You are on page 1of 2

Cân bằng cán cân thương mại vào năm 2015: Nhiệm vụ bất khả thi?

Doanh Nhân - 31/12/2010 9:00:00 SA -


Facebook | Twitter Google In Gửi Xuất RSS
| Bookmarks | tin | email | PDF |
Sau một lần điều chỉnh lùi đến thời điểm 2015, rút cuộc, dự thảo kế hoạch 5 năm 2011 –
2015 lại lùi thêm một lần nữa: đến năm 2015 giảm tỷ lệ nhập siêu xuống 14% và vài năm
sau đó sẽ tiến tới cân bằng cán cân thương mại.

Nhìn lại giai đoạn 2001 - 2010, có thể thấy mức nhập siêu đã tăng quá nhanh, vượt xa so với
định hướng kế hoạch 2001 - 2010 của Chính phủ. Hàng loạt giải pháp nhằm mang lại hiệu quả
trong ngắn hạn đã được ban hành như hạn ngạch thuế quan, áp dụng cấp phép nhập khẩu tự
động, tăng thuế nhập khẩu... nhưng chuyển biến chưa rõ rệt.

Ba nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu

Báo cáo của Bộ Công Thương cho thấy, năm 2010 xuất khẩu ước đạt 70,8 tỷ USD, tăng 24% so
với năm 2009 và tăng 16,5% so với kế hoạch năm. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này vẫn không
“bù” được tốc độ tăng của nhập khẩu. Ước cả năm 2010 Việt Nam nhập siêu 12 tỷ USD; tỷ lệ
nhập siêu/xuất khẩu khoảng 17%. Tuy mức nhập siêu đã chuyển biến theo hướng giảm dần
nhưng kim ngạch và tỷ lệ nhập siêu của giai đoạn 2006 - 2010 đều cao hơn giai đoạn 2001 -
2005. Chính vì vậy mức chênh lệch này khó có thể giảm nhanh trong vòng 5 năm tới.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ nhập siêu cao, nhưng theo ông Bùi Trinh, Vụ Tài khoản
quốc gia (Tổng cục Thống kê), có 3 nguyên nhân chính. Thứ nhất là do cơ cấu kinh tế. Thông
thường, khi chọn ngành trọng điểm, phải xem xét đến hai yếu tố là chỉ số lan tỏa nội địa và chỉ số
kích thích nhập khẩu. Nhưng ở nước ta, một số ngành như công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng
vốn đầu tư khá lớn nhưng chỉ số lan tỏa nội địa thấp, trong khi chỉ số kích thích nhập khẩu lại cao
bất thường. Hiệu quả sản xuất kinh doanh sụt giảm khá mạnh là nguyên nhân thứ hai dẫn đến
nhập siêu tăng. Theo các bảng cân đối liên ngành của Tổng cục Thống kê, chỉ tiêu năng suất
đóng góp vào tăng trưởng khoảng 22 - 25%, nhưng trong ba năm 2007 - 2010, đóng góp của chỉ
tiêu này vào GDP chỉ khoảng 10 - 15%.

Nguyên nhân thứ ba không kém phần quan trọng là chính sách bảo hộ. Trong thực tế, chính
sách này của Việt Nam còn nhiều cảm tính. Những ngành có thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu
hiệu - bảo hộ sản xuất ngày càng giảm, thậm chí có những nhóm còn có tỷ lệ âm. Ngược lại, với
những ngành không thể cạnh tranh thì hệ số bảo hộ hữu hiệu cho sản xuất lại ngày càng tăng.

Nước ta đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã có không ít chính sách, chiến lược nhằm kích
thích các ngành kinh tế mũi nhọn. Nhưng dường như các chính sách này chưa phát huy được
tác dụng trước làn sóng hàng Trung Quốc đa dạng và giá rẻ. Chưa kể đến hàng rào thương mại
(thuế và phi thuế) do các nước dựng lên thì hàng hóa của Việt Nam cũng đã ở thế bất lợi do hạn
chế về giá cả, mẫu mã, chủng loại… Việt Nam vẫn xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng thô như cao
su, than, dầu thô… và nhập khẩu từ Trung Quốc máy móc cơ khí với tỷ trọng lớn, trên 90% giá trị
nhập khẩu. Thêm vào đó, việc các nhà thầu Trung Quốc thắng thầu hàng loạt các dự án lớn ở
Việt Nam đã tác động không nhỏ đến tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc, do các nhà thầu này mang
vào Việt Nam hầu như toàn bộ phương tiện, thiết bị và vật tư.

Việc nhập khẩu tăng và nhập siêu lớn còn có “đóng góp” của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Thời gian qua mức độ tăng nhập khẩu của khối doanh nghiệp này cao hơn
hẳn khối doanh nghiệp trong nước. Đi kèm với thu hút đầu tư FDI là việc tăng lượng nhập khẩu
máy móc, thiết bị cho các dự án sản xuất điện, lọc dầu, xi măng, thép... Theo cam kết gia nhập
WTO, Việt Nam phải xóa bỏ hạn chế nhập khẩu bằng hạn ngạch, giấy phép và giảm thuế nhập
khẩu theo lộ trình. Theo đó, chủ đầu tư được quyền lựa chọn nguồn cung cấp máy móc, thiết bị,
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Vì vậy, phần lớn các chủ đầu tư lựa chọn hình thức nhập
khẩu này.
Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006 tỷ lệ để dành so với vốn đầu tư thực hiện
của các dự án FDI là 87,35%, nhưng đến năm 2009 tỷ lệ này mất đi gần 20 điểm phần trăm, chỉ
còn 67,85%, trong khi tỷ lệ vốn đầu tư trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lại luôn ở mức trên
40%. Ông Trinh nhận xét, “tỷ lệ để dành nhỏ đi, chứng tỏ luồng tiền FDI vào còn nhỏ hơn cả
luồng tiền ra”. Hơn nữa, không chỉ nhập nguyên liệu để sản xuất, lắp ráp, khối doanh nghiệp FDI
còn nhập luôn hàng hóa vào để bán, thu lãi liền tay

Nhiều tác nhân mới

Phân tích của giới chuyên gia cho thấy, những bất ổn của giai đoạn vừa qua khiến việc cân bằng
cán cân thương mại không thực hiện được vẫn sẽ tiếp tục tồn tại. Không những thế, trong thời
gian tới còn xuất hiện thêm nhiều tác nhân mới duy trì đà nhập siêu.

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra tại phiên họp Chính phủ mới đây nhìn nhận, xuất
khẩu của Việt Nam đang đối mặt với những thử thách thật sự từ các diễn biến bất lợi của kinh tế
thế giới. Bộ này cho rằng, các diễn biến phức tạp của thị trường tiền tệ thế giới, đặc biệt sau khi
Mỹ thông qua gói cứu trợ kinh tế thứ hai trị giá 600 tỷ USD, cùng với tình trạng lạm phát gia tăng
ở nhiều quốc gia có thể dẫn tới việc điều chỉnh tỷ giá đồng nội tệ so với đồng USD ở một số nền
kinh tế. Đặc biệt, việc đồng Nhân dân tệ tiếp tục tăng giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu
của Việt Nam. Xuất khẩu của nước ta sang thị trường Mỹ có thể tăng nhẹ do việc Nhân dân tệ
tăng giá dẫn tới việc hàng Trung Quốc trở nên đắt hơn. Nhưng đồng USD của Mỹ tiếp tục xu
hướng giảm giá cũng sẽ làm cho các hàng hóa nước ngoài vào thị trường Mỹ nói chung, trong
đó có hàng hóa Việt Nam, trở nên khó cạnh tranh hơn với hàng hóa của Mỹ. Bên cạnh đó, ở các
thị trường lớn như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản cùng với xu hướng gia tăng bảo hộ mậu dịch của các
thị trường này, xuất khẩu của Việt Nam càng gặp khó khăn hơn trước.

Đồng bộ và đột phá?

Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Thành Biên, thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo
quyết liệt việc kiểm soát nhập siêu. Chính phủ cũng đã đưa ra các nhóm giải pháp lớn như ưu
đãi thu hút đầu tư vào các ngành sản xuất nguyên liệu, gia công xuất khẩu để giảm dần và thay
thế nguồn nguyên nhiên liệu vẫn phải nhập từ nước ngoài như xăng dầu, phân bón, nguyên phụ
liệu dệt may, da... Đồng thời sẽ thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các
nhóm hàng công nghiệp, những mặt hàng mới có hàm lượng giá trị gia tăng cao, giảm dần xuất
khẩu hàng khoáng sản, nguyên liệu thô, nông sản chưa gia công, chế biến, đồng thời củng cố thị
trường trong nước, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước…

Tuy nhiên, ông Biên cũng thừa nhận, việc cùng lúc thực hiện yêu cầu giảm nhập khẩu để giảm
nhập siêu, trong khi vẫn phải đáp ứng yêu cầu phát triển, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô là bài
toán kinh tế tổng hợp không dễ giải. Và để giải được, đòi hỏi sự điều hành chặt chẽ của Chính
phủ, sự phối hợp thực thi linh hoạt của các bộ, ngành và sự ủng hộ của doanh nghiệp và người
dân. Chính vì vậy cân bằng cán cân thương mại vẫn là bài toán khó. Mốc 2015 tiếp tục bị lỡ, liệu
đến bao giờ bài toán này được giải?

You might also like