Bảo tàng được thành lập ngày 4/9/1975, tiền thân là nhà trưng bày tội ác chiến tranh Mỹ - Ngụy. Nằm trong hệ thống các Bảo tàng Việt Nam và hệ thống Bảo tàng Vì hòa bình thế giới, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là Bảo tàng chuyên đề nghiên cứu, sưu tầm, lưu trữ, bảo quản, trưng bày những tư liệu, hình ảnh, hiện vật... về những chứng tích tội ác và hậu quả chiến tranh mà các thế lực xâm lược đã gây ra đối với Việt Nam. Qua đó, giáo dục nhân dân, nhất là lớp trẻ về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, đồng thời khẳng định tinh thần yêu chuộng hòa bình và đoàn kết của nhân dân Việt Nam đối với các dân tộc trên thế giới trong sự nghiệp đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, bảo vệ hòa bình. Bảo tàng có 8 chuyên đề trưng bày: − Những sự thật lịch sử : Âm mưu và quá trình các thế lực thù địch tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam − Bộ sưu tập ảnh phóng sự "Hồi Niệm" của 134 phóng viên thuộc 11 quốc tịch đã chết trong khi làm nhiệm vụ trên chiến trường Đông Dương − Chứng tích tội ác và hậu wả chiến tranh xâm lược (về mặt wân sự,kinh tế,văn hoá,xã hội,hậu wả với con người,thiên nhiên và môi trường) − Chế độ lao tù trong chiến tranh xâm lược với hệ thống các nhà tù,trại tập trung tiêu biểu,các fương thức tra tấn,hành hạ,huỷ diệt tù chính trị về thể xác lẫn tinh thần − Bộ sưu tập ảnh phóng sự của phóng viên Nhật Ishikawa Bunyo và Nakamura Goro "Việt Nam - Chiến tranh và Hoà Bình" − Nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến − Tranh thiếu nhi "Chiến tranh và hoà bình" − Các loại vũ khí, phương tiện chiến tranh xâm lược VN Trong 35 năm hoạt động, Bảo tàng đã đón tiếp trên 10 triệu lượt khách tham quan trong và ngoài nước. Với gần 400000 lượt khách tham quan mỗi năm, Bảo tàng là một trong những địa chỉ văn hóa du lịch có sức thu hút cao, được sự tín nhiệm của công chúng trong và ngoài nước. Hiện nay Bảo tàng đang được đầu tư xây dựng mới và hiện đại hóa toàn diện hoạt động.
II. Âm mưu của Mỹ _ Đường lối của Đảng
Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định : "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi". Tuy nhiên, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, nước Việt Nam tạm thời chia ra hai miền Nam Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Còn miền Nam vẫn đang chìm dưới ách thống trị của đế quốc và tay sai. Thay chân Pháp, Mỹ nhảy vào trực tiếp nắm lấy miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam vẫn chưa hoàn thành. Ngay sau khi giải phóng, miền Bắc đã bắt tay ngay vào khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, hoàn thành khẩu hiệu "Người cày có ruộng". Sau 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng (1954-1965), miền Bắc đã tiến một bước dài. Từ một nền kinh tế nông nghiệp phân tán, rất nghèo nàn lạc hậu, miền Bắc đã trở thành một nền kinh tế bước đầu phát triển. Một mạng lưới công nghiệp, kể cả công nghiệp nặng đã bước đầu hình thành. Cơ sở vật chất kỹ thuật tuy còn nhỏ bé, nhưng đã tạo ra những tiền đề và làm thay đổi căn bản bộ mặt miền Bắc. Đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa, giáo dục đều tiến một bước quan trọng. Sự nhất trí về chính trị trong xã hội rất cao. Miền Bắc đã trở thành chỗ dựa chắc chắn về vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh giải phóng của đồng bào miền Nam ruột thịt. Ở miền Nam, Mỹ đã dựng nên chế độ độc tài phát xít tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại toàn diện và có hệ thống Hiệp định Giơnevơ. Ngô Đình Diệm công khai từ chối hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. "Chống cộng", thực chất là chống lại nhân dân miền Nam, được coi là quốc sách. Diệm huy động hầu như toàn bộ cảnh sát, mật vụ và một phần quân đội vào các chiến dịch "tố cộng", "diệt cộng", chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học, dùng những hình thức tra tấn dã man để tra hỏi các chiến sĩ của ta. Thực chất chúng đã tiến hành cuộc "chiến tranh đơn phương" chống lại nhân dân miền Nam. Hàng vạn người yêu nước đã bị giết hại, tù đày. Cả miền Nam chìm trong đau thương tang tóc. Hàng triêu lượt người đã xuống đường đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống đàn áp, khủng bố, đòi các quyền lợi dân sinh, dân chủ. Cuối những năm 50, tình hình chính trị miền Nam càng ngày càng ngột ngạt. Kẻ thù không thể thống trị như cũ được nữa. Chúng đã phải dùng những biện pháp dã man, tàn bạo nhất để duy trì nền thống trị của mình: đề ra luật 10-59, lê máy chém đi khắp miền Nam với phương châm “Thà giết lầm còn hơn bỏ sót”. Tháng 3-1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Còn nhân dân miền Nam cũng không thể sống như cũ được nữa. Quần chúng nhiều nơi không thể sống như cũ được, họ phải dùng những biện pháp đấu tranh quyết liệt để bảo vệ lực lượng phong trào đấu tranh quần chúng. Cơn bão táp cách mạng đang âm ỉ, khởi nghĩa đã nổ ra lẻ tẻ ở nhiều nơi để rồi bùng lên thành một cao trào "Đồng khởi" vĩ đại đầu năm 1960 “. Từ nhiều nơi nhất là từ tỉnh Bến Tre, "Đồng khởi" nhanh chóng lan rộng ra khắp đồng bằng Nam Bộ, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Hệ thống chính quyền địch ở nông thôn bị phá vỡ từng mảng, hàng nghin thôn xã được giải phóng. Chính quyền cách mạng , lực lượng vũ trang cách mạng và vùng giải phóng đã ra đời. Phong trào chống Mỹ - Diệm tăng lên nhanh chóng, đưa đến sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960). Cương lĩnh chính trị 10 điểm của Mặt trận đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn thể nhân dân miền Nam đấu tranh đánh đổ ách thống trị của Mỹ và tay sai, vì một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà. Để cứu vãn tình thế, đầu năm 1961 Mỹ đã chuyển sang thực hiện "chiến tranh đặc biệt", một hình thức thấp của chiến tranh thực dân kiểu mới ở miền Nam Việt Nam “dùng người Việt đánh người Việt”; đề ra kế hoạch Xtalay-Taylo nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng. Với một lực lượng quân Diệm lên đến 17 vạn người, 5 vạn bảo an dân vệ và 85 đại đội đặc biệt, được trang bị bằng các phương tiện hiện đại của Mỹ, do hàng vạn cố vấn Mỹ chỉ huy và bằng quốc sách dồn dân lập "ấp chiến lược" dự định dồn 10 triệu người dân vào 16000 ấp chiến lược trong tổng số 17000 ấp trên toàn miền Nam, Mỹ - Diệm hy vọng có thể đàn áp được phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị đã họp, quyết định về Phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Từ "Đồng khởi" nhân dân miền Nam đã tiến lên làm cuộc chiến tranh cách mạng, đánh địch bằng cả lực lượng chính trị và vũ trang, tiến công địch bằng cả lực lượng chính trị, vũ trang, binh vận đánh địch trên cả 3 vùng chiến lược là nông thôn, rừng núi, đồng bằng và đô thị. Có 1500 phong trào công nhân chủ yếu ở Sài Gòn – Chợ Lớn, quân và dân miền Nam đánh 15525 trận lớn nhỏ, loại khỏi vòng chiến gần 3 vạn tên, bắt hơn 3200 tên, thu nhiều vũ khí; 33,8 triệu lượt người xuống đường đấu tranh chính trị trực diện với địch và làm công tác binh vận. Vùng giải phóng được giữ vững hơn 1 vạn thôn xã và gần 6 triệu dân. Kế hoạch bình định 18 tháng của Mỹ phải kéo dài nhưng vẫn bị phá sản. Tháng 11-1963 Mỹ làm cuộc đảo chính giết chết anh em Ngô Đình Diệm, đưa bọn tay sai mới lên cầm quyền và đề ra kế hoạch GiônXơn-Mác Namara để thay thế nhằm bình định có trọng ở miền Nam. Nhưng rốt cuộc, trước những đòn tiến công mạnh mẽ của quân giải phóng, quân đội Sài Gòn đã tan vỡ từng đơn vị lớn. Chính quyền Sài Gòn ngày càng rối loạn qua hàng loạt các cuộc đảo chính tranh giành quyền lực nổ ra liên tiếp. Chính quyền và quân đội Sài Gòn đứng trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Cuối năm 1964 đầu năm 1965 "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ bị phá sản về căn bản. Mỹ chuyển sang "chiến tranh cục bộ", một hình thức cao của chiến tranh thực dân kiểu mới, đưa quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Mùa hè năm 1965 những đơn vị quân viễn chinh Mỹ đầu tiên đã vào miền Nam và bắt đầu tham chiến. Số quân Mỹ và quân một số nước thân Mỹ đã tăng lên nhanh chóng; thời kỳ cao điểm lên tới trên 60 vạn. Đối với miền Bắc, ngày 5-8-1964, Mỹ gây ra sự kiện "vịnh Bắc bộ" để lấy cớ ném bom miền Bắc. Và tháng 2-1965 Mỹ đã ném bom ồ ạt miền Bắc, chính thức tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất đối với miền Bắc Việt Nam. Bằng các hành động trên, Mỹ hy vọng cứu vãn được tình thế và khuất phục được nhân dân miền Nam. Chiến tranh lan rộng ra cả hai miền Nam Bắc. Nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại. Chống Mỹ, cứu nước trở thành nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mỗi người dân yêu nước. Hồ chí minh đã khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn !". Ở miền Nam, quân và dân ta tiếp tục giữ vững thế chủ động tiến công, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính, đánh lâu dài, đồng thời tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian ngắn nhất. Sau khi liên tiếp đập tan 2 cuộc phản công lớn mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 của Mỹ, đầu năm 1968 nhân dân miền Nam đã làm cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân vĩ đại làm rung chuyển cả miền Nam, chấn động dư luận nước Mỹ và thế giới, Mỹ buộc phải đột ngột từ bỏ chiến lược quân sự "tìm diệt" để thay bằng chiến lược bị động "quét và giũ". Trên miền Bắc, bất chấp bom đạn của Mỹ, miền Bắc đã vững vàng chuyển hướng kinh tế, vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chưa từng có chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ. Hậu phương lớn miền Bắc vẫn không ngừng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Hàng ngàn máy bay hiện đại Mỹ bị tiêu diệt. Ngày 1-11-1968 Mỹ phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện ném bom miền Bắc. Tháng 1-1969, hội nghị 4 bên ở Pari đã họp trong đó có mặt của đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau khi lên cầm quyền, NíchXơn đưa ra bài học thuyết toàn cầu mới, thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam. Quân Mỹ rút dần về nước để chống đỡ với dư luận Mỹ và thế giới đang lên án cuộc chiến tranh của nhà cầm quyền Mỹ, đi đôi với việc tăng cường lực lượng quân đội Sài Gòn để thay thế cộng với hỏa lực tối đa của Mỹ. Mỹ mở rộng chiến tranh sang cả Lào và Campuchia. Lợi dụng các mối bất đồng trong các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là các nước Liên Xô và Trung Quốc, Mỹ tìm mọi cách gây sức ép với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Tình hình càng trở nên khó khăn phức tạp bội phần. Tiếp tục sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam đẩy mạnh tiến công địch trên cả 3 mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao. Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã được thành lập. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng đã được hàng chục nước và tổ chức quốc tế công nhận Hội nghị liên minh 3 nước Đông Dương (4-1970) ra tuyên bố đoàn kết chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ. Đúng vào lúc này, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi vĩnh viễn, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho hàng triệu đồng bào ta và bạn bè trên thế giới. “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa. Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”, “Chúng ta ai cũng biết ngày buồn sẽ đến, nhưng mong ngày buồn đừng đến và ngày buồn đừng là ngày hôm nay”. Trước linh cữu của Người, toàn Đảng, toàn dân hứa sẽ thực hiện theo Di chúc của Người thống nhất đất nước “Bắc Nam sum họp một nhà” và xây dựng nước ta có thể sánh ngang với cường quốc năm châu. Các cuộc hành quân thí điểm "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ và quân đội Sài Gòn liên tiếp bị bẻ gãy. Cuối thang 3-1972 quân và dân ta mở cuộc tiến công phá sập nhiều phòng tuyến của địch ở miền Nam. Hoảng hốt, tháng 4-1972, Mỹ vội vàng ném bom trở lại miền Bắc, tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc Việt Nam, với quy mô và mức độ ác liệt gấp bội lần trước. Một lần nữa miền Bắc lại chuyển hướng kinh tế , vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Phản bội lại những thỏa thuận đạt được ở Pari, ngày 18-12-1972, Mỹ huy động một lực lượng lớn máy bay chiến lược B.52 tiến hành cuộc tập kích đường không quy mô rất lớn đánh vào Hà Nội, Hải Phòng và một số nơi trên miền Bắc hòng gây sức ép tối da, buộc nhân dân Việt Nam phải chấp nhận những điều kiện đầu hàng do Mỹ đưa ra. Nhân dân miền Bắc, tiêu biểu là nhân dân thủ đô Hà Nội, đã tiến hành trận "Điện Biên Phủ trên không" vĩ đại 12 ngày đêm, đập tan hoàn toàn cuộc tập kích nói trên. Cái gọi là "uy thế không lực Hoa Kỳ" bị chôn vùi. Ngày 27- 1-1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút toàn bộ quân Mỹ và quân các nước thân Mỹ về nước, chấm dứt mọi dính líu quân sự, tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mặc dầu phải rút quân về nước, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục tìm mọi cách duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam: viện trợ ồ ạt cho chính quyền Sài Gòn hàng triệu tấn vũ khí, để lại hàng vạn cố vấn quân sự khoác áo dân sự, phá hoại toàn diện và có hệ thống Hiệp định Pari về Việt Nam. Chính quyền Sài Gòn mở hàng vạn cuộc càn quét lớn nhỏ để "tràn ngập lãnh thổ", đàn áp khủng bố, nhằm xóa bỏ thực trạng 2 vùng, 2 chính quyền, 2 quân đội, 3 lực lượng chính trị mà Hiệp định Pari đã công nhận. Miền Nam vẫn chưa có một ngày hòa bình, thậm chí có nơi, có lúc chiến tranh còn căng thẳng hơn trước. Nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác là tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến đấu. Sau khi quân Mỹ rút đi, chính quyền và quân đội Sài Gòn mất chỗ dựa trực tiếp, tinh thần và sức chiến đấu giảm sút nghiêm trọng. Vụ Oatơghết đã buộc Níchxơn phải từ chức trước thời hạn. Tình hình chính trị, xã hội nước Mỹ càng thêm mất ổn định. Trong khi đó miền Bắc Việt Nam khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thưong chiến tranh, tiếp tục tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng. Thế và lực của cách mạng miền Nam dần dần đi đến chín muồi. Cuối năm 1974 đầu năm 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam đã họp và đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm 1975-1976, đồng thời, dự kiến nếu thời cơ cho phép sẽ giải phóng hoàn toàn miền Nam trong năm 1975. Tháng 3-1975 cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 bắt đầu. Trải qua 3 chiến dịch lớn liên tiếp mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975 cờ cách mạng đã cắm trên Dinh Độc Lập. Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Sự kiện trọng đại này kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ròng rã 21 năm của nhân dân Việt Nam, và cũng là kết thúc thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại , cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc điển hình, một cuộc chiến tranh kéo dài chống lại thế lực xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp bội lần. Suốt năm đời tổng thống Mỹ nối chân nhau, đã liên tiếp đưa ra 4 chiến lược chiến tranh khác nhau, với quy mô ngày càng lớn, tinh vi và ác liệt, cùng với hai cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc. Mỹ chi vào cuộc chiến tranh này vượt xa số tiền bạc họ chi trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II và cuộc chiến tranh Triều Tiên trước đó. Hơn 60 vạn quân Mỹ và quân của 5 nước thân Mỹ, với trên một triệu quân của chính quyền Sài Gòn, cùng một khối lượng các phương tiện chiến tranh khổng lồ và hiện đại nhất (trừ vũ khí hạt nhân) đã được huy động. Hơn 7,8 triệu tấn bom đạn đã trút xuống hai miền Nam - Bắc Việt Nam, hủy diệt nhiều thành phố, thị xã, nhiều cơ sở kinh tế, văn hóa, giết hại hàng triệu dân thường, gây cho nhân dân Việt Nam muôn vàn đau thương tang tóc. Nhưng cuối cùng nhân dân Việt Nam đã chiến thắng. Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử tế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc". Thắng lợi này đã đi đến giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ vững chắc chế độ mới ở miền Bắc. Nó đã chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc tồn tại hơn 100 năm và chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở Việt Nam, rửa sạch nỗi đau và nỗi nhục mất nước, giành độc lập, tự do, thống nhất trọn vẹn, giang sơn thu về một mối. Thắng lợi đó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do, thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, ngay khi Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam thông báo chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, người Việt Nam đã đổ ra tràn ngập đường phố, xóm làng rực rỡ cờ hoa hân hoan mừng thắng lợi. "Chúng ta chào mừng Tổ quốc vinh quang cua chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn đến mũi Cà Mau từ nay hoàn toàn độc lập tự do và vĩnh viễn độc lập tự do". Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh với chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đã được phát huy và nâng lên gấp bội lần. Bất chấp bom đạn và vượt lên đau thương tang tóc, sức sống của dân tộc Việt Nam vẫn hiên ngang đứng vững và vươn lên kỳ diệu. Cả miền Bắc và miền Nam, cả hậu phương và tiền tuyến, cả nước đánh giặc. Biết bao bà mẹ Việt Nam anh hùng đã tiễn đưa người con cuối cùng của mình ra trận để cứu nước, cứu nhà. Hàng triệu thanh niên nam nữ đã lớp lớp "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Hậu phương tuôn người tuôn của ra tiền tuyến. Hàng triệu người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống. Tư tưởng "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công" của Hồ Chí Minh đã kết chặt người Việt Nam thành một khối vững chắc để "nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước". Thắng lợi đó là thành quả của liên minh ba nước Đông Dương, những người bạn chiến đầu cùng chung một chiến hào, thủy chung suốt những năm chiến tranh gian khổ. Đó còn là chiến thắng của lương tri thời đại và phẩm giá con người. Nó cổ vũ và thức tỉnh mạnh mẽ hàng triệu người và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh cho độc lập, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam diễn ra trong một bối cảnh tình hình quốc tế thuận lợi. Nhân dân Việt Nam đã nhận được sự đồng tình ủng hộ mạnh mẽ, sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc, của các lực lượng dân chủ, hòa bình và của cả loài người tiến bộ, trong đó có nhân dân Mỹ. Trong những năm tháng đó, hàng triệu người Mỹ đã xuống đường lên án chính sách của nhà cầm quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Tình đoàn kết quốc tế đã cổ vũ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam, góp phần to lớn vào việc tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng phòng thủ đất nước. Trong không khí tưng bừng của ngày chiến thắng, biết bao gia đình Việt Nam, cha mẹ, vợ chồng, con cái, họ hàng mừng tủi sau mấy chục năm trời đằng đẵng phân ly. Người người trở về quê hương, dựng lại nhà cửa, thu dọn bom mìn, khôi phục ruộng hoang... Cùng với việc bắt tay ngay vào khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, Việt Nam đã hoàn thành việc thống nhất nước nhà về mặt nhà nước - một bước quan trọng trong quá trình thống nhất toàn diện đất nước. Đó là một nhiệm vụ rất cấp bách, có quan hệ tới vận mệnh của dân tộc và tiền đồ của Tổ Quốc. Thống nhất đất nước là nguyện vọng vô cùng tha thiết và thiêng liêng của toàn thể nhân dân Việt Nam. Đó cũng là qui luật sinh tồn và phát triển của dân tộc. Hiện thực tống nhất đất nước đã tồn tại hàng nghìn năm trên đất nước Việt Nam, khắc sâu vào lịch sử, địa lý, văn hóa, ngôn ngữ, tâm hồn của mỗi người Việt Nam. Kẻ thù xâm lược qua các thời đại, mỗi khi xâm lược nước ta, đều tìm mọi cách để chi cắt đất nước, chia rẽ dân tộc, thực hiện chính sách "chia để trị" rất thâm độc để dễ bề khuất phục. sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc luôn luôn gắn liền với đấu tranh để bảo vệ sự thống nhất toàn vẹn của đất nước. Tháng 8-1945 cả dân tộc ta đã vùng dậy đập tan ách thống trị của bọn xâm lược nước ngoài và bè lũ tay sai, dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - một chủ thể pháp lý nhà nước được xác lập thống nhất trên phạm vi cả nước. Nhưng không bao lâu, các thế lực xâm lược nước ngoài lai kéo vào, chiến tranh diễn ra liên miên, đất nước lại bị chia cắt thành nhiều vùng khác nhau ; tiếp đến là Nam - Bắc phân chia suốt hơn hai thập kỷ. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã xóa bỏ mọi chướng ngại trên con đường thống nhất đất nước. Đáp ứng nguyện vọng thiêng liêng và sâu xa của đồng bào cả nước, ngày 15-11-1975, đại biểu hai miền Nam - Bắc đã họp Hội nghị hiệp thương chính trị tại Sài Gòn để bàn về thống nhất nước Việt Nam. Thông cáo Hội nghị ngày 21-11-1975 đã khẳng định: Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn và vững chắc nhất. Thi hành Nghị Quyết của Hội nghị hiệp thương, ngày 25-4-1976, hơn 23 triệu cử tri (chiếm 98,8% tổng số cử tri của cả nước) đã đi bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất. Đây là lần thứ hai cuộc tổng tuyển cử tiến hành trong cả nước sau lần đầu tiên tổ chức vào ngày 6-1- 1946. Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất với 492 đại biểu được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước đó kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã họp kỳ thứ nhất tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kể từ ngày 2-7-1976 ; thành phố Sài Gòn - Gia Định đổi tên là thành phố Hồ Chí Minh. Quốc hội cũng đã bầu các cơ quan và chức vụ lãnh đạo cao nhất của nước Việt Nam thống nhất. Thắng lợi của kỳ họp thứ nhất của quốc hội khóa VI đánh dấu công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành. Từ đây việc hoàn thành thống nhất đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng chung trong phạm vi cả nước. Ngày 31-1-1977, tại thành phố Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu Mặt trân Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đã họp để thống nhất thành mặt trận dân tộc duy nhất là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tất cả các đoàn thể quần chúng cũng lần lượt được tổ chức thống nhất lại. Nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Ngày 2-9-1977 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc.
III. Cảm nhận của bản thân
Qua chuyến tham quan tôi nhận ra rằng Đế quốc Mỹ đã sử dụng những thủ đoạn hết sức dã man để đàn áp nhân dân ta. Chúng đã xây dựng chế độ nhà tù mà điển hình là Chuồng Cọp với các hình thức tra tấn dã man, chế độ ăn uống không đủ dinh dưỡng và không hợp vệ sinh, không có nước sạch. Chính những sách khắc nghiệt này mà không biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng đã hi sinh. Khi nhìn thấy những thủ đoạn dã man của đế quốc Mỹ tôi tự hỏi: một nước có nền văn minh tiên tiến sao lại có thể hành động như vậy, một nước có “Tuyên ngôn độc lập” “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” lại có thể làm trái đi những gì đã tuyên bố trên thế giới. Thiết nghĩ, chiến tranh là phi lý, tại sao những tên đế quốc đầu sỏ, với nền văn minh hiện đại bậc nhất lại không nhìn nhận thấy. Chiến tranh, máu, xương, nước mắt, và nỗi đau. Bọn đế quốc muốn xâm chiếm nước ta vì những nguồn tài nguyên vô giá, vì muốn giàu có để tiến hành phát triển thế giới, trộm nghĩ, cũng là vì sự tiến bộ loài người, vậy thì tại sao phải đem tính mạng con người ra để đổi lấy những điều ấy? 35 năm chiến tranh đã qua đi nhưng hậu quả của nó đến bây giờ vẫn chưa được giải quyết. Việt Nam là nạn nhân trực tiếp phải hứng chịu hàng ngàn tấn bom đạn, hàng ngàn tấn chất khai quang thả xuống đầu. Đã từng chịu những trận càn khốc liệt của địch, tưởng chừng như nhân dân miền Nam và lực lượng bộ đội cụ Hồ không thể nào vượt qua được nhưng họ vẫn quyết tâm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Những hình ảnh tàn ác và đẫm máu ấy vẫn ngày đêm ám ảnh những người trẻ tuổi đã có dịp bước chân vào bảo tàng như chúng tôi! Chiến tranh, bạo lực, sức mạnh quân sự, sự uy hiếp tinh thần, mọi thủ đoạn của bọn ngoại xâm có thể tàn phá những giá trị vật chất, có thể hủy hoại những cơ thể sống, nhưng bầu nhiệt huyết và cống hiến cho Tổ Quốc, lòng tự tôn và yêu nước sẽ mãi không thể khuất phục bằng bất cứ loại vũ khí tối tân nào. Nạn nhân chất độc dioxin, những quái thai. Đó là di chứng kéo dài, là nỗi đau vô hạn. Những người thân xác không vẹn bỡi bom mìn, vết cháy xém lở loét bom napalm, bom lân tinh, lửa thiêu trên những mái nhà, tàn bạo quá! Cơ thể họ vẫn nằm đó. Trong lặng thầm, mà vang vọng đến nơi sâu tình người trong lòng khách đến tham quan. Đọc những dòng chú thích, tôi không thể kìm lòng mình được. Những cái rùng mình ghê tởm, những phút xuýt xoa đau đớn. Từng có lúc tôi sợ phải nhìn những tấm hình như thế này. Tôi ghét chết chóc. Nhưng lúc này, không thấy sợ, chỉ nghe lòng đau đáu rên. Những tiếng nấc khe khẽ. Rồi những cảm giác sợ hãi ấy nhanh chóng bị sự tự hào xen lấn, và khỏa lấp. Tôi nghĩ đến những người trẻ tuổi dẹp bỏ thời hoa xuân lên đường chiến đấu “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”, trong lòng lại dâng lên sự dũng cảm. Tôi đã đọc “Sống mãi tuổi 20” của Nguyễn Văn Thạc và “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, và tôi thật sự thấy tự hào vì mình là thế hệ đi sau của những người thanh niên anh hùng và bất khuất. Họ là niềm tự hào của thế hệ trẻ, là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Tôi cảm thấy khâm phục họ bởi sự hy sinh khi mà họ mới ở độ tuổi 20 đang căng tràn nhựa sống, độ tuổi mà như chúng tôi đang ngày ngày miệt mài trên giảng đường, có một cuộc sống bình yên. Tôi cảm thấy mình may mắn quá. May mắn vì không phải sống trong chiến tranh, may mắn vì không phải nếm trải những nỗi sợ hãi mà chỉ trong giây lát trước đó tôi muốn không bao giờ lặp lại. Nhưng hiện nay lớp thế hệ thanh niên có hiện tượng thoái hóa đạo đức nghiêm trọng. Lớp thanh niên dần dần quên mất đi những gì cao đẹp, thiêng liêng của ông cha ta để lại, mà hiện nay họ khen nhạc nước ngoài là hay trong khi những bài nhạc quê hương, những làn điệu dân ca lại bị gọi là sến. Hiện nay khi đi trên đường ta không còn bắt gặp những cô gái với tà áo dài tha thướt mà thay vào đó là những cô gái mặc đồ với phong cách thời trang hiện đại, với những bộ quần áo... thiếu vải gây không ít phản cảm với những người chung quanh... Tôi cũng thấy thanh niên hiện nay dường như đã quên mất lịch sử nước nhà mà chỉ nhớ tới Trung Quốc có bao nhiêu triều đại nhưng lại không biết Ngô Quyền đã đánh thắng quân xâm lược nào, ở đâu hay ai là người đã viết “Chiếu dời đô”... Tôi cảm thấy thật buồn cho thế hệ thanh niên ngày nay vì họ dường như đã bị Âu hóa mà quên mất cội nguồn dân tộc với 4000 năm ông cha ta đã dựng nước và giữa nước. Tôi mong rằng sẽ còn nhiều chuyến tham quan, tìm hiểu lịch sử để rèn luyện thêm cho lớp thanh niên lòng yêu nước và yêu đồng bào mình hơn. Tôi sẽ mãi không thể quên kỷ niệm đến bảo tàng hôm nay. Đúng rằng thế hệ trẻ, thế hệ sinh viên chúng tôi cần được giáo dục nhiều hơn về đất nước, về lịch sử dân tộc để đánh thức lòng yêu nước và tự hào dân tộc trong mỗi chúng tôi. Dẫu biết rằng dân tộc tôi đã trưởng thành và vững mạnh hơn sau bao cuộc chiến đấu ngoan cường, nhưng, tôi tự hỏi, tại sao quá khứ lại mang đến cho đất nước chúng tôi những cuộc chiến? Tại sao, chiến tranh qua đi, nỗi đau vẫn dai dẳng? Tại sao phải cứa vào lòng dân tộc tôi những vết thương khó lành này? Nhưng trên tất cả, tôi tự hào về bề dày lịch sử oai hùng, hiển hách của đất nước tôi. Tôi tự hào vì được sinh ra trên đất nước Việt Nam kiên cường, và tự hào vì mang trong mình quốc tịch Việt Nam. Tôi mong rằng sau này mọi người trên thế giới sẽ cùng nhau xây dựng một nơi luôn đầy ắp tiếng cười, luôn xem nhau là người một nhà không phân biệt màu da chủng tộc, không phân biệt giai cấp, không phân biệt giàu nghèo và sẽ không có chiến tranh và cũng không có những em bé phải gánh chịu hậu quả của chiến tranh thì đó sẽ luôn là một thế giới tốt đẹp mà ai cũng ước mong “Trái Đất này là của chúng mình. Vàng , trắng, đen tuy khac màu da”.