ ra sao?

Ông Mạc Quang Huy:

Tôi cho rằng thị trường chứng khoán Việt Nam chịu hai tác động cùng lúc đó là tình hình khó khăn trong
nước và ảnh hưởng từ thị trường quốc tế. Riêng về khó khăn trong nước chúng ta vừa trải qua cuộc
chiến chống lạm phát, thâm hụt cán cân thương mại và đã đạt được những thành tựu ban đầu.

Tuy nhiên khả năng suy thoái kinh tế vẫn còn đó dẫn đến việc tăng trưởng của các doanh nghiệp trong
2009 sẽ rất khó khăn. Ngoài ra nguy cơ nợ xấu do thắt chặt tiền tệ có thể xảy ra sau 3-6 tháng nữa.

Do đó chỉ tính đến các yếu tố riêng của Việt Nam, tôi cho rằng không có lý do gì để thị trường chứng
khoán chúng ta hồi phục mạnh trong 12 tháng tới (mặc dù tôi nhận định sẽ đi theo hướng phục hồi cùng
với những biến chuyển tích cực vĩ mô của nền kinh tế).

Trong khi đó khi chứng khoán toàn cầu sụt giảm mạnh trong thời gian qua làm cho giá chứng khoán Việt
Nam trở nên đắt tương đối so với các thị trường khác. Cụ thể HSBC dự báo P/E của Việt Nam khoảng
15 lần, trong khi các thị trường khác chỉ khoảng 10 lần hoặc thấp hơn.

Nếu thị trường chứng khoán quốc tế suy yếu kéo dài thì sẽ làm cho quá trình hồi phục của chứng khoán
Việt Nam chậm hơn do ảnh hưởng đến nguồn vốn đầu tư gián tiếp và ảnh hưởng yếu tố tâm lý. Hơn nữa
chứng khoán toàn cầu suy yếu kéo dài cũng có nghĩa là nền kinh tế toàn cầu suy thoái mạnh hơn dự
kiến.

Điều này sẽ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam như đã phân tích trên và như vậy tăng trưởng của các
doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng.

Ha Le:

Là người hoạt động nhiều năm trong một ngân hàng đầu tư và chứng kiến sự đổ vỡ của nó, theo ông
Huy, những vấn đề nào cần chú ý khi Việt Nam đang có những tổ chức đi theo mô hình này?

Ông Mạc Quang Huy:

Các công ty chứng khoán và quản lý quỹ của Việt Nam vẫn là một dạng sơ khai của mô hình ngân hàng
đầu tư trên thế giới. Để tránh sự đổ vỡ thì điều quan trọng nhất vẫn là một chiến lược kinh doanh bền
vững cùng với một hệ thống quản trị rủi ro tiên tiến.

Trong một bài báo trước đây: “Phố Wall: Đánh đổi tự do để tồn tại?” trên VnEconomy
(http://vneconomy.vn/20080926022117524P0C7/pho-wall-danh-doi-tu-do-de-ton-tai.htm), tôi đã có dịp
phân tích về mô hình ngân hàng đầu tư độc lập cũng như ngân hàng tổng hợp (universal bank) và xu
hướng phát triển trên thế giới. Việt Nam hiện cho phép phát triển mô hình ngân hàng tổng hợp song duy
trì sự ngăn cách tương đối giữa hoạt động ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư.

Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước đã có quy định ngân hàng mẹ không được cho vay công ty chứng khoán
trực thuộc. Đây là một định hướng đúng đắn trong thời điểm hiện tại nhằm ngăn chặn truyền dẫn rủi ro từ
thị trường vốn sang thị trường tiền tệ và do đó rủi ro hệ thống.

Điều quan trọng tiếp theo là bản thân các ngân hàng thương mại cần tự ý thức chấp hành rủi ro và xây
dựng các rào cản nội bộ (chinese wall) nhằm ngăn chặn tương tác ảnh hưởng giữa hoạt động ngân hàng
thương mại và ngân hàng đầu tư.

Mâu thuẫn lợi ích giữa hai mảng nghiệp vụ này có thể dẫn đến việc lạm dụng quyền lực. Ví dụ ngân hàng
thương mại có thể chấp nhận cho vay các khoản vay dưới chuẩn cho các doanh nghiệp trong tình trạng
khó khăn hay chuẩn bị phá sản chỉ vì ngân hàng đầu tư đang nắm giữ chứng khoán nhằm cứu giá.

Do tính chất rủi ro cao của hoạt động ngân hàng đầu tư nên Uỷ ban Chứng khoán cần tiếp tục hoàn thiện
hệ thống kiểm soát đối với công ty chứng khoán như các quy định an toàn vốn, áp dụng các chuẩn mực
kế toán tiên tiến.

Nhiều bạn đọc:

Điểm xuất phát của cuộc khủng hoảng hiện nay có từ hoạt động cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Theo ông
Huy, tại Việt Nam đã có hiện tượng này chưa?

Ông Mạc Quang Huy:

Bản chất của rủi ro tín dụng ở các thị trường đều giống nhau, chỉ khác nhau ở cách thức thể hiện. Việt
Nam hiện nay cũng tiềm ẩn rủi ro tín dụng rất lớn song hoàn cảnh của Việt Nam có nhiều điểm khác so
với Mỹ.

Trước hết Việt Nam chưa có cho vay dưới chuẩn (cho vay nhóm đối tượng có thu nhập thấp, công ăn
việc làm không ổn định, có mức độ rủi ro tín dụng cao).

Thứ 2, tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo (loan-to-value) tại Việt Nam không quá cao (70%) tuy
nhiên định giá tại Việt Nam lại chưa minh bạch.

Thứ 3, Việt Nam chưa có nghiệp vụ chứng khoán hóa là công cụ truyền dẫn phát tán rủi ro tín dụng từ thị
trường tín dụng sang thị trường vốn cũng như việc phát tán rủi ro ra phạm vi quốc tế. Chính 3 điểm khác
biệt này giúp hạn chế mức độ nghiêm trọng và tầm ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tại Việt Nam.

Tuy nhiên thị trường tín dụng Việt Nam có những diễn biến tương đồng với khủng hoảng tín dụng tại Mỹ.

Thứ nhất là tăng trưởng tín dụng nóng, đặc biệt là bùng nổ tín dụng bất động sản và tín dụng tiêu dùng
cuối năm 2007, đầu 2008. Thứ 2, tại thời điểm bùng nổ tín dụng, lãi suất trên thị trường rất thấp (khoảng
12-13%), sau đó 6 tháng điều chỉnh lên mức rất cao (21%) do chính sách thắt chặt tiền tệ.

Ngoài ra, Việt Nam còn bị tác động của lạm phát dẫn đến thu nhập của người vay vốn giảm sút. Với việc
thị trường bất động sản sụt giảm mạnh và đóng băng như hiện nay thì đây là các tín hiệu đáng lo ngại
cho thị trường tín dụng.

Việt Nam cần theo dõi chặt chẽ tình hình nợ xấu trong 6 tháng tới, đặc biệt là giai đoạn cuối năm 2008 và
quý 1/2009.

T.Hai:

Trong nước, một số doanh nghiệp cũng đang lên kế hoạch niêm yết và phát hành chứng khoán tại một
số thị trường lớn trên thế giới. Thưa ông Mạc Quang Huy, trong bối cảnh ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng, đâu là những thuận lợi và khó khăn nếu doanh nghiệp triển khai?

Ông Mạc Quang Huy:

Những gì diễn ra trên thị trường thế giới cho thấy đây là thời điểm rất bất lợi để niêm yết hay huy động
vốn. Trong thời kỳ khủng hoảng, các nhà đầu tư thường tìm đến các kênh đầu tư an toàn (flight to
quality), do đó thị trường cổ phiếu sẽ không được ưa chuộng. Thị trường này cần một khoảng thời gian
đủ dài để có thể hồi phục cùng với các chuyển biến kinh tế vĩ mô.

Do đó, các doanh nghiệp cần chủ động thay đổi các kế hoạch niêm yết hay phát hành trên thị trường
quốc tế đến khi bức tranh toàn cầu sáng sủa hơn.

Một số bạn đọc:

Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đang và sẽ dẫn đến sự xáo trộn nhất định của các dòng vốn. Các ông
nhận định thế nào về khả năng có sự xáo trộn đó ở Việt Nam?

Ông Vũ Thành Tự Anh:

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đối chắc chắn có những tác động quan trọng đối với sự lưu chuyển
các dòng vốn ở Việt Nam. Đối với dòng vốn vào, nguồn tín dụng đang dần trở nên cạn kiệt của thế giới
sẽ làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp suy giảm trên phạm vi toàn cầu, và Việt Nam không
phải là một ngoại lệ.

Thêm vào đó, với tình trạng lạm phát và bất ổn vĩ mô như hiện nay, Việt Nam đang bị coi là một điểm đầu
tư có mức độ rủi ro cao, và do vậy sẽ càng trở nên bất lợi trong điều kiện khan hiếm tín dụng. Nhiều khả
năng là chúng ta sẽ chứng kiến sự suy giảm của dòng đầu tư trực tiếp và gián tiếp.

Tương tự như vậy, dòng vốn đầu tư gián tiếp cũng sẽ có nguy cơ giảm sút vì trong điều kiện đầy rủi ro
như hiện nay, tâm lý chung của các nhà đầu tư là hướng đến những thị trường ít rủi ro, trong khi đó thì
mức độ rủi ro của Việt Nam trong năm qua lại tăng lên do lạm phát cao và bất ổn vĩ mô. Việc các nhà đầu
tư nước ngoài không mặn mà lắm với thị trường chứng khoán, đồng thời liên tục bán ra trái phiếu chính
phủ trong những ngày gần đây cũng cho thấy khả năng rút vốn khỏi Việt Nam là hoàn toàn hiện thực.

Dòng kiều hối từ trước đến nay vẫn là một dòng ngoại tệ tương đối ổn định, ngay cả trong thời kỳ kinh tế
toàn cầu có khó khăn. Trong một vài năm trở lại đây, dòng kiều hối về Việt Nam tăng mạnh. Đáng lưu ý
ngoài mục đích hỗ trợ thân nhân và đầu tư vào kinh doanh trong nền kinh tế thực (real economy), thì một
phần không nhỏ của dòng kiều hối này có mục đích đầu tư chứng khoán và bất động sản – là những lĩnh
vực hiện nay không còn nóng như trước.

Điều này cũng có nghĩa là dòng kiều hối trong năm tới có thể cũng sẽ suy giảm. Cũng phải nói thêm là sự
suy giảm này không nhất thiết do sự khủng hoảng tài chính thế giới gây ra, mà có lẽ chủ yếu là do các
nguyên nhân nội tại trong nền kinh tế Việt Nam.

Đối với các dòng vốn ra, vì Việt Nam chưa tự do hóa tài khoản vốn hoàn toàn nên việc rút vốn ra của các
nhà đầu tư nước ngoài hay việc đầu tư ra nước ngoài của cá nhân và tổ chức Việt Nam không hoàn toàn
dễ dàng. Mặc dù có những dấu hiệu cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài muốn rút vốn khỏi Việt Nam,
xong tôi cho rằng mức độ và tốc độ dòng vốn chảy ra khỏi Việt Nam là không quá lớn.

Nguyễn Lương Ngọc (ngoc21071976@yahoo.com):

Xin chào ông Mạc Quang Huy! Xin ông cho biết người dân Ausatralia đón nhận cuộc khủng hoảng tài
chính hiện nay như thế nào. Xin cảm ơn ông.

Ông Mạc Quang Huy:


Cám ơn bạn đã quan tâm đến nước Úc. Úc là một quốc gia cũng đang gánh chịu những hậu quả nhất
định từ cuộc khủng hoảng này. Đặc điểm của nền kinh tế Úc là phụ thuộc vào ngành tài nguyên khoáng
sản (than đá, quặng, vàng, dầu, vv) và ngành dịch vụ tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, đầu tư).

Trong vài năm vừa qua khi nền kinh tế toàn cầu bùng nổ và giá hàng hóa cơ bản tăng cao (commodities),
Úc đã được hưởng lợi lớn từ xuất khẩu. Chính điều đó làm cho nền kinh tế Úc tăng trưởng tốt và đồng
AUD tăng mạnh lên đến đỉnh gần bằng USD vào tháng 8 qua.

Tuy nhiên khi cuộc khủng hoảng diễn ra với lo ngại nhu cầu tiêu thụ toàn cầu sụt giảm làm cho giá dầu
và hàng hóa cơ bản giảm nhanh chóng. Đồng AUD đã mất giá 30% trong 2 tháng gần đây so với USD.

Một nguyên nhân nữa làm AUD giảm mạnh có sự đóng góp của các giao dịch đầu cơ chênh lệch lãi suất
(carry trade).

Úc thu hút lượng tiền thông minh lớn từ Nhật và một số quốc gia khác để đầu tư vào AUD với lãi suất
cao. Khi nền kinh tế suy thoái dẫn đến AUD giảm giá thì các dòng tiền này quay ngược ra rất nhanh
chóng, khiến AUD giảm sâu hơn.

Giá chứng khoán trên thị trường ASX cũng giảm mạnh khoảng 35% trong 4 tháng gần đây. Do tỷ lệ dân
Úc đầu tư chứng khoán cao nên nhiều người dân bị thua lỗ nặng.

Giá bất động sản hiện cũng đang trong chu kỳ giảm. Mặc dù hệ thống tài chính Úc không bị đe dọa trực
tiếp song Chính phủ Úc cũng đã có những hành động mạnh và kịp thời như cắt giảm lãi suất cơ bản 100
bps (1%) xuống 6% và cam kết bơm hàng tỷ đô vào hệ thống tài chính cũng như cam kết bảo đảm thanh
toán cho các ngân hàng.

Tôi cho rằng nước Úc đang lâm vào suy thoài và cũng sẽ phải mất vài năm để khôi phục nền kinh tế.

Nguyễn Thị Nga (hn.bluechipp@gmail.com):

Xin hỏi ông Huỳnh Thế Du. Vừa qua giới truyền thông cho rằng Việt Nam vẫn ở xa tâm bão khủng hoảng
thế giới, đặc biệt là Mỹ, vậy theo ông có đúng không?

Ông Huỳnh Thế Du:

Như tôi đã phân tích ở những câu hỏi trước, hệ thống tài chính của Việt Nam chưa hội nhập nhiều hay
nói cách khác là chưa nằm trong mắt xích của hệ thống tài chính toàn cầu nên nếu chỉ xét riêng về lĩnh
vực tài chính thì Việt Nam không phải nằm xa mà là nằm ngoài tâm bão.

Điều này, nếu xét về một khía cạnh nào đó thì chúng ta may mắn, nhưng may mắn dựa trên mức độ phát
triển và hội nhập thấp thì cũng không hay lắm.

Nếu xét về góc độ hoạt động ngoại thương, ở vị trí thuộc những nước có độ mở ngoại thương lớn nhất
thế giới (theo chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu so với GDP, con số này là hơn 160%) thì sắp tới
Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng lớn do kinh tế Mỹ nói riêng và kinh tế toàn cầu suy thoái.

Cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực năm 1997-1998 đã làm cho Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn sau
đó rồi, huống chi là cơn bão hiện tại.

Loan (loan.Tran@ipa.com.vn):

Chào anh Huy, anh đánh giá thế nào về sự ảnh hưởng biến động tỷ giá của các nước trong khu vực
emerging markets ở châu Á và tính cạnh tranh xuất khẩu của Việt nam so với các nước trong khu vực khi
đồng tiền Việt Nam vẫn neo vào đồng Đô la?

Ông Mạc Quang Huy:


Cám ơn câu hỏi của bạn. Tôi cũng đồng ý với anh Vũ Thành Tự Anh về xu hướng mất giá của USD, đặc
biệt khi Chính phủ Mỹ sẽ phát hành 700 tỷ USD giải cứu hệ thống tài chính. Trong thực tế Chính phủ Mỹ
có thể còn phải bơm thêm nhiều vốn vào trong nền kinh tế, tăng thâm hụt ngân sách.

Do đó với chính sách neo tỷ giá hiện nay của Việt Nam thì tỷ giá thực của VND sẽ tăng lên so với USD,
điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Hầu hết các quốc gia mới nổi cũng chịu hoàn cảnh
tương tự như Việt Nam.

Trong giai đoạn qua, chúng ta cũng chứng kiến đồng KRW của Hàn Quốc và AUD giảm mạnh so với
USD (30%) vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng các nước này có thể sẽ hưởng lợi từ xuất khẩu.

Phạm Thành Bảo (tb_index@yahoo.com):

Cháu có một câu hỏi gửi bác Trương Đình Tuyển: Thưa bác, sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO
ngày 11/1/2007, người dân cũng như sinh viên tụi cháu hết sức phấn khởi. Nhưng thực sự kể từ đó kinh
tế Việt Nam phát triển chậm lại, lạm phát tăng cao dần, nhập siêu tăng mạnh, lãi suất nóng... Vậy theo
bác, liệu có phải chính do gia nhập WTO mà chúng ta phải chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế
thế giới? Cháu cám ơn bác và chúc bác sức khoẻ ạ!

Ông Trương Đình Tuyển:

Chào cháu.

Toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế thế giới có mặt thuận, cũng có mặt nghịch. Trước khi nộp đơn gia nhập
WTO, chúng ta đã nhận thức khá rõ những cơ hội và những thách thức đặt ra cho nước ta khi tham gia
tổ chức này. Có 5 cơ hội lớn và 5 thách thức lớn. Ở đây tôi chỉ nêu những cơ hội và những thách thức có
liên quan đến câu hỏi của cháu.

Về cơ hội:

Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên nhờ phải cải cách hệ thống luật pháp cho phù hợp
với cam kết, chúng ta sẽ tạo đựơc môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng cùng với thị trường
xuất khẩu được mở rộng do là thành viên của WTO. Đây là 2 yếu tố cơ bản hấp dẫn các nhà đầu tư. Đầu
tư, nhất là đầu tư nước ngoài kèm theo chuyển giao vốn, công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý tạo
điều kiện cho chúng ta chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng và tạo công ăn việc làm.

Thị trường xuất khẩu được mở rộng. Đây là yếu tố quan trọng để phát triển sản xuất. Vì sản xuất ra phải
có nơi tiêu thụ, đặc biệt đối với một nước mà kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 60% GDP như nước ta.

Về thách thức:

Phân hoá giàu nghèo sẽ "doãng" ra nhanh hơn, một bộ phận dân cư dễ bị tác động từ mặt trái của cơ
chế thị trường, từ việc hội nhập. Để hạn chế tác động tiêu cực này chúng ta phải có chính sách phát triển
đúng đắn, phải quan tâm đến hệ thống các chính sách an sinh xã hội nhằm hỗ trợ những đối tượng gặp
khó khăn. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong
từng bước và từng chính sách phát triển. Về yêu cầu này chúng ta đã làm tốt được một số việc nhưng
vẫn còn nhiều việc chưa làm tốt và còn phải làm nhiều hơn nữa.

Tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, gia nhập WTO, những biến động trên thị trường thế giới tác động
rất nhanh rất mạnh đến thị trường trong nước, đặc biệt là những yếu tố có tính ổn định kém của kinh tế
toàn cầu như dòng vốn đầu tư, thị trường dầu mỏ, thị trường tài chính. Nếu khả năng dự báo và phân
tích kinh tế yếu kém, trình độ cán bộ bất cập, khả năng phản ứng chính sách không tốt, cơ chế ngăn
ngừa rủi ro không bảo đảm sẽ dễ dẫn đến rối loạn thị trường, thậm chí khủng hoảng.

Những gì diễn ra ở nước ta sau 2 năm gia nhập WTO, nhất là năm 2008 khẳng định sự đúng đắn trong
nhận định của Trung ương Đảng. Cơ hội cũng rất lớn và thách thức cũng không nhỏ cơ hội và thách
thức không còn ở dạng nguy cơ mà là hiện hữu.

Xuất khẩu tăng nhanh, 6 tháng đầu năm 2009 xuất khẩu tăng đến 39%, đầu tư nước ngoài tăng cao, ước
cả năm nay vốn FDI đăng ký đạt 60 tỷ USD - mức cao nhất từ trước đến nay. Nhưng mặt khác, nền kinh
tế chúng ta cũng phải chịu tác động của lạm phát và khủng hoảng tài chính toàn cầu gây cho chúng ta
những khó khăn và phức tạp trong quản lý và điều hành kinh tế.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng nguyên nhân của lạm phát và tăng trưởng chậm lại chủ yếu vẫn là do các
nhân tố bên trong, đó là sự yếu kém của bản thân nền kinh tế của cơ cấu kinh tế và đầu tư kém hiệu quả
đã tồn tại từ nhiều năm, chậm được khắc phục và một phần do những hạn chế yếu kém trong quản lý và
điều hành , do chính sách tài khoá và tiền tệ bị nới lỏng nhiều năm. WTO không phải là nguyên nhân của
tình hình này.

Lê Thị Hồng Phương (lephuong275@yahoo.com.vn):

Giai đoạn hiện nay các ngân hàng đua nhau cắt giam lãi suất nhằm ngăn chạn cơn bão khủng hoảng.
Vậy Việt Nam có nên hành động như vậy trong giai đoạn lạm phát cao như thời gian qua?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Trong những tháng cuối năm 2008 và cả năm 2009, chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn phải tiếp tục
được thắt chặt. Nhưng trong điều hành lại có những biện pháp linh hoạt để khai thác những thời cơ
thuận lợi để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp.

Việc ngân hàng trung ương các nước đua nhau hạ lãi suất là để cứu nền kinh tế tránh khỏi suy thoái.

Việt Nam cũng đang hành động tương tự khi mà các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại,
đang tích cực giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ và giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp.

Ngân hàng Nhà nước đã có các biện pháp như nâng lãi suất dự trữ bắt buộc từ 1,2% lên 5% và thanh
toán các trái phiếu cho các ngân hàng thương mại để cải thiện khả năng thanh khoản cũng như giảm bớt
chi phí cho ngân hàng thương mại, giúp các ngân hàng thương mại có điều kiện giảm lãi suất cho vay.

Đây là việc làm vừa phục vụ cho mục tiêu chống lạm phát, vừa khai thác tốt khả năng để tăng trưởng
hợp lý.

Lê Thị Hồng Phương (lephuong275@yahoo.com.vn):

Giai đoạn hiện nay các ngân hàng đua nhau cắt giam lãi suất nhằm ngăn chạn cơn bão khủng hoảng.
Vậy Việt Nam có nên hành động như vậy trong giai đoạn lạm phát cao như thời gian qua?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Việc ngân hàng trung ương các nước đua nhau hạ lãi suất là để cứu nền kinh tế tránh khỏi suy thoái.
Việt Nam cũng đang hành động tương tự khi mà các ngân hàng, nhất là các ngân hàng thương mại,
đang tích cực giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ và giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp.

Ngân hàng Nhà nước đã có các biện pháp như nâng lãi suất dự trữ bắt buộc từ 1,2% lên 5% và thanh
toán các trái phiếu cho các ngân hàng thương mại để cải thiện khả năng thanh khoản cũng như giảm bớt
chi phí cho ngân hàng thương mại, giúp các ngân hàng thương mại có điều kiện giảm lãi suất cho vay.

Đây là việc làm vừa phục vụ cho nhu cầu chống lạm phát, vừa khai thác tốt khả năng để tăng trưởng hợp
lý.

Khôi:
Thưa ông Cao Sỹ Kiêm, nếu khủng hoảng tài chính lan rộng và kéo dài thì Việt Nam cần phải đối phó
như thế nào?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Khủng hoảng tài chính và suy yếu kinh tế đã lan rộng từ Mỹ ra khắp thế giới, chứ không còn là “nếu” nữa.

Cuộc khủng hoảng này kéo dài bao lâu còn phụ thuộc vào khả năng ứng cứu của các quốc gia cũng như
sự đồng tâm và thống nhất xử lý của cộng đồng thế giới. Nhưng chắc chắn, họ sẽ không thể để khủng
hoảng kéo dài.

Cách đối phó tốt nhất của Việt Nam là thực hiện thành công các giải pháp chống lạm phát đã có trong
những tháng còn lại của năm 2008 và cả năm 2009 để nhanh chóng trở lại với tốc độ lạm phát một con
số vào năm 2010. Đây là cách đối phó khủng hoảng có hiệu quả nhất.

Tất nhiên, chúng ta cần theo dõi sát sao tình hình diễn biến thế giới cũng như trong nước để có những
giải pháp linh hoạt, hiệu quả và thích hợp cho mọi tình huống.

Như vậy, chúng ta mới có thể phát huy được những tiềm năng và sự chủ động trong nước, đồng thời
ứng phó hiệu quả với tác động của kinh tế thế giới tới kinh tế trong nước.

hanoimoi:

Xin hỏi nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn suy thoái, điều này ảnh hưởng như thế nào đến kinh tế
của một nước đang phát triển ở trình độ thấp như Việt Nam trong vòng 1-2 năm tới ?

Ông Bùi Kiến Thành:

Khủng hoảng tài chính Mỹ dẫn tới cuộc suy thoái kéo dài và không biết sẽ đi đến đâu. Trước mắt, trong
năm 2009 nước Mỹ sẽ phải cơ cấu lại toàn bộ nền tài chính.

Trở lại lịch sử nước Mỹ, từ 1930, Mỹ tách ra ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại riêng, không
đồng thời làm cùng nghiệp vụ huy động vốn và nhận tài khoản.

Các ngân hàng đầu tư của Mỹ có khả năng huy động vốn rất lớn, trong một tuần có thể dàn xếp các
khoản vay đến vài chục tỷ USD.

Hệ thống đó đã bị tan vỡ, FED cho phép một số ngân hàng sáp nhập hoặc chuyển đổi từ ngân hàng đầu
tư thành ngân hàng thương mại.

Cả hệ thống đang trong thời kỳ phải cơ cấu, sắp xếp lại nên việc nước Mỹ trở lại đà tăng trưởng kinh tế,
và từng là một thị trường tài chính hàng đầu thế giới, thì cần phải có thời gian.

Mỹ cũng đang trong kỳ bầu cử và từ 20/1/2009 sẽ có chính phủ mới. Chính phủ này sẽ cần thời gian để
tổ chức lại cơ cấu nhân sự..., có thể mất 6 tháng.

Với tình hình này, năm 2009 sẽ khó làm được gì nhiều, vì vậy khủng hoảng có thể kéo dài đến 2010,
thậm chí sợ rằng chưa ra khỏi.

Trong thời kỳ kinh tế suy thoái như thế này, nền kinh tế Việt Nam bị tác động gì và sẽ phát huy được
phần nào của nền kinh tế chúng ta?

Về phía Việt Nam, từ trước đến giờ, chúng ta đặt ưu tiên xuất khẩu (đến 60% GDP) và ta bị lệ thuộc vào
nó. Nay thị trường xuất khẩu co lại thì chúng ta phải nghĩ đến việc phát triển thị trường nội địa.
Quốc gia trên 80 triệu dân, đứng số 10 trên thế giới về dân số, thì phải làm sao khai thác được ưu thế về
dân số.

Phải nghiên cứu ưu thế dân số của ta là về cái gì, về nhân lực, về trí tuệ..., đặc biệt là cần quan tâm đến
người Việt Nam ở nước ngoài. Phải phát huy nội lực và tiềm năng thị trường từ thành thị đến nông thôn.

Nếu Việt Nam không kịp thời có những điều chỉnh để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển thì phải
đối mặt với những khó khăn gì? 300 ngàn doanh nghiệp phần nào tồn tại sẽ bị ảnh hưởng.

Ngoài vấn đề tài chính ra, yếu tố nhân sự là yếu tố quyết định cho việc thành bại. Từ lĩnh vực quản lý nhà
nước đến lĩnh vực doanh nghiệp, Việt Nam cần phải quan tâm đặc biệt đến vấn đề đào tạo và quản lý
nhân sự.

Tran Trong Kien:

Tôi có một câu hỏi nữa: Việc ECB, FED cùng một số ngân hàng trung ương khác tuyên bố bơm tiền
không hạn chế vào hệ thống tài chính theo các ông điều này tạo ra những hệ lụy nguy hiểm nào cho kinh
tế toàn cầu, việc này có đồng nghĩa là suy thoái kinh tế đã đến không, các ông đánh giá thế nào về kinh
tế thế giới 2009. Nếu kinh tế thế giới suy thoái thì sẽ mất bao lâu thời gian để phục hồi và tăng trưởng

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Việc bơm tiền của các ngân hàng trung ương cũng như việc hạ lãi suất là những biện pháp chặn suy
thoái và những diễn biến xấu đi của khủng hoảng tài chính.

Tất nhiên, các biện pháp này cũng sẽ ảnh hưởng tới lạm phát, nhưng đây là những biện pháp phải có để
chặn khủng hoảng và suy yếu của nền kinh tế.

Chắc chắn, những chương trình này cần phải có thời gian để phát huy tác dụng. Do đó, năm 2009, kinh
tế thế giới vẫn sẽ phải đối mặt với khó khăn.

Nếu những giải pháp này cùng với các giải pháp khác được thực thi có hiệu quả thì trong vòng một vài
năm tới, kinh tế thế giới sẽ phục hồi.

Cung Thị Mai Loan:

Các diễn giả nhận định như thế nào về tình hình nợ xấu trong các ngân hàng Việt Nam hiện nay, nhiều
người dự đoán tỉ lệ nợ xấu sẽ tăng mạnh vào giai đoạn cuối năm 2008 đến hết quý 1/2009 là khoảng
10%, với tình trạng đó, rất nhiều doanh nghiệp nhỏ đang trong giai đoạn khó khăn và nhiều doanh nghiệp
phá sản, liệu điều này có xảy ra không?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Tình hình nợ xấu trong ngân hàng có nhiều khả năng sẽ tăng. Thời điểm tăng sẽ là những tháng cuối
năm 2008 và đầu năm 2009. Mức tăng chắc chắn là sẽ hơn con số hiện nay.

Tuy nhiên, việc tỷ lệ này có tăng tới mức 10% hay không còn phụ thuộc khả năng kiềm chế lạm phát và
xử lý linh hoạt trong đầu tư tín dụng của các ngân hàng, cũng như khả năng phấn đấu thực hiện mục tiêu
của các doanh nghiệp.

Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang gặp nhiều khó khăn cả về vốn, trình độ nghề nghiệp, công
nghệ, năng lực quản trị kinh doanh.

Những khó khăn này đang được Chính phủ từng bước tháo gỡ. Nếu những giải pháp tháo gỡ của Chính
phủ đồng bộ và có kết quả cùng với sự tự tháo gỡ điều chỉnh của từng doanh nghiệp cũng như sự hỗ trợ
tích cực của cộng đồng thì khả năng dừng sản xuất hoặc phá sản của một số doanh nghiệp sẽ được hạn
chế và tình hình của các doanh nghiệp này sẽ được phục hồi dần.

Tất nhiên, những doanh nghiệp mà có khó khăn tồn tại lâu dài và nó không phải chủ yếu do tác động của
lạm phát gây nên, thì vẫn có khả năng phá sản. Và chúng ta cũng phải chấp nhận theo quy luật của kinh
tế thị trường, có phát triển và có phá sản.

Nguyen Van Anh:

Có thể nói việc hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa tham gia hội nhập sâu với thế giới là một may mắn
không, thưa ông Kiêm?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Việc hệ thống ngân hàng của Việt Nam chưa hội nhập sâu với thế giới không thể hoàn toàn được coi là
may mắn. Vì muốn hay không chúng ta phải vẫn hội nhập để có sự cạnh tranh, cọ xát. Có như vậy ngành
ngân hàng của ta mới phát triển được.

Về khó khăn, khó khăn vốn có của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn là vấn đề công nghệ, đội ngũ nhân
lực, khả năng quản trị kinh doanh còn khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Ngoài ra, trong thời gian tới, còn có một số khó khăn mới như khả năng huy động hạn chế, chi phí hoạt
động tăng, lợi nhuận sẽ giảm.

Đặc biệt, dòng vốn chảy vào Việt Nam sẽ có sự thay đổi.

Nhung (tcnh7@yahoo.com):

Khủng hoảng tài chính thế giới có ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, bài học
cho các ngân hàng tại Việt Việt Nam. Bao lâu nữa thì thị trường tài chính sẽ hồi phục và kỷ nguyên mới
của thị trường tài chính và nền kinh tế toàn cầu sẽ như thế nào?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Khủng hoảng tài chính và sự suy yếu của kinh tế thế giới đã có ảnh hưởng tới Việt Nam, nhưng ảnh
hưởng này chỉ giới hạn ở mức độ hạn chế của quan hệ giữa các ngân hàng Việt Nam với các ngân hàng
nước ngoài, trước hết là các ngân hàng Mỹ.

Nhưng dù sao, chúng ta cũng rút ra được những bài học về nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này.
Đặc biệt là về điều hành chính sách tiền tệ, nhất là khối lượng tín dụng tung ra quá dễ dãi và lãi suất thấp
“dưới chuẩn”.

Bên cạnh đó là việc tập trung quá nhiều vào cho vay bất động sản và khả năng kiểm soát, quản lý cũng
như tính hiệu quả của các khoản tín dụng này.

Chương trình của Mỹ và các nước khác để hỗ trợ chống suy thoái phải cần tới vài ba năm để phát huy
tác dụng. Sau đó, hệ thống tài chính thế giới sẽ hồi phục.

Đặng Văn Dũng (dangvdung@vnn.vn):

Kính thưa ông Huỳnh Thế Du, trong tình hình khủng hoảng hiện nay, Việt Nam không thể không bị tác
động. Nhưng đâu là những cơ hội cho Việt Nam?

Ông Huỳnh Thế Du:

Tác động tiêu cực là điều khó tránh khỏi, nhưng cuộc khủng hoảng này cũng đem đến những điều tích
cực cho Việt Nam ở những điểm sau:
Thứ nhất, giờ đây chúng ta có thể biết những gì có thể xảy ra để tránh trên con đường phía trước.

Thứ hai, đây là cơ hội tốt để củng cố lại hệ thống tài chính trong nước vốn đang có rất nhiều vấn đề và
trục trặc. Đây có lẽ là cơ hội tốt nhất để chúng ta có thể làm được điều này.

Khi có một hệ thống tài chính đúng nghĩa, phân bổ vốn một cách hiệu quả thì nền kinh tế sẽ tăng trưởng
lành mạnh và phát triển bền vững. Có lẽ đây là điểm có lợi nhất cho Việt Nam ở cuộc khủng hoảng này.

Thứ ba, qua cuộc khủng hoảng này, cấu trúc tài chính quốc tế có sẽ thay đổi, vai trò của những ông lớn
hiện tại có khả năng sẽ giảm sút, những nước khác có thể sẽ có vai trò nhiều hơn. Đây chính là cơ hội
cho nhiều nước.

Nhưng cần phải lưu ý là có lẽ trật tự tài chính quốc tế sẽ không có sự thay đổi nhiều và những nước như
Trung Quốc chẳng hạn sẽ có vai trò lớn hơn là điều khó có thể xảy ra.

Trong tình huống này, thực lòng mà nói việc tìm kiếm những cơ hội sẽ rất khó khăn khi mà những người
xung quanh, những đối tác chính của mình đang gặp khó khăn.

Nguyễn Văn Chiến (nguyenchien.404@gmail.com):

Em vẫn chưa hiểu khoản MBS là do ngân hàng thương mại hay là ngân hàng đầu tư phát hành?

Ông Mạc Quang Huy:

Cám ơn bạn Chiến. Các gói trái phiếu được đảm bảo bởi tín dụng bất động sản (MBS) có thể do cả ngân
hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát hành. Nói chính xác hơn, ngâ
n hàng muốn chứng khoán hóa sẽ thành lập một công ty có mục đích đặc biệt (Special Purpose Vehicle -
SPV) để phát hành trái phiếu MBS ra thị trường.

Danh mục tín dụng được bán cho công ty SPV này và như vậy SPV có tài sản là danh mục tín dụng, đối
ứng với nguồn vốn chính là MBS phát hành. SPV gần như không có vốn, thường là vốn tượng trưng 1
USD.

Hàng tháng công ty SPV nhận tiền thanh toán gốc, lãi của người đi vay và thanh toán gốc, lãi trái phiếu
cho các trái chủ nắm giữ MBS theo thứ tự ưu tiên định sẵn. Sau khi thu hồi hết khoản vay và thanh toán
cho trái chủ thì SPV tự giải thể. Vai trò của ngân hàng đầu tư, ngân hàng thương mại chỉ là vai trò giám
sát và hỗ trợ hoạt động cho SPV.

Lý do ngân hàng đầu tư tham gia nhiều hơn vào nghiệp vụ chứng khoán hóa hơn ngân hàng thương mại
vì họ là thực thể trên thị trường vốn do đó có thuận lợi để phân phối MBS ra các khách hàng và quỹ đầu
cơ (hedge funds).

Trong khi đó ngân hàng thương mại lại là chủ thể trên thị trường tín dụng nên họ sẵn có các danh mục
tín dụng. Do đó trong thực tế ngân hàng thương mại thường thực hiện công việc giải ngân tín dụng cho
người mua nhà sau đó bán danh mục tín dụng sang ngân hàng đầu tư.

Thậm chí ngân hàng đầu tư còn sẵn sàng ứng vốn trước cho ngân hàng thương mại để giải ngân tín
dụng. Ngân hàng đầu tư sẽ phân loại đóng gói và hình thành SPV để phát hành MBS. Như vậy cả ngân
hàng thương mại và ngân hàng đầu tư đều có những phần việc của mình trong chuỗi giá trị chứng khoán
hóa, kết nối thị trường tín dụng và thị trường vốn một cách hoàn hảo.

Bạn có thể tham khảo hơn về quy trình phát hành MBS theo một bài viết trước đây trên VnEconomy:
"Khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ: Từ A đến Z" (http://vneconomy.vn/62186P0C6/khung-hoang-no-
duoi-chuan-tai-my-tu-a-den-z.htm).
Le Thanh:

Xin ông Huỳnh Thế Du cho biết Mỹ và Nhật lấy tiền đâu để có thể "bơm tiền không giới hạn cứu các ngân
hàng" của họ?

Ông Huỳnh Thế Du:

Có một kênh không giới hạn, đó là in tiền. Tuy nhiên, trong tình huống này họ không làm như vậy vì như
thế sẽ làm cho tình trạng lạm phát gia tăng rất khủng khiếp và ảnh hưởng đến tín nhiệm quốc gia (làm
như vậy chẳng ai còn dám mua trái phiếu Chính phủ Hoa Kỳ nữa).

Ở đây với mỗi kế hoạch người ta đều tính toán cẩn thận.

Ví dụ như gói ngân sách 700 tỷ Đô la ở Mỹ, Chính phủ phải vất vả lắm mới thuyết phục được Quốc hội
thông qua. Họ tính toán từng đồng lấy nguồn ở đâu và trong thời gian tới sẽ thâm hụt ngân sách bao
nhiêu chứ họ không in tiền như Zimbawe đã làm.

Thực ra, do ngân hàng trung ương của các nước này có tính độc lập rất cao nên họ có thể can thiệp
bằng cách tung tiền ra trong những thời điểm thị trường thiếu thanh khoản sau đó sẽ thu về vào những
thời điểm cần thiết.

Dang Long:

Hiện ông Du đang công tác tại Mỹ, ông có thể cho biết tâm lý và ứng xử chung trong đời sống của những
người xung quanh trong bối cảnh khủng hoảng tài chính không?

Ông Huỳnh Thế Du:

Ở những nơi khác tôi chỉ có điều kiện tìm hiểu qua các phương tiện thông tin đại chúng nên không cảm
nhận được rõ tâm lý như thế nào, riêng ở khu vực tôi đang ở, mọi chuyện vẫn bình thường, ai vào việc
đó.

Mỗi khi lên lớp các giáo sư cũng có những bình luận đánh giá ở một số khía cạnh, nhưng sau đó đi vào
các bài giảng như không có điều gì đang xảy ra, cho dù chỉ số chứng khoán đang trồi sụt thất thường, thị
trường đang chao đảo.

Vào những ngày thị trường căng thẳng, trường đại học nơi tôi học đã tổ chức một buổi thảo luận giữa
những người am hiểu, trong đó có cả Giáo sư Robert C. Merton, người đoạt giải Nobel kinh tế về mô
hình quyền chọn năm 1997. Cũng thời gian này, trường Đại học Princeton cũng tổ chức một buổi thảo
luận tương tự mà trong đó có Giáo sư Paul Krugman, người đoạt giải Nobel kinh tế năm nay tham dự.

Những buổi thảo luận như vậy thường rất cởi mở và đa chiều. Tuy nhiên, đó chỉ là những đánh giá phân
tích ban đầu. Chắc chắn, trong thời gian tới sẽ có vô số nghiên cứu về sự kiện này. Không chừng sẽ có
người đoạt giải Nobel kinh tế nhờ giải thích tại sao cuộc khủng hoảng hiện tại lại xảy ra (sau khi nó đã
xảy ra rồi) cũng nên.

Có lẽ đây là một trong những điều đặc biệt của hệ thống giáo dục đại học của Hoa Kỳ, học thuật gắn liền
chứ không tách rời cuộc sống. Một giáo sư đại học có thể đường hoàng trở thành thống đốc ngân hàng
trung ương hay bộ trưởng tài chính. Khi thôi chức họ lại trở thành một giáo sư bình thường.

Về thái độ của công chúng, theo quan sát của tôi, cho dù tình hình có vẻ như đang rất khó khăn, nhiều
người cảm thấy bi quan hơn so với trước đây, uy tín của ông Tổng thống hiện tại xuống thấp chưa từng
có trong lịch sử, nhưng dường như không có tâm lý hoảng loạn xảy ra mà hầu hết mọi người dường như
vẫn tin vào một nước Mỹ mạnh.

Có lẽ đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng tạo nên sự ổn định của xã hội Hoa Kỳ và cũng có
thể ngược lại, do sự ổn định diễn ra trong một thời gian quá dài tạo ra niềm tin trong dân chúng. Khi một
vấn đề gì đó xảy ra thì mọi người vẫn bình tĩnh.

Theo tôi, điều mà nhiều người Mỹ quan tâm nhất hiện nay không phải là cuộc khủng hoảng hiện tại mà là
bầu cử Tổng thống vào tháng 11 này.

Phan Duy Tuấn (duytuanp@yahoo.com):

Kính chào các chuyên gia kinh tế, xin được chuyển đến các chuyên gia câu hỏi sau: Có thể nói, khủng tài
chính toàn cầu hiện nay bắt nguồn từ các khoản cho vay thế chấp bất động sản thứ cấp (Subprime
Mortgage Loans) của các tổ chức tài chính Mỹ, trong đó mấu chốt của vấn đề là việc chứng khoán hóa
các khoản cho vay này để tạo ra sản phẩm mới là các chứng khoán bất động sản (Mortgage Backed
Securities - MBS) và mua bán, trao đổi chúng trên thị trường tài chính toàn cầu. Đến khi thị trường bất
động sản xuống dốc, kéo theo các khoản nợ xấu gia tăng, và khi tỉ lệ nợ xấu vượt quá giới hạn chịu
đựng, các tổ chức tài chính sẽ lâm vào tình trạng phá sản như chúng ta đã chứng kiến trong những ngày
vừa qua. Thật may đối với Việt Nam khi chúng ta chưa có loại sản phẩm tài chính kiểu này nên không
chịu tác động dây chuyền khi có sự đổ vỡ của thị trường bất động sản. Tuy nhiên, theo thiển nghĩ, MBS
cũng là một phương thức rất tốt để tái huy động vốn phục vụ nhu cầu của thị trường, nhất là tình trạng
nhà ở còn thiếu thốn như ở Việt Nam ta. Vậy theo ý kiến các chuyên gia, trong tương lai chúng ta có nên
khuyến khích phát triển loại hình sản phẩm tài chính nói trên để đáp ứng yêu cầu của xã hội hay không?
Xin chân thành cám ơn.

Ông Mạc Quang Huy:

Câu hỏi của bạn rất thú vị. Như đã trả lời trong câu hỏi trước, tôi đồng tình với quan điểm là chúng ta nên
phát triển nghiệp vụ chứng khoán hóa tại Việt Nam. Vấn đề quan trọng là phát triển thế nào, lộ trình ra
sao, và cơ chế giám sát thế nào là điều cần bàn. Việc phát triển thị trường chứng khoán hóa sẽ giảm
gánh nặng cho thị trường tín dụng truyền thống trong khi chúng ta chưa có một thị trường tài chính nhà ở
(housing finance) theo đúng nghĩa của nó.

Với cơ cấu dân số trẻ, tốc độ đô thị hóa cao, phong cách sống ngày càng độc lập, thì nhu cầu tài chính
nhà ở của Việt Nam rất lớn và tiềm năng. Thị trường vốn sẽ kết nối người thừa vốn và người thiếu vốn
đến với nhau một cách trực tiếp và hiệu quả.

Để chứng khoán hóa phát triển và phát huy hiệu quả tại thị trường Việt Nam, thiết nghĩ chúng ta còn quá
nhiều việc phải làm mà quan trọng nhất là quá trình giáo dục nhận thức của thị trường cũng như xây
dựng khung pháp lý giám sát. Nếu nhà đầu tư thực sự hiểu họ mua rủi ro gì trong sản phẩm tài chính và
được cảnh báo trước thì sẽ tránh được phát triển quá nóng và những hậu quả của nó. Việt Nam có một
số khó khăn để thực hiện thành công thị trường tài chính nhà ở và chứng khoán hóa:

• Hệ thống dữ liệu lịch sử tài chính cá nhân của Việt Nam rất nghèo nàn;

• Thị trường bất động sản ở Việt Nam chưa minh bạch;

• Hệ thống dữ liệu lịch sử về tín dụng bất động sản ở Việt Nam (tỷ lệ nợ xấu, khả năng thu hồi) chưa đủ
dài và tin cậy;

• Việt Nam chưa có các tổ chức định mức tín nhiệm (credit rating agencies);

Những yếu tố trên sẽ làm cho việc định giá và cơ cấu các gói trái phiếu hình thành từ chứng khoán hóa
trở nên vô cùng khó khăn.

Nguyễn Vĩnh Bình (vinhbinh_nguyen@yahoo.com.vn):

Xin các chuyên gia có thể đưa ra những so sánh một cách khái quát những điểm giống và khác nhau
giữa khủng hoảng ở Mỹ và ở châu Âu trong thời gian vừa qua. Và những động thái từ phía Chính phủ Mỹ
cũng như các quốc gia châu Âu có gì khác nhau?

Ông Mạc Quang Huy:

Tôi nghĩ cuộc khủng hoảng ở Mỹ và châu Âu mà cụ thể là Anh Quốc có những điểm tương đồng nhất
định, đó là nguyên nhân khủng hoảng bắt nguồn từ sự phát triển tín dụng quá nóng, với sự hỗ trợ của
nghiệp vụ chứng khoán hóa, dẫn đến nhu cầu giả tạo, giá nhà đất leo thang và các khoản tín dụng rủi ro
cao. Khi rủi ro phát sinh, giá nhà đất và chứng khoán sụt giảm dẫn đến khủng hoảng tín dụng.

Tại Anh Quốc, hàng loạt ngân hàng cho vay thế chấp như Northern Rock, Bradford & Bingley đều rơi vào
tình trạng khó khăn và phải được can thiệp. Đối với các quốc gia châu Âu khác, khủng hoảng mang tính
chất gián tiếp hơn, chủ yếu do sự liên thông chặt chẽ giữa các thị trường tài chính lớn. Do sự phát tán rủi
ro tín dụng thông qua các gói chứng khoán có gốc bất động sản của Mỹ và Anh Quốc nên các ngân hàng
và quỹ đầu tư của châu Âu cũng bị ảnh hưởng nặng nề.

Phản ứng domino xảy ra khi thị trường tín dụng liên ngân hàng bị khủng hoảng và làn sóng bán tháo
chứng khoán toàn cầu. Ngân hàng Fortis của Bỉ bị quốc hữu hóa không phải do cho vay dưới chuẩn mà
do bị thương nặng sau khi bỏ ra số tiền quá lớn cùng mua ABN AMRO Bank. Khi không thể huy động
vốn trên thị trường và cũng không thể bán tài sản thì ngân hàng này bị tê liệt.

Điểm khác giữa khủng hoảng của Mỹ và châu Âu chủ yếu là quy mô và sức tàn phá. Mỹ đươc coi là
trung tâm của cuộc khủng hoảng lần này và chịu nhiều tổn thất nhất. Một sự khác biệt nữa là châu Âu
trong thời gian vừa qua còn chịu áp lực mạnh từ cuộc chiến chống lạm phát do giá dầu và lương thực thế
giới tăng cao.

Chính vì vậy, các ngân hàng trung ương châu Âu đã không thể cắt giảm lãi suất mạnh mẽ như Mỹ đã
làm trong năm qua. Chỉ đến khi cuộc khủng hoảng lên tới đỉnh điểm và lan rộng ra toàn cầu thì thực sự
châu Âu mới vào cuộc.

Lan Anh (phamhoanglananh@gmail.com):

Cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn Mỹ có thể mang lại các bài học gì cho các ngân
hàng Việt Nam (đặc biệt trong lĩnh vực cho vay bất động sản)? Được biết, chứng khoán hóa là một công
cụ rât hiện đại giúp chia sẽ rủi ro trên thị trường, ngân hàng không còn là người phải chịu rủi ro chính đối
với các món nợ xấu (điều này khác với ở Việt Nam). Vậy hệ thống tài chính Việt Nam có nên phát triển
các tổ chức tài chính dạng ngân hàng đầu tư và hướng tới thực hiện chứng khoán hóa để chia sẻ rủi ro
trên thị trường hay không?

Ông Mạc Quang Huy:

Tôi cho rằng bài học lớn nhất từ cuộc khủng hoảng này đối với các ngân hàng Việt Nam có lẽ là việc kìm
chế lòng tham, áp dụng các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh.

Để phát triển bền vững, các ngân hàng cần có một chiến lược kinh doanh dài hạn, cẩn trọng hợp lý,
tránh tăng trưởng quá nóng và chạy theo lợi nhuận trước mắt. Ngoài ra, hệ thống quản trị rủi ro, quản trị
doanh nghiệp, giám sát độc lập có vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện các rủi ro tiềm ẩn. Cuối
cùng, các ngân hàng cần xây dựng chiến lược xử lý khủng hoảng và các kế hoạch duy trì kinh doanh
(business continuity planning).

Bạn là người rất am hiểu về nghiệp vụ chứng khoán hóa. Đúng là chứng khoán hóa đã trở thành một
công cụ truyền dẫn rủi ro từ thị trường tín dụng ngân hàng sang thị trường vốn. Đồng thời do xu hướng
toàn cầu hóa nên chứng khoán hóa còn phát tán rủi ro ra phạm vi toàn cầu.

Việc phát tán rủi ro tín dụng được chuyển giao cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn (bao gồm cả các
nhà đầu tư có tổ chức và cá nhân) nắm giữ trực tiếp các gói trái phiếu được đảm bảo bởi các danh mục
tín dụng (MBS, MBO, CDO). Ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư chỉ đóng vai trò trung gian kết
nối người thiếu vốn trên thị trường tín dụng và người thừa vốn trên thị trường vốn.

Câu hỏi đặt ra là Việt Nam có nên thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa để chia sẻ rủi ro hay không?
Theo quan điểm cá nhân tôi thì rất nên bởi chứng khoán hóa là một công cụ tài chính rất thông minh và
nó giúp tăng cường hiệu quả hoạt động của thị trường vốn, giảm gắng nặng cho thị trường tín dụng
truyền thống.

Trong cuộc khủng hoảng này, chứng khoán hóa không có tội, vấn đề là lòng tham của thị trường đã lạm
dụng nghiệp vụ này để gây nên hậu quả khôn lường trong khi hệ thống giám sát chưa đủ mạnh. Hơn
nữa do tính chất phức tạp của sản phẩm mà nhà đầu tư không hiểu hết bản chất chính họ là người cho
vay tín dụng dưới chuẩn (ngân hàng phát hành chỉ đóng vai trò trung gian).

Chính sự thiếu hiểu biết này cùng với mức lãi suất hấp dẫn đã kích hoạt lòng tham của tất cả các chủ thể
tham gia thị trường. Thực tế chứng khoán hóa có lịch sử phát triển từ năm 1977 và được sử dụng rất an
toàn và hữu hiệu.

Sau đây là một số giải pháp nhằm hạn chế lạm dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa, ngăn ngừa khủng
hoảng:

• Tăng cường giáo dục nhận thức thị trường để nhà đầu tư thực sự hiểu bản chất và rủi ro tiềm ẩn trong
từng sản phẩm tài chính;

• Tăng cường tính minh bạch thông tin của các sản phẩm tài chính. Áp dụng các chế tài phạt nặng đối
với các tổ chức tài chính trung gian không cung cấp đầy đủ thông tin trung thực và không giải thích rõ về
rủi ro của sản phẩm đến nhà đầu tư;

• Tăng cường giám sát hoạt động định mức tín nhiệm đối với các gói trái phiếu hình thành từ chứng
khoán hóa;

• Tăng cường các quy định an toàn chất lượng tài sản với một số loại nhà đầu tư có tổ chức; và tăng
cường hệ thống giám sát và cảnh báo rủi ro tài chính.

Nhadautu (hotstock@@yahoo.com):

Tôi là một nhà đầu tư chứng khoán. Xin được hỏi bác Cao Sỹ Kiêm, bác có thể cho tôi lời khuyên trước
bối cảnh thị trường chứng khoán hiện nay không, đặc biệt là về tâm lý. Cảm ơn bác!

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Rõ ràng là thị trường chứng khoán của chúng ta đang có những diễn biến theo nhịp độ của nền kinh tế
cũng những tác động từ bên ngoài. Tính ổn định của thị trường cũng chưa cao. Những vấn đề này, các
cơ quan chỉ đạo quản lý đang tìm mọi biện pháp để hỗ trợ cho thị trường khôi phục và phát triển.

Như trên tôi đã nói, vấn đề phải được theo sát để có quyết định linh hoạt, kịp thời. Rõ ràng là vấn đề tâm
lý đang tác động rất mạnh, nhất là trong điều kiện thông tin của chúng ta chưa hoàn chỉnh và có chỗ thiếu
minh bạch, rất chú ý những nguồn tin không chính thống hoặc có ý đồ lợi dụng để kiếm lợi hoặc đồn thổi
để có sự phân biệt khi ra quyết định.

Vũ Hưng (hungvu17@gmail.com):

Xin hỏi bác Cao Sỹ Kiêm, trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng mới, việc cấp phép thành lập ngân
hàng mới có nên tiếp tục dừng lại không?

Ông Cao Sỹ Kiêm:

Việc dừng cấp phép ngân hàng mới không có liên quan gì tới khủng hoảng tài chính của Mỹ, vì trước khi
xảy ra khủng hoảng, chúng ta đã nhận thấy việc thành lập mới ngân hàng trong mấy năm gần đây quá
dồn dập và có thể gây ra những bất lợi và rủi ro đối với nền kinh tế.

Theo chủ trương của Chính phủ, chúng ta sẽ dừng lại để xây dựng những tiêu chí an toàn hơn, sát với
tình hình hiện nay hơn. Nếu những đơn vị nào đủ các điều kiện mới này, có thể vẫn sẽ được cấp phép
hoạt động.

Ha Nguyen:

Thưa ông Bùi Kiến Thành: ông nghĩ như thế nào khi giá dầu thế giới hiện nay đã giảm rất thấp nhưng giá
xăng tại Việt Nam vẫn chưa giảm, do doanh nghiệp lập luận vì phải bù lỗ? Hiện nay theo nhiều chuyên
gia kinh tế thì Việt Nam không chịu ảnh hưởng nhiều bởi khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng vì sao chỉ
số chứng khoán Việt Nam hiện tại lên xuống luôn dựa vào chỉ số Dow Jones của Mỹ. Chân thành cám ơn
ông

Ông Bùi Kiến Thành:

Về thị trường xăng dầu Việt Nam, hiện nay do 11 công ty làm đầu mối nhập khẩu và phân phối.

Chưa thể nói là thị trường xăng dầu đã hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc định giá còn tuân thủ
nhiều yếu tố chưa được rõ ràng. Vì vậy, việc cập nhật với sự lên xuống của giá dầu thế giới là chưa
được thực hiện.

Cách đây vài ngày, một viên chức nhà nước lý giải trên phương tiện thông tin đại chúng rằng các cơ
quan kinh doanh xăng dầu dự đoán giá dầu có thể lên 200 USD/thùng nên một số doanh nghiệp đã nhập
khẩu tồn kho một lượng rất lớn với giá trên 100 USD/thùng. Vì lượng tồn kho này phải được xử lý với giá
mua vào rất cao nên chưa áp dụng được việc điều chỉnh giá xăng dầu trong nước, dù giá thị trường thế
giới đã xuống thấp.

Lý giải như thế có thể cho chúng ta nhận định rằng, việc chưa giảm giá xăng dầu đã được các cơ quan
chức năng "đồng thuận".

Theo tôi, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải thanh tra về giá thành nhập khẩu của các doanh nghiệp
và điều phối việc giảm giá cho phù hợp.

Về việc chứng khoán Việt Nam lên xuống theo Dow Jones (DJ), theo tôi là hợp lý.

DJ thể hiện sức khỏe của nền kinh tế Mỹ và khả năng suy giảm, suy thoái của doanh nghiệp Mỹ. DJ
xuống mạnh thì kinh tế Mỹ đi vào thời kỳ suy thoái trầm trọng, như vậy sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế
Việt Nam.

Khi kinh tế vĩ mô Việt Nam bị ảnh hưởng thì sẽ ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán.

Bên cạnh đó còn có yếu tố tâm lý, nhưng điều này không chỉ có ở Việt Nam. Hôm nay DJ Mỹ xuống 7,8%
thì Topix đã xuống đến 10%. Thị trường chứng khoán toàn Á châu cũng giảm trong sáng nay.

Mặc dù nhiều chính phủ đã đưa ra các biện pháp giải cứu, nhưng giới đầu tư chưa thực sự an tâm. Chỉ
số đi xuống cũng là điều hợp lý.

Lê Thị Thanh Huyền:

Đối với giới đầu tư tài chính Việt Nam trong lĩnh vực bất động sản thì cuộc khủng hoảng chịu tác động
như thế nào? Theo một số nhận định thì khi giá hàng hóa giảm, giá nhà sẽ giảm, tỷ lệ nợ xấu sẽ gia tăng.
Xin ông cho biết nhận định về ý kiến trên? Các ngân hàng thương mại sẽ đối phó với việc này như thế
nào?
Ông Bùi Kiến Thành:

Trong năm vừa qua, số cho vay bất động sản của các ngân hàng rất lớn. Ngân hàng nhà nước báo cáo
dư nợ cho vay trực tiếp là 115 ngàn tỷ, tổng số cho vay bất động sản kể cả cho vay thế chấp khoảng trên
600 ngàn tỷ đồng.

Giá bất động sản hiện nay là giá ảo, do mua đi bán lại chứ không phải giá thật của hàng hóa.

Trong suy thoái, không có người mua. Cung nhiều nhưng cầu thì giá giảm mạnh. Như vậy giá nhà sẽ
phải xuống, bong bóng bất động sản sẽ bị "xì".

Giá bất động sản xuống thì nợ cho vay bất động sản trở thành khó đòi. Ngân hàng siết nợ thì có thể sở
hữu bất động sản nhưng giá trị tài sản thì đi xuống. Điều này ảnh hưởng đến tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng tài
sản của các ngân hàng.

Các ngân hàng thương mại phải xem khả năng giảm nợ cho vay bất động sản đến mức đảm bảo an
toàn, cần phải nhanh chóng thu hồi các khoản vay có thể thu hồi được.

Nếu là chủ sở hữu bất động sản thì phải xem đến khả năng bán bất động sản để thu hồi vốn. Nhưng cần
phải thận trọng "giải hàng", vì nếu bán hàng loạt thì sẽ đưa giá bất động sản "tuột dốc".

Ngân hàng cần rút kinh nghiệm vỡ bong bóng của thị trường bất động sản Nhật trong những năm 1990.
Sự cố này đã dẫn tới sự phá sản của nhiều ngân hàng, và nền kinh tế Nhật đến nay chưa hồi phục hoàn
toàn.

T.Huyền:

Xin ông cho biết chính sách tiền tệ hiện nay có thể giúp giảm nhẹ ảnh hưởng của khủng hoảng như thế
nào?

Ông Bùi Kiến Thành:

Đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay, tuy rằng kiềm chế lạm phát là một ưu tiên, nhưng cũng
phải quan tâm đến việc phát triển bền vững của nền kinh tế.

Với lãi suất cơ bản 14%, cho vay 19-21% thì rõ ràng các doanh nghiệp không thể hoạt động được.

Với lãi suất cơ bản 14% thì các ngân hàng phải huy động vốn với lãi suất rất cao. Nhiều ngân hàng lãnh
trách nhiệm trả lãi suất 17-19% cho khách hàng trong một thời gian dài.

Các xí nghiệp không chịu nổi lãi suất 21% hoặc cao hơn nữa thì phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh
doanh. Một số không vay để tránh đổ vỡ. Kết quả là nền kinh tế bị chậm lại, nhiều doanh nghiệp gặp khó
khăn.

Việc này gây khó khăn cho ngân hàng, vì có tiền mà không cho vay được. Ngân hàng đã cam kết trả lãi
suất cao cho người gửi mà không cho vay được thì tình hình kinh doanh của ngân hàng rất nguy hiểm.

Đối với những khoản cho vay với lãi suất 21% trở lên rất dễ biến thành nợ khó đòi.

Ngân hàng lúc này bị kẹp giữa hai vấn đề: không cho vay được và nợ khó đòi có khả năng phát sinh
nhiều.

Doanh nghiệp không vay được thì bị đổ vỡ hàng loạt. Hiện tượng này đã được các hiệp hội doanh
nghiệp và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cảnh báo.

Theo tôi, có thể nói, chính sách tiền tệ hiện nay đã vô tình gây thêm áp lực cho nền kinh tế Việt Nam.
Dai Duong (Libra9999fls@yahoo.com):

Tôi muốn hỏi đến thời điểm hiện nay, Chính phủ đã có một đánh giá chi tiết nào về tác động cụ thể của
khủng hoảng tài chính đến xuất khẩu, FDI, thậm chí là cả ODA trong hai năm tới hay chưa? Nếu có thì
phương hướng giải quyết như thế nào? Tại sao cho đến tuần trước, vẫn có một quan chức khẳng định
khủng hoảng sẽ không có ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam khi mà Mỹ là một thị trường xuất khẩu lớn
của chúng ta?

Ông Trương Đình Tuyển:

Tôi có thể khẳng định Chính phủ theo dõi rất chặt, cập nhật thông tin và đưa ra những đánh giá về tác
động của khủng hoảng tài chính toàn cầu đến thị trường trong nước.

Thường trực Chính phủ đã có nhiều cuộc họp bàn về vấn đề quan trọng này. Thủ tướng, các phó thủ
tướng và các bộ trưởng kinh tế đã nhiều lần nghe ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước phân
tích về cuộc khủng hoảng tài chính và tác động của noa đến nền kinh tế Việt nam.

Do tình hình diễn biến rất nhanh, Thủ tướng chính phủ giao cho uỷ ban giám sát tài chính Quốc gia họp
hàng tuần với các chuyên gia kinh tế để cập nhật đánh giá diễn biến của khủng hoảng và đề xuất giải
pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Nhiệm vụ đầu tiên là phải bảo đảm an toàn hệ thống không để cuộc
khủng hoảng tác động đến hệ thống tài chính ngân hàng của chúng ta.

Và theo tôi được biết cho đến nay hệ thống tài chính ngân hàng của chúng ta vẫn giữ được độ an toàn.
Đến thời điểm này các cân đối vĩ mô tốt hơn hồi giữa năm. Thứ hai phải đa dạng hoá thị trường xuất
khẩu, đi đôi với khai thác tốt hơn thị trường nội địa.

Thứ ba là phát huy nội lực coi đây là yếu tố quyết định trên cơ sở khuyến khích mạnh khu vực tư nhân
phát triển đầu tư và kinh doanh, giải quyết những ách tắc để tăng mức vốn thực hiên của các dự án đầu
tư trong đó có đầu tư nước ngoài.

Trong quản lý điều hành thì cùng với tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, phải chủ động hạn chế tác động
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta. Các doanh nghiệp phải
triệt để tiết kiệm trong sản xuất là lưu thông, giảm chi phí trung gian, hạ giá thành để nâng cao sức cạnh
tranh của sản phẩm nhằm duy trì ở mức cao nhất thị phần xuất khẩu.

Những tư tưởng chỉ đạo trên đây được thể hiện rõ trong báo cáo của Thủ tướng Nguyễn tấn Dũng trình
Quốc hội trong phiên khai mạc sáng nay. Và tôi tin rằng trong khó khăn doanh nghiệp ta, nhân dân ta sẽ
có nhiều sáng kiến mới. Đó cũng là truyền thống và bản lĩnh của nhân dân ta.

Giáo sư Đào Nguyên Cát:

Trong 4 ngày qua, chúng tôi đã nhận được hàng nghìn câu hỏi từ độc giả, các câu hỏi đề cập đến nhiều
khía cạnh, góc độ khác nhau xung quanh cuộc khủng hoảng tài chính này.

Hiện đã vượt quá xa thời gian chúng ta dự kiến dành cho cuộc trực tuyến này. Sau gần 4 tiếng đồng hồ
làm việc tích cực, Tòa soạn Thời báo Kinh tế Việt Nam cùng các chuyên gia tham dự giao lưu trực tuyến
hy vọng đã đáp ứng được phần nào những quan tâm của độc giả. Chúng tôi rất tiếc đã không đủ thời
gian trả lời tất cả các câu hỏi của quý bạn đọc, rất mong bạn đọc thông cảm!

Như các chuyên gia đã phân tích, ảnh hưởng từ các cuộc khủng hoảng đến Việt Nam là có, điều đó là tất
yếu vì chúng ta đã hội nhập, nhưng ảnh hưởng ở cấp độ nào mới quan trọng?

Tôi nhớ rằng, trong vòng hai năm trước, nếu thống kê đã có tới hàng trăm cuộc hội thảo với nội dung đại
loại như “Gia nhập WTO: Cơ hội và thách thức”. Kể từ thời điểm Việt Nam chính thức gia nhập WTO thì
hiện tại đang chính là thời điểm các doanh nghiệp của chúng ta nhìn nhận rõ nét nhất, trải nghiệm thách
thức là gì và cơ hội ở đâu.

Trước những khó khăn đòi hỏi phải có những giải pháp, mà giải pháp tốt lại là con đường mới mở ra dẫn
chúng ta đến với những cơ hội mới, ví dụ ở đây là những thị trường xuất khẩu mới, những phương pháp
làm ăn mới, những công nghệ mới, những biện pháp thắt chặt nâng cao năng lực cạnh tranh ngay tại
từng doanh nghiệp và quan trọng hơn là những biện pháp xử lý của nhà nước.

Với ý kiến phân tích của các chuyên gia, tôi tin tưởng rằng chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát được
tình hình và vượt qua khó khăn này.

Thay mặt Tòa soạn Thời báo Kinh tế Việt Nam, tôi trân trọng cảm ơn sự tham gia của các chuyên gia,
đặc biệt là đồng chí Trương Đình Tuyển, Cao Sỹ Kiêm và ông Bùi Kiến Thành đã dành trên thời gian bên
cạnh các phóng viên, biên tập viên; những nhà nghiên cứu kinh tế trẻ Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du,
anh Mạc Quang Huy (bút danh Mạc San trên VnEconomy). Mỗi người một công việc khác nhau, rất bận,
anh Tự Anh ở tại Tp.HCM, anh Huy ở Úc, anh Du đang hoàn thiện công trình nghiên cứu của mình tại
Mỹ, thời gian giao lưu trực tuyến đúng vào lúc nửa đêm theo giờ Mỹ, nhưng các chuyên gia đều nhiệt
tình dành cho độc giả VnEconomy những chia sẻ cởi mở.

Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động đến
Việt Nam

Để xem xét ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu tới Việt Nam, cần xem xét mối
quan hệ giữa kinh tế Việt Nam với thế giới.Mối quan hệ này bao gồm quan hệ về tất cả các
lĩnh vực kể từ khi VN hội nhập WTO, trong đó hai lĩnh vực chính là xuất khẩu và quan hệ
về vốn.

Nguyễn Văn Thế


TP Hành Chính APAVE Hồ Chí Minh

Sự suy giảm chung của nền kinh tế thế giới chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nền
kinh tế Việt Nam, mà tác động tổng hợp có thể sẽ là tốc độ tăng trưởng chậm
lại và thất nghiệp gia tăng. Điều này chắc chắn sẽ tác động tới mọi tầng lớp
dân cư Việt Nam, trong đó tầng lớp công nhân lao động sẽ chịu ảnh hưởng
trực tiếp.

Các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất, công
suất thừa ra sẽ như thế nào? Thị trường lao động bị ảnh hưởng sẽ nảy sinh
các vấn đề xã hội … tiêu dùng giảm sút. Khi sản xuất bị thu hẹp, một số
người có khả năng mất việc làm, hay chí ít là thu nhập bị giảm sút cộng với
dòng kiều hối chảy vào sự sụt giảm sẽ kéo theo sự sụt giảm trong tiêu dùng
của các hộ gia đình.

Trong hoàn cảnh này, Chính phủ cần đặt ưu tiên cao nhất chống lạm phát và
bình ổn kinh tế vĩ mô. Chúng ta phải chấp nhận tăng trưởng chậm lại trong
một vài năm để bình ổn vĩ mô và đảm bảo cho tăng trưởng dài hạn.

Về tiền tệ, vẫn phải tiếp tục được thắt chặt. Nhưng trong điều hành lại có
những biện pháp linh hoạt để khai thác những thời cơ thuận lợi để đạt mục
tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp như tích cực giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ
và giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp.

Ngân hàng Nhà nước đã có các biện pháp nâng lãi suất dự trữ bắt buộc từ
1,2% lên 5% và thanh toán các trái phiếu cho ngân hàng thương mại để cải
thiện khả năng thanh khoản cũng như giảm bớt chi phí cho ngân hàng
thương mại, giúp các ngân hàng thương mại có điều kiện giảm lãi suất cho
vay. Đây là việc làm vừa phục vụ cho mục tiêu chống lạm phát, vừa khai
thác tốt khả năng để tăng trưởng hợp lý.

Từ trước đến giờ,chúng ta đặt ưu tiên xuất khẩu (đến 60% GDP) và ta bị lệ
thuộc vào nó. Nay thị trường xuất khẩu co lại thì chúng ta nghĩ đến việc phát
triển thị trường nội địa. Quóc gia trên 80 triệu dân, đứng số 10 trên thế giới
về dân số, thì phải làm sao khai thác được ưu thế về dân số.

Phải nghiên cứu ưu thế dân số của ta là về cái gì, về nhân lực, về trí tuệ, …
cần quan tâm đến người Việt Nam ở nước ngoài. Phải phát huy nội lực và
tiềm năng thị trường từ thành thị đến nông thôn.
Nếu không kịp thời có những điều chỉnh để tạo điều kiện cho doanh nghiệp
phát triển thì phải đối mặt với những khó khăn gì? 300 ngàn doanh nghiệp
phần nào tồn tại sẽ bị ảnh hưởng.

Ngoài vấn đề tài chính ra, yếu tố nhân sự là yếu tố quyết định cho việc thành
bại. Từ lĩnh vực quản lý nhà nước đến lĩnh vực doanh nghiệp, cần phải quan
tâm đặc biệt đến vấn đề đào tạo, tái đào tạo và quản lý nhân sự.

Nhưng dù sao, chúng ta rút ra được những bài học về nguyên nhân của cuộc
khủng hoảng này. Đặc biệt là về điều hành chính sách tiền tệ, nhất là khối
lượng tín dụng tung ra quá dễ dãi và lãi xuất thấp “dưới chuẩn”.

Bên cạnh đó là việc tập trung quá nhiều vào cho vay bất động sản và khả
năng kiểm soát, quản lý cũng như tính hiệu quả của các khoản tín dụng này.

Tác động tiêu cực là điều khó tránh khỏi, nhưng cuộc khủng hoảng này cũng
đem đến những điều tích cực cho Việt Nam ở những điểm sau:

Thứ nhất, giờ đây chúng ta có thể biết những gì có thể xảy ra để tránh trên
con đường phía trước.

Thứ hai, đây là cơ hội tốt để củng cố lại hệ thống tài chính trong nước vốn
đang có rất nhiều vấn để trục trặc. Đây có lẽ là cơ hội tốt nhất để chúng ta
có thể làm được điều này.

Nhiệm vụ đầu tiên là phải bảo đảm an toàn hệ thống không để cuộc khủng
hoảng tác động đến hệ thống tài chính ngân hàng của chúng ta.

Thứ ba, phải đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đi đôi với khai thác tốt hơn
thị trường nội địa.

Thứ tư, là phát huy nội lực coi đây là yếu tố quyết định trên cơ sở khuyến
khích mạnh khu vực tư nhân phát triển đầu tư kinh doanh, giải quyết những
ách tắc để tăng mức vốn thực hiện của các dự án đầu tư trong đó có đầu tư
nước ngoài.

Trong quản lý điều hành thì cùng với tiếp tục ưu tiên kiềm chế lạm phát, phải
chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế
toàn cầu đến nền kính tế nước ta. Các doanh nghiệp phải triệt để tiết kiệm
trong sản xuất là lưu thông, giảm chi phí trung gian, hạ giá thành để nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm nhằm duy trì ở mức cao nhất có thể thị
phần xuất khẩu.
Ðây là phiên bản html của tệp http://eco.hcmuaf.edu.vn/data/file/Ngai-Macro%20Meeting%20Report.doc.
G o o g l e tự động tạo ra những phiên bản html của các tài liệu khi chúng tôi crawl web.
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI: ẢNH HƯỞNG
VÀ CHÍNH SÁCH VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM

TS Nguyễn Văn Ngãi, Trưởng Khoa Khoa Kinh Tế, Đại Học Nông Lâm TPHCM

Bài tham luận tại Tạo Đàm: Khủng hỏang tài chính thế giới , do Vụ Kinh Tế, Văn
Phòng Trung Ương Đảng và Trường Đại Học Mở TPHCM tổ chức, ngày26 tháng 12
năm 2008,, tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Thế giới đang đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập kinh tế thế giới sẽ không tránh khỏi sự ảnh hưởng đó. Những chính sách
kinh tế vĩ mô của Việt Nam để giảm thiểu tác động của thế giới đối với nền kinh tế Việt
Nam là cấp bách. Bài viết này thảo luận một số ảnh hưởng chính của khủng hoảng
kinh tế thế giới đến nền kinh tế Việt Nam và thảo luận một số chính sách vĩ mô cần
thiết.

1. Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đến nền kinh tế Việt
Nam

Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu vào kinh tế thế giới, cụ thể Việt nam đã gia nhập AFTA và WTO. Việc hội nhập
kinh tế thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam thông qua hai thị trường chính,
thị trường hàng hóa và dịch vụ và thị trường tài chính. Đối với thị trường hàng hóa và
dịch vụ, kim ngạnh xuất nhập khẩu tăng cao trong hai thập niên qua, hơn nữa Việt Nam
là một nước có nền “kinh tế nhỏ”, do đó khủng hoảng kinh tế thế giới sẽ tác động đến
xuất và nhập khẩu của Việt Nam và như vậy ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Việt
Nam. Nếu thu nhập thế giới giảm, xuất khẩu của Việt Nam sẽ giảm và như vậy sẽ ảnh
hưởng đến tổng cầu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam và tiếp tục ảnh hưởng đến tổng
cung và sau cùng làm ảnh hưởng đến GDP và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đây
là vấn đề được cần quan tâm hàng đầu đối với những nhà hoạch định chính sách.
Khủng hoảng thế giới cũng sẽ tác động đến nhập khẩu của Việt Nam, nếu tổng cầu của
các quốc gia trên giới giảm thì khả năng giá cả hàng hóa thế giới giảm, điều này sẽ có
hai tác động, (1) nguyên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất sẽ có lợi cho nền kinh tế Việt
Nam, (2) nhưng hàng hóa tiêu dùng có khả năng tràn vào Việt Nam với giá rẽ, ví dụ
hàng hóa của Trung Quốc, sẽ cạnh tranh với hàng hóa Việt Nam và như vậu cầu hàng
hóa Việt Nam sẽ giảm đi và như vậy tổng cầu hàng hóa Việt Nam tiếp tục giảm, giảm
cung và giảm GDP.

Thị trường tài chính Việt Nam bị ảnh hưởng khá lớn bởi thị trường thế giới, đặc biệt
trong vài năm gần đây. Sự ảnh hưởng này thể hiện qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp
của nước ngoài vào Việt Nam. Suy giảm kinh tế thế giới sẽ làm cho đầu tư nước ngoài
giảm đi và như vậy đầu tư ở Việt Nam sẽ giảm. Khi đầu tư giảm sẽ có hai tác động,
ngắn hạn và dài hạn, đến nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn, cầu hàng hóa và dịch
vụ cho đầu tư sẽ giảm, như vậy tổng cầu sẽ giảm. Trong dài hạn, giảm đầu rư sẽ giảm
trữ lượng vốn và sẽ giảm tổng cung hàng hóa và dịch vụ. Tóm lại, Việt Nam cũng
không thoát khỏi tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính sách vĩ mô
cần được ưu tiên trong việc giảm thiểu tác động này.

2. Chính sách của Việt Nam đối với khủng hoảng kinh tế thế giới

Việc suy thoái kinh tế thế giới sẽ giảm tổng cầu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, và
phần nào tổng cung do giảm đầu tư. Theo mô hình tổng cung tổng cầu (AS-AD), GDP
của Việt Nam sẽ bị giảm và mức giá chung cũng giảm theo trong ngắn hạn. Như vậy,
chính sách gì đối với Việt Nam để giảm thiểu tác động này. Chính sách có thể chia làm
hai nhóm, kích cầu và kích cung. Các nước trên thế giới hiện nay tập trung vào chính
sách kích cầu.

Kích cầu

Tồng cầu hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia phụ thuộc vào ba nhóm yếu tố, nền
kinh tế thế giới, chính sách kinh tế vĩ mô (tiền tệ, tài khóa, tỉ giá hối đoái) và kỳ vọng
của công chúng của một quốc gia. Khi kinh tế thế giới làm suy giảm tổng cầu, thì chính
phủ có thể tác động đến hai nhóm yếu tố còn lại để tăng tổng cầu trở lại. Tuy nhiên,
kích cầu sẽ tăng GDP nhưng cái giá phải trả là lạm phát sẽ quay trở lại với tỷ lệ cao
hơn. Như vậy cần phải kích cầu bao nhiêu để có đảm bảo cho lạm phát không tăng trở
lại quá cao, kích cầu bằng công cụ gì và thành phần nào của tổng cầu cũng cần nghiên
cứu thận trọng. Tồng cầu hàng hóa và dịch vụ bao gồm các thành phần như: tiêu dùng
cá nhân và các hộ gia đình (consumption, C), cầu hàng hóa và dịch vụ cho đầu tư
(investment, I), tiêu dùng của chính phủ (government purchase, G) và xuất khẩu ròng
(net export, NX=X-M).

Trong các thành phần trên của tổng cầu, nên ưu tiên kích xuất khẩu (X) và kích đầu tư
(I), còn kích tiêu dùng (C) và chi tiêu chính phủ (G) thì hết sức thận trọng. Kích xuất
khẩu sẽ làm tăng tổng cầu hàng hóa và dịch vụ nước ngoài, vì thu nhập thế giới giảm
ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu nên cần sử dụng các biện pháp khác tăng lợi thế cạnh
cạnh của những người xuất khẩu (ví dụ, tỉ giả hối đoái linh hoạt hơn, các thủ tục xuất
khẩu đơn giản hóa để giảm thiểu chi phí cho nhà xuất khẩu). Hơn nữa, kiểm soát
nghiêm ngặt hàng hóa rẽ nhập lậu từ Trung Quốc để cầu hàng hóa trong nước không
bị giảm.

Để kích cầu hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp cho đầu tư, chính sách tiền tệ
mỡ rộng là cần thiết nhằm giảm lãi suất và như vậy kích thích đầu tư. Giảm lãi suất
phải đi đối với tăng cung tiền, nếu giảm lãi suất bằng cách ép buộc cho các ngân hàng
thong mại sẽ xãy ra tình trạng mất cân bằng của thị trường tiền tệ, các ngân hàng sẽ
tiếp tục đối đầu với sự khó khăn đó. Như vậy phải tính toán lượng tăng cung tiền thích
hợp để đảm bảo cho lãi suất giảm như mong đợi.
Để kích tiêu dùng, một chính sách tài khóa quan trọng liên quan là giảm thuế thu nhập,
tức là tăng thu nhập khả dụng. Do đó, chính sách thuế thu nhập mới sẽ áp dụng vào
đầu năm 2009 là không thích hợp, việc “giãn” áp dụng chính sách thuế thu nhập mới là
rất cần thiết. Hơn nữa, việc áp dụng chính sách thu nhập mới trong thời điểm này sẽ
làm phân tán nguồn lực kinh tế cho việc đối đầu với chính sách thuế của công chúng.
Mọi người tập trung vào chính sách thuế mới, khai thuế như thế nào, vv., mà không
tập trung cao độ vào tìm giải pháp để giảm thiểu tác hại của khủng hoảng kinh tế thế
giới.

Về kích cầu bất động sản bằng một lượng ngân sách khá lớn, tác giả bài viết này
không ủng hộ chính này vì các lý do sau. Thứ nhất, ưu đãi cho các nhà đầu tư bất động
sản sẽ xãy ra kích cầu vật liệu xây dựng, nhưng ngành vật liệu xây dựng có phải là một
ngành quan trọng cần kích cầu hay không cần phải xem xét kỹ hơn. Thứ hai, ưu đãi sẽ
tạo ra một sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà đầu tư, có thể sẽ làm giàu cho
các đại gia, nhiều người giành được lợi nhuận khi tìm được những ưu đãi đó (rent
seeking). Thứ ba, việc giải quyết nhà ở cho những người có thu nhập thấp phải coi là
một mục tiêu khác, không phải kích cầu trong giai đoạn này. Về vấn đề nhà ở cho
người có thu nhập thấp bao gồm hai nhóm, nhóm chính sách xã hội và nhóm người lao
động có thu nhập thấp. Đối với nhóm chính sách xã hội thì cần chính sách xã hội để
giải quyết. Đối với nhóm người lao động có thu nhập thấp thì cần để cho cơ chế thị
trường vận hành. Hiện nay nhà ở không thiếu, nhưng người có thu nhập thấp không có
khả năng mua, việc thuê nhà ở của họ là bình thường. Điều quan trọng là cần phải
nâng cao chất lượng nhà thuê của họ, như vậy chắc chắn chi phí nhà ở sẽ tăng lên,
điều này gây áp lực tăng lương. doanh nghiệp tăng lương và sẽ tính toán lại kinh
doanh của mình, nếu cần nhà nước có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp qua chính sách
thuế.

Nhóm yếu tố thứ ba ảnh hưởng đến tổng cầu là kỳ vọng của công chúng. Khi công
chúng kỳ vọng vào một nền kinh tế thế giới khó khăn và như vậy Việt nam cũng không
tránh khỏi, họ sẽ cố gắng cắt giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm để đảm bảo cuộc sống
ổn định trong tương lai, kỳ vọng này sẽ làm cho tổng cầu giảm. Đối với kỳ vọng của
công chúng như vậy, để kích cầu cần thực hiện một số giải pháp để thay đổi kỳ vọng
của công chúng, cụ thể là các kiểm soát thông tin đại chúng, nên cố gắng thông tin
những yếu tố thể hiện sự lạc quan của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.

Kích cung

Kích cung là một giải pháp sẽ góp phần tăng GDP, nhưng không gây lạm phát, đây là
ưu điểm của kích cung so với kích cầu. Hơn nữa, kích cung sẽ góp phần tăng trưởng
kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong khi thế giới đang tập trung kích cầu, Việt
Nam cũng cần thiết kích cầu như trình bày ở phần trên, nhưng điều quan trọng hơn là
phải tìm những giải pháp để kích cung. Do đó, tiềm lực kinh tế cần ưu tiên cho việc
kích cung. Việc kích cung cần tập trung vào các ngành thâm dụng lao động sẽ tạo
thêm công ăn việc làm và thu nhập, như vậy mới có thể góp phần kích cầu được. Tổng
cung hàng hóa và dịch vụ tăng lên nhờ vào ba yếu tố, công nghệ (T), vốn (K) và lao
động (L). Các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp trong phạm vi cho phép là hết
sức cần thiết trong lúc này. Việc giảm và hoãn thuế cho các doanh nghiệp là một giải
pháp được ủng hộ, chính phủ có thể tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận và áp dụng
nhanh công nghiệp mới, vv.

3. Kết luận

Để đảm bảo cho việc nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng và lạm phát vẫn được
kiểm soát trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, Chính phủ Việt Nam cần thực
hiện cấp bách đồng thời hai nhóm chính sách, kích cầu và kích cung. Cả hai chính sách
đều có thể làm cho nền kinh tế Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhất định, nhưng
nhóm giải pháp kích cầu sẽ có tác dụng phụ là lạm phát có khả năng quay trở lại, trong
khi đó kích cung sẽ không bị tác dụng phụ đó. Như vậy, ưu tiên tiềm lực kinh tế của
đất nước để kích cung là một chiến lược cho Việt Nam trong năn 2009.

Kinh tế Việt Nam có vượt qua cơn bão tài chính Mỹ?

E-mail Bản để in Cỡ chữ Chia sẻ:


Ý kiến (15)

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài chính phát triển -
Ảnh: Reuters.

▪ BÙI KIẾN THÀNH


11:08 (GMT+7) - Thứ Hai, 6/10/2008

Khủng hoảng tài chính tác động trực tiếp đến Việt Nam không lớn, nhưng gián tiếp thì khá
mạnh

Khủng hoảng tài chính Mỹ bắt nguồn từ việc các ngân hàng nước này quá dễ dãi, tùy tiện khi cho
khách hàng vay tiền để mua bất động sản qua các hợp đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn.

Nguyên nhân cuộc khủng hoảng

Có thể nói một cách đơn giản là từ lâu nay đa số người Mỹ vay tiền từ các ngân hàng để mua nhà, với
thời hạn hợp đồng từ 10 năm đến 30 năm. Đó là việc bình thường. Nhưng trong 10 năm trở lại đây thị
trường nhà đất phát triển mạnh, các ngân hàng và các tổ chức cho vay ào ạt tiếp thị tạo ra những hợp
đồng cho vay không đạt tiêu chuẩn và khuyến khích cả những người không đủ khả năng tài chính cũng đi
vay tiền để mua nhà.

Ngoài ra các tổ chức cho vay còn “sáng chế” ra những hợp đồng bắt đầu với lãi suất rất thấp trong
những năm đầu và sau đó điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường. Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay
không đòi được nợ. Nguy hại hơn nữa là các tổ chức tài chính phố Wall đã gom góp các hợp đồng cho
vay bất động sản này lại làm tài sản bảo đảm, để phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế.

Các loại trái phiếu này được mệnh danh là “Mortgage backed securities – MBS”, một sản phẩm tài chính
phái sinh được bảo đảm bằng những hợp đồng cho vay bất động sản có thế chấp. Các tổ chức giám
định hệ số tín nhiệm (Credit rating agencies) đánh giá cao loại sản phẩm phái sinh này. Và nó được các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí trên toàn thế giới mua mà không biết rằng các hợp
đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm là không đủ tiêu chuẩn.

Trong vài năm trở lại đây thị trường bất động sản liên tiếp hạ nhiệt, người đi vay đã không có khả năng
trả được nợ lại cũng rất khó bán bất động sản để trả nợ, và kể cả bán được thì giá trị của bất động sản
cũng đã giảm thấp tới mức không đủ để thanh toán các khoản còn vay nợ.

Hậu quả là một số lớn hợp đồng cho vay bất động sản dùng để bảo đảm cho các trái phiếu MBS là nợ
khó đòi, các trái phiếu MBS mất giá trên thị trường thứ cấp, thậm chí không còn mua bán được trên thị
trường, khiến cho các ngân hàng, các nhà đầu tư nắm giữ những trái phiếu này không những bị lỗ nặng
và mất cả khả năng thanh toán.

Theo ước tính của nhiều chuyên gia trong 22.000 tỷ USD giá trị bất động sản tại Mỹ thì có tới hơn 12.000
tỷ USD là tiền đi vay, trong đó khoảng 4.000 tỷ USD là nợ xấu. Các nước khác cũng bắt chước Hoa Kỳ
và bán ra loại trái phiếu phái sinh MBS này trong thị trường tài chính của họ.

Vì vậy trên toàn thế giới tổng số nợ bất động sản khó đòi và tổng số MBS bị “nhiễm độc” chưa thể tính
hết được. Bear Stern, Indy Mac, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Meryll Lynch, Washington
Mutual, Vachovia, Morgan Stanley, Goldman Sachs v.v. (Mỹ), New Century Financial, Northern Rock,
HBOS, Bradford & Bringley (Anh quốc), Dexia (Pháp-Bỉ-Luxembourg), Fortis, Hypo (Đức-Bỉ), Glitner
(Iceland) hoặc bị lung lay hoặc bị ngã gục.

Cơn chấn động tài chính ở Hoa Kỳ chắc chắn sẽ khiến nhiều thị trường tài chính, nhiều ngân hàng trên
khắp thế giới bị rung động theo, bởi hàng loạt ngân hàng lớn trên thế giới đã đầu tư mua loại trái phiếu
MBS này.

Trầm trọng hơn nữa là những “hợp đồng bảo lãnh nợ khó đòi”, tiếng Mỹ gọi là “Credit Default Swap –
CDS”. Các hợp đồng này do các tổ chức tài chính và các công ty bảo hiểm quốc tế bán ra, theo đó bên
mua CDS được bên bán bảo đảm sẽ hoàn trả đầy đủ số nợ cho vay nếu bên vay không trả được nợ.

Bên Mỹ tổng số CDS ước tính khoảng 35 nghìn tỷ USD, và toàn thế giới khoảng 54.600 tỷ USD (theo
ước tính của Hiệp hội “International Swap and Derivatives Association”).

Tập đoàn tài chính và bảo hiểm hàng đầu thế giới AIG bị đổ vỡ, một phần là do đầu tư vào MBS và phần
lớn là do các hợp đồng CDS này. Rồi đây, nếu thị trường tài chính Mỹ không được giải cứu kịp thời, và
thị trường tài chính thế giới bị đóng băng, các hợp đồng CDS sẽ tàn phá các ngân hàng và các định chế
tài chính khác đến mức khủng khiếp chưa thể lường hết được.

Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ sẽ lan rộng ra trên khắp các thị trường tài chính phát triển
vì những lí do đã nói trên. Hàng loạt các ngân hàng lớn nhỏ sẽ bị sụp đổ, sẽ bị sáp nhập hoặc quốc hữu
hóa. Tín dụng toàn cầu sẽ bị co rút lại. Các tập đoàn sản xuất kinh doanh sẽ gặp khó khăn tiếp cận
nguồn vốn vay ngắn hạn và dài hạn.

Đối với từng khu vực, từng lĩnh vực, tác động sẽ khác nhau vì nó phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế
thực tế trong lĩnh vực vay trả nợ, xuất nhập khẩu, đầu tư kỹ thuật, công nghệ, những nước nào hoặc
những khu vực nào phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng lớn và bị tác động trực tiếp.

Điều này chúng ta thấy không ít ngân hàng lớn tại Anh và Đức đang gánh chịu tác động trực tiếp từ cuộc
khủng hoảng tài chính nghiêm trọng này. Còn nước nào mà quan hệ kinh tế chưa chặt chẽ lắm với Mỹ
thì tác động cũng chỉ ở mức độ nào đó thôi.

Dự đoán trong một vài tháng tới, sự đổ vỡ sẽ lần lượt như kiểu quân bài domino có thể xẩy ra, chưa thể
biết được cú gục ngã của Lehman Brothers và một số định chế tài chính khác của Mỹ sẽ còn kéo thêm
bao nhiêu ngân hàng, tổ chức tài chính, bảo hiểm đi vào kết cục giống như vậy bởi nguy cơ thiếu thanh
khoản.

Cơn chấn động tài chính ở Hoa Kỳ chắc chắn sẽ khiến nhiều thị trường tài chính, nhiều ngân hàng trên
khắp thế giới bị rung động theo. Có rất nhiều ngân hàng từ châu Á sang châu Âu đều đã cho Lehman
Brothers và các ngân hàng Mỹ trên bờ phá sản vay những số tiền rất lớn.

Ngoài ra, có nhiều ngân hàng quốc tế đã bị “nhiễm độc” với trái phiếu MBS và các hợp đồng CDS.

Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng tài chính?

Tác động trực tiếp đối với nền kinh tế Việt Nam thì không lớn, vì chưa có định chế tài chính nào của Việt
Nam đầu tư vào trái phiếu MBS và các hợp đồng cho vay cầm cố như Mỹ.

Nói là không tác động lớn và không trực tiếp thôi, nhưng khủng hoảng tài chính ở Mỹ hiện nay cũng có
những tác động nhất định đến thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam, vì kinh tế Mỹ là nền kinh tế lớn
chiếm 30% tổng sản lượng, chu chuyển vốn thị trường thế giới. Trong điều kiện hiện nay, tất cả các quốc
gia đều đã hội nhập nên “nhất cử, nhất động” của một nền kinh tế nào đó cũng có ảnh hưởng nhất định
đối với thế giới, chưa nói tới một nền kinh tế lớn như Mỹ.

Nhưng tác động gián tiếp lại khá mạnh. Trước mắt có những vấn đề, ví dụ lãi suất cho vay liên ngân
hàng quốc tế - LIBOR và SIBOR - đang tăng. Nó có thể ảnh hưởng tới nợ ngắn hạn của Việt Nam tại các
ngân hàng thương mại và doanh nghiệp.

Mặc dù số nợ này không lớn, chỉ khoảng hai tỷ USD, nhưng người ta buộc phải tái cấu trúc kỳ hạn và lãi
suất, và như thế có thể ảnh hưởng tình hình tài chính của một số ngân hàng và doanh nghiệp.

Khủng hoảng ở Mỹ có thể làm cho người dân dự đoán USD sẽ xuống giá và họ có thể rút USD khỏi ngân
hàng, hoặc bán USD mua tiền Việt gửi vào. Nó có thể làm cấu trúc tài sản của các ngân hàng rơi vào thế
bất lợi.

Trong lĩnh vực thương mại, một khi mà người tiêu dùng Mỹ thắt chặt hầu bao thì nhiều nền kinh tế dựa
chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Với Việt Nam cũng vậy, hiện nay 60% GDP của chúng ta là để phục vụ cho xuất khẩu, mà Mỹ là thị
trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng dệt may, da giày, thuỷ sản của Việt Nam.

Khủng hoảng tài chính của Mỹ có thể làm cho xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ giảm mạnh vì hai lý do (1)
Là hàng xuất khẩu của Việt Nam một phần lớn vẫn là các loại hàng thô, trong khi giá các nguyên liệu
thô trên thị trường thế giới đang giảm, kể cả khi không có khủng hoảng ở Mỹ, và (2) là sự eo hẹp của thị
trường tài chính dẫn đến eo hẹp thị trường nhập khẩu hàng hóa, nhu cầu về hàng xuất khẩu của Việt
Nam giảm đi.

Không riêng gì Việt Nam mà nhiều quốc gia ở châu Á còn phải chịu những tác động sâu xa hơn từ việc
thị trường xuất khẩu lớn nhất bị suy thoái. Mỹ là một nền kinh tế 70% tiêu dùng. Một khi mà người tiêu
dùng Mỹ thắt chặt hầu bao, không còn vung tiền chi tiêu mua sắm ôtô, tivi, tủ lạnh, thực phẩm... thì các
nền kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn lợi từ xuất khẩu chắc chắn sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Giá bất động sản ở Việt Nam cũng có thể xuống thấp hơn nữa. Mà bất động sản xuống thì tài sản ngân
hàng cũng xuống theo và nợ xấu có thể tăng lên. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước thì dư nợ cho
vay bất động sản tính đến cuối tháng 9/2008 là 115.500 tỷ VND, chiếm 9,15% tổng dư nợ toàn hệ thống.
Bao nhiêu là nợ đã quá hạn hoặc khó đòi thì không có báo cáo.

Kết quả tài chính của nhiều ngân hàng thương mại có thể không được như mong muốn vào cuối năm
nay. Đấy là những tác động ngắn hạn.

Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có thể chững lại, thậm chí vốn đã cam kết sẽ thực hiện trễ hơn bởi
khoảng 80% vốn đầu tư vào Việt Nam là đi vay. Khi không đi vay được thì nhà đầu tư sẽ khó giải ngân
vào Việt Nam. Vốn cam kết thì lớn, nhưng vốn thực hiện có thể thấp, tình hình giải ngân những tháng
cuối năm sẽ gặp khó khăn.

Thị trường chứng khoán Việt Nam chưa gia nhập vào hệ thống thị trường chứng khoán thế giới nên ảnh
hưởng tương đối nhỏ. Lo ngại là phần lớn nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn về khi nguồn vốn của họ bị
co lại. Khi đó, một lượng không nhỏ USD sẽ ra khỏi Việt Nam.

Dù vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam không nhiều, chỉ khoảng
20% tổng vốn, nhưng nếu họ rút ồ ạt thì sẽ ảnh hưởng ngay đến thị trường chứng khoán Việt Nam.

Nếu các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu bán ra thì các cơ quan chức năng của chúng ta nên nghiên cứu
vấn đề này. Do vậy, thời gian tới Ủy ban Chứng khoán, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần phải
họp bàn xem các tổ chức nào sẽ có khả năng rút vốn ở thị trường Việt Nam và cần dự báo các tổ chức
đó bán cổ phần, cổ phiếu của Việt Nam đến mức nào, ảnh hưởng ra sao đến dự trữ ngoại hối; cũng cần
phải cảnh báo với thị trường và các nhà đầu tư trong nước để tránh hoảng loạn trên thị trường.

Khu vực ngân hàng của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng không phải quá lớn. Những ngân hàng
nhỏ với vốn điều lệ dưới mức tối thiểu quy định 1.000 tỷ đồng có thể sẽ phải sáp nhập với các ngân hàng
lớn, nhưng sự đổ bể của hệ thống tài chính Việt Nam khó có khả năng xẩy ra.

Nhưng lợi nhuận của nhiều ngân hàng có thể giảm, thậm chí một số có thể lỗ. Đến cuối năm nợ xấu có
thể tăng lên và lúc bấy giờ Chính phủ có thể buộc phải có giải pháp để xử lý các khoản nợ xấu.

Ngày 21.1, cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ đã chính thức lan


ra thị trường thế giới. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng này
đến VN là không tránh khỏi vì nó sẽ tác động trực tiếp đến vốn
đầu tư nước ngoài vào VN và xuất khẩu của VN vào Mỹ.

Để nhìn nhận một cách đầy đủ hơn về cuộc khủng hoảng này và
những nguy cơ tiềm ẩn đối với nền kinh tế VN, chúng tôi xin
giới thiệu 2 bài viết của TS Vũ Quang Việt từ New York (Mỹ).
NĐT lo lắng, chỉ số CK Mỹ
sụt giảm mạnh.
Bài 1: Sau "bong bóng" là khủng hoảng

Đối với những người theo dõi kinh tế Mỹ, những yếu kém kinh tế Mỹ đã bộc lộ rõ từ trước năm
2000 nhưng đến nay mới bùng nổ.

Lo ngại NĐT rút vốn...

Thiếu hụt cán cân thanh toán nước ngoài đã tới trên 400 tỉ USD từ năm 2000 (chiếm trên 4%
GDP) và tiếp tục tăng mức thiếu hụt, đạt 811 tỉ USD vào năm 2006 (bằng 6% GDP).

Năm 2007, USD mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt xuống 734 tỉ USD nhưng cũng ở mức rất
cao bởi ở các nước khác, nếu thiếu hụt ở mức 3% GDP thì đã phải lo lắng bằng mọi cách nhằm
điều chỉnh để giảm mức thiếu hụt này.

Nền kinh tế Mỹ trong hơn 10 năm, có lợi thế là được sự tin tưởng của cả thế giới, nên tiền đổ vào
để cho dân chúng đầu tư và tiêu xài. Để dành của dân chúng vào năm 2006 chỉ có 34 tỉ USD, gần
như 0% GDP, và tỉ lệ để dành thấp này chỉ khoảng 1-2% đã kéo dài từ cả chục năm nay.

Đầu tư của Mỹ bằng 19% GDP, chủ yếu dựa vào lợi nhuận công ty, nhưng đến 30% số tiền đầu
tư là do vay mượn nước ngoài. Tình hình tài chính của Mỹ chẳng khác gì một nước đang phát
triển không kiểm soát nổi hầu bao mình.

Các nước ở Châu Mỹ Latin và ở Châu Á sau cuộc khủng hoảng tài chính những năm 90 đã cố
gắng làm sạch sẽ tài chính, tăng cường để dành, và trở thành nguồn tài chính tài trợ tiêu dùng của
Mỹ.

Mỹ đang mất vốn vì giá xuống thì đầu tư của các nền kinh tế của những nước này cũng sẽ không
thể không bị cụt vốn theo. Việc rút vốn ra khỏi Mỹ, dù chỉ một phần cũng tạo ảnh hưởng không
nhỏ.

TTCK sụt giảm, nhà-đất tiếp tục xuống giá

Tiền đổ vào Mỹ đã làm TTCK và tài sản lên giá quá mức giá trị của nó. Điều này thì ai cũng
biết, nhưng rất nhiều người vẫn không tin là giá có thể xuống. Đặc biệt là các nhà kinh doanh
tiền tệ, họ phải thổi phồng vì càng lên giá, càng say sưa với thị trường thì giao dịch càng tăng,
vay mượn càng nhiều và phí dịch vụ càng lớn.

Giá CP Mỹ đã qua thời kỳ điều chỉnh, đặc biệt là giá các Cty công nghệ thông tin được thổi
phồng, chỉ số Nasdaq lên trên 5.000 điểm năm 2.000 và hiện nay chỉ còn trên 2.000 điểm, bằng
trước đây.

Chỉ số Dow Jones ít bị ảnh hưởng hơn cũng giảm từ cao điểm gần 12.000 điểm năm 2000, xuống
tới mức 7.540 điểm và sau đó phục hồi để sau 7 năm mới trở lại thời năm 2000.
Bong bóng TTCK đã tự nó giải quyết bằng cách xuống giá, và để nhằm giữ nền kinh tế khỏi tuột
dốc, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã giữ lãi suất ở mức rất thấp và lại kéo dài thời gian quá lâu,
đầu tư vào nhà cửa tiếp tục tăng, giá nhà cửa trở thành bong bóng.

Trong 5 năm qua, giá nhà khắp nơi tăng, thấp nhất ở các bang hẻo lánh nhiều đất cũng tăng ít
nhất 17%, và ở nơi có nhiều đầu cơ giá tăng hơn gấp đôi. Nếu kể từ năm 1980, giá nhà ở những
bang như New York, California, Massachussets tăng 5 - 6 lần, trong khi lương danh nghĩa ở
những vùng trên chỉ tăng gần 3 lần.

Nhưng trong thời gian vừa qua, giá nhà đã giảm 7%, nhưng nhiều nhà kinh tế cho rằng giá nhà sẽ
tiếp tục xuống vào năm 2008 và có thể tiếp tục vào năm 2009, và có thể giảm tới mức 30%.
Chưa biết được rõ nền kinh tế sẽ suy thoái mạnh yếu như thế nào, nhưng suy thoái là điều khó
tránh.

Suy thoái và giải pháp

Có lẽ chưa có một cuộc suy thoái nào chủ yếu gây ra vì một thị trường tài chính vượt ra ngoài sự
điều hành của thể chế kinh tế được thiết lập sau đại khủng hoảng kinh tế năm 1930.

Mặc dù vẫn chấp nhận thị trường tự do, cuộc khủng hoảng tài chính lớn này đã tạo ra một số
chuẩn kiểm soát nhất định nhằm bảo vệ người ký quỹ tiền, như bảo hiểm tiền để dành, tạo luật để
lãi suất cho vay không vượt lãi suất thị trường ở một mức nhất định.

Nhưng hiện nay với những cái gọi là "sáng tạo tài chính", nhiều hoạt động nằm ngoài NH, nhằm
vượt qua những chuẩn mực kiểm soát nhất định, thí dụ NH liên kết hoặc mở ra các quỹ tài chính
độc lập, phát hành trái phiếu (hay CK) vốn để cho vay dưới chuẩn với lãi cắt cổ những người
không có khả năng chi trả.

Cũng vậy, các Cty tín dụng hoạt động với NH cho vay qua thẻ tín dụng, đặc biệt là người nghèo,
với lãi suất cắt cổ, trên 30%, là bình thường để khuyến khích tiêu xài. Nền kinh tế đang phải đối
phó với các công cụ tài chính mới được đẻ ra nhằm tăng cường lợi nhuận cho NH và các Cty tài
chính mà không bị đặt dưới sự kiểm soát nào cả.

Do đó, việc cứu nguy nền kinh tế cũng không dễ dàng vì không ai nắm rõ ai mượn ai. Đến nay
tổng số tiền các Cty tài chính và NH tuyên bố lỗ đã lên đến 100 tỉ USD.

Tổng thống Bush, nhiều ứng cử viên tổng thống, nhiều nghị sĩ gần như đồng thanh phải nhanh
chóng bỏ ra khoảng 150 tỉ USD để giảm thuế, nhằm tăng tiêu dùng, giảm bớt khả năng suy thoái.

Số tiền này thực ra là muối bỏ biển, và dù có lớn hơn cũng là liều thuốc bổ cho người bị sốt rét.

Lý thuyết kinh tế của hai nhà kinh tế lớn là Milton Fridman (bảo thủ) và Franco Modigliani đã
chứng minh (và được nhiều lần kiểm nghiệm) rằng tiêu dùng là phương trình của thu nhập được
coi là vĩnh viễn (permanent income).
Khuynh hướng của người tiêu thụ là không tiêu nhiều thu nhập nhất thời. Do đó chi tiêu như trên
sẽ không có kết quả. Cái có kết quả là giảm lãi suất, là chi đầu tư của nhà nước. Mà hai thứ trên
thì cần thời gian mới có tác dụng.

Nước Mỹ đang gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính

Thứ nhất sự phát triển không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới chuẩn, có nghĩa là
không cần đặt cọc, không cần đủ thu nhập để chi trả mà vẫn được vay.

Thứ hai cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng quá mức mà tuần qua City Group là nạn nhân đầu
tiên, lỗ 18 tỉ USD.

Thứ ba, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đến cả khu vực đầu tư địa ốc văn phòng, chứ không
chỉ tập trung vào khu nhà ở.

Kinh tế Việt Nam đã qua nguy hiểm, vẫn còn


nguy cơ?
Dưới đây là phiên bản cache tại địa chỉ: http://vietnamnet.vn/kinhte/2008/08/800029/
Áo phông nam TIMBERLAND chỉ 120k, Áo phông nữ TIMBERLAND giá 110k - 120.000
VNĐ
LINH KIỆN MÁY TÍNH RẺ NHẤT TP.HCM -CTY TNHH TÂN MỸ HUỆ
(http://www.vatgia.com/ta ...
Bán sim số đẹp giá rẻ : 0942.444.777 09.19.15.15.15 0933.985.985 0919.66.5888 ...
LAM BIEN QUANG CAO gia re - 150.000 VNĐ
Linh kiệnmáy photocopy Linhkiện máy photocopy RICOH Linhkiện máy ... - 32 USD
Chuyên cung cấp tất cả các loại linh kiện dành cho pc và laptop
Công ty TNHH Giảng dạy ngoại ngữ và dịch thuật công chứng Duy Tân
THI CÔNG ỐP TẤM HỢP KIM ALUMAX CHO CÁC CÔNG TRÌNH LỚN TRÊN TOÀN
QUỐC ... - 320.000 VNĐ
CAMRY 2.5 ,Camry 2.0E.SANTAFE SLX,MLX 2010.Góp 5 Năm-- du ... - 9.900 USD
Đăng rao vặt miễn phí cho hàng triệu người xem
- Nhiều ý kiến cho rằng tình hình lạm phát không mấy thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Dù thanh toán quốc tế
vẫn được duy trì ổn định nhưng Chính phủ cũng cần phải duy trì lãi suất cao để bảo đảm nguồn vốn trong
nước. VietNamNet xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo một nhận định về tình hình tài chính của Việt Nam,
dưới góc nhìn của tập đoàn tài chính quốc tế Standard Chartered Bank.

Bản nhận định của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế toàn cầu (CEIC) thuộc Ngân hàng Standard Chartered đã tập trung
vào ba điểm chính: Thâm hụt thương mại dần được thu hẹp và chỉ số FDI tăng đã giúp giảm mối lo về một cuộc
khủng hoảng tiền tệ; Số liệu cho thấy chính sách thắt chặt tiền tệ không mấy tác động đối với nền kinh tế; Ngân hàng
Nhà nước cần thắt chặt chính sách tiền tệ hơn nữa để bảo đảm nguồn vốn.

Trong khi phỏng đoán về một cuộc khủng hoảng tiền tệ do sự thâm hụt trong cán cân thanh toán hoành hành trong
tháng 4 và 5 vừa qua, tâm lý thị trường vẫn tiếp tục thận trọng nhưng đang dần được cải thiện. Mặc dù nhiều người
cho rằng thị trường tiền tệ khó có thể trải qua một sự suy giảm mạnh nhưng nghiên cứu của CEIC vẫn cho rằng tốc
độ tăng trưởng chậm dần sẽ tạo ra áp lực cho ngành ngân hàng và tạo môi trường không mấy thuận lợi cho tăng
trưởng về trung hạn.

Nhiều ý kiến cho rằng tình hình lạm phát không mấy thuận lợi cho chính sách tiền tệ. Dù thanh toán quốc tế vẫn
được duy trì ổn định nhưng Chính phủ cũng cần phải duy trì lãi suất cao để bảo đảm nguồn vốn trong nước. Standard
Chartered bank vẫn giữ quan điểm là lãi suất cần được đẩy lên hơn nữa để tránh ảnh hưởng quá mức tới lãi suất thực.

Tâm lý quay vòng

Thị trường Việt Nam vẫn giữ được tâm lý bình tĩnh trong những tuần vừa qua sau đợt suy giảm tỷ giá giữa đồng
Việt Nam và đồng đô la Mỹ hoán đổi kỳ hạn không giao vốn gốc cũng như việc tăng lãi suất dần trở lại của tiền gửi
ngoại tệ trên thị trường thu nhập cố định. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng đô la kỳ hạn 12 tháng hoán đổi kỳ hạn
không giao vốn gốc ngay lập tức giảm từ đỉnh điểm 25,000 tới mức hiện tại 19,200 (mặc dù việc thiếu tính thanh
khoản trên thị trường sẽ làm giảm sự tín nhiệm vì đó như là một loại thước đo niềm tin). Standard Chartered bank
cho rằng, đây chính là kết quả của việc thâm hụt thương mại được thu hẹp và sự tăng trưởng đột ngột của vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài cam kết.

Thâm hụt thương mại được cải thiện rõ rệt trong hai tháng 6 và 7, ít hơn 1 tỉ đô la Mỹ mỗi tháng, so với con số trung
bình từ tháng 1 đến tháng 5 là 2,7 tỉ đô la (Biểu đồ 1). Thâm hụt thương mại trong 7 tháng đầu năm là 15 tỉ đô la.
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đã mang lại nhiều lợi ích. Kim ngạch xuất khẩu trong hai tháng 6 và 7 đạt hơn 6,2
tỉ đô la mỗi tháng, tăng 53,7% và 46,1% lần lượt so với cùng kỳ năm trước, và đây là lần đầu tiền kể từ tháng 11 năm
2006, kim ngạch xuất khẩu vượt quá kim ngạch nhập khẩu.

Biểu đồ 1: Thâm hụt thương mại dần thu hẹp

Nguồn: CEIC

Điều đáng chú ý là hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm nay, bất chấp sự bất ổn của
nền kinh tế toàn cầu. Trong khi việc giá cả hàng hóa tăng cao đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu, thì cũng phải nói rằng sự mở rộng các mặt hàng xuất khẩu sản xuất cũng rất ấn tượng. Xuất khẩu hàng dệt may
trong 7 tháng đầu năm tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước, giày dép tăng 18%, máy tính và thiết bị điện tử tăng
30%. Về cán cân nhập khẩu, thuế nhập khẩu ôtô tăng cao là nguyên nhân dẫn đến số lượng nhập khẩu ôtô bị suy
giảm.

Nhưng ảnh hưởng lớn nhất lại là từ nhập khẩu thép. Việt Nam đã nhập khẩu 1 tỉ đô la thép thành phẩm trong tháng 3
năm 2008, có thể nhằm mục đích dự trữ, và giá trị nhập khẩu đã giảm nhanh chóng xuống còn 430 triệu đô la trong
hai tháng 6 và 7. Chỉ riêng mặt hàng này đã làm giảm tổng thâm hụt thương mại 600 triệu đô la mỗi tháng. Nếu tình
hình này tiếp tục duy trì trong những tháng còn lại của năm, con số 20 tỉ đô la mà Chính phủ dự đoán về thâm hụt
thương mại có thể sẽ xảy ra. Nhưng giá cả hàng hóa toàn cầu và nhu cầu về hàng hóa Việt Nam vẫn là rất lớn.

Biểu đồ 2: Dòng vốn FDI gia tăng hàng tháng

Nguồn: CEIC

Điều đáng ngạc nhiên là thị trường đang chứng kiến sự gia tăng về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam
kết đang chảy vào trong bối cảnh thâm hụt cán cân thanh toán. FDI cam kết trong 7 tháng đầu năm đạt 44 tỉ đô la.
Trong hai tháng 6 và 7, Chính phủ đã phê duyệt tổng số 30 tỉ đô la các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Số
liệu của nguồn vốn FDI cho thấy trong tháng 6 Đài Loan dẫn đầu với 8 tỉ đô la và Nhật Bản là 6,2 tỉ đô la, trong khi
đó Malaysia (3,5 tỷ đô la) và Thái Lan (3,8 tỷ đô la) lại dẫn đầu về dự án FDI trong tháng 7.

Đây là những dự án có quy mô lớn bởi vì không thấy sự gia tăng tương ứng về số lượng những dự án đăng ký. Tuy
vậy cũng phải hết sức thận trọng về những con số FDI này. Đầu tiên, quy mô xác thực của FDI cam kết rất đáng chú
ý. Xem xét các số liệu đầu tư này cho thấy, tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên tổng sản phẩm quốc nội của Trung
Quốc là thấp hơn 5% năm 2007, trong khi cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm nay tương
đương với hơn 45% tổng sản phẩm quốc nội trên danh nghĩa.

Tất nhiên, con số FDI cam kết mạnh mẽ cũng cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào triển vọng của đất
nước, như là một trung tâm sản xuất cũng như trung tâm nguồn lực trong khu vực. Điều này được nhận thấy từ đầu
năm đến nay ngay cả khi thị trường có nhiều biến động.

Một số dự án đầu tư lớn này liên quan đến các nguồn tài nguyên hoặc thị trường hàng hóa. Tuy nhiên những sự so
sánh này chỉ ra rằng một phần khá lớn trong dòng vốn không được đầu tư ngay lập tức mà trong một khoảng thời
gian. Điều này có nghĩa là số vốn giải ngân trên thực tế chỉ là một phần nhỏ so với con số cam kết. Dựa trên những
kinh nghiệm trước đây, Standard Chartered cho rằng 15-20% là có thể xảy ra.
Nhận định về tình hình tài chính VN, Standard Chartered cho rằng Việt Nam đã tránh được một cuộc khủng hoảng
có nguy cơ xảy ra trong thanh toán quốc tế. Tuy nhiên thâm hụt thương mại trong năm nay sẽ vẫn ở mức trên 20 tỉ đô
la, dòng vốn FDI dự đoán khoảng 10 tỉ đô la, nguồn kiều hối dao động trong khoảng 8 tỉ đô la và viện trợ phát triển
chính thức (ODA) có lẽ sẽ vừa đủ để bù lại cho sự thâm hụt này. Do vậy gia tăng dự trữ ngoại hối vẫn có thể nằm
trong biên độ kiểm soát.

Chính sách tiền tệ thắt chặt không tác động mạnh đến tăng trưởng

Tăng trưởng 5,8% trong quý II năm 2008, mức thấp nhất kể từ quý I năm 2000 đã báo động tới các nhà hoạch định
chính sách tại Việt Nam về nguy cơ tốc độ tăng trưởng sẽ đột ngột bị dừng lại. Điều này dẫn đến suy đoán cho rằng
Ngân hàng Nhà nước sẽ có thể cân nhắc tới việc nới lỏng chính sách tiền tệ ngay khi lạm phát lắng xuống.

Như trong báo cáo của Ngân hàng Standard Chartered đưa ra trong tháng trước (Việt Nam – quá sớm để đề cập đến
việc cắt giảm lãi suất, công bố ngày 22 tháng 7 năm 2008) cho rằng lạm phát sẽ tăng tới hơn 30% so với cùng kỳ
năm trước trong những tháng tới và sẽ dừng lại ở mức trên 20% cho tới quý I năm 2009 đặc biệt là sau đợt tăng giá
xăng dầu vào ngày 21 tháng 7 vừa qua. Hơn nữa, những số liệu khác tiếp tục cho thấy chỉ một phần của nền kinh tế
đang tỏ ra có dấu hiệu suy thoái trong khi đó phần còn lại vẫn tăng trưởng mạnh trong nửa đầu năm 2008.

Nhìn vào các lĩnh vực, sự suy yếu của quý II năm 2008 bắt nguồn từ 3 lĩnh vực, khai thác mỏ và than đá (quý II năm
2008 giảm 12,2% so với cùng kỳ năm trước), xây dựng (-0,5%) hoạt động kinh doanh và cho thuê bất động sản (-
4,7%). Sự suy yếu của thị trường tài chính cũng dẫn đến sự tăng trưởng chậm của dịch vụ tài chính. Tuy nhiên,
ngành chế tạo (+12,6%) và dịch vụ (+7%) vẫn tăng trưởng đều đặn và bền vững. Điều này cho thấy việc lãi suất tăng
cao trong tháng 4 và tháng 5 đã không tác động mạnh đến nền kinh tế.

Nguồn: CEIC

Trong doanh thu bán lẻ (Biểu đồ 3), tăng trưởng trên danh nghĩa vẫn duy trì ở mức cao trong những tháng gần đây,
đạt tới hơn 30% của 5 tháng trong 7 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh lạm phát cao, tăng
trưởng doanh thu bán lẻ trên thực tế là không ổn định tuy nhiên vẫn được duy trì để đạt ở mức một con số vào tháng
6 và tháng 7 theo tính toán của Standard Chartered. Ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường chứng khoán và bất động sản
cũng chưa được phản ánh trong số liệu về doanh thu bán lẻ.

Cuối cùng, khối lượng hàng hóa vận chuyển, một nguồn lực hiêu quả khác để kích thích các hoạt động kinh tế cũng
cho thấy nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng mạnh trong nửa đầu năm 2008 (Biểu đồ 4). Cước phí vận chuyển
được đo bằng tấn kilomet, đã tăng trưởng 67% trong 7 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là tăng
mạnh ở lĩnh vực vận chuyển hàng hải, phản ánh sự bùng nổ thương mại.

Nhìn chung, mặc dù sự suy giảm trong quý II tác động đến tăng trưởng GDP là đáng lo ngại nhưng Standard
Chartered cho rằng điều đó chủ yếu do những hoạt động liên quan đến bất động sản. Trong khi đó, các chỉ số kinh tế
khác cho thấy tác động của lãi suất cao vẫn chưa được phản ánh đầy đủ. Trong khi các nhà quản lý có thể không sẵn
sàng tăng lãi suất một lần nữa, với sự cân bằng trong thanh toán quốc tế, lãi suất cao vẫn là cần thiết để thu hút và
duy trì nguồn vốn.

Điều này sẽ tiếp tục là thách thức trong thời điểm khủng hoảng hiện nay khi mà lãi suất thực vẫn âm khá lớn. Do
vậy, Standard Chartered khẳng định nên tiếp tục tăng lãi suất từ bây giờ cho đến cuối năm. Đối với tỉ giá hối đoái,
thâm hụt thương mại, mặc dù đang dần được cải thiện, vẫn khiến các nhà quản lý nghiêng về giảm giá dần đồng nội
tệ để bù đắp cho nhu cầu nội địa bị suy yếu do chính sách thắt chặt tiền tệ.

Dự đoán của CEIC về tăng trưởng GDP, lạm phát, tỷ giá hối đoái:

Q3-08 Q4-08 Q1-09 Q2-09 Q3-09 2007 2008 2009


GDP 6.50 6.40 6.00 5.50 6.50 8.50 6.70 6.00
Lạm phát 29.40 31.00 24.00 16.10 11.10 8.30 25.50 15.00
Lãi suất cơ
14.00 18.00 16.00 14.00 12.00 8.25 18.00 10.00
bản
USD/VND 17,000 17,500 17,300 17,100 17,000 16,017 17,500 17,000

• PV.

Khủng hoảng kinh tế đã thay đổi thế giới như thế nào?

Thu Hà | 14.09.2009 12:14

Thời gian trôi rất nhanh, cơn bão tài chính đã tàn phá thế giới gần một năm qua. Chỉ trong
một năm ngắn ngủi, một đế chế tài chính lớn đã sụp đổ, các nền kinh tế khác chìm sâu vào
suy thoái, chính phủ các nước trên thế giới bắt tay kích thích kinh tế, nền kinh tế toàn cầu
xuất hiện dấu hiệu phục hồi.

Cuộc khủng hoảng này so với Đại khủng hoảng của những năm 30 cũng không kém phần
nghiêm trọng và là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trầm trọng nhất sau Đại chiến thế giới
II. Nó đã thay đổi toàn thế giới. Mặc dù cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã lộ ra những tia
sáng, nhưng kinh tế thế giới thời đại hậu khủng hoảng sẽ đi theo chiều hướng nào vẫn còn dày
đặc sương mù.

Ảnh minh họa

Ngày 15/9/2008, phố Wall lại một lần nữa gặp biến cố do chịu tác động nặng nề từ cuộc khủng
hoảng cho vay thế chấp thứ cấp. Sáng sớm hôm đó, Ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ với lịch
sử 158 năm Lehman Brothers tuyên bố nộp đơn bảo hộ phá sản. Sự kiện này đã nhanh chóng lây
lan tác động mạnh mẽ tới toàn cầu, đánh dấu sự tan vỡ bong bóng nhà đất Mỹ và khiến cho cuộc
khủng hoảng cho vay thế chấp thứ cấp diễn biến thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Cùng ngày hôm đó, từ New York đến London, từ Tokyo đến Berlin, thị trường cổ phiếu toàn cầu
đồng loạt rớt điểm, đa số các chỉ số chính đều trượt hơn 3%.

Làn sóng rớt giá của thị trường đã khiến cho thị trường New York mất đi chức năng bơm vốn.
Cuộc khủng hoảng tài chính bùng phát từ tháng 9/2008 kéo dài cho tới cuối năm nay, chưa có
một công ty nào bơm vốn vào thị trường. Đây là thời kỳ “vốn cạn khô”lập kỷ kục dài nhất từ
cuối thập niên 70 tới nay.

Mỹ nợ nần chồng chất, cơ quan đánh giá tín dụng không còn nhiệm vụ, giám sát quản lý tài
chính Mỹ bất lực, hệ thống tín dụng với đồng USD làm chủ lực đều là những nguyên nhân gây ra
cuộc khủng hoảng tài chính lần này.

Cơn bão tài chính này không chỉ nuốt gọn nhiều doanh nghiệp mà còn làm lung lay lý thuyết thị
trường tự do, được xem như là chuẩn mực cho rất nhiều quốc gia phát triển trong nhiều năm qua,
đã thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của các một số nước, xây đắp lại trật tự kinh tế quốc tế.

Cuộc khủng hoảng tài chính lần này có lẽ là cuộc khủng hoảng tín nhiệm nghiêm trọng nhất mà
nền kinh tế thị trường tự do chưa từng trải qua. Mỹ vẫn theo đuổi lý luận kinh tế thị trường tự do,
chủ trương dựa vào “bàn tay vô hình” của thị trường để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Vai trò
can thiệp của chính phủ khá yếu ớt. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng, chính phủ Mỹ đã buôc
phải tăng cường sự can thiệp vào nền kinh tế. Về chính sách của chính phủ, Mỹ tung ra kế hoạch
giảm thuế, kích thích kinh tế với quy mô lớn. Về chính sách tiền tệ, Mỹ liên tục giảm lãi suất,
đấu giá khoản vay ngắn hạn, tiếp quản hai Tập đoàn bất động sản lớn nhất của Mỹ là Fannie Mae
và Freddie Mac.

Cuộc khủng hoảng lần này còn gióng lên một hồi chuông cảnh báo về “cách sống của Mỹ” và
tuyên cáo mô hình tăng trưởng mới đã xuất hiện. Chính quyền Obama ngày càng đưa ra tín hiệu
với giới báo chí rằng, Mỹ sẽ không tiếp tục là một nước tiêu dùng và nhập khẩu cuối cùng của
thế giới. Cố vấn kinh tế của Nhà trắng Larry Summers cho biết, Mỹ cần phải chuyển dịch kinh tế
theo mô hình tiêu dùng sang mô hình xuất khẩu, cần phải chuyển từ phục thuộc hoạt động tài
chính sang phát triển công nghiệp. Bộ trưởng Tài chính Mỹ T. Geithner và các quan chức chính
phủ cấp cao khác đều cho rằng, cần làm cân bằng lại sự phát triển kinh tế Mỹ.

Đối mặt với cuộc khủng hoảng đang hoành hành, chính phủ các nước trên thế giới lần lượt tung
ra hàng loạt các biện pháp ứng cứu, nhưng đơn độc chống là rất khó khăn, khủng hoảng mang
tính toàn cầu cần có sự đối phó liên thủ của thế giới.

Ngày 15/11/2008, lãnh đạo nhóm G20 đề tề tựu tại Washington đã mở màn cho cuộc chống
khủng hoảng tài chính của toàn cầu. Hệ thống các nền kinh tế chủ yếu thế giới đã tăng cường
phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, nhiều lần dấy lên làn sóng hạ lãi suất và bơm
vốn, liên tiếp đưa ra các gói kích cầu khổng lồ.

Số liệu thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cho thấy, cho đến tháng 6 năm nay, tổng giá trị của
gói kích cầu mà các nước thành viên G20 đã cam kết lên tới 11900 tỷ USD. Trong cuộc khủng
hoảng lần này G20 trỗi dậy nhanh chóng, đã phản ánh sức mạnh quốc tế trong nhiều năm qua
đang không ngừng nghiêng sang các nước đang phát triển, biểu hiện trước hết ở sự đa dạng hóa
quan hệ quốc tế, xu thế tất yếu của sự phát triển dân chủ hóa. Khủng hoảng tài chính đã xây đắp
lại trật tự kinh tế quốc tế.
Khủng hoảng kinh tế là quy trình thông thường. Quan trọng là phải rút ra được những kết
luận đúng từ lịch sử và không phí thời gian vô ích.

Câu chuyện về doanh nghiệp đóng cửa, thất nghiệp tăng lên, ngân hàng sụp đổ, hệ
thống thanh toán thất bại, tăng cường tích tụ nhiều hàng hóa không bán được trên thị
trường, phá giá tiền tệ, ... đã trở nên rất quen thuộc.

Theo quan điểm lịch sử thì khủng hoảng kinh tế hiện nay chẳng phải là một hiện tượng
siêu nhiên nào cả.

Đó là quá trình thông thường, khủng hoảng tiến triển phụ thuộc sự vận động bên trong
của hệ thống kinh tế.

Luật chu kỳ

Bất kỳ khủng hoảng nào cũng chỉ xuất hiện khi bị mất cân đối giữa những phần cấu
thành sự thống nhất. Trong phạm trù kinh tế thì khủng hoảng xuất hiện khi thăng bằng
giữa cầu và cung của hàng hóa hoặc dịch vụ bị mất.

Có bao nhiêu lý thuyết về kinh tế, thì có bấy nhiêu loại khủng hoảng kinh tế. Và gần như
tất cả các lý thuyết đều nói là không thể tránh khỏi khủng hoảng kinh tế. Nó là một phần
của hệ thống kinh tế và sẽ chỉ biến mất khi chúng ta xóa bỏ luật lệ kinh tế theo kiểu
mẫu thị trường và kế hoạch.

Trường phái tự do chủ nghĩa khẳng định rằng kinh tế có tính chất chu trình, có thời kỳ
phát triển và đổ vỡ, bởi vì nhu cầu tiêu dùng và đầu tư có dạng sóng. Còn chủ nghĩa
Marx khẳng định rằng khủng hoảng tài chính là thuộc tính cần thiết của chủ nghĩa tư
bản, vì mục tiêu chính trong hệ thống của chủ nghĩa tư bản đã khởi sự là phải thu lợi
nhuận.

Mô tả dưới dạng sơ đồ thì nó thể hiện câu chuyện như sau: mức độ sản xuất hàng hóa
tăng lên và vượt nhu cầu tương ứng khả năng thanh toán thực tế, dẫn tới chuyện phải
cho vay tiền để mua hàng hóa với mục tiêu tăng cầu. Nợ nần dần dần tích lũy, tiền-
hàng hóa không cho vay được nữa và sự sản xuất rút ngắn lại vì không cần thiết. Bắt
đầu quá trình sa thải nhân viên-công nhân với quy mô lớn, tỷ lệ thất nghiệp tăng lên,
mức độ sung túc trong cuộc sống và sinh hoạt sụt giảm.

Chu kỳ như thế này của hệ thống kinh tế chủ nghĩa tư bản là định lý. Những thời kỳ
phát triển mạnh mẽ và suy sụp chuyền từ tay nọ sang tay kia. Các nhà bác học đã cố
gắng tìm hiểu lý do của những khủng hoảng từ lâu, nhưng chưa có kết quả. Mỗi trường
hợp là một câu chuyện khác nhau.

Nhìn lại lịch sử


Giáo sư đại học Oxford, nhà lịch sử học Phillip Kay cho rằng khủng hoảng tài chính đầu
tiên trong lịch sử đã nổ ra vào thời kỳ đế chế La Mã năm 88 trước Công Nguyên.
Khủng hoảng kinh tế đã diễn ra vào thời Trung cổ (Florence, năm 1342), thời đại Phục
hưng (Venice, năm 1492), thời kỳ Cận đại (Pháp, năm 1720). Nhưng cho đến giữa thế
kỷ 19, những hiện tượng đó mang tính chất địa phương là chủ yếu.

Trong quá trình hình thành chủ nghĩa tư bản, tần số và sự ảnh hưởng của chúng tăng
lên. Nhưng điều chính là tất cả những khủng hoảng đó đều được khắc phục. Và cứ mỗi
lần một quốc gia nào đó thoát khỏi cuộc khủng hoảng thì nó lại trở nên hùng mạnh hơn
trước khi rơi vào khủng hoảng.

Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên. Sau
khi cuộc diễu hành giành độc lập đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhập thêm vốn-tư
bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khẩu và các món nợ quốc gia của những nước cộng
hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước Anh.
Sự đầu cơ quá mạnh vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiệt các ngân hàng nước
Anh và dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây
Âu và Mỹ Latin.

Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ Anh, Đức và
Hà Lan.Toàn bộ hệ thống ngân hàng những nước đó bị thiệt hại nghiêm trọng.

Vào năm 1857, một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng nổ.
Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống
ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sập đổ của hệ thống ngân hàng toàn châu
Âu.

Nguyên nhân khủng hoảng tiền tệ năm 1861 ở Mỹ là cuộc nội chiến hai miền Nam -
Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được các khoản nợ sau khi vay ngân hàng.
Khủng hoảng đã xuất hiện và kéo dài đến cuối cuộc chiến tranh.

Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần lớn
những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung
cấp cho những hoạt động quân sự của nước mình.

Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ
Đình Trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đại suy thoái năm 1929-1933 đã tác động đến
đời sống mọi giới con người. Ngày “Thứ năm đen tối” vào tháng 10/2009, ở thị trường
chứng khoán New York, giá chứng khoán giảm đi 60-70%. Cùng lúc đó, nền kinh tế
đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã sụp đổ nhanh chóng.

Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối năm,
giá chứng khoán sụt xuống 40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Liên tiếp,
khủng hoảng bùng lên ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước phát triển có tới hơn
30 triệu người chính thức thất nghiệp.
Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản xuất
công nghiệp thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và giống
như trong thời kỳ Đại suy thoái. Kinh tế châu Âu tràn ngập trong bóng đen. Tại Anh, giá
chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu mỏ kèm
theo, giá một thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la.

Ngày 19/10/1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”. Trong vòng một ngày,
chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi 22,6%. Tiếp theo thị trường Canada và Úc bị sụt
giảm, còn sở giao dịch Hong Kong nghỉ việc trong vòng một tuần.

Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mexico, hai năm sau thị trường quỹ của
châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luận rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế giới
giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Một năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhận buông
xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người đầu tư
quay lưng lại với kinh tế Nga.

Chúng ta chỉ nêu tên những thời điểm chủ yếu trong lịch sử kinh tế, bởi vì còn rất nhiều
ví dụ khác ít quan trọng hơn, nhưng vẫn tác động mạnh đến số phận nhiều nước... Cần
phải nói rằng nhân loại sống với khủng hoảng nhiều hơn là thiếu nó, ít ra là trong một
thế kỷ rưỡi gần đây.

Dự đoán cho tương lai

Có rất nhiều cách gọi tên một cuộc khủng hoảng tài chính – sự đình trệ, sự giảm sút
hoặc quá trình giảm tốc độ, nhưng bản chất của nó không thay đổi. Nó là một “căn
bệnh” như thế.

Khủng hoảng là hội chứng nói rằng thế giới không thể thực hiện kinh doanh như trước
nữa. Cần phải cấp thiết khởi động lại toàn bộ hệ thống.

Nhà triết học thế kỷ 18 David Yum - người Scotland, nhà kinh tế học có tiếng nước Anh
- đại diện trường phái cổ điển, David Riccardo ở thế kỷ 19 và nhà kinh tế học Liudvic
phon Mizes vào thế kỷ 20, trong những lý luận của mình đều bênh vực ý kiến rằng
khủng hoảng đã tác động có lợi cho toàn bộ hệ thống kinh tế.

Họ khẳng định rằng khủng hoảng là một quá trình, nhờ quá trình đó kinh tế thị trường
được cứu thoát khỏi tình trạng cùng cực, kinh tế trong tương lai tránh được sai lầm từ
sự phồn vinh tạm thời cùng với lạm phát lần trước; và tạo động năng để hồi phục tình
trạng kinh tế vững chắc. Đình đốn là hiện tượng không dễ chịu, nhưng là sự phản ứng
cần thiết.

Có nhiều ví dụ tác động có lợi của khủng hoảng. Ví dụ: “vào năm 1987 nó tỏ rõ sức
mạnh của nước Nhật và khiến thực lực kinh tế và tài chính của Nhật biến chuyển rõ rệt”
- chuyên viên tài chính George Soros nhận định về kết quả khủng hoảng năm 1987.
Theo ý kiến của nhà kinh tế học người Nga V. S. Milov, khủng hoảng ở Nga đã có vai
trò tích cực trong việc phát triển kinh tế nước này, vì lý do khủng hoảng xuất hiện đòi
hỏi nhà nước phải lập lại kỷ luật ngân sách-tài chính vốn đã bị tăng lên đột ngột sau
những năm khủng hoảng, cho dù nó có tác động tiêu cực cho phúc lợi nhân dân.

Hơn nữa, khủng hoảng có thể làm chứng cứ về việc kinh tế những nước công nghiệp
phát triển chuyển đổi khoa học kỹ thuật và kinh tế-xã hội lên cấp độ mới. Khủng hoảng
xuất hiện khi hệ thống tài chính và kinh tế tích lũy quá nhiều thành phần xơ cứng, không
hiệu quả và không hợp lý.

Kinh tế của Mỹ giảm bớt việc thế chấp, nhưng đó chỉ là lý do mà theo quy luật đô-mi-
nô, đã vạch trần những vết thương kinh tế thế giới được che giấu từ lâu. Sự giảm sút
đã tạo thuận lợi trong việc loại bỏ bộ phận yếu kém trong dây xích kinh tế thế giới và có
thể là phần lớn nền kinh tế các nước phát triển.

Một nước nào đó trải qua càng nhiều chấn động kinh tế, càng nhiều điểm yếu được loại
bỏ, và khi kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, càng khỏe mạnh hơn trước. Trước đây luôn
luôn thế, và khủng hoảng hiện nay sẽ không phải là ngoại lệ. Cũng có khả năng khủng
hoảng có thể hủy diệt kinh tế. Nhưng trong trường hợp hiện nay, phải đặt những nhân
tố chính trị và xã hội lên trên để tạo điều kiện làm đoàn kết xã hội như một khối thống
nhất. Trong trường hợp này không cần thiết phải nói về sự tử-vong-kinh-tế, cho dù đó
không phải là ngoại lệ.

Khách quan mà nói, khủng hoảng không thể hoạch định trước. Chúng là cấu thành
khăng khít của hệ thống chủ nghĩa tư bản thế giới. Sau này, khủng hoảng kinh tế vẫn
sẽ tiếp tục. Điều chủ yếu là rút ra được những kết luận đúng từ lịch sử và không phí
thời gian vô ích.

Khủng hoảng hiện nay khác với trước bởi vì thành phần văn hóa-xã hội đã không như
trước. Không được phép sống theo cách "không hợp với túi tiền". Chúng ta cũng cần
phải xem xét lại triết lý về cách đối xử với đồng tiền.

Và cuối cùng, “krisis” dịch từ tiếng Hy Lạp cổ là “chỗ ngoặt”, vì thế cần phải hiểu rõ cái
gì có thể sẽ chờ đợi chúng ta sau chỗ ngoặt đó.

You might also like