You are on page 1of 100

MỤC LỤC

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ KIỂM SOÁT LẠM


PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG.....................................................1

1.1. Quan điểm về chính sách tiền tệ.............................................................1


1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ...............................................................2
1.2.1 Mục tiêu cuối cùng............................................................................2
1.2.1.1 Mục tiêu ổn định..........................................................................................2

1.2.1.2 Mục tiêu tăng trưởng...................................................................................4

1.2.2 Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ........................................5
1.2.3 Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ.........................................6
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát........7
1.3.1. Công cụ dự trữ bắt buộc ...................................................................7
1.3.2. Công cụ chiết khấu ..........................................................................8
1.3.3. Nghiệp vụ thị trường mở..................................................................9
1.4. Kinh nghiệm của Ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế
giới trong việc điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát................10
1.4.1. Chi Lê.............................................................................................10
1.4.2. Mỹ...................................................................................................12
1.4.3 Thái Lan...........................................................................................15
1.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .....................................................18
(1) Mức độ độc lập của Ngân hàng Trung ương.......................................18
(2) Cách thức lựa chọn mục tiêu và phương thức điều hành chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương...........................................................19
Chương II.........................................................................................................21

THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở
VIỆT NAM TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY............................................................21

2.1. Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam ................................................21


2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt
Nam..............................................................................................................25
2.2.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ từ 2004 đến nay............................25
2.2.2. Công cụ lãi suất..................................................................................27
2.2.2. Công cụ hạn mức tín dụng..............................................................33
2.2.3. Công cụ chiết khấu.........................................................................36
2.2.4. Dự trữ bắt buộc...............................................................................38
2.2.5. Công cụ tỷ giá.................................................................................40
2.2.6. Nghiệp vụ thị trường mở................................................................47
2.3. Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục
tiêu kiểm soát lạm phát................................................................................51
2.3.1. Kết quả đạt được.............................................................................51
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.................................................................52
2.3.2.1. Hạn chế....................................................................................................52

2.3.2.2. Nguyên nhân............................................................................................59

CHƯƠNG III...................................................................................................62

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM
MỤC TIÊU KIÊM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM.....................................62

3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020............................................62


3.2. Định hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
trong thời gian tới.........................................................................................62
3.3. Giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm
soát lạm phát ở Việt Nam ...........................................................................64
3.3.1 Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ.......................................64
3.3.1.1. Thực hiện điều chỉnh lãi suất linh hoạt......................................................64

3.3.1.2. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng................................................................65

3.3.1.3. Công cụ chiết khấu...................................................................................65

3.3.1.4. Công cụ dự trữ bắt buộc...........................................................................66

3.3.1.5. Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt.......................................................66


3.3.1.6. Nghiệp vụ thị trường mở...........................................................................67

3.3.2. Đổi mới căn bản công tác phân tích, dự báo...................................69
3.3.3. Áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam.........................................70
3.4 Một số kiến nghị....................................................................................71
3.4.1. Đối với Chính phủ..........................................................................71
3.4.2. Đối với Quốc hội............................................................................72
3.4.3. Đối với các Bộ, Ngành liên quan....................................................73
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CPI Chỉ số giá tiêu dùng

CSTK Chính sách tài khóa

CSTT Chính sách tiền tệ

DTBB Dự trữ bắt buộc

ECB Ngân hàng Trung ương Châu âu

FED Cục dự trữ liên bang Mỹ

GDP Tổng sản phẩm quốc dân

GNP Tổng sản phẩm quốc nội

IMF Tổ chức tiền tệ quốc tế

NHNNVN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTƯ Ngân hàng Trung ương

NVTTM Nghiệp vụ thị trường mở

TCTD Tổ chức tín dụng

USD Đồng đô la Mỹ

VND Việt Nam đồng


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 2004 đến năm 2009...Error:
Reference source not found
Bảng 2.2: Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố vào năm 2005
..........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trong năm 2005
...........................................................................Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Diễn biến tỷ giá năm 2007(tính bình quân trong tháng). .Error: Reference
source not found
Bảng 2.5: Diễn biến tỷ giá năm 2008..................Error: Reference source not found
Bảng 2.6: Kết quả giao dịch nghiệp vụ thị trường mở năm 2008....Error: Reference
source not found
Bảng 2.7: Diễn biến giao dịch năm 2008 theo từng quý. Error: Reference source not
found

DANH MỤC ĐỒ THỊ

Đồ thị 1.1: Chỉ số tiêu dùng ở Canada qua một số năm. .Error: Reference source not
found
Đồ thị 1.2: Tỷ lệ lạm phát của Ôtx-trây-li-a qua một số năm Error: Reference source
not found
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP giai đoạn 2003-2008.......Error: Reference source not
found
Đồ thị 2.2: Diễn biến CPI, lương thực thực phẩm và CPI các loại từ 2005-2007
..........................................................................Error: Reference source not found
Đồ thị 2.3: Diễn biến CPI từ 2004 đến tháng 3/2010......Error: Reference source not
found
Đồ thị 2.4: Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng năm 2004..Error:
Reference source not found
Đồ thị 2.5 : Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng năm 2007. Error:
Reference source not found
Đồ thị 2.6 : Lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008 và năm
2009..................................................................Error: Reference source not found
Đồ thị 2.7: Tăng trưởng tín dụng từ năm 2004 đến nay. .Error: Reference source not
found
Đồ thị 2.8: Diễn biến tỷ giá năm 2004.................Error: Reference source not found
Đồ thị 2.9: Diễn biến tỷ giá năm 2005................Error: Reference source not found
Đồ thị 2.10: Diễn biến tỷ giá năm 2006...............Error: Reference source not found
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học


Trước những năm 20 của thế kỷ XX, nền kinh tế vận hành theo cơ chế
tự tác động và điều tiết giữa các lực lượng trên thị trường, không có sự can
thiệp của Chính phủ. Điều này được thể hiện qua học thuyết “bàn tay vô
hình” của A.Smith. Nhưng cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 đã kéo tất cả
mọi người từ nhà lập chính sách đến người dân buôn bán bình thường, từ
những người theo trường phái cổ điển cho đến những người phản đối học
thuyết này trở về với thực tế rằng bàn tay vô hình là không hữu hiệu. Bàn tay
hữu hình ra đời từ bối cảnh đó mà người đi đầu là J.M. Keynes. Theo học
thuyết Keynes thì cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thay
cho một bàn tay vô hình nào đó khi thị trường gặp phải thất bại. Để đảm bảo
điều hành nền kinh tế của một quốc gia đòi hỏi thiết lập một hệ thống các
chính sách kinh tế tài chính. Trong đó, chính sách tiền tệ là một chính sách
kinh tế vĩ mô được quan tâm nhiều nhất.
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đóng một vai
trò quan trọng trong việc thực thi mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ là
kiểm soát lạm phát như đã thành công trong việc chống lại hiện tượng lạm
phát cao từ những năm đầu 90 (năm 1990: 67,1%, năm 1994 chỉ còn 14,4%).
Tuy nhiên, tại thời điểm này, sau 11 năm liên tục lạm phát được kìm giữ ở
mức thấp (một con số), đến năm 2007 lạm phát đã quay trở lại tốc độ "phi
mã" với mức 12,63%, cao gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,44%), năm
2008 lạm phát ở mức 18,89% và năm 2009 là 6,88%. Lạm phát tăng cao đã
tác động nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng xấu tới cuộc
sống của dân chúng.
Trước tình hình đó, đề tài lựa chọn vấn đề nghiên cứu: “Chính sách
tiền tệ kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay”
nhằm xem xét và đánh giá lại việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam từ năm 2004 đến nay. Bên cạnh kết quả đạt được
như lạm phát đã được đẩy lùi trở về mức lạm phát một con số thì chính sách
tiền tệ còn nhiều hạn chế và nhiều vấn đề cần khắc phục. Chính vì vậy, đề tài
tập trung xem xét thực trạng điều hành các công cụ của chính sách với những
hạn chế còn tồn tại. Từ đó, đưa ra các giải pháp và đề xuất để nâng cao hiệu
quả sử dụng của các công cụ đó, góp phần hoàn thiện chính sách tiền tệ để
kiểm soát lạm phát một cách tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống lý thuyết về chính sách tiền tệ, điều hành chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Trung ương.
- Phân tích thực trạng điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ
trong việc kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai
đoạn 2004 đến nay.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện việc điều hành chính sách tiền tệ
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: chính sách tiền tệ từ năm 2004 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài bao gồm:
phương pháp thống kê và mô tả trên cơ sở tập trung số liệu về chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từ 2004 đến nay; phương pháp tổng
hợp sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề lý thuyết về chính sách tiền tệ;
phương pháp so sánh để so sánh thực trạng và đánh giá kết quả điều hành
chính sách tiền tệ trong các năm của giai đoạn nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được kết cấu gồm
3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chính sách tiền tệ kiểm soát lạm
phát của Ngân hàng Trung ương.
Chương 2: Thực trạng chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát ở Việt
Nam từ năm 2004 đến nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ đảm bảo kiểm soát
lạm phát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
CHƯƠNG I

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ KIỂM SOÁT


LẠM PHÁT CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1.1. Quan điểm về chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan
trọng nhất mà Nhà nước giao cho Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) thực hiện.
Ở mỗi quốc gia khác nhau có đề cập tới CSTT với những quan điểm khác
nhau.
Theo quan điểm của của Frederic S.Mishkin - trường Đại học
Columbia (Mỹ) – thì CSTT chính là việc mà Cục dự trữ liên bang Mỹ
(Federal Reserve System - FED) sử dụng đến ba công cụ để điều tiết cung
ứng tiền tệ: nghiệp vụ thị trường tự do, nghiệp vụ này ảnh hưởng đến cơ số
tiền tệ; thay đổi lãi suất chiết khấu, thay đổi này ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ,
bằng cách này ảnh hưởng đến lượng vay chiết khấu; và thay đổi DTBB, thay
đổi này ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ.
Quan điểm của NHTƯ Châu Âu (ECB) về CSTT như sau: công cụ
chính là lãi suất ngắn hạn để thực hiện mục tiêu chính của CSTT là ổn định
giá cả khu vực Châu Âu trong thời kì trung hạn.
Theo quan điểm của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc: mục tiêu của
CSTT là ổn định giá trị đồng tiền và theo cách đó đẩy mạnh sự tăng trưởng
kinh tế.
Còn ở Việt Nam, theo điều 2, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN VN) năm 2003, số 06/1997/QHX, qui định: CSTT quốc gia là một
bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá
trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.

1
Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng; có chính
sách để động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa
nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần
kinh tế; bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các tổ chức tín dụng
(TCTD) nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; mở rộng hợp tác
và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy có rất nhiều quan điểm khác nhau về CSTT nhưng về cơ bản thì
CSTT là chính sách kinh tế vĩ mô mà NHTƯ thực hiện nhằm tác động vào
cung cầu tiền tệ, đảm bảo mục tiêu ổn định hay tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói sử dụng CSTT sao cho hiệu quả là một vấn đề hiện đang
được tranh cãi rất nhiều vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền
kinh tế. Tuy điều hành CSTT giữa các thời kỳ, các giai đoạn phát triển kinh tế
ở mỗi nước rất khác nhau song việc xây dựng và thực thi CSTT của các
NHTƯ đều hướng đến mục tiêu tăng trưởng hay ổn định nền kinh tế.
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.2.1 Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của CSTT là mục tiêu về ổn định và tăng trưởng.
Mục tiêu ổn định bao gồm: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định thị trường
tài chính và ổn định tỷ giá. Về mục tiêu tăng trưởng bao gồm đảm bảo công
ăn việc làm và có tăng trưởng kinh tế.
1.2.1.1 Mục tiêu ổn định
Ổn định về giá cả: ổn định giá cả được coi là mục tiêu của chính sách
kinh tế. Ổn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá cả tăng lên
(lạm phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Ví dụ, thông tin
chứa đựng trong giá cả hàng hóa và dịch vụ sẽ khó giải thích hơn khi mức giá
chung của giá cả đều thay đổi và do vậy những người tiêu dùng, các nhà kinh

2
doanh và chính phủ trở nên rất khó ra quyết định. Một ví dụ cực đoan nhất
của giá cả không ổn định là siêu lạm phát mà Đức đã trải qua những năm
1921 – 1923. Trong hai năm cuối của siêu lạm phát, hoạt động kinh tế của
Đức (tính bằng tổng sản phẩm quốc dân) bị giảm sút nghiêm trọng vì phải
gánh chịu mức chi phí do mức giá cả tăng lên.
Ổn định lãi suất: mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biến
động của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và càng khó lập kế hoạch cho
tương lai. Biến động của lãi suất ảnh hưởng tới lượng dự trữ, mức chi tiêu của
người dân và đồng thời tới khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Một lãi suất ổn định sẽ giúp các thành phần trong nền kinh tế
hoạch định được cụ thể cho tiêu dùng và sản xuất kinh doanh trong tương lai.
Ổn định các thị trường tài chính: ổn định thị trường tài chính là một
vấn đề rất quan trọng của nền kinh tế. Bởi lẽ, thị trường tài chính là nơi giao
dịch các nguồn lực tài chính, mà thực chất là giao dịch các khối tài sản của
nền kinh tế, được thể hiện dưới hình thức tiền tệ và các công cụ có giá trị như
tiền tệ, thường được gọi là các công cụ tài chính hay hàng hóa tài chính. Ở
đó, nó bao gồm việc chuyển giao các quyền sử dụng các khoản tài chính (các
khoản vay nợ: tín dụng, trái phiếu, tín phiếu) hoặc chuyển giao các quyền sở
hữu các tài sản tài chính (các cổ phiếu, các phần vốn góp vào các công ty,
v.v...), và các hợp đồng tài chính phái sinh (các quyền chọn, hợp đồng tương
lai, v.v…). Như vậy, ổn định thị trường tài chính, trước hết, là sự ổn định sức
mua của đơn vị tiền tệ quốc gia. Sự ổn định này có thể hiểu cả trên hai mặt.
Thứ nhất, giá cả của hàng hóa – dịch vụ không biến động. Thứ hai, tỷ giá của
nội tệ so với các ngoại tệ mạnh không biến động.
Ổn định thị tỷ giá: với tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái trong thương
mại quốc tế, ổn định tỷ giá trở thành mục tiêu quan trọng của CSTT. Ổn định
tỷ giá mang lại cơ hội trao đổi ngoại thương cho các chủ thế của nền kinh tế,
dễ dàng hơn trong việc hoạch định được hoạt động trao đổi trong tương lai.

3
Việc phân nhỏ các mục tiêu ổn định trong mục tiêu cuối cùng nhằm
mong muốn sự phối hợp hoạt động của các cơ quan, các sở ban ngành các cấp
để có thể cùng hoàn thành các mục tiêu một cách đúng đắn và chính xác nhất.
1.2.1.2 Mục tiêu tăng trưởng
Đảm bảo công ăn việc làm: trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao
động trở thành hàng hóa thì hiện tượng thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu
xảy ra. Do vậy, đảm bảo công ăn việc làm là một yêu cầu bức thiết và thường
trực của các quốc gia. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ
yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở
rộng và phát triển thì việc làm được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và
ngược lại, khi nền kinh tế trì trệ thì công ăn việc làm giảm, thất nghiệp tăng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả
của cải tiến kỹ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Mặt khác,
nhà kinh tế học tên là Arthur Okun đã phát hiện ra một quy luật rằng: khi
tổng sản phẩm quốc nội (GNP) thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì
mức thất nghiệp tăng 1%. Như vậy, nếu GNP thực tế lúc bắt đầu là 100%
tiềm năng, và sau đó giảm xuống còn 98% GNP tiềm năng tỷ lệ thất nghiệp
tăng từ x% lên (x+1)%. Hay nói một cách tổng quát, hiện tượng suy thoái
kinh tế theo chu kỳ sẽ làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng. Những phân tích trên
cho thấy vai trò của NHTƯ khi thực hiện mục tiêu này là phải vận dụng các
công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh
nhằm mục đích khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp
tự nhiên, tạo ra một lượng công ăn việc làm cao.
Tăng trưởng kinh tế: mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn chặt với
mục tiêu việc làm cao. CSTT có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này.
Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh
nghiệp có nhu cầu sử dụng lao động nhiều hơn, làm tăng sản lượng và tăng

4
trưởng kinh tế. Ngược lại, khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng
sẽ hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước và doanh
nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế
chậm lại.
Rõ ràng sự phối hợp của hai mục tiêu ổn định và tăng trưởng là rất
quan trọng. Bởi vì, không phải cùng một lúc cả hai mục tiêu đó đều có thể
thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau. Do vậy, khi đặt ra mục
tiêu cho CSTT cần phải có sự dung hòa. Cụ thể là phải tùy lúc, tùy thời, tùy
điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy, NHTƯ phải luôn nắm
bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực hiện các mục tiêu, nhằm điều
tiết chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp thích hợp.
1.2.2 Mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ
Để biết các mục tiêu cuối cùng nói trên có thực hiện được không, thì
NHTƯ phải chờ một thời gian (thường là một năm – khi kết thúc năm tài
chính). Lúc này, nếu kết quả thực hiện không đạt được như mục tiêu đề ra, thì
sẽ quá chậm để tiến hành bất kì sửa chữa nào. Do vậy, bên cạnh các mục tiêu
cuối cùng, NHTƯ còn phải xác định các mục tiêu trung gian của CSTT nhằm
đạt đến mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian của CSTT là mục tiêu do NHTƯ lựa chọn nhằm
đạt được mục tiêu cuối cùng và phải có liên hệ với mục tiêu cuối cùng. Tiêu
chuẩn để NHTƯ các nước lựa chọn mục tiêu trung gian là: có thể đo lường
được một cách chính xác và nhanh chóng để NHTƯ điều chỉnh hướng tác
động khi cần thiết, có khả năng kiểm soát được và có liên hệ chặt chẽ với
mục tiêu cuối cùng (đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của mục tiêu trung
gian). Với những tiêu chuẩn đó, các mục tiêu trung gian của CSTT thường
được các NHTƯ sử dụng là: chỉ tiêu tổng hợp lượng tiền cung ứng: lựa chọn
MS làm lượng tiền trung gian phải thả nổi lãi suất; chỉ tiêu lãi suất: để duy trì
mục tiêu lãi suất, mức cung tiền và tiền cơ sở sẽ biến động.

5
1.2.3 Mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ
Để đạt được các mục tiêu trung gian trên, mục tiêu trung gian lại tiếp
tục được chi tiết hóa bằng những mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu hoạt động của CSTT là mục tiêu do NHTƯ lựa chọn nhằm
đạt được mục tiêu trung gian. Nó có phản ứng tức thời với những thay đổi
trong sử dụng công cụ của CSTT. Tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu hoạt động:
có mối quan hệ mật thiết với mục tiêu trung gian, NHTƯ có thể đo lường
được, chịu sự tác động của công cụ gián tiếp. Các chỉ tiêu thường được lựa
chọn: về lượng là lượng tiền cơ sở MB, dự trữ của các ngân hành trung gian
R (Việt Nam chọn dự trữ của các Ngân hàng thương mại (NHTM)); về giá là
lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết khấu, lãi suất thị trường mở, lãi suất cho
vay qua đêm, lãi suất tín phiếu kho bạc.

Sơ đồ 1.1: Chiến lược mục tiêu của Cục dự trữ Liên bang Mỹ

M1 Khối
Cơ số tiền tệ Khối
dự tiền Tỷ lệ lạm phát
Thị trường mở (tổng dự trữ + M2
trữ tệ
tiền bên ngoài Tỷ lệ thất nghiệp
Dự trữ bắt buộc M3
ngân hàng)
Tỷ lệ GDP
Tỷ lệ chiết khấu
ti Tổng dự trữ Lãi suất dài hạn

Lãi suất tiền tệ liên bang Tổng nợ phi tài chính


Mục tiêu cuối cùng
Những công cụ

Những mục tiêu


Những mục tiêu hoạt động trung gian

Trong ngắn hạn, NHTƯ không thể đạt được tất cả mục tiêu ổn định và
tăng trưởng. Phần lớn NHTƯ các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ
yếu và dài hạn của CSTT, nhưng trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ

6
bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc
các ảnh hưởng của các cú sốc cung đối với sản lượng. NHTƯ được coi là có
quyền lực làm việc này vì NHTƯ nắm trong tay các công cụ điều chỉnh lượng
tiền cung ứng. Có thể nói NHTƯ theo đuổi một mục tiêu về dài hạn và đa
mục tiêu trong ngắn hạn. Các mục tiêu có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau,
không tách rời nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này
có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các
mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTƯ trong khi thực hiện CSTT cần phải
có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát
1.3.1. Công cụ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc (DTBB) là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì
trên một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại NHTƯ. Nó được xác định
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng
thời gian nào đó. Mức DTBB được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn
tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của NHTM.
Cơ chế điều hành: trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ
nâng tỷ lệ DTBB, qua đó làm lãi suất các khoản vay của NHTM tăng lên, các
doanh nghiệp bị hạn chế về khả năng tiếp cận vốn, khả năng mở rộng sản
xuất giảm đi. Từ đó dẫn đến sản lượng hàng hóa cung ứng sụt giảm và làm
giảm áp lực cầu tiền.
Ưu điểm: công cụ này có thể tác động một cách đầy quyền lực và như
nhau đến tất cả các NHTM. Cụ thể là, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ
DTBB thì tác động của nó đến khối lượng tiền tệ là rất lớn. Vì đây là biện
pháp mang tính bắt buộc nên lãi suất của các NHTM chắc chắn tăng hoặc
giảm.
Nhược điểm: công cụ DTBB có thể gây ra các tác động tiêu cực đến
nền kinh tế. Khi các NHTƯ muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ thì khó

7
có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ
lệ DTBB sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các NHTM có mức dự
trữ vượt quá ở mức thấp, nền kinh tế rơi vào tình trạng thiếu vốn và rơi từ khó
khăn này đến khó khăn khác. Hơn nữa nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ
DTBB cũng gây ra tình trạng không ổn định cho các NHTM và làm cho việc
quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này gặp khó khăn. Công cụ
này còn có độ trễ về mặt thời gian nên một sự gia tăng hay giảm tỷ lệ DTBB
đòi hỏi NHTƯ phải nghiên cứu trước sự chịu đựng của các NHTM, cũng cần
phải để thời gian cho các NHTM đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc
mới.
1.3.2. Công cụ chiết khấu
Công cụ chiết khấu là công cụ của NHTƯ trong việc thực thi CSTT,
bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTƯ cho
các ngân hàng vay để kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trũ cho hệ thống ngân
hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTƯ kiểm soát công cụ này
chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết
khấu).
Cơ chế điều hành: trong nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ nâng lãi suất
tái chiết khấu khiến khả năng cho vay của các NHTM bị hạn chế, dẫn tới các
doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận các khoản vay để duy trì và mở
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả là lượng hàng hóa cung ứng
giảm đi làm giảm áp lực cầu tiền giúp giảm áp lực của lạm phát.
Ưu và nhược điểm: công cụ này được thực hiện nhanh chóng nhưng
khối lượng tiền tệ cung ứng trong nền kinh tế có thể tăng hoặc có thể giảm,
phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng là có muốn vay hay không
muốn vay. Hơn nữa, nếu dòng vốn là tự do linh hoạt giữa các quốc gia, khi
nâng lãi suất ở các nước có lạm phát, làm cho dòng vốn nước ngoài đổ vào
các quốc gia này sẽ tăng lên, nhưng một khi kinh tế ổn định thì một khối

8
lượng dòng vốn khổng lồ sẽ chảy ra khỏi nước gây ra những bất ổn về kinh tế
và chính trị. Bên cạnh đó, chính sách này cần có thời gian mới có hiệu quả,
nên nó có độ trễ về thời gian.
1.3.3. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) phản ánh việc NHTƯ mua hoặc
bán các giấy tờ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt được
mục tiêu điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông. Các giấy tờ có giá đó là: tín
phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, thương phiếu, v.v... Trong đó, tín phiếu
kho bạc được tham gia rộng rãi nhất. Các thành viên tham gia thị trường mở
là các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, các doanh nghiệp. Thành
viên tham gia phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn để được cấp giấy phép
tham gia thị trường mở.
Cơ chế điều hành: Khi nền kinh tế có lạm phát, NHTƯ bán các giấy tờ
có giá trên thị trường mở, qua đó làm cho lượng tiền cung ứng cho vay của
các NHTM giảm, các doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
vay dẫn tới sự khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh khi chi phí đầu
vào sản xuất tăng lên. Lượng hàng hóa cung ứng giảm khiến cho áp lực về
cầu tiền đối với các hoạt động thanh toán giảm và kết quả cuối cùng là giảm
áp lực về lạm phát.
Ưu điểm: công cụ này có thể điều tiết lượng tiền cung ứng chính xác
nhất, cao nhất, hiệu quả nhất so với các công cụ khác của CSTT vì NHTƯ có
thể chủ động tiến hành mà không phải lệ thuộc vào nhu cầu của các NHTM.
Bên cạnh đó, công cụ DTBB và lãi suất chiết khấu không thể thay đổi theo
ngày nhưng NVTTM hoàn toàn có thể thay đổi theo ngày, theo các phiên giao
dịch. Công cụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ
mức độ nào. Nếu mong muốn của NHTƯ là thay đổi dự trữ của các NHTM ở
biên độ lớn, nó có thể mua hoặc bán các giấy tờ có giá với khối lượng lớn, và

9
ngược lại, nếu mong muốn NHTƯ thay đổi dự trữ của NHTM ở biên độ nhỏ,
NHTƯ sẽ thực hiện việc mua và bán ra ít chứng khoán hơn.
Nhược điểm: để công cụ này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi hầu hết tiền
trong lưu thông phải nằm trong tài khoản của các ngân hàng, phải có sự phát
triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Bên cạnh đó, công cụ
này cần một thị trường tài chính phát triển cao, mà điều này chỉ có ở các
nước có nền kinh tế - công nghiệp ngân hàng phát triển.
1.4. Kinh nghiệm của Ngân hàng trung ương của một số quốc gia trên thế
giới trong việc điều hành chính sách tiền tệ kiểm soát lạm phát
1.4.1. Chi Lê
Những năm 90 của thế kỷ trước, lạm phát ở các nước Mỹ La tinh lên
tới 500%, Achentina, Bra-xin và Pê ru là những nền kinh tế lớn nhất khu vực
lạm phát còn tăng lên đến 4 con số. Trước tình hình đó, Chính phủ các quốc
gia này đã có nhiều cải cách sâu rộng, đặc biệt là việc cải cách NHTƯ.
Năm 1989, Chi Lê là nước đầu tiên và tiếp đến các nước Châu Mỹ La
tinh khác đã thông qua luật tăng cường quyền tự chủ cho NHTƯ để nâng cao
trách nhiệm của tổ chức này.
Hầu hết các quốc gia trên đều thực hiện thêm chính sách thay đổi chế
độ tỷ giá. Với việc neo chặt tỷ giá hối đoái trong hơn 10 năm, tình hình lạm
phát của họ đã được cải thiện rõ rệt, tăng trưởng kinh tế được khôi phục. Chi
Lê là một thí dụ điển hình trong việc chuyển đổi thành công sang điều hành
CSTT lấy lạm phát làm mục tiêu. Sự phát triển của khuôn khổ thể chế kinh tế
và chính sách mới ở Chi Lê trong 3 thập kỷ qua là nhân tố chính đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế từ giữa thập kỷ 80 đến nay. Mô hình phát triển kinh tế
mới được xây dựng trên 4 cơ sở nền tảng sau: ổn định kinh tế vĩ mô với vai
trò độc lập của NHTƯ và tính lành mạnh của khu vực tài chính công; luật
ngân hàng đã đóng vai trò thúc đẩy khu vực tài chính lớn mạnh và hiệu quả;

10
cơ sở thể chế vững mạnh và ổn định; nền kinh tế thị trường mở có tính cạnh
tranh.
Khuôn khổ chính sách lạm phát mục tiêu giúp cho Chi Lê giảm được
mức lạm phát từ trung bình xuống mức thấp và ổn định. Quá trình trên được
chia làm hai giai đoạn:
Từ 1991 đến 2000: áp dụng lạm phát mục tiêu, nhưng chưa có khuôn
khổ hoàn chỉnh cụ thể là chưa có dự báo lạm phát và cam kết mạnh với dân
chúng về mức lạm phát. Trong giai đoạn này, NHTƯ đã thành công trong
việc giảm mức lạm phát từ 20% - 30% xuống mức một con số. NHTƯ Chi Lê
đã xây dựng những điều kiện để xây dựng chính sách lạm phát mục tiêu hoàn
chỉnh gồm những nội dung sau: (i) xây dựng vai trò độc lập của NHTƯ: độc
lập trong xác định mục tiêu chủ chốt và độc lập trong sử dụng các công cụ
của CSTT, (ii) xây dựng tính độc lập của CSTT với chính sách tài khóa
(CSTK): không cho phép NHTƯ cấp tín dụng cho Chính phủ hay nói cách
khác phải có một CSTK lành mạnh, (iii) xây dựng thị trường tài chính vững
mạnh và có chiều sâu.
Từ năm 2000 đến nay, NHTƯ Chi Lê đã thực hiện chính sách lạm phát
mục tiêu hoàn chỉnh với mục tiêu là lạm phát danh nghĩa (hay chỉ số giá tiêu
dùng (CPI)) hàng năm là 3% (với biên độ ±1%). Tham gia vào quá trình điều
hành lạm phát mục tiêu hoàn chỉnh của Chi Lê gồm có: hội đồng CSTT của
NHTƯ Chi Lê quyết định lãi suất của CSTT; NVTTM là công cụ chính của
NHTƯ Chi Lê trong việc thực hiện CSTT. Tác động vào tính thanh khoản
trên thị trường nhằm duy trì lãi suất qua đêm liên ngân hàng dao động xung
quanh lãi suất của CSTT bằng tín dụng qua đêm và tiền gửi qua đêm. Khi cần
thiết, NHTƯ sử dụng các nghiệp vụ đặc biệt như: mua lại (repo), hoán đổi,
bán lại (anti-repo).
Thực hiện khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu hoàn chỉnh đã mang lại
kết quả quan trọng là: uy tín về chính sách kiểm soát lạm phát đã được cải

11
thiện, lạm phát ổn định và ở mức thấp, neo được kỳ vọng lạm phát, mối liên
hệ lịch sử giữa giảm giá đồng tiền - lạm phát đã giảm tác động, hiệu quả và
uy tín CSTT được tăng cường.
Thả nổi tỷ giá là một trong những điều kiện tiên quyết để chính sách
lạm phát mục tiêu thành công ở Chi Lê. Áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi đã
tăng cường vai trò độc lập của CSTT, củng cố cho kỳ vọng lạm phát và xúc
tiến quá trình phát triển của thị trường tài chính. Quá trình chuyển dịch cũng
được thực hiện dần dần: (i) trước năm 1984 chính sách tỷ giá cố định; (ii) từ
1984 đến 1999 chính sách biên độ tỷ giá; từ năm 1998 biên độ được nới lỏng
dần và xóa bỏ các hạn chế dao dịch vốn; (iii) tháng 9 năm 1999 Chi Lê áp
dụng chế độ tỷ giá thả nổi.
Mặc dù thi hành chế độ tỷ giá thả nổi, NHTƯ Chi Lê vẫn có quyền can
thiệp trong trường hợp đặc biệt. Chế độ tỷ giá linh hoạt cho phép NHTƯ Chi
Lê có được sự độc lập hoàn toàn trong hoạch định CSTT giúp neo kỳ vọng
lạm phát; có hiệu quả hơn trong việc đối phó hiệu ứng chu kỳ; mối liên hệ
lịch sử giữa tiền giảm giá với lạm phát giảm; tính linh hoạt của tỷ giá dẫn đến
thị trường tài chính phát triển về chiều sâu.
1.4.2. Mỹ
Ngày nay, các nhà kinh tế thuộc FED sử dụng nhiều phương pháp đo
lường để xác định liệu CSTT cần chặt hơn hay lỏng hơn. Có một cách tiếp
cận là so sánh tỷ lệ tăng trưởng thực tế với tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng của
nền kinh tế. Tăng trưởng tiềm năng được đo bằng tổng của tăng trưởng lực
lượng lao động và lợi ích tăng thêm của năng suất, hay sản lượng trên mỗi
công nhân. Vào cuối những năm 1990, lực lượng lao động được dự kiến tăng
khoảng 1% mỗi năm, và năng suất được cho là tăng lên trong khoảng từ 1%
đến 1,5%. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng ước tính trong khoảng từ 2%
đến 2,5%. Bằng cách tính này, nếu tăng trưởng thực tế vượt quá tăng trưởng

12
tiềm năng dài hạn thì được xem là làm gia tăng nguy cơ lạm phát, và do đó sẽ
yêu cầu CSTT chặt hơn.
Công cụ thứ hai là tỷ lệ thất nghiệp không gia tăng lạm phát hay còn
gọi là NAIRU. Qua thời gian, các nhà kinh tế thấy rằng lạm phát có xu hướng
gia tăng nếu thất nghiệp giảm xuống dưới một mức nhất định. Trong thập kỷ
1980, các nhà kinh tế nhìn chung đều cho rằng tỷ lệ thất nghiệp không làm
gia tăng lạm phát vào khoảng 6%. Nhưng vào cuối thập kỷ đó, nó hạ xuống
còn khoảng 5,5%.
Có lẽ một điều còn quan trọng hơn là hàng loạt những công nghệ mới
như bộ xử lý vi mạch, máy lade, sợi cáp quang và vệ tinh xuất hiện vào cuối
những năm 1990 làm cho nền kinh tế Mỹ tăng trưởng hơn nhiều so với dự
đoán của các nhà kinh tế. Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ Alan Greenspan
đã nói vào giữa năm 1999: “Những sáng chế mới nhất, mà chúng ta gọi là
công nghệ thông tin, đã bắt đầu làm thay đổi phong cách chúng ta tiến hành
kinh doanh và tạo ra giá trị, thường bằng những cách mà ta không thể đoán
được thậm chí chỉ năm năm trước đây”.
Cũng theo Alan Greenspan – Chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ, trước
đây việc thiếu thông tin kịp thời về nhu cầu khách hàng và nguồn nguyên vật
liệu buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với một lượng hàng tồn kho lớn
hơn và nhiều nhân công hơn so với mức cần thiết. Nhưng khi chất lượng
thông tin được cải thiện, các doanh nghiệp này có thể hoạt động hiệu quả hơn.
Công nghệ thông tin cũng cho phép thời gian giao hàng nhanh hơn, đồng thời
công nghệ thông tin thúc đẩy và hợp lý hóa quá trình đổi mới. Ví dụ, theo lời
Greenspan, thời gian thiết kế giảm xuống rất nhiều do việc mô hình hóa bằng
máy tính làm giảm nhu cầu về nhân sự trong các hãng kiến trúc, và việc
chuẩn đoán bệnh trở nên nhanh hơn, kỹ hơn và chính xác hơn.
Những đổi mới công nghệ như vậy hiển nhiên là nguyên nhân khiến
cho năng suất tăng mạnh vào cuối những năm 1990. Đầu thập kỷ này, mức

13
tăng trưởng mỗi năm chưa đến 1%, nhưng đến cuối những năm 1990, năng
suất đã tăng lên với tỷ lệ 3%/năm - vượt cả sự mong đợi của các nhà kinh tế.
Năng suất cao hơn có nghĩa là hoạt động kinh doanh sẽ tăng nhanh hơn mà
không gây ra lạm phát. Những yêu cầu khiêm tốn tới mức bất ngờ của người
công nhân về việc tăng lương - có lẽ lý do ở đây là người lao động cảm thấy
bất ổn về việc làm của mình trong một nền kinh tế thay đổi cực nhanh - cũng
giúp giảm nhẹ các áp lực gây ra lạm phát.
Mỹ còn thực hiện CSTT chủ yếu bằng cách định hướng “lãi suất quỹ
vốn tại FED”. Đây là tỷ lệ các NHTM ấn định với nhau cho khoản vay qua
đêm các quỹ đặt cọc tại FED, tỷ lệ này do thị trường quyết định chứ FED
không ép buộc. Tuy vậy, FED sẽ cố gắng tác động tỷ lệ này ở con số phù hợp
với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ
thông qua hoạt động của nó trên thị trường. FED còn ấn định tỷ lệ chiết khấu
– lãi suất mà các NHTM phải trả khi vay tiền từ FED. Tuy nhiên, các NHTM
thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại FED từ một NHTM khác mặc dù lãi
suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của FED. Lý do của cách lựa chọn này là
việc vay tiền từ FED mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của
công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của NHTM đang đi
vay.
Cả hai tỷ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi, là tỷ lệ thường cao hơn 3% so
với “lãi suất quỹ vốn tại FED". Lãi suất ưu đãi là tỷ lệ mà các NHTM tính lãi
đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất. Ở mức lãi suất thấp,
các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó mà người
tiêu dùng và các doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại, lãi suất cao
đưa đến kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn.
FED thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn tại FED” mỗi lần ở mức
0,25% hoặc 0,5%. Từ năm 2001 đến giữa năm 2003, FED hạ lãi suất 13 lần,
từ 6,25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thóai kinh tế. Tháng 11

14
năm 2002, lãi suất do FED điều chỉnh chỉ còn 1,75% và nhiều mức thấp hơn
cả tỷ lệ lạm phát. Ngày 25/03/2003, "lãi suất quỹ vốn tại FED” tụt xuống mức
1%, con số thấp nhất kể từ tháng 07 năm 1958 - 0,68%. Bắt đầu từ giữa tháng
06/2004, FED bắt đầu nâng lãi suất định hướng 17 lần liên tục lên 5,25%
ngày 08/08/2006.
1.4.3 Thái Lan
Sau khi chế độ neo tỉ giá của Thái Lan sụp đổ vào ngày 2/7/1997, nước
này đã tiếp nhận chương trình trợ giúp của Quỹ tiền tệ quốc tế (International
Monetary Fund - IMF) và áp dụng cơ chế CSTT lấy cung ứng tiền làm mục
tiêu. Tuy nhiên, không lâu sau đó (tháng 5/2000) Thái Lan đã chuyển sang cơ
chế lạm phát mục tiêu. Lý do chính của việc Thái Lan chuyển sang cơ chế
mới này là xuất phát từ mối quan hệ giữa tăng trưởng với cung ứng tiền trở
nên kém ổn định, đặc biệt trong thời kỳ sau khủng hoảng, cũng như những
bất ổn trong việc mở rộng tín dụng và sự thay đổi nhanh của khu vực tài
chính nước này. Những thành công của NHTƯ Thái Lan kể từ khi áp dụng cơ
chế lạm phát mục tiêu đã góp phần khẳng định những ưu thế của cơ chế này,
đồng thời phản ánh những nỗ lực, bước đi đúng hướng của NHTƯ Thái Lan
trong việc gây dựng lòng tin đối với công chúng và thị trường để không
ngừng nâng cao hiệu quả của CSTT.
Cơ chế CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu của Thái Lan được
vận hành trên một số cơ sở chính về thể chế, pháp lý và kỹ thuật. Thứ nhất,
mục tiêu hàng đầu của CSTT của Thái Lan là ổn định giá cả, trong đó ấn định
mục tiêu cụ thể cần đạt được đó là duy trì lạm phát cơ bản từ 0% - 3,5% (lạm
phát cơ bản của Thái Lan được xác định là CPI loại trừ lương thực, thực
phẩm thô và năng lượng). Thứ hai, công cụ chính sách của NHTƯ Thái Lan
để hướng tới mục tiêu nêu trên là lãi suất chủ đạo (lãi suất repo). Thứ ba, để
hỗ trợ NHTƯ Thái Lan trong việc điều hành CSTT một cách hiệu quả, nhằm
đạt được mục tiêu về ổn định giá cả và tăng trưởng bền vững, NHTƯ Thái

15
Lan sử dụng mô hình kinh tế vĩ mô. Mô hình này bao gồm một hệ thống các
phương trình thể hiện mối quan hệ giữa các biến số chủ yếu, dựa trên các diễn
biến của chúng trong quá khứ, các giả thiết và dự báo liên quan. Mô hình
kinh tế vĩ mô đưa ra các dự báo về lạm phát và tăng trưởng kinh tế trên cơ sở
các thông tin đầu vào như giá dầu, tỉ giá, tăng trưởng kinh tế của các đối tác
thương mại, CSTT, CSTK và những phán xét riêng của Hội đồng CSTT. Thứ
tư, Hội đồng CSTT (bao gồm 07 thành viên, trong đó 03 thành viên là lãnh
đạo của NHTƯ Thái Lan, 04 thành viên còn lại là các chuyên gia giỏi ngoài
NHTƯ Thái Lan) là nơi đưa ra quyết định về điều hành CSTT. Thứ năm,
kênh đối thoại về chính sách của NHTƯ Thái Lan là báo cáo lạm phát hàng
quý được phát hành rộng rãi (được đăng tải cả trên website của NHTƯ Thái
Lan).
Trong quá trình nghiên cứu, có thể nhận thấy một số quốc gia vận hành
CSTT có nét tương đồng với Chi Lê và Thái Lan như Ôtx-trây-li-a, Bra-xin,
Canada, Niu Di-Lân, Na Uy, v.v... Các nước này đều điều hành CSTT lấy
lạm phát làm mục tiêu.
Đồ thị 1.1: Chỉ số tiêu dùng ở Canada qua một số năm
% tăng, giảm cùng kỳ

Nguồn: NHTƯ Canada

16
Cụ thể như ở Canada, mục tiêu của NHTƯ là duy trì lạm phát ở mức
mục tiêu 2%, mức trung bình giữa khoảng kiểm soát lạm phát mục tiêu 1% -
3%.
Đối với Ôtx-trây-li-a, Chính phủ và Ngân hàng dự trữ Ôtx-trây-li-a
thống nhất mục tiêu hợp lí cho CSTT ở Ôtx-trây-li-a là đạt mức lạm phát 2%
- 3%.

17
Đồ thị 1.2: Tỷ lệ lạm phát của Ôtx-trây-li-a qua một số năm
Đơn vị: %/năm

Nguồn: NHTƯ Ôtx-trây-li-a


Với việc lấy lạm phát mục tiêu làm mục tiêu của CSTT, các nước trên
đều thành công trong việc duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức thấp và ổn định trong
nhiều năm.
1.5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
(1) Mức độ độc lập của Ngân hàng Trung ương
Để NHNN VN thực thi CSTT có hiệu quả, một việc quan trọng là học
hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để từ đó có các giải pháp đúng đắn
cho CSTT của NHNN VN. Kinh nghiệm của Chi Lê cho thấy Việt Nam cần
nâng cao tính độc lập của NHNN VN với Chính phủ. Tính độc lập ở đây
không có nghĩa là độc lập hoàn toàn với Chính phủ nhưng nó phải được tự
do trong việc lựa chọn các công cụ để đạt được mục tiêu mà Chính phủ cho
là hợp lý. Để làm được điều này, cần phải có sự cân bằng giữa CSTK và
CSTT. Điều này có nghĩa là CSTK không được bức chế CSTT. Chính phủ
cần có một thu nhập vững trãi và không được dựa vào “thuế đúc tiền”. Bên
cạnh đó chúng ta cần phải hoàn chỉnh Luật Ngân hàng để NHNN VN có đầy
đủ quyền lực pháp lý, được quyền kiểm soát vốn, có tính độc lập trong điều

18
hành CSTT. Đổi mới mô hình tổ chức trong điều hành CSTT, đặc biệt là tăng
cường vai trò và hiệu quả của Hội đồng tư vấn CSTT cũng là một kinh
nghiệm đáng học hỏi của Thái Lan.
(2) Cách thức lựa chọn mục tiêu và phương thức điều hành chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương
Về mặt lý thuyết, cũng như kinh nghiệm thực tiễn của các nước cũng
cho thấy, CSTT chỉ đạt hiệu quả khi theo đuổi duy nhất một mục tiêu cuối
cùng. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua CSTT của Việt Nam không phải
theo đuổi một mục tiêu mà thực hiện một CSTT đa mục tiêu, vừa kiểm soát
lạm phát, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định hệ thống ngân hàng (vấn
đề này sẽ được thể hiện rõ trong phần sau). Do vậy, sự lựa chọn đa mục tiêu
sẽ giảm đáng kể đến hiệu quả của CSTT trong việc kiểm soát lạm phát, đôi
khi trong thực tế việc điều hành CSTT chủ yếu nhằm mục tiêu tăng trưởng
kinh tế. Ví dụ như ở Thái lan thì CSTT của nước này hướng đến mục tiêu đầu
tiên và quan trọng nhất là ổn định giá cả. Từ mục tiêu này, NHTƯ đề ra các
biện pháp phù hợp nhất và có khả năng thực thi cao nhất.
Ngoài ra, lựa chọn phương thức điều hành hợp lý, linh hoạt phù hợp
với điều kiện kinh tế của mỗi quốc gia và tình hình thực tiễn cũng rất quan
trọng và ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành CSTT. Trong những năm gần
đây, một số NHTƯ các nước đã quyết định chuyển hướng sang việc thiết lập
CSTT với mục tiêu kiểm soát lạm phát (kinh nghiệm của Mỹ và Thái Lan).
(3) Hệ thống thông tin, thống kê tiền tệ và công tác dự báo lạm phát
Ngoài ra, công tác dự báo, mô hình dự báo lạm phát hiện đại và phù
hợp cũng góp phần quan trọng cho việc điều hành CSTT. Hiện nay, NHTƯ
các nước thường sử dụng mô hình kinh tế lượng để dự báo chỉ tiêu lạm phát.
Kinh tế lượng là vấn đề rất phức tạp đòi hỏi phải có một phần mềm dự báo
với cơ sở dữ liệu của 10 năm qua; phải có cán bộ có kiến thức về kinh tế vĩ
mô, mô hình dự báo tiền tệ đòi hỏi phải phù hợp với tình hình thực tế, nên

19
cần có những cán bộ có kinh nghiệm phân tích các nhân tố tác động (kinh
nghiệm của Mỹ và Thái Lan).

20
Chương II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NHẰM KIỀM CHẾ LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2004 ĐẾN NAY
2.1. Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam
Trong năm 2004, nền kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh tình hình
quốc tế và trong nước không mấy thuận lợi. Mặc dù kinh tế thế giới tăng
trưởng khá tạo thuận lợi cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam, song
những biến động khó lường về chính trị, thiên tai, dịch cúm, giá cả nguyên,
nhiên vật liệu (sắt thép,xăng dầu,v.v…) có những tác động xấu đến hoạt động
kinh doanh trong nước. Trong hoàn cảnh đó năm 2004 nền kinh tế vẫn đạt
được mức tăng trưởng GDP 7,69%, cao hơn mức tăng 7,43% của năm 2003,
và tốc độ tăng trưởng GDP quý sau tăng cao hơn quý trước. Tuy vậy CPI tăng
9,5%, mức cao nhất kể từ 1995 trở lại đây.
Vượt qua nhiều khó khăn khách quan như: thời tiết, dịch cúm gia cầm
tái phát, giá cả hàng hóa, dịch vụ thế giới biên động bất lợi, nhất là giá xăng,
dầu và một số nguyên liệu quan trọng tăng đột biến, thị trường xuất khẩu
hàng hóa chủ lực (dệt may,da giày, thủy sản,v.v…) thu hẹp. Tình hình kinh tế
trong nước ta năm 2005 vẫn phát triển toàn diện và tăng trưởng khá cao
8,43%, xấp xỉ mục tiêu đề ra 8,5% và là mức tăng cao nhất trong 9 năm qua,
kể từ năm 1997. Mức tăng trưởng cao của năm 2005 đã góp phần quyết định
cho việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm đã được
đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005. Năm 2005,
CPI tháng 12 là 8,4%, giảm hơn mức 9,5% của tháng 12 năm 2004, tuy nhiên
vẫn cao hơn mục tiêu Quốc hội đặt ra. Tuy CPI cuối kỳ đã giảm so với năm
2004 nhưng tính chung cả năm 2005 CPI bình quân ở mức 8,3%, cao hơn
mức 7,7% của năm 2004, cho thấy sức ép giảm tiền lương thực tế đối với
người lao động lớn hơn, mặc dù Chính phủ đã điều chỉnh tiền lương danh
nghĩa cho cán bộ công chức hưởng lương từ ngân sách.

21
Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP giai đoạn 2003-2008

Nguồn: Tổng cục Thống kê


Diễn biến kinh tế Việt Nam năm 2006 tiếp tục có sự ổn định, nền kinh
tế đạt tăng trưởng 8,17%, vượt mục tiêu 8% đề ra từ đầu năm. Tốc độ tăng
CPI 6,6% phù hợp với mục tiêu đề ra. Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới (WTO) tháng 11/2006 là bước chuyển biến tương đối
toàn diện đến nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO, thời gian một năm là quá ngắn để nhìn nhận và đánh giá đầy đủ tác
động của hội nhập tới tiến trình cải cách nền kinh tế Việt Nam. Dòng vốn đầu
tư vào nhiều nhưng khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế, hiệu quả sử dụng vốn
còn thấp. Tuy nhiên, cùng với các cam kết cải cách mạnh mẽ đã góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt mức 8,48% là mức tăng cao nhất
trong 11 năm qua. Mức tăng CPI là 12,63%, lạm phát bình quân cũng tăng từ
7,45% lên 8,3%.
Đồ thị 2.2: Diễn biến CPI, lương thực thực phẩm và CPI các loại từ
2005-2007

22
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, ở trong nước,
giá xăng dầu và các nguyên liệu đầu vào, hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu
những tháng đầu năm tăng vọt, đền giữa năm lại có xu hướng giảm. Cuộc
khủng hoảng còn tác động đến thị trường chứng khoán do tâm lý lo ngại của
các nhà đầu tư, dòng vốn nước ngoài đổ vào thị trường chứng khoán giảm;
thâm hụt cán cân thương mại tăng cao. Tốc độ GDP năm 2008 tăng 6,18% so
với năm 2007. Trong 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát tăng mạnh, từ tháng 7
giảm dần và đạt mức âm vào tháng 3 quý IV. Tính chung cả năm, chỉ số CPI
tăng 19,89% cao hơn nhiều so với năm 2007, lạm phát bình quân tăng
22,97%.
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng
GDP quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều
năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng
GDP đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm
2009, GDP tăng 5,32%.Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn
tốc độ tăng 6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế
hoạch. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng
âm mà kinh tế nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như
trên là một thành công lớn. Tốc độ tăng GDP quý I và quý II năm 2009 thấp
hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng
6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng

23
6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế nước
ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính sách,
giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển khai
trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy hiệu
quả. Chỉ số CPI năm 2009 tương đối ổn định, ngoài tháng 2 và tháng 12 CPI
tăng trên 1%, các tháng còn lại giảm hoặc tăng. CPI bình quân năm 2009
tăng 6,88% so với bình quân năm 2008.
Đồ thị 2.3: Diễn biến CPI từ 2004 đến tháng 3/2010
% Tăng, giảm so với cùng kỳ năm ngoái

30

25

20

15

10

0
9 1 2 2 4 6 7 7 9 1 2 2 4 6 7 8 0 2 3 3 5 7 8 8
3 3 2 1 0 9 8 7 6 6 5 4 3 2 1 0 0 9 8 7 6 5 4 3
1 2 3 4 5 5 6 7 8 9 0 1 2 3 4 5 6 6 7 8 9 0 1 2
8 8 8 8 8 8 8 8 8 8 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 9 0 0 0
3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 3 4 4 4

CPI

Nguồn: Tổng cục Thống kê


GDP quý I/2010 ước tính tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009. Tốc
độ tăng GDP quý I tuy chưa bằng mục tiêu tăng 6,5% đề ra cho cả năm
nhưng cao hơn nhiều so với quý I/2009, chứng tỏ nền kinh tế nước ta
đang tiếp tục phục hồi và tăng trưởng nhanh dần. CPI tháng 3/2010 tăng
9,46% so với cùng kỳ năm 2009 và tăng 4,12% so với tháng 12/2009. Giá
tiêu dùng bình quân quý I/2010 tăng 8,51% so với giá tiêu dùng bình quân
quý I/2009.
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế từ năm 2004 đến

24
năm 2009
% Tăng, giảm so với các năm trước

Tỷ lệ tăng
Tỷ lệ lạm phát Chỉ tiêu
Năm trưởng GDP

2004 7,69 9,5 <5%

2005 8,43 8,4 <6,5%

2006 8,17 6,6 <GDP

2007 8,48 12,63 <GDP

2008 6,18 19,89 <GDP

2009 5,32 8.9 <10%


Nguồn : NHNNVN
2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát ở
Việt Nam
2.2.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ từ 2004 đến nay
Từ tình hình thực tiễn 2003 và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
năm 2004 theo chỉ tiêu Quốc hội phê duyệt, ngay từ đầu năm NHNNVN đã
xác định mục tiêu điều hành CSTT một cách linh hoạt, thận trọng, nâng cao
vai trò điều tiết và kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần
thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 7,5% - 8,0% và lạm phát dưới 5%.
Bằng việc bám sát chủ trương chỉ đạo của Chính phủ và diễn biến thị
trường trong nước và quốc tế, NHNN sẽ đưa ra các giải pháp linh hoạt về tiền
tệ, tín dụng , lãi suất, tỷ giá phù hợp với mục tiêu CSTT, cụ thể như sau: điều
hành lãi suất linh hoạt nhằm hỗ trợ tích cực việc thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế 8,5%, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc

25
hội đề ra, nâng cao chất lượng tín dụng để tăng trưởng bền vững; tiếp tục thực
hiện chương trình hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán, mở rộng và
phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đẩy mạnh tiến trình hội nhập quốc
tế về ngân hàng, tăng cường năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của
các TCTD nhất là các NHTM Nhà nước.
Trong năm 2006, trước bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp,
khó lường, điều hành CSTT trong năm sẽ được thực hiện một cách chủ động,
linh hoạt, theo dõi sát và dự báo kịp thời những biến động của tình hình kinh
tế, tiền tệ trong nước và quốc tế, kiên định theo kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả CSTT.
Năm 2007 NHNNVN định hướng hoạt động là: điều hành CSTT một
cách chủ động, thận trọng, linh hoạt, bảo đảm ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế
vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức thấp hơn tăng trưởng kinh tế. Vận hành các
công cụ CSTT theo nguyên tắc thị trường để kiểm soát khối lượng tiền cung
ứng cho nền kinh tế phù hợp với mục tiêu đặt ra và điều kiện thị trường. Kết
hợp các mục tiêu tiền tệ ngắn hạn với trung hạn để tránh tác động xấu đến
lạm phát theo độ trễ. Đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn của nền kinh tế đi
đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế gia tăng nợ xấu của các
TCTD.
Dưới hướng chỉ đạo của Chính phủ, NHNNVN đã định hướng mục tiêu
điều hành CSTT năm 2008 là: điều hành CSTT một cách chủ động theo
nguyên tắc thị trường, kiểm soát chặt chẽ tiền tệ nhằm ổn định tiền tệ, ổn định
kinh tế vĩ mô, góp phần kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế; phối
hợp đồng bộ, nhịp nhàng các công cụ CSTT để điều tiết lượng tiền trong lưu
thông và lãi suất thị trường; đáp ứng có hiệu quả các nhu cầu vốn của nền
kinh tế đi đôi với việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội và của chính phủ về mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 là: điều hành CSTT linh hoạt

26
để chủ động kiểm soát mức tăng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế, lãi suất
và tỷ giá ở mức hợp lý, tăng khả năng thanh khoản và an toàn thanh toán của
hệ thống ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần tích cực để ngăn
chặn suy giảm và duy trì tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo
an sinh xã hội.
Nhờ các giải pháp chính sách kịp thời và mạnh mẽ, Việt Nam đã vượt
qua suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2009 và dự kiến sẽ tăng trưởng cao hơn
vào năm 2010 và 2011. Tuy nhiên, các biện pháp kích thích kinh tế cũng tạo
nên sức ép lạm phát và phá giá tiền tệ. Do đó, Việt Nam cần có các biện pháp
tập trung ổn định kinh tế vĩ mô hơn là tăng trưởng nhanh, đồng thời cải thiện
hiệu quả nền kinh tế nhằm bảo đảm tăng trưởng bền vững với tư cách là một
nước có thu nhập trung bình. Trước tình hình đó và căn cứ theo nghị quyết
của Quốc hội, Chính phủ, NHNNVN xây dựng mục tiêu CSTT tới năm 2015
là: Xây dựng và thực thi có hiệu quả CSTT nhằm ổn định giá trị đồng tiền,
kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế. Điều
hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái theo cơ chế thị trường thông qua sử
dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ CSTT gián tiếp. Tăng cường sự phối
hợp đồng bộ giữa các công cụ của CSTT và giữa việc điều hành CSTT với
các chính sách kinh tế vĩ mô khác. NHNN cần kiểm soát về cơ bản toàn bộ
khối lượng tiền và các luồng tiền trong nền kinh tế.
2.2.2. Công cụ lãi suất
Ngày 26/2/2010 NHNNVN đã ban hành Thông tư số
07/2010/TTNHNN quy định việc cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận
của các TCTD đối với khách hàng. Việc ban hành Thông tư 07 giúp lãi suất
dẫn được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng
trung – dài hạn, mang lại nhiều lợi ích cho các TCTD (doanh thu, cơ hội kinh
doanh, v.v...), cho doanh nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách
hợp lý hơn, v.v…) và cho nền kinh tế. Đây là dấu hiệu của việc nới lỏng

27
CSTT của NHNNVN trong những tháng đầu năm 2010. Việc tiếp cận vốn
của các doanh nghiệp lại phụ thuộc chủ yếu vào bản thân các doanh nghiệp,
thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả và bỏ ra chi phí hợp
lý cho các khoản vay của mình. Cùng điểm lại những thay đổi về lãi suất của
NHNNVN đã áp dụng trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay để thấy những
thay đổi trong việc điều hành CSTT của NHNNVN.
Đồ thị 2.4: Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng năm
2004
Đơn vị: %/tháng

Nguồn : NHNNVN
Vào năm 2004, trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn
biến phức tạp, CPI tăng cao so với dự kiến đầu năm, song thị trường tiền tệ
được duy trì tương đối ổn định. Lãi suất huy động và cho vay bằng cả VND
và ngoại tệ được duy trì trong 4 tháng đầu năm, tăng nhẹ trong những tháng
cuối năm do ảnh hưởng của CPI tăng cao và xu hướng tăng lãi suất ngoại tệ
trên thị trường thế giới. Cụ thể thông qua các quyết định của NHNNVN như,
QĐ số 1048/QĐ-NHNN,QĐ số 923/QĐ – NHNNVN,QĐ số 210/QĐ –
NHNNVN,1325/2004/QĐ-NHNN, v.v…
Bảng 2.2: Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố

28
vào năm 2005
Đơn vị %/tháng
Lãi suất cơ bản Lãi suất tái chiết Lãi suất chiết
khấu khấu
Tháng 1 7,5 5,0 3,0
Tháng 2 7,8 5,5 3,5
Tháng 3 7,8 5,5 3,5
Tháng 4 7,8 5,5 3,5
Tháng 5 7,8 5,5 3,5
Tháng 6 7,8 6,0 4,0
Tháng 7 7,8 6,0 4,0
Tháng 8 7,8 6,0 4,0
Tháng 9 7,8 6,0 4,0
Tháng10 7,8 6,0 4,0
Tháng11 7,8 6,0 4,0
Tháng 12 8,25 6,5 4,5
Nguồn: NHNNVN
Trong năm 2005, trước sức ép lãi suất tăng trên thị trường thế giới mà
lãi suất VND và tiền tệ có xu hướng tăng. Cụ thể, lãi suất huy động VND
tăng khoảng 0,36-1,2%/năm,lãi suất cho vay VND tăng khảng 0,36-
0,96%/năm, lãi suất huy động USD tăng khảng 0,7 – 2,5%/năm và lãi suất
cho vay USD tăng 0,75 – 2%/năm so với cuối năm 2004.Thông qua các quyết
định như QĐ số 316/2005/QĐ-NHNN, 210/2005/QĐ-NHNN,1247/2005/QĐ-
NHNN, v.v... NHNNVN đã 2 lần tăng lãi suất cơ bản từ 7,5% - 7,8% -
8,25%/năm, 3 lần tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5,0% – 5,5% – 6,0% –
6,5%/năm, 3 lần tăng lãi suất chiết khấu từ 3,0% - 3,5% - 4,0% - 4,5%/năm.
Bên cạnh đó trần lãi suất tiền gửi bằng USD của các pháp nhân tại các TCTD
đã được điều chỉnh tăng 2 lần. Việc điều chỉnh như trên là tương đối hợp lý,
phù hợp với điều kiện thị trường, khuyến khích các NHTM tích cực huy động
vốn từ dân cư, để cho vay nền kinh tế, giảm cung ứng tiền trong lưu thông.
Trong năm 2006, mặt bằng lãi suất VND và ngoại tệ tiếp tục được điều
chỉnh tăng so với cuối năm 2005.

29
Bảng 2.3: Các lãi suất do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố trong
năm 2005
Đơn vị: %/tháng
Tháng Lãi suất cơ bản Lãi suất tái chiết Lãi suất chiết
khấu khấu
Tháng 1 8,25 6,5 4,5
Tháng 2 8,25 6,5 4,5
Tháng 3 8,25 6,5 4,5
Tháng 4 8,25 6,5 4,5
Tháng 5 8,25 6,5 4,5
Tháng 6 8,25 6,5 4,5
Tháng 7 8,25 6,5 4,5
Tháng 8 8,25 6,5 4,5
Tháng 9 8,25 6,5 4,5
Tháng 10 8,25 6,5 4,5
Tháng 11 8,25 6,5 4,5
Tháng 12 8,25 6,5 4,5
Nguồn : Báo cáo thường niên NHNNVN
Năm 2007 tuy phần nào bị ảnh hưởng bởi những diễn biến bất thường
của thị trường tài chính thế giới cũng như thị trường trong nước, NHNNVN
không điều chỉnh nhiều lãi suất huy động VND và ngoại tệ (đồ thị 2.5).
Đồ thị 2.5 : Lãi suất huy động và cho vay của các tổ chức tín dụng
năm 2007
Đơn vị : %/tháng

30
Nguồn : NHNNVN.
Bước vào năm 2008, thị trường tài chính phát triển quá nóng do những
ảnh hưởng tiêu cực từ các diễn biến phức tạp và hậu quả nặng nề của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Lãi suất huy động VND liên tục tăng tại các
TCTD, nhu cầu về vốn tăng nhanh khiến các TCTD đua nhau tăng lãi suất
huy động tiền gửi. Trước tình hình đó, NHNNVN đã ra công điện số 02/CĐ –
NHNN về việc yêu cầu các NHTM không được tăng lãi suất quá 12%/năm.
Ngày 11/6/2008, NHNNVN điều chỉnh lãi suất từ 12% lên 14%/năm , nhiều
NHTM đã điều chỉnh lãi suất ở mức cao, 17,5 – 18,5%/năm.Càng về cuối
năm lãi suất huy động tiền gửi giảm mạnh, cho đến tháng 11/2008, mức lãi
suất huy động tiền gửi vào mức thấp nhất, giảm khoảng 9 -9.5% so với thời
điểm cao nhất của năm(17.5 – 18.5%/năm).(đồ thị 2.6).
Đồ thị 2.6 : Lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2008
và năm 2009.
Đơn vị : %/tháng

31
Nguồn: NHNNVN
Bước vào năm 2009 với gánh nặng từ cuộc khủng hoảng bên ngoài,
gánh nặng từ trách nhiệm mà Chính phủ đặt lên vai với vai trò làm kênh dẫn
xuất các chính sách tài khoá, tiền tệ phục vụ tăng trưởng kinh tế, ưu tiên hàng
đầu của Nhà nước trong bối cảnh suy thoái chung toàn cầu,NHNNVN đã có
những bước đi thận trọng nhưng khá linh hoạt. Mặc dù lãi suất cơ bản năm
2009 không biến động nhiều như năm 2008 nhưng lại được giữ khá lâu ở mức
7% khiến cho hoạt động ngân hàng có nhiều lúc trở nên khó khăn khi lãi suất
cho vay bị khống chế ở mức trần 10,5% còn lãi suất huy động thì đã lên tới
9,99%, nhưng hệ thống ngân hàng vẫn cố gắng phát huy tốt nhất vai trò của
mình là kênh truyền dẫn vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là dòng vốn hỗ trợ lãi
suất của Chính phủ. Đó thực sự là một nỗ lực không thể phủ nhận của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam.
Như vậy, có thể kết luận rằng xu hướng chung trong việc điều chỉnh
công cụ lãi suất nhằm chống lại sự gia tăng của CPI qua các năm là sự tăng

32
lên của lãi suất. Để giữ cho nền kinh tế không bị thừa cung về tiền tệ, NHTƯ
đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất nhằm thu hút nguồn vốn trên nền kinh tế,
từ đó giảm cung về tiền tệ, góp phần giảm bớt sức ép tăng giá.
2.2.2. Công cụ hạn mức tín dụng
Bằng công cụ hạn mức tín dụng, NHNNVN quy định cho các NHTM
một hạn mức tăng trưởng tín dụng tối đa trong một thời gian nhất định. Đây
là một biện pháp mạnh, mang tính hành chính, có hiệu lực đáng kể. Tuy
nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng luôn biến động không
ngừng. Cho nên công cụ này ít được NHNNVN áp dụng.
Năm 2005, NHNNVN đã chỉnh sửa các cơ chế tín dụng như sửa đổi cơ
chế cho vay, cơ chế đảm bảo tiền vay, phân loại nợ ,v.v... và ban hành Chỉ thị
02/2005/CTNHNN ngày 20/05/2005 và 05/2005/CTNHNN ngày 25/04/2005
chỉ đạo các TCTD kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng, tốc độ tăng trưởng
phải phù hợp với tăng trưởng huy động vốn thực tế và kiểm soát rủi ro, chú
trọng thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn
hệ thống. Vì vậy, trong năm 2005, các TCTD đã có những chuyển biến tích
cực trong hoạt động cho vay, tốc độ tăng trưởng tín dụng đã giảm từ 41,65%
của năm 2004 xuống còn 31,04% trong năm 2005.
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng là biện pháp quan trọng, cần thiết để
kiểm soát lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống, chính vì vậy, bên cạnh việc
tăng DTBB, trong năm 2007, NHNNVN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp
kiểm soát tín dụng như ban hành cơ chế sửa đổi quy định về trích lập và dự
phòng rủi ro phù hợp với chuẩn mực quốc tế, ban hành chỉ thị số
03/2007/CTNHNN yêu cầu các TCTD thực hiên giải pháp kiểm soát tín
dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở mức dưới
3%, tăng cường thanh tra giám sát hoạt động cho vay đầu tư kinh doanh
chứng khoán nhằm đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động của hệ thống TCTD.
Khống chế dư nợ vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh

33
doanh chứng khoán ở mức dưới 3% tổng dư nợ tín dụng của TCTD. Dư nợ
vốn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư, kinh doanh chứng khoán bao
gồm: cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với các công ty chứng khoán; cho
vay cầm cố bằng chứng khoán hoặc bảo đảm bằng tài sản khác để đầu tư,
kinh doanh chứng khoán đối với các tổ chức khác và cá nhân; chiết khấu giấy
tờ có giá đối với tổ chức và cá nhân để đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Kết
quả đạt được là năm 2007 tăng trưởng tín dụng đạt 53,89%.
Trong năm 2008, đứng trước nạn lạm phát cao, để kiềm chế lạm phát
và ổn định thị trường tiền tệ, NHNNVN đã khống chế tăng trưởng cung tín
dụng của các NHTM ở hạn mức không vượt quá 30%. Kết quả là dư nợ cho
vay của toàn hệ thống ngân hàng tăng 25,43%, trong đó tăng trưởng tín dụng
bằng VND đạt 27,56% và tăng trưởng tín dụng bằng ngoại tệ đạt 17,61%.
Năm 2009, NHNNVN đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt 30%.
Đến cuối tháng 5 năm 2009, tăng trưởng tín dụng chính thức của chúng ta là
tăng 14,01% so với cuối năm 2008. Tính đến 6 tháng đầu năm 2009, tăng
trưởng tín dụng đã đạt 17,01% so với cuối năm 2008. Theo văn bản số
193/TB-VCCP của Văn phòng Chính phủ ngày 06/07/2009, trong buổi làm
việc với NHNNVN về việc điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng 6 tháng
đầu năm và giải pháp thực hiện CSTT 6 tháng cuối năm vào ngày
26/06/2009, Thủ tướng đã yêu cầu giảm mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ
30% xuống khoảng 25% - 27%, điều hành tổng phương tiện thanh toán tăng
khoảng 25% nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5% khống chế lạm
phát ở mức một con số trong năm 2009. Như vậy với mục tiêu mới, 6 tháng
cuối năm tín dụng chỉ được phép tăng trưởng thêm từ 8 – 10%. Đến cuối
tháng 10, tăng trưởng tín dụng đã lên mức 33,29% so với cuối năm 2008. Và
tính đến ngày 10/12/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đạt 445.011 tỷ đồng.
Năm 2009, tổng phương tiện thanh toán ước tăng 28,67% so với cuối tháng
12/2008, huy động vốn tăng 28,7%; tín dụng đối với nền kinh tế là 37,73%.

34
Đồ thị 2.7: Tăng trưởng tín dụng từ năm 2004 đến nay
Đơn vị: %/tháng

Nguồn: NHNNVN
Tại hội nghị triển khai nhiệm vụ 2010 ngành ngân hàng tổ chức ngày
23/12/2009 tại Hà Nội, Thống đốc NHNNVN Nguyễn Văn Giàu cho biết,
năm 2010, tăng trưởng tín dụng hệ thống ngân hàng đặt kế hoạch 25%. Điểm
đáng chú ý là thông tin công bố cho thấy tăng trưởng tín dụng trong tháng 2
đã bắt đầu tăng trở lại, đạt 1,14%, trong khi tháng 1 chỉ tăng 0,26%, tháng
12/2009 chỉ tăng 0,72% (trước đó, số liệu NHNNVN ước tính tăng trưởng tín
dụng trong tháng 1/2010 ở khoảng 1%). Trong hai tháng đầu năm 2010, tăng
trưởng tín dụng tính chung ước tăng 1,4%; hai tháng cùng kỳ năm 2009 cũng
chỉ tăng 1,82%; cá biệt trong năm 2006 là mức giảm 1,45%. Trong năm 2009,
tăng trưởng tín dụng bắt đầu tăng mạnh từ tháng 3 và duy trì ở mức cao trong
quý II. Năm 2010, dự báo đà tăng cũng sẽ bắt đầu mạnh hơn từ tháng 3.
Tóm lại, nhìn chung từ năm 2004 đến nay NHTƯ thường áp dụng các
chính sách điều chỉnh hạn mức tín dụng theo hướng thắt chặt, tức là hạ thấp
mức cung tín dụng, khống chế dư nợ cho vay đầu tư, từ đó giúp tăng dư nợ
cho vay của toàn hệ thống ngân hàng, góp phần giảm mức cung ứng tiền tệ
trong nền kinh tế.

35
2.2.3. Công cụ chiết khấu
Công cụ tái cấp vốn và công cụ tái chiết khấu được NHNNVN sử dụng
thường xuyên nhằm tác động vào các điều kiện của thị trường tiền tệ để thực
hiện mục tiêu điều hành CSTT của NHNNVN.
Năm 2004, NHNNVN chủ trương ổn định lãi suất tái cấp vốn 5%/năm,
lãi suất tái chiết khấu 3%/năm.
Năm 2005, NHNNVN 3 lần tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5,0% - 5,5% -
6,0% - 6,5%/năm; 3 lần tăng lãi suất chiết khấu từ 3,0% - 3,5% - 4,0% -
4,5%/năm. Để mở rộng khả năng điều tiết tiền tệ của NHTƯ, trong năm 2005,
NHNNVN đã ban hành Quyết định 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 về
việc các TCTD sử dụng một số loại trái phiếu trong các giao dịch tái cấp vốn
của NHNNVN. Theo đó, danh mục giấy tờ có giá được sử dụng trong các
giao dịch cầm cố, thấu chi và cho vay qua đêm, giao dịch kỳ hạn trong chiết
khấu và NVTTM đã được mở rộng, bao gồm các trái phiếu do Quỹ Hỗ trợ
phát triển, trái phiếu UBND Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
phát hành. Trong năm 2005, các TCTD đã quan tâm hơn dến việc sử dụng
các công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu của NHNNVN. Các TCTD đã sử dụng
triệt để hơn hạn mức chiết khấu được phân bổ, tỷ lệ sử dụng hạn mức chiết
khấu đã tăng từ 60% lên 80% tổng hạn mức chiết khấu được phân bổ. Đối với
giao dịch tái cấp vốn trong năm 2005 doanh số giao dịch tăng 50% so với
năm 2004. Các NHTM thực hiện giao dịch tái cấp vốn với NHNNVN không
chỉ là các NHTM Nhà nước mà còn bao gồm cả các NHTM cổ phần, Ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Doanh số giao dịch và
thành viên tham gia nghiệp vụ tái cấp vốn, tái chiết khấu được mở rộng sẽ
làm gia tăng tác động của các công cụ này đến thị trường tiền tệ.
Trong năm 2006, vốn khả dụng của các TCTD xét trên toàn hệ thống
có xu hướng dư thừa, nhưng tập trung chủ yếu ở một số NHTM Nhà nước.
Trong khi đó, hoạt động thị trường liên ngân hàng chưa thực sự thông suốt

36
nên một số NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài vẫn có thiếu hụt
tạm thời về vốn khả dụng. Do đó, NHNNVN đã tiếp tục sử dụng công cụ tái
cấp vốn dưới các hình thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá nhằm hỗ trợ cho
các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đảm bảo khả năng
thanh toán. Đối với hình thức chiết khấu giấy tờ có giá: chiết khấu giấy tờ có
giá được thực hiện trong phạm vi hạn mức được phân bổ, một số NHTM cổ
phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài như NHTM cổ
phần Kỹ thương, NHTM cổ phần Nhà Hà Nội, ngân hàng Indovina, Standart
Chartered, v.v... đã thực hiện cho vay theo hình thức này. Riêng đối với hình
thức cầm cố giấy tờ có giá được hạn chế nhằm kiểm soát tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán, khuyến khích các TCTD sử dụng và quản lý vốn khả
dụng hiệu quả. Trong năm 2006, doanh số cho vay cầm cố giấy tờ có giá
bằng khoảng 18,8% doanh số cho vay cầm cố giấy tờ có giá năm 2005, chỉ có
một số ngân hàng đã thực hiện vay dưới hình thức cầm cố giấy tờ có giá như
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam, NHTM cổ phần Việt Á, NHTM cổ phần Quân đội, ngân hàng
Indovina.
Năm 2007, nhìn chung, vốn của các TCTD xét trên toàn hệ thống tiếp
tục dư thừa. Trong khi đó, hoạt động thị trường liên ngân hàng chưa thực sự
thông suốt nên một số NHTM có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng, đã tiếp
cận các kênh tái cấp vốn của NHNNVN (dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
giấy tờ có giá) để đảm bảo khả năng thanh toán. Đối với hình thức cầm cố
giấy tờ có giá, từ đầu năm 2007 NHNNVN đã hạn chế việc tái cấp vốn thông
qua cầm cố giấy tờ có giá. Bên cạnh đó, do các TCTD tiếp tục dư thừa vốn
nên rất ít TCTD tiếp cận nguồn vốn này.
Trong những tháng đầu năm 2008, các TCTD có khó khăn tạm thời về
vốn khả dụng, NHNNVN đã thực hiện tái cấp vốn cho các NHTM, nhất là
những NHTM có quy mô nhỏ. Việc NHNNVN hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các

37
NHTM đã có tác động tích cực trong việc ổn định thị trường tiền tệ. Từ quý
IV năm 2008, khi tình hình thị trường tiền tệ từng bước đi vào ổn định, nguồn
vốn của các TCTD đã được đảm bảo nên nhu cầu vay tái cấp vốn của các
NHTM đã giảm.
Trong năm 2009, NHNNVN ra Quyết định số 173/QĐ-NHNN quy
định về mức lãi suất tái cấp vốn là 8%/năm và lãi suất chiết khấu là 6%/năm.
Ngày 10/4/2009, NHNNVN ra Quyết định số 837/QĐ-NHNN thay thế cho
quyết định số 173/QĐ-NHNN. Cụ thể như sau: lãi suất tái cấp vốn giảm từ
8,0%/năm xuống còn 7,0 %/năm, và lãi suất chiết khấu giảm từ 6,0%/năm
xuống còn 5,0 %/năm. Một lần nữa, NHNNVN nâng lãi suất tái cấp vốn tăng
từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm
(Quyết định số 2664/QĐ-NHNN) áp dụng từ 01/12/2009.
Nhìn chung qua các năm lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh theo
xu hướng tăng dần. Trong điều kiện nền kinh tế đang có những dấu hiệu lạm
phát gia tăng thì việc áp dụng tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm giảm khả năng
cho vay của các NHTM, giảm dư lượng vốn cho vay, từ đó làm giảm dư nợ
cho vay tín dụng của các NHTM.
2.2.4. Dự trữ bắt buộc
Trước bối cảnh CPI những tháng đầu năm tăng cao, để thực hiện mục
tiêu ổn định tiền tệ góp phần tăng trưởng kinh tế, tháng 7 năm 2004,
NHNNVN đã điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB đối với các loại tiền gửi dưới 24
tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ – NHNNVN ngày
25/6/2004). Cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn đến dưới 12 tháng
tăng từ 2% đến 5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4%, NHTM cổ phần nông thôn và Quỹ tín dụng
nhân dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đồng thời, để khuyến khích các
TCTD sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng lãi suất dẫn đến dư thừa vốn
VND, NHNNVN đã thay đổi phương thức trả lãi đối với tiền gửi DTBB bằng

38
VND (Quyết định số 923/QĐ – NHNNVN ngày 20/7/2004).Theo đó, đối với
DTBB bằng VND, NHNNVN chỉ trả lãi cho tiền gửi DTBB (1,2%/năm) mà
không trả lãi cho phần tiền gửi DTBB vượt.
Trong năm 2006, công cụ DTBB được điều hành theo hướng linh hoạt,
thận trọng nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và góp phần tăng
trưởng kinh tế. Trước diễn biến tổng phương tiện thanh toán tăng cao hơn so
với năm trước, trong khi tín dụng có xu hướng tăng trưởng chậm, NHNNVN
đã giữ nguyên tỷ lệ DTBB để duy trì ổn định tiền tệ và góp phần tăng trưởng
kinh tế. Theo đó, tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới
12 tháng bằng ngoại tệ là 8%; bằng VND áp dụng cho các NHTM Nhà nước,
NHTM cổ phần đô thị, NHTM liên doanh, Chi nhánh NHTM nước ngoài là
5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là 4%, áp dụng
cho NHTM cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 2%. Tỷ
lệ DTBB đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng là 2%, áp
dụng chung cho cả VND và ngoại tệ. Ngoài ra, công cụ DTBB tiếp tục được
điều hành theo hướng bình quân theo tháng nhằm tạo điều kiện cho các
TCTD sử dụng linh hoạt nguồn vốn.
Trước diễn biến phức tạp của CPI trong năm 2007 và đầu tháng
1/2008, NHNNVN đã ban hành các giải pháp nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ
tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán của các TCTD. Bước đi
đầu tiên trong gói các giải pháp thắt chặt tiền tệ là ngày 16/1/2008,
NHNNVN ban hành quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN điều chỉnh DTBB
đối với ngân hàng tăng thêm 1% ở các loại tiền gửi được ban hành (trước đó,
tháng 6/2007, NHNNVN đã ban hành Quyết định 1141 để tăng tỷ lệ DTBB
lên gấp đôi). Nếu so sánh với tỷ lệ DTBB tại Quyết định 1141/2007 thì mức
tăng 1% là không lớn. Tuy nhiên, nếu xem xét số tiền mà các TCTD phải hút
tiền từ lưu thông về thì không nhỏ, đặc biệt trong bối cảnh thị trường tiền tệ
và chứng khoán đang trong thời điểm cực kỳ nhạy cảm.

39
Đến đầu năm 2009, NHNNVN ra quyết định số 379/QĐ–NHNN ra
ngày 24/2/2009 về việc thay đổi DTBB đối với tiền đồng Việt nam của các
TCTD. Trong đó các NHTM Nhà nước, NHTM cổ phần Ngoại thương Việt
Nam, NHTM cổ phần đô thị, NHTM có 100% vốn nước ngoài, công ty tài
chính là 3% trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB. Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng
nhân dân Trung ương là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải DTBB. Mục đích
của việc điều hành các CSTT nêu trên là nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi
suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các TCTD có điều kiện mở rộng huy
động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc cho vay đối
với các dự án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ.
Trong tình hình chỉ số lạm phát liên tục tăng, NHNNVN đã điều hành
công cụ DTBB một cách thận trọng nhằm ổn định thị trường tiền tệ, lãi suất,
tỷ giá. Điều đó góp phần kiềm chế lạm phát khá hiệu quả trong thời gian qua.
2.2.5. Công cụ tỷ giá
Đồ thị 2.8: Diễn biến tỷ giá năm 2004
Đơn vị: VND/USD

Nguồn: NHNNVN
Năm 2004, Nhà nước bỏ quy định về trần tỷ giá kỳ hạn và thay đổi kỳ
hạn, cho phép các TCTD được xác định tỷ giá kỳ hạn một cách linh hoạt hơn

40
trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa Đôla Mỹ và Đồng Việt Nam, đồng thời mở
rộng kỳ hạn từ 3-365 ngày. Bên cạnh đó, NHNNVN cũng cho phép mở rộng
hơn các đối tượng được giao dịch ngoại tệ với các TCTD và khách được
chuyển đổi ngoại tệ ko bị kiểm soát chứng từ. Các quy định trên của
NHNNVN đã góp phần hạn chế tình trạng nắm giữ ngoại tệ, qua đó làm cung
cầu ngoại tệ trên thị trường cân bằng, hỗ trợ họat động mua bán ngoại tệ được
thông suốt và sôi động.

41
Đồ thị 2.9: Diễn biến tỷ giá năm 2005
Đơn vị: VND/USD

Nguồn: NHNNVN
Tiếp tục ổn định tỷ giá, giảm giá trị VND dưới 1%. Trong năm 2005
NHNNVN đã thực hiện điều hành tỷ giá (USD/VND) ổn định tương đối (tăng
0,86 %), phù hợp với diễn biến kinh tế tiền tệ, không tạo nên những bất lợi
cho nền kinh tế, đáp ứng yêu cầu khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập
khẩu. Trên thực tế,việc điều hành tỷ giá gắn với quan hệ cung – cầu, tỷ giá
trên thị trường tự do và trên thị trường liên ngân hàng không có sự chênh lệch
đáng kể, vị thế đối ngoại của VND tiếp tục được duy trì khi đặt tương quan
trong mối quan hệ với đồng tiền chủ chốt trên thế giới như đồng Euro, Yên
Nhật, bảng Anh,v.v…

42
Đồ thị 2.10: Diễn biến tỷ giá năm 2006
Đơn vị: VND/USD

Nguồn: NHNNVN
Trong năm 2006, NHNNVN tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu
chính sách kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. So với
thời điểm đầu năm, tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
giữa VND với USD tăng 1,38%, tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do
cũng luôn tăng, giảm theo biến động của tỷ giá giao dịch bình quân trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng. Doanh số mua bán ngoại tệ của các NHTM
trong năm cũng tăng mạnh theo mức độ tăng của tổng kim ngạch xuất khẩu
cũng như mức tăng trưởng của nền kinh tế.
Năm 2007, chính sách tỷ giá của NHNNVN được điều hành một cách
linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trước sức ép VND lên giá do cung
ngoại tệ lớn hơn cầu, bên cạnh việc NHNNVN mua ngoại tệ để tăng dự trữ
ngoại hối Nhà nước, dự phòng đối phó với nguy cơ dòng vốn đảo chiều, giảm

43
áp lực tăng giá VND, NHNNVN đã nới lỏng biên độ tỷ giá từ ±0,25% lên
±0,5% và ±0,75%.
Bảng 2.4 Diễn biến tỷ giá năm 2007(tính bình quân trong tháng)
Đơn vị: VND/USD
Thời gian Tỷ giá bình quân Ngân hàng Ngoại thương
trên thị trường ngoại Việt Nam
Mua vào Bán ra
tệ liên ngân hàng
Tháng 1 16.126 16.052 16.063
Tháng 2 16.096 15.991 15.996
Tháng 3 16.088 16.008 16.013
Tháng 4 16.114 16.033 16.041
Tháng 5 16.112 16.055 16.063
Tháng 6 16.118 16.110 16.116
Tháng 7 16.135 16.130 16.140
Tháng 8 16.161 16.204 16.211
Tháng 9 16.165 16.199 16.212
Tháng 10 16.162 16.061 16.085
Tháng 11 16.141 16.060 16.062
Tháng 12 16.117 16.033 16.040
Nguồn: NHNNVN
Trong năm 2008, NHNNVN đã 3 lần nới lỏng biên độ tỷ giá giao dịch
giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ, đưa biên độ tỷ giá từ ±0,75% lên ±1% ,
±2% và ±3% so với thị trường liên ngân hàng.

44
Bảng 2.5: Diễn biến tỷ giá năm 2008
Đơn vị: VND/USD
Thời gian Tỷ giá ngày cuối tháng Tỷ giá bình quân trong tháng
Tỷ giá bình quân Ngân hàng ngoại Tỷ giá bình quân Ngân hàng ngoại
trên thị trường thương Việt Nam trên thị trường thương Việt Nam
ngoại tệ liên Mua Bán ngoại tệ liên ngân Mua Bán
ngân hàng hàng
Tháng 1 15.091 15.970 15.972 16.104 15.983 15.987
Tháng 2 15.050 15.930 15.932 16.071 16.057 16.952
Tháng 3 15.950 16.120 16.932 16.004 15.899 15.911
Tháng 4 15.957 16.120 16.120 15.950 16.112 16.120
Tháng 5 15.086 16.247 16.247 16.019 16.178 16.179
Tháng 6 15.541 16.842 16.844 16.349 16.526 16.527
Tháng 7 15.495 16.034 16.790 16.507 16.791 16.825
Tháng 8 15.495 16.750 16.570 16.495 16.588 16.662
Tháng 9 15.515 16.500 16.620 16.508 16.591 16.642
Tháng 10 15.511 16.570 16.620 16.517 16.688 16.707
Tháng 11 15.483 16.790 16.977 16.493 16.932 16.945
Tháng 12 15.977 16.975 17.488 16.598 17.065 17.087
Nguồn: NHNNVN
Đặt vấn đề điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa VND với USD trong lúc CPI
liên tục tăng lên, mà đỉnh điểm là những tháng cuối năm 2008 cũng không
khác nào thêm dầu vào lửa, làm cho CPI lại có cơ hội để tăng vọt. Nhận thức
một cách sâu sắc hậu quả của việc điều chỉnh tỷ giá một cách vội vàng nên
bên cạnh việc điều chỉnh nhẹ trước những thay đổi bất thường của nền kinh tế
cùng với việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đã làm cho tốc độ tăng CPI
chậm lại, lạm phát tiền tệ đã được kiềm chế và đẩy lùi một bước sau năm
2008 đến nay. Tất nhiên, để duy trì được tính bền vững của việc kiềm chế và
đẩy lùi lạm phát trong thời gian tới thì những động thái trong chính sách tỷ
giá cần được suy tính một cách thật kỹ càng, đặc biệt với việc điều chỉnh
giảm tỷ giá hối đoái theo hướng phá giá tiền Việt Nam. Năm 2009 và những
tháng đầu năm 2010, với mục tiêu điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi
suất, CPI, diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, điều chỉnh linh hoạt tỷ

45
giá phù hợp với tín hiệu thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước; NHNNVN
đã đưa ra những biện pháp và can thiệp kịp thời, đồng bộ và đúng đắn trong
những thời điểm thị trường ngoại hối có dấu hiệu bất ổn trong quý II và
IV/2009. Trong năm 2009 NHNNVN đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp:
quyết định mở rộng biên độ tỷ giá từ ±3% lên ±5%, áp dụng từ ngày
24/03/2009 nhằm giảm bớt sự chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do và thị
trường chính thức. Những tháng cuối năm 2009, tình hình mất cân đối cung -
cầu ngoại tệ lại xuất hiện trở lại. Giá vàng trong nước tăng cao đã khiến cầu
ngoại tệ tăng đột biến do giới đầu cơ đẩy mạnh hoạt động thu mua USD để
mua vàng, có thời điểm đẩy giá USD lên tới 20.000 VND/ 1 USD và mức
chênh lệch tỷ giá giữa hai thị trường tăng mạnh từ mức xấp xỉ 800 VND đầu
tháng 11/2009 lên gần 1.700 VND/ 1 USD vào tuần thứ 3 tháng 11/2009.
Trước tình hình giá USD tự do tăng mạnh dưới ảnh hưởng của cơn sốt giá
vàng, NHNNVN quyết định can thiệp trực tiếp và mạnh tay vào tỷ giá khi
điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,44% từ mức 17.034 VND
ngày 25/11/2009 lên 17.961 VND/ 1 USD áp dụng cho ngày 26/11/2009; thu
hẹp biên độ tỷ giá giao dịch USD/VND từ mức ±5% xuống mức ±3% và tăng
lãi suất cơ bản tiền đồng lên 8%. NHNNVN cũng cam kết hỗ trợ bán ngoại tệ
cho các TCTD có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống. Với việc triển khai
đồng bộ các biện pháp nêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam đã ổn định trở
lại, hiện tượng găm giữ và tích trữ ngoại tệ đã dần được khắc phục.
Kế thừa những thành tựu đã đạt được trong năm 2009, ngày
10/02/2010, NHNNVN đã quyết định điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng, tăng 3,36% từ 17.961 lên 18.544 VND/ 1USD, theo thông tư số
03/2010/TTNHNN. Mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của tổ chức kinh tế
(trừ TCTD) tại TCTD cũng được NHNNVN điều chỉnh xuống còn 1%/năm.
Bên cạnh đó, NHNNVN ra quyết định số 74/QĐ-NHNN điều chỉnh giảm
mạnh DTBB bằng ngoại tệ từ 7% xuống 4% kể từ kỳ DTBB tháng 2/2010.

46
Sau khi các quyết định trên được NHNNVN ban hành, diễn biến tỷ giá đã có
nhiều tín hiệu đáng mừng khi tỷ giá trên thị trường chính thức duy trì xu
hướng ổn định và tỷ giá tự do đang tiến gần sát với tỷ giá chính thức, thậm
chí đã có những thời điểm trong tháng 4/2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã
thấp hơn cả tỷ giá của NHNNVN.
2.2.6. Nghiệp vụ thị trường mở
NVTTM là một công cụ tiền tệ gián tiếp được NHNNVN đưa vào sử
dụng từ tháng 7/2000, đây là bước chuyển biến căn bản tạo nền tảng để
NHNNVN chuyển điều hành từ công cụ tiền tệ trực tiếp sang công cụ tiền tệ
gián tiếp nhằm điều tiết vốn khả dụng và lãi suất thị trường có hiệu quả hơn.
Từ tháng 7/2000 đến nay, NVTTM không ngừng được hoàn thiện: để hỗ trợ
kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD và ổn định thị trường tiền tệ, NHNNVN
đã tăng định kỳ giao dịch các phiên NVTTM từ 3phiên/tuần năm 2004 và từ
năm 2007 thực hiện nghiệp vụ giao dịch thị trường mở hàng ngày, đặc biệt
mới đây tháng 4/2010, NHNNVN đã tăng thêm phiên giao dịch buổi chiều
trên thị trường mở thay vì chỉ một phiên buổi sáng, trong đó phiên giao dịch
buổi sáng cho kỳ hạn 28 ngày và phiên giao buổi chiều cho kỳ hạn 7
ngày.Doanh số giao dịch không ngừng tăng lên: năm 2005, tổng doanh số
giao dịch trong năm 2005 theo cả 2 chiều mua và bán giấy tờ có giá đạt
102,511 tỷ đồng, tăng 65,5% so với năm 2004; doanh số giao dịch bình quân
trong từng phiên đạt khoảng 648,8 tỷ đồng, tăng 28,85% so với doanh số giao
dịch bình quân một phiên năm 2004. Tại “Hội nghị triển khai nghiệp vụ thị
trường tiền tệ” do NHNNVN tổ chức hôm 18/2/2008, ông Phạm Bảo Lâm -
Giám đốc Sở Giao dịch NHNNVN cho biết: Năm 2008 Sở Giao dịch
NHNNVN đã tổ chức 402 phiên giao dịch TTM, tăng 47 phiên so với năm
2007. Mua giấy tờ có giá chiếm đến 64,67% tổng phiên giao dịch với doanh
số trúng thầu chiếm 91,42%. Không chỉ tăng số phiên giao dịch, doanh số
giao dịch cũng tăng kỷ lục so với năm 2007, trong đó chủ yếu là giao dịch

47
mua có kỳ hạn (tăng gấp 15 lần so với năm 2007). Trong khi đó, giao dịch
bán hẳn chỉ còn 76.837 tỷ đồng, giảm 4,6 lần so với 2007.
NVTTM được NHNNVN điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với
các công cụ CSTT khác để điều tiết vốn khả dụng cho các TCTD ở mức hợp
lí, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Ví dụ như năm 2008, đối mặt với diễn
biến kinh tế bất thường: lạm phát ở mức 19,98% nhưng tốc độ tăng có xu
hướng giảm từ tháng 7 và chuyển sang âm trong tháng 10, tháng 11,
NHNNVN đã kết hợp linh hoạt, hiệu quả NVTTM với các công cụ khác của
CSTT, góp phần kiềm chế lạm phát. Kết quả giao dịch NVTTM năm 2008
như sau:
Bảng 2.6: Kết quả giao dịch nghiệp vụ thị trường mở năm 2008
Loại giao dịch Tổng số dự kiến Khối lượng Khối lượng Lãi suất trúng
đăng ký trúng thầu thầu bình
quân (%/năm)
Mua có kỳ hạn
(260 phiên) 979.800 3.883.098 947.205 12,92
Bán hẳn (133
phiên) 368.000 135.553 76.837 4,6
Bán có kỳ hạn
(9 phiên) 12.022 12.022 12.022 14,91

Tổng số 1.359.822 1.030.673 1.036.066


Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2008, NVTTM đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên giao
dịch là 402 phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt
1.036.066 tỷ đồng, tăng 148% so với năm 2007, trong đó doanh số mua
chiếm 91,42% và gấp 15 lần so với năm 2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc
biệt, mức lãi suất đặt thầu trong một số phiên mua kỳ hạn trong quý I/2008 ở
mức rất cao, có lúc lên tới 40%/năm vì vậy NHNNVN đã áp dụng phương
thức đấu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao dịch
(từ 9-15%/năm) để ổn định lãi suất thị trường. Diễn biến này phản ánh những

48
biến động bất thường của thị trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh
khoản của các TCTD. Kết quả giao dịch cụ thể của từng quý thể hiện như
sau:
Bảng 2.7: Diễn biến giao dịch năm 2008 theo từng quý
Quý I Quý II Quý III Quý IV
L L L L
Giao dịch
S KL (tỷ) S KL (tỷ) S KL (tỷ) S KL(tỷ)
(%) (%) (%) (%)
Mua có 1 1 1 1
kỳ hạn 2,18 190.214 1,88 445.000 5 283.100 3,6 28.891
Bán hẳn
8,5 1.867 7,75 1.578 4,5 74.986
Bán có kỳ 1
hạn 4,91 12.022
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong Quý I, trên thị trường mở diễn ra cả hai loại giao dịch mua và bán
nhưng kết quả mua là chủ yếu (khoảng 93%) và áp dụng cả hai phương pháp
đấu thầu là đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng, thời hạn giao dịch phổ
biến là 07 và 14 ngày trong nghiệp vụ Mua kỳ hạn trên TTM. Từ tháng
2/2008, do tình hình lãi suất đặt thầu và thắng thầu tăng cao, NHNNVN chỉ
sử dụng phương pháp đấu thầu khối lượng, mức lãi suất thống nhất được sử
dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo định hướng cho thị trường, trong
các tuần tiếp theo lãi suất được điều chỉnh giảm xuống 14%, 13%, 10% và
9% cho phù hợp với lãi suất cơ bản do NHNNVN công bố.
Sang quý II, để đảm bảo tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng,
NHNNVN một mặt áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng mặt khác vẫn
hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD qua NVTTM. Lượng vốn bơm ra thị
trường trong thòi kỳ này đạt mức kỷ lục là 445.000 tỷ đồng, chiếm 99,65%
tổng khối lượng giao dịch NVTTM trong Quý II. NHNNVN tiếp tục áp dụng

49
hình thức đấu thầu khối lượng với mức lãi suất thống nhất được điều chỉnh
tăng dần từ 9% lên 12%/năm.
Quý III, tình hình vốn trên thị trường đã bớt căng thẳng. NHNNVN tiếp
tục tổ chức mua kỳ hạn trên thị trường mơ và duy trì hình thức đấu thầu khối
lượng với mức lãi suất được điều chỉnh tăng lên 15%/năm cho phù hợp với
định hướng điều hành lãi suất và kiềm chế lạm phát của NHNNVN.
Bước sang Quý IV, lạm phát đã được kiềm chế và Chính phủ ưu tiên
cho mục tiêu chống suy giảm kinh tế, nguồn vốn khả dụng của các TCTD đã
được cải thiện đáng kể. NHNNVN đã tổ chức cả hai loại giao dịch mua và
bán; trong đó giao dịch mua vẫn áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng
nhưng lãi suất đấu thầu được điều chỉnh giảm dần từ 15% xuống 9%/năm.
Kết quả, lượng vốn đưa ra qua kênh mua chỉ bằng 38,53% so với lượng vốn
hút về qua kênh bán.
Với hiệu quả rõ rệt của NVTTM, số lượng thành viên tham ra nghiệp
vụ này đã tăng từ mức 44 TCTD trong năm 2007 lên mức 56 TCTD trong
năm 2008, tỷ lệ thành viên tham gia giao dịch cũng tăng từ mức 21 TCTD lên
mức 35 TCTD.
Có thể thấy, trong năm 2008 NVTTM có nhiều diễn biến phức tạp song
đã phát huy vai trò tích cực trong việc thực thi CSTT, góp phần kiểm soát lạm
phát, đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD, giữ vững tính an toàn và
bền vững của hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức đấu
thầu khối lượng cũng khiến cho các NHTM nhỏ, nắm giữ ít giấy tờ có giá
không cạnh tranh được về khối lượng đặt thầu với các NHTM lớn nên chỉ
trúng thầu với khối lượng ít và phải vay lại của các NHTM lớn với lãi suất
cao hơn.
Thành viên tham gia thị trường mở ngày càng được tăng cường. Việc
NHNNVN điều hành linh hoạt NVTTM với các quy trình thủ tục thuận lợi đã
ngày càng thu hút sự quan tâm của các TCTD. Đến nay, các thành viên tham

50
gia thường xuyên vào thị trường mở không chỉ có các NHTM Nhà nước mà
còn có các NHTM cổ phần, NHTM liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài như NHTM cổ phần Hà Nội, NHTM cổ phần Kỹ Thương,Citibank,
v.v…

2.3. Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục
tiêu kiểm soát lạm phát

2.3.1. Kết quả đạt được


Có thể khẳng định rằng thành tựu nổi bật nhất trong điều hành CSTT là
đã phần nào kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ nhất, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy lùi và kiểm soát được
lạm phát, ổn định sức mua của đồng Việt Nam. Sự ổn định trong việc điều
hành kinh tế vĩ mô đã tạo điều kiện giúp nền kinh tế Việt Nam đạt được tốc
độ tăng trưởng cao và ổn định. Từ năm 2004 luôn đạt mức tăng trưởng dương
và cao hơn nhiều so với các năm trước đó, đặc biệt năm 2007 mức tăng
trưởng đạt 8,48%. Trong năm 2008 khi hầu hết các quốc gia trên thế giới có
mức tăng trưởng âm, nền kinh tế có dấu hiệu đi xuống thì Việt Nam lại tăng
trưởng ở mức 6,18%; mặc dù thấp hơn các năm trước đó nhưng cũng đã thể
hiện được nỗ lực không nhỏ của Chính phủ Việt Nam cũng như các cơ quan
điều hành trong việc kiềm chế lạm phát. Các mục tiêu kinh tế xã hội khác như
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm, thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo, v.v... cũng được hỗ trợ bằng các biện pháp cụ thể như: tỷ
trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên, ưu
tiên đầu tư tín dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn, cho vay người
nghèo, v.v...
Thứ hai,các công cụ của CSTT được xây dựng tương đối hoàn chỉnh,
chuyển dần từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Thời
gian đầu, công cụ CSTT được sử dụng chủ yếu là các công cụ trực tiếp như

51
HMTD, công cụ kiểm soát lãi suất. Tuy nhiên, ngay trong việc sử dụng công
cụ trực tiếp cũng có những chuyển biến tích cực: đầu tiên, NHNNVN quy
định tỷ lệ lãi suất cụ thể, sau đó là trần lãi suất, lãi suất cơ bản và cuối cùng là
lãi suất thoả thuận. Cho đến nay, các công cụ trực tiếp được sử dụng ít đi,
NHNNVN chủ yếu điều hành CSTT bằng các công cụ gián tiếp như DTBB,
chiết khấu, NVTTM.
Nhìn chung trong tình hình nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn định,
lạm phát gia tăng, các công cụ của CSTT đã được NHNNVN áp dụng theo
hướng thắt chặt nhằm giảm thiểu mức cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế. Các
công cụ được thực hiện cả đan xen và kết hợp với nhau, trong đó việc điều
chỉnh công cụ này lại góp phần làm thay đổi các chính sách ở công cụ kia. Cụ
thể, khi NHNNVN thực hiện nâng hạn mức tín dụng cho vay đối với các
NHTM, khiến cho dư nợ tín dụng tăng lên, lưu lượng cho vay giảm xuống,
khiến lãi suất cho các khoản vay tăng lên. Hay khi NHNNVN tăng tỷ lệ
DTBB đối với các NHTM, khiến cho lượng dự trữ vượt quá giảm xuống,
lượng vốn cho vay do đó giảm xuống, khiến cho các NHTM phải tăng cường
huy động vốn bằng việc nâng lãi suất tiền gửi, v.v…Các công cụ của CSTT
đã được kết hợp một cách tương đối chặt chẽ và linh hoạt với nhau, thể hiện
sự nỗ lực của NHNNVN trong việc chống lại những tác động xấu của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Thứ nhất, trong thực tế NHNN VN chỉ mới đạt được mục tiêu kiềm chế
lạm phát trong các năm 2006 và 2009. Các năm còn lại đều vượt chỉ tiêu đề
ra, đặc biệt trong năm 2008 tỷ lệ lạm phát lên gần 20% trong khi chỉ tiêu là bé
hơn 6,18% (mức tăng trưởng GDP 2008).
Thứ hai, các công cụ CSTT còn có những hạn chế, chưa phù hợp với
diễn biến và yêu cầu thực tế để điều tiết tiền tệ có hiệu quả.

52
Công cụ lãi suất: trong giai đoạn 2004 đến nay, NHNN đã thực hiện
tiến trình tự do hóa lãi suất. Với việc trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa
bỏ và việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với VNĐ thì lãi suất đã
được tự do hóa hoàn toàn. Lãi suất cơ bản NHNNVN công bố làm tham khảo
và định hướng lãi suất thị trường. Các TCTD mở rộng huy động và cho vay
đối với nền kinh tế, qua đó góp phần giúp kinh tế đạt được sự tăng trưởng cao
qua nhiều năm. Tuy nhiên, cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế
qua các năm thì áp lực lạm phát đã gia tăng từ những tháng đầu năm 2008.
Cùng với đó là dấu hiệu của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi
nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ. Vì vậy, CSTT thắt chặt đã được
NHNNVN thực thi từ đầu năm 2008. Việc thắt chặt CSTT là quyết định tất
yếu để ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng mạnh. Tuy nhiên, hiệu ứng ngắn
hạn của nó là tác động đến tính thanh khoản của các TCTD, đẩy lãi suất huy
động của các TCTD lên cao. Do vậy, có thể gây mất an toàn hệ thống tài
chính – ngân hàng.
Công cụ hạn mức tín dụng: HMTD là một công cụ mạnh, mang tính
hành chính và có hiệu lực đáng kể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường,
cung cầu tín dụng luôn biến động không ngừng nên công cụ này ít được
NHNNVN áp dụng. Mặc dù vậy, trong những năm nền kinh tế có lạm phát ở
mức cao, công cụ này cũng đã góp vai trò tích cực trong việc kiểm soát vấn
đề lạm phát.
Trong trường hợp NHNNVN áp dụng công cụ này, NHNNVN luôn có
sự điều chỉnh mục tiêu HMTD sao cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế. Bởi nếu cố định HMTD một cách chủ quan có thể dẫn tới sự phát triển
không lành mạnh của nền kinh tế. Trong trường hợp mức tăng trưởng tín
dụng quá cao có thể dẫn tới tình trạng lạm phát. Ngược lại, khi dòng vốn
không được cung cấp đầy đủ cho các chủ thể trong nền kinh tế có thể kiềm
chế sự phát triển của nền kinh tế, trong khi tăng trưởng tín dụng chưa gây ra

53
hiệu ứng đáng lo ngại về lạm phát đối với nền kinh tế. Chính vì thế,
NHNNVN phải dựa trên những quyết định, chủ trương của Chính phủ, và
thực tiễn nền kinh tế để đưa ra những quyết định đúng đắn đối với mức
HMTD.
Công cụ chiết khấu: công cụ chiết khấu chưa thực sự đóng vai trò là
công cụ của NHNNVN để cung ứng nguồn vốn ngắn hạn và bù đắp thiếu hụt
tạm thời trong thanh toán của các NHTM, thể hiện là nghiệp vụ này diễn ra
không thường xuyên, số lượng NHTM tham gia chiết khấu không nhiều, chủ
yếu tập trung ở NHTM quốc doanh và chưa tác động đến các điều kiện tín
dụng trên thị trường nhằm đạt được mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ. Mức
độ tác động của lãi suất chiết khấu đối với lãi suất thị trường và nhu cầu tiền
tệ chưa cao, sự thay đổi lãi suất tái chiết khấu trong thời gian qua không làm
tăng, giảm nhu cầu vay vốn của các NHTM. Có thể nói, công cụ tái chiết
khấu chưa thực hiện được đúng vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn (kể
cả hình thức cho vay qua đêm) của NHNNVN cho các ngân hàng và chưa có
sự phân biệt rõ giữa các hình thức tái chiết khấu. Việc điều tiết tiền tệ thông
qua công cụ tái chiết khấu trong từng thời kỳ cũng chưa được định hướng rõ:
điều tiết qua lãi suất hay qua khối lượng.
Công cụ DTBB: DTBB có liên quan đến lãi suất đầu vào và việc cung
ứng vốn cho nền kinh tế, vì vậy việc điều chỉnh tỷ lệ DTBB nên linh hoạt
hơn đối với tiền gửi là ngoại tệ do tình hình ngoại tệ của các NHTM hiện nay
huy động rất khó khăn trong khi nhu cầu vay của nền kinh tế rất cao chưa đáp
ứng được.
Công cụ tỷ giá hối đoái: trong nền kinh tế thị trường thì tỷ giá hối đoái
được xem như là một trong những công cụ tiền tệ quan trọng nhất trong quản
lý và điều hành kinh tế của đất nước. Do vậy, việc sử dụng công cụ tỷ giá như
thế nào để nó có thể được phát huy với tư cách là một công cụ tiền tệ quan
trọng là một trong những vấn đề cần có sự quan tâm đúng mức.

54
Từ sau đổi mới kinh tế đến nay, tỷ giá hối đoái đã được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà chức trách, đặc biệt là của các doanh nghiệp, theo đó là
của một bộ phận không nhỏ dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, để tỷ giá hối đoái
có thể được phát huy đầy đủ vai trò vốn có của nó thì việc nhận thức một
cách chính xác, đầy đủ và toàn diện bản chất của tỷ giá hối đoái trong nền
kinh tế thị trường, đặc biệt trong điều kiện cụ thể của Việt Nam là một yếu tố
cực kỳ quan trọng.
Trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã thực hiện điều
chỉnh tỷ giá giữa VND và USD theo từng thời kỳ trong năm, biên độ tỷ giá
được nới lỏng ở mức thấp hơn 1%. Điều này được lý giải là do đến nay VND
vẫn là một đồng tiền yếu khi nhìn từ nhiều góc độ khác nhau của một đồng
tiền. Trước hết, và cũng là từ góc nhìn quan trọng nhất thì tiền Việt Nam vẫn
chỉ là một đồng tiền quốc gia, chưa được phép tự do chuyển đổi, chưa được
bất cứ bạn hàng nào trên thị trường thế giới chấp nhận làm đồng tiền thanh
toán quốc tế trong các giao dịch kinh tế quốc tế. Do vậy, vị thế của VND trên
thị trường tiền tệ thế giới nói chung, trong các giao dịch kinh tế đối ngoại nói
riêng, chưa được xác lập, chưa có khả năng cạnh tranh với các đồng tiền khác
trên thị trường thế giới, đặc biệt với các ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD,
EURO, v.v… Hơn nữa, khi đã là một đồng tiền yếu thì khả năng chống chọi
lại với những biến động bất thường trong đời sống kinh tế thế giới - đặc biệt
với các cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới là rất nhỏ. Là một đồng
tiền yếu mà thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm dần sức mua so với
các ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD thì việc kiềm chế và đẩy lùi lạm phát
tiền tệ rất khó có thể thực hiện được. Nói cách khác, khi một đồng tiền yếu lại
thường xuyên bị “phá giá” theo kiểu thường xuyên điều chỉnh giảm tỷ giá hối
đoái, làm giảm sức mua của nó thì việc duy trì sự ổn định sức mua của đồng
tiền là rất khó. Theo đó, lạm phát lại luôn có cơ hội để bùng phát.

55
Những bài học kinh nghiệm của thế giới về phá giá tiền tệ luôn là
những cảnh báo cần được quan tâm đặc biệt mỗi khi thực hiện thay đổi tỷ giá
hối đoái. Do vậy, có thể nhận thức được một cách sâu sắc rằng việc phá giá
tiền tệ chỉ có thể thực hiện trong những hoàn cảnh đặc biệt, và không phải với
nền kinh tế nào cũng có thể sử dụng giải pháp này. Đây cũng là cái lý mà
nhiều năm nay, Trung Quốc vẫn không thực hiện phá giá đồng tiền của họ
theo khuyến cáo của một số tổ chức tài chính quốc tế, cũng như một số nước
lớn trên thế giới, trong đó nổi lên là Mỹ. Phá giá tiền tệ mà không làm tốt
khâu chuẩn bị thì hậu quả với nền kinh tế đất nước sẽ là rất khó lường. Vì
vậy, trong những trường hợp như thế, có thể nói được là, “phá giá tiền tệ là
phá vỡ niềm tin”.
Việc thực hiện công cụ tỷ giá hối đoái còn nhiều hạn chế. Đến nay, tỷ
giá hối đoái mới được các NHTM xem như là một công cụ đơn thuần nhằm
phục vụ cho mục đích kinh doanh của họ. Do vậy mà những điều chỉnh nới
lỏng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái rất được các NHTM đặc biệt quan
tâm. Mặt khác, do có sự điều chỉnh và quản lý của NHTƯ trong việc thay đổi
tỷ giá hối đoái nên các NHTM khó có thể tự do thay đổi tỷ giá theo ý mình,
và đó cũng trở thành một trong những áp lực cho NHTƯ. Khi NHTƯ chưa
kịp điều chỉnh thì có thể khiến cho các NHTM gặp khó khăn trong việc mua
bán ngoại tệ, thậm chí còn là cản trở cho hoạt động của doanh nghiệp. Điều
này đã dẫn đến quan điểm muốn tự do hóa lãi suất, tự do hóa tỷ giá hối đoái,
tự do hóa ngoại hối, tức là muốn thả nổi hoàn toàn. Những quan điểm này
thường bắt nguồn từ một nhận thức cực đoan rằng, đã là kinh tế thị trường thì
mọi biến động của giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái trên thị trường đều do thị
trường quyết định, Nhà nước không thể, và theo đó là, không nên có một sự
can thiệp nào. Giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái là những công cụ kinh tế có tầm
quan trọng đặc biệt, và là những công cụ kinh tế luôn có độ nhạy cảm kinh tế
rất cao, do vậy việc nhận biết và vận dụng chúng trong điều hành kinh tế vĩ

56
mô cần có một sự chuẩn xác và linh hoạt. Hơn nữa, vẫn còn nhiều quan điểm
về tỷ giá hối đoái thiếu chuẩn xác. Đó là việc cho rằng, “các nước lựa chọn
một hệ thống kinh tế mở thường thiên về lựa chọn chế độ tỷ giá cố định”.
Thực ra, chế độ tỷ giá cố định chỉ xuất hiện trong điều kiện của một nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung – quan liêu – bao cấp. Trong kinh tế thị trường, chế
độ tỷ giá thường được lựa chọn là thả nổi, và thả nổi có kiểm soát.
Hiện nay, vấn đề sử dụng ngoại tệ nào để làm đồng tiền định giá cũng
đang được sự quan tâm của các chuyên gia kinh tế và các nhà khoa học. Có ý
kiến cho rằng, đã từ lâu, đồng Việt Nam gắn bó với USD, coi USD vừa là
đồng tiền thanh toán, vừa là đồng tiền định giá. Với tình hình mới của thế giới
và trong nước, liệu có nên tiếp tục gắn VND với USD nữa không? Điều này
nghĩa là, ngoài USD, tiền Việt Nam nên có sự chuyển đổi giữa đồng Yên
Nhật, Bảng Anh. Khi đó, việc mở rộng quan hệ giữa VND với các ngoại tệ
khác lại càng làm cho không những các nhà kinh doanh sẽ phải năng động
hơn và kỹ lưỡng hơn trong các quyết định kinh doanh của mình, mà còn làm
cho các nhà chức trách càng thấy sự cần thiết phải nhanh chóng làm cho
VND sớm trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi.
Một loại ý kiến khác cần được xem xét, nghiên cứu một cách cẩn trọng
là, chủ động giảm giá đồng Việt Nam ở mức độ vừa phải để có thể một mặt
hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu và cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Việc
giảm sức mua của đồng bản tệ để đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những
vấn đề được rút ra từ thực tiễn hoạt động kinh doanh (chủ yếu trong lĩnh vực
kinh tế đối ngoại – trong xuất nhập khẩu hàng hóa), và vì thế, nó cũng đã trở
thành một trong những vấn đề có tính lý thuyết để giảng dạy trong các trường
kinh tế. Tuy nhiên, việc giảm giá đồng bản tệ còn tùy thuộc vào kiều kiện
kinh tế - xã hội cụ thể của từng nước. Với những nước giàu thì đây chỉ là vấn
đề có tính sách lược, chỉ áp dụng cho những thời điểm cần thiết. Khi tiến
hành phá giá như vậy, người ta đã có sự tính toán rất cẩn thận khoản ngân

57
sách Nhà nước cần có để bù đắp cho các thành viên trong xã hội khi đồng tiền
của họ bị mất giá.
Tỷ giá hối đoái là một công cụ tiền tệ có một vai trò đặc biệt quan trọng
trong điều hành kinh tế vĩ mô cũng như trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nói chung, của các NHTM nói riêng. Việc đề ra chính sách tỷ
giá hối đoái không chỉ cần tôn trọng các quy luật vận động của kinh tế thị
trường nói chung, mà đặc biệt còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia. Vì vậy, không có một khuôn mẫu nào cho chính sách tỷ giá
hối đoái có thể áp dụng cho tất cả các nước được. Trong đó, việc phá giá tiền
tệ luôn là một trong những vấn đề mang tính nhạy cảm cao nên càng phải rất
thận trọng khi đề cập đến vấn đề này.
NVTTM: hoạt động chưa hiệu quả.
Thứ nhất, số thành viên tham gia vào thị trường mở tuy có xu hướng
tăng qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các NHTM
trên thị trường tài chính và chủ yếu là các NHTM có quy mô nhỏ đa số vẫn
còn đứng ngoài cuộc đã hạn chế hiệu quả điều tiết thị trường của nghiệp vụ
này. Nếu như mọi NHTM đều trích một tỷ lệ trên vốn huy động đủ an toàn để
đầu tư vào chứng khoán nợ dài hạn của Chính phủ, hoặc chứng khoán nợ dài
hạn do Chính phủ bảo lãnh và lưu ký tại NHNNVN làm công cụ tham gia thị
trường mở do NHNNVN tổ chức và tham gia “mua bán cuối cùng” bằng tài
và thực lực của NHTƯ khi cần khắc phục cung - cầu thanh khoản thì
NHNNVN đã không phải dùng giải pháp phát hành tín phiếu của chính mình
để tự biến thành con nợ của các NHTM khi phải hút tiền lưu thông về để
chống lạm phát như năm 2008 và hoặc phải thu mua tín phiếu của mình về
với giá lỗ để bơm tiền ra cứu suy giảm kinh tế như năm 2009.
Thứ hai, hàng hóa tham gia thị trường mở còn nghèo nàn về chủng loại,
các công cụ tài chính chủ yếu giao dịch trên thị trường mở bao gồm các loại
giấy tờ có giá phát hành bằng đồng Việt Nam như: tín phiếu NHNNVN, trái

58
phiếu Chính phủ (trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu công trình
trung ương, trái phiếu đầu tư do Quỹ hỗ trợ phát hành công trái) và trái phiếu
chính quyền địa phương do UBND thành phố HCM và UBND thành phố Hà
Nội phát hành. Trong khi đó, NHTƯ các nước trên thế giới sử dụng nhiều
loại giấy tờ có giá khác nhau để giao dịch trên thị trường mở như: trái phiếu,
tín phiếu kho bạc, tín phiếu của NHTƯ, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, hối
phiếu của các ngân hàng, hợp đồng mua lại (Repo) – các loại giấy tờ này có
tính thanh khoản cao và dễ trao đổi trên thị trường nên dễ được các bên chấp
nhận trong giao dịch.
Thứ ba, việc điều tiết lượng tiền trên thị trường mở còn thực hiện một
chiều, chủ yếu là dùng là kênh bơm tiền đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn khả
dụng của các NHTM mà chưa thực hiện tốt chức năng của nghiệp vụ này là
sử dụng như một kênh thu hút tiền nhà rỗi của các NHTM nhằm trung hoà
nguồn vốn được bơm quá nhiều qua kênh khác. Hơn nữa, hình thức đấu thầu
khối lượng cũng khiến cho các ngân hàng nhỏ, nắm giữ ít giấy tờ có giá
không cạnh tranh được về khối lượng đặt thầu với các ngân hàng lớn nên chỉ
trúng thầu với khối lượng ít và phải vay lại của các ngân hàng lớn với lãi suất
cao hơn.
Thứ tư, việc dự đoán chính xác sự biến động hàng ngày của cung- cầu
vốn khả dụng còn gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến mức độ
chính xác của dự báo,đặc biệt là chế độ thông tin phục vụ cho công tác dự
đoán, từ đó đã hạn chế đến chất lượng của việc dự đoán vốn khả dụng.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, hệ thống thống kê tiền tệ chưa thống kê đầy đủ hoạt động
ngân hàng của các khu vực khác, mức độ chính xác của thống kê tiền tệ chưa
cao, việc khai thác các thông tin từ các khu vực khác liên quan đến hoạt động
tiền tệ còn hạn chế, qua đó hạn chế tính chính xác và cập nhật số liệu của việc
xây dựng chương trình tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến chất lượng của dự báo và

59
phân tích.
Thứ hai, NHNNVN chưa xác định được mô hình kinh tế lượng cho
việc dự báo cầu tiền tệ, lạm phát cơ bản, mô hình xác định tác động của
những thay đổi của lãi suất, tỷ giá đến tăng trưởng, lạm phát, v.v... Do vậy,
điều hành CSTT rất bị động và không hiệu quả. Việc dự báo lạm phát hiện
nay tại NHNNVN chủ yếu dựa vào những mô hình đơn giản, các biến số tiền
tệ và biến số tài chính khác chưa đủ nên độ tin cậy của dự báo không cao.
Thứ ba, NHNNVN vẫn đang thiếu nhân sự có năng lực, cả ở cấp quản
lý, điều hành lẫn các cán bộ tác nghiệp trực tiếp. Trước mắt, tình trạng cạnh
tranh thu hút nhân tài giữa các ngân hàng vẫn đang diễn ra khiến cho chi phí
lương bổng trong ngành tăng cao. Đó là chưa kể đến chi phí đào tạo huấn
luyện kỹ năng (cả kỹ năng cứng và kỹ năng mềm) mà hầu như mỗi ngân hàng
có tầm cỡ đều phải cố gắng tự đài thọ để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
bắt nhịp được với những biến động khôn lường của nền kinh tế và có thể
phục vụ tốt nhất cho khách hàng ngày càng khó tính hơn. Về lâu dài, tình
trạng khan hiếm nhân sự cấp cao có thể khiến cho các NHTM Việt Nam phải
thuê mướn chuyên viên nước ngoài cộng tác. Chi phí nhân sự tăng lên sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động và khả năng mở rộng mạng lưới của hệ thống
ngân hàng Việt Nam trong trước mắt.
Thứ tư, diễn biến kinh tế thế giới trong những năm qua diễn biến khó
lường cũng ảnh hưởng nhất định đến việc xác định mục tiêu, khả năng dự báo
và điều hành CSTT của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, diễn
biến phức tạp giá dầu thô trên thị trường quốc tế có ảnh hưởng nhất định đến
khả năng dự báo, hoạch định mục tiêu điều hành CSTT của NHNNVN.
Thứ năm, NHNNVN chưa thực sự là cơ quan hoạch định CSTT mà về
cơ bản chỉ là cơ quan thực thi CSTT, thậm chí quá trình điều hành còn bị chi
phối bởi các quyết định của Chính phủ. CSTT phụ thuộc quá nhiều vào các
chính sách khác, thậm chí làm hộ công việc của các khác như chính sách hỗ

60
trợ thông qua lãi suất, tỷ giá; khoanh nợ, xoá nợ của các NHTM, v.v... Thêm
vào đó, còn có khá nhiều các cơ quan, tổ chức tham gia chỉ đạo và giám sát
việc xây dựng, thực thi CSTT.
Thứ sáu, sự thiếu hụt về thông tin cũng như những khó khăn trong việc
thu thập dự liệu cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình xây dựng và thực thi
CSTT. Độ chính xác của các kết quả tính toán dự tính đưa ra không cao làm
cho NHNNVN thường xuyên thụ động điều chỉnh theo nhu cầu thị trường -
điều này trái với bản chất của CSTT là chủ động tạo ra sự biến động về số
lượng tiền tệ để hướng nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế tới các mục tiêu kinh tế
vĩ mô.
Thứ bảy, sự phối kết hợp giữa các Bộ, Ngành còn có những hạn chế
trong việc ban hành các CSTT và CSTK, văn bản hướng dẫn thi hành luật.

61
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
NHẰM MỤC TIÊU KIÊM SOÁT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM

3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế đến năm 2020


Theo Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng thì cứ sau 10 năm quy mô nền
kinh tế Việt Nam tăng gấp hai lần do đầu tư nước ngoài và việc cắt giảm thuế
giúp duy trì tốc độ tăng trưởng hàng năm đạt vào khoảng 8% – 10% cho tới
năm 2020.
Đại hội IX của Đảng đã đề ra mục tiêu: nước ta trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Bên cạnh mục tiêu tổng quan đó,
các nhóm tiêu chí cũng được đưa ra nhằm cụ thể hóa mục tiêu trên. Nhóm
tiêu chí về tăng trưởng kinh tế vĩ mô bao gồm bốn tiêu chí: (i) về quy mô của
nền kinh tế, GDP năm 2020 đạt từ 180 – 200 tỷ USD; (ii) về tốc độ tăng
trưởng GDP trong giai đoạn 2006 - 2020 đạt 9,2% – 10%/năm; (iii) về GDP
bình quân đầu người, năm 2020 mục tiêu đặt ra là 1800 – 2000 USD; (iv) về
tốc độ tăng GDP bình quân đầu người trong giai đoạn 2006 – 2020 đạt từ 7%
– 8,6%/năm. Bên cạnh đó, muốn có vị thế nhất định trong khu vực, GDP của
Việt Nam phải đạt mức trung bình của 4 nước có GDP cao nhất trong hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là Malaysia, Thái Lan, Philippin,
Indonesia (200 tỷ USD) và tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở
mức hai con số.

3.2. Định hướng chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
trong thời gian tới
NHNN VN điều hành CSTT với nguyên tắc thận trọng, linh hoạt và
hiệu quả trên nền tảng các công cụ CSTT hiện đại và công nghệ tiên tiến.
Mục tiêu bao trùm CSTT tới năm 2020 là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát
lạm phát, củng cố vững chắc hệ thống ngân hàng và tạo môi trường thuận lợi

62
tăng trưởng kinh tế. Trong đó, mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền và kiểm soát
được lạm phát là mục tiêu quan trọng nhất và cũng là mục tiêu cơ sở để thực
hiện các mục tiêu khác. Khi thực hiện được mục tiêu trên, NHNN đã góp
phần ổn định được nền kinh tế tạo đà cho tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, ổn
định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát cũng tránh lãng phí không cần thiết
cho nền kinh tế và tạo tâm lý ổn định cho các chủ thể đầu tư, tiêu dùng trong
nền kinh tế.
Với mục tiêu kiểm soát lạm phát, NHNN cần xác định mức lạm phát
bao nhiêu là hợp lý, có nên duy trì lạm phát ở mức 0%? Thực tế cho thấy
trong điều kiện nước ta hiện nay, việc duy trì lạm phát ở mức 4% – 5% là hợp
lý, bởi với mức lạm phát thấp, không những không gây ảnh hưởng xấu tới
nền kinh tế mà ngược lại còn là chất kích thích giúp nền kinh tế phát triển.
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thông qua việc điều hành sự ổn định
của lãi suất nội tệ, ngoại tệ và bình ổn tỷ giá với mục tiêu linh hoạt trong ngắn
hạn, ổn định trong dài hạn để khuyến khích xuất khẩu, NHNN đảm bảo sự an
toàn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều này tạo sự tăng trưởng ổn
định của đầu tư, qua đó tạo ra sự tăng trưởng bền vững cho nền kinh tế.
Có thể thấy, giữa mục tiêu kiểm soát lạm phát và mục tiêu tăng trưởng
kinh tế có sự mâu thuẫn nhất định với nhau. Khi nền kinh tế có lạm phát,
NHNN có xu hướng thắt chặt CSTT với việc cắt giảm mức cung tiền. Nhưng
đôi khi, mức cung tiền quá thấp dẫn tới sự thiếu hụt vốn đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh và kết quả là kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
Ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng, cung tiền tăng mạnh dẫn tới
hệ quả là lạm phát tăng cao. Vì vậy, trong việc điều hành CSTT, NHNN cần
thận trọng trong việc đưa ra các chính sách, một chính sách thiếu thận trọng
có thể dẫn đến sai lầm là hậu quả lớn cho nền kinh tế.
Về định hướng xây dựng và thực thi CSTT, NHNN tuân theo nguyên
tắc thị trường trên cơ sở thiết lập khuôn khổ CSTT với cơ chế truyền tải thích

63
hợp và các mục tiêu được lượng hóa. NHNN cần nâng cao năng lực điều
hành, hoàn thiện và đổi mới các công cụ CSTT, tăng cường sự phối hợp đồng
bộ trong điều hành các công cụ CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
NHNN thực hiện điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết khối lượng tiền, xây
dựng điều kiện chuyển sang điều hành CSTT trên cơ sở điều tiết lãi suất trong
đó lãi suất chủ đạo được xây dựng để định hướng, điều tiết lãi suất thị trường
theo mục tiêu cuối cùng của CSTT.
3.3. Giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu
kiểm soát lạm phát ở Việt Nam
3.3.1 Hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ
3.3.1.1. Thực hiện điều chỉnh lãi suất linh hoạt
Thứ nhất, ngoại trừ điều kiện bất khả kháng, nên tiếp tục duy trì lãi suất
cơ bản như thời gian qua. Trong thời gian qua, lãi suất cơ bản đã thực sự trở
thành công cụ quan trọng trong điều hành CSTT, chỉ báo nhạy bén của thị
trường tiền tệ. Mỗi thay đổi của công cụ này đã gần như ngay lập tức có tác
động điều tiết rõ rệt đối với thị trường, giữ lãi suất cơ bản cho thấy sự ổn định
của thị trường tiện tệ. Mặt khác, mức lãi suất thấp có tác dụng tích cực trong
kích thích đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế vĩ mô – yếu tố rất cần thiết trong giai đoạn “hậu suy thoái”. Vì vậy, lãi
suất cơ bản nên tiếp tục giữ ổn định ở mức như hiện nay.
Thứ hai, nên xem xét thu hẹp phạm vi hỗ trợ lãi suất, tiến tới dừng thực
hiện hỗ trợ lãi suất. Gần đây NHNN đang có hướng hạn chế dần mức cung
tiền với các biện pháp: không chế tăng trưởng dư nợ tín dụng của các NHTM
Nhà nước, giảm lãi suất DTBB (xuống còn 1,2% từ 17/07/2009), giảm tỷ lệ
cho vay trung dài hạn trên tổng nguồn vốn ngắn hạn từ 40% xuống còn 30%
(Thông tư 15/2009/TT-NHNN ngày 10/08/2009).
Thứ ba, duy trì việc tự do hoá công cụ lãi suất, để NHNN thực sự là
người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng. Phải nói rằng, hạn

64
chế mức cung tiền trong thời điểm hiện nay là một động thái đúng đắn khi tín
dụng có xu hướng tăng nóng và cần thiết để ngăn chặn nguy cơ lạm phát. Áp
lực tăng giá trong năm 2009 có thể còn thấp nhưng chắc chắn sang năm 2010
sẽ lớn hơn do các nền kinh tế bắt đầu phục hồi, nhu cầu đầu vào lớn đẩy giá
cả của nguyên nhiên liệu tăng cao. NHNN nên xem xét đề xuất với Chính
Phủ giảm dần, tiến tới ngừng hỗ trợ lãi suất. Tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất
một mặt sẽ tạo sức ép gia tăng lạm phát, mặt khác có thể dẫn đến việc sử
dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác động không tốt cho nền kinh tế và hệ lụy xấu
cho các NHTM. Dừng hỗ trợ lãi suất cũng sẽ trực tiếp giảm áp lực bội chi
ngân sách, giảm áp lực lạm phát.
3.3.1.2. Kiểm soát tăng trưởng tín dụng
Về kiểm soát tăng trưởng tín dụng, bao gồm giảm dư nợ và tỷ trọng tín
dụng trung, dài hạn để phù hợp với quy mô và thời hạn huy động vốn. Tăng
vòng quay vốn tín dụng, sẽ giảm bớt khó khăn do thiếu vốn.
Trước mắt chỉ nên dành vốn vào những dự án nhanh tạo ra khối lượng
hàng hóa đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội. Hạn chế đầu tư vào lĩnh vực
không tạo ra hàng hóa tiêu dùng, hoặc đầu cơ lòng vòng trong nội bộ thị
trường tài chính, bởi chính khía cạnh này trong thời gian vừa qua đã tạo hiệu
ứng đẩy lạm phát lên cao cũng như gây không ít khó khăn cho NHTM.
3.3.1.3. Công cụ chiết khấu
Trước hết công cụ này cần được xác định rõ mục tiêu điều hành là
cung ứng phương tiện thanh toán ngắn hạn, qua đó tạo hành lang dao động
cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, hạn chế tái cấp vốn theo mục
tiêu chỉ định với kỳ hạn dài, tạo tín hiệu cho thị trường. Khi thị trường mở
chưa có điều kiện phát triển thì tái cấp vốn cần được chú trọng trong
trường hợp các NHTM có nhu cầu bù đắp thiếu hụt thanh khoản ngoài dự
kiến.

65
Trong những năm trước mắt, với điều kiện thị trường tiền tệ như hiện
nay thì nên chọn lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần, lãi suất chiết khấu là lãi
suất sàn. Khi hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng thực hiện bao trùm
trong toàn hệ thống, có thể xem xét nghiệp vụ thấu chi với lãi suất cho vay
cho vay qua đêm của NHNN cần có tính định hướng như lãi suất trần trên thị
trường liên ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cần nghiên cứu áp dụng công cụ
dự phòng dưới hình thức nhận tiền gửi ngắn hạn (thường là qua đêm) của
TCTD tại NHNN. Lãi suất tiền gửi có tính định hướng như lãi suất sàn trên
thị trường liên ngân hàng, các TCTD sẽ gửi tiền tại NHNN khi không thể đầu
từ dưới hình thức nào khác.
3.3.1.4. Công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ DTBB cần được hoàn thiện theo hướng nâng cao khả năng
kiểm soát tiền tệ của NHNN và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng vốn linh
hoạt, hiệu quả. Tỷ lệ DTBB cần được điều chỉnh linh hoạt, phối hợp đồng bộ
với việc điều chỉnh các công cụ khác của CSTT.
3.3.1.5. Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt
Theo quan hệ cung cầu trên thị trường, trong mối quan hệ phối hợp với
lãi suất, có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô:
kiểm soát được lạm phát; kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu; khuyến
khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; không ảnh hưởng lớn đến việc doanh
nghiệp vay nợ bằng ngoại tệ; tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ
vào hệ thống ngân hàng; nâng cao quỹ dự trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy
mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ
phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá.
Phải ngăn chặn sự phát triển và tồn tại của thị trường ngoại tệ tự do.
Nhưng do cơ chế quản lý, điều hành, nên thị trường tự do vẫn tồn tại. Vấn đề
đặt ra là cần thực hiện triệt để mục tiêu trên đất nước Việt Nam chỉ sự dụng

66
trên Việt Nam. Đồng thời thực hiện nhất quán mục tiêu ổn định tỷ giá, linh
hoạt can thiệp của NHNN trên thị trường ngoại tệ.
3.3.1.6. Nghiệp vụ thị trường mở
Hiện nay, NVTTM được xem là công cụ hiệu quả nhất được NHNN
VN sử dụng để điều hành CSTT, tuy nhiên việc sử dụng công cụ này vẫn còn
nhiều hạn chế như: các thành viên tham gia mới chủ yếu là các NHTM Nhà
nước, các loại giấy tờ sử dụng trên thị trường mở chưa phong phú, v.v…Do
vậy, để phát huy hết hiệu quả của NVTTM, NHNN nên:
Thứ nhất, bổ sung thêm hàng hoá giao dịch trên thị trường mở. Để hoạt
động trên thị trường thực sự sôi động thì một trong những điều kiện cần thiết
là phải bổ sung thêm các loại hàng hoá cho thị trường, vì vậy, trong thời gian
tới, NHNN cần xem xét bổ sung thêm các loại giấy tờ có giá được phép giao
dịch trên thị trường mở. Bên cạnh các giấy tờ có giá do Bộ Tài chính phát
hành thì NHNN có thể chấp thuận các loại giấy tờ có giá khác do các tổ chức
tài chính, tín dụng lớn, có uy tín, các chính quyền địa phương hoặc các tổng
công ty lớn của Nhà nước được phép giao dịch trên thị trường mở như: trái
phiếu của Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu của các NHTM Nhà nước, trái
phiếu đô thị của UBND các tỉnh, thành phố lớn đã tự chủ được ngân sách địa
phương, v.v... Việc đa dạng hoá hàng hoá giao dịch trên thị trường mở sẽ thúc
đẩy các NHTM đầu tư vào các giấy tờ có giá này, từ đó tăng thêm tính thanh
khoản cho các giấy tờ đó và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán trái
phiếu.
Thứ hai, cải tiến, nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng công nghệ cho thị
trường mở. Bên cạnh việc cải tiến, hoàn thiện các quy định thì NHNN cần
thực hiện đồng bộ việc cải tiến, nâng cấp hạ tầng công nghệ của thị trường
mở. Để làm được điều đó, NHNN cần phải thực hiện một số biện pháp sau :
(i) Tiếp tục nâng cấp và đồng bộ hoá các trang thiết bị phần cứng, hoàn
thiện chương trình phần mềm ứng dụng đối với NVTTM để tạo điều kiện cho

67
các TCTD thành viên thực hiện giao dịch một cách nhanh chóng, thông suốt,
đáp ứng yêu cầu phát triển của nghiệp vụ này.
(ii) Tăng tốc độ đường truyền: NHNN có thể tăng cường tốc độ đường
truyền bằng cách mở rộng băng thông đường truyền, nhất là đường truyền
giữa các TCTD và NHNN và giữa Sở Giao dịch NHNN với Cục Công nghệ
tin học ngân hàng. Việc nâng cấp đường truyền cần được thực hiện nhanh
chóng để đáp ứng sự gia tăng về thành viên và khối lượng giao dịch của thị
trường mở trong tương lai. Bên cạnh đó, NHNN cũng cần xây dựng các kênh
dự phòng để đảm bảo giao dịch được thực hiện thông suốt, không bị đứt
quãng.
(iii) NHNN cần tích hợp phần mềm giao dịch NVTTM với phần mềm
đấu thầu tín phiếu kho bạc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý giấy tờ có
giá, thao tác nghiệp vụ và luân chuyển thông tin giữa hai thị trường sơ cấp và
thứ cấp.
(iv) Kết nối với hệ thống lưu ký giấy tờ có giá, hệ thống kế toán, thanh
toán để thống nhất quản lý giấy tờ có giá từ khi phát hành, luân chuyển giữa
các TCTD, thanh quyết toán và sử dụng trong các giao dịch trên thị trường
tiền tệ, thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng khoán.
(v) NHNN cũng cần tăng cường an ninh trên mạng máy tính, nhất là với
các thông tin mang tính nhạy cảm của NHNN. Đến nay, mặc dù chưa để xảy
ra trường hợp thông tin bị lấy cắp hay can thiệp trái phép trên đường truyền
nhưng không vì thế mà công tác an ninh mạng có thể lơ là. Bên cạnh việc sử
dụng các tính năng bảo mật của các phần mềm thì NHNN cần trang bị các
thiết bị an ninh mạng chuyên dụng và tăng cường nhân lực về công nghệ
thông tin để đảm bảo an toàn, bảo mật các thông tin trong giao dịch thị trường
mở, đảm bảo mạng máy tính hoạt động thông suốt, an toàn, phát hiện và xử lý
kịp thời các truy nhập, can thiệp trái phép vào hệ thống.

68
Thứ ba, nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành NVTTM,
không chỉ ở NHNN mà còn ở các TCTD thành viên
3.3.2. Đổi mới căn bản công tác phân tích, dự báo
Đây là công việc cần thiết, tạo nền tảng cho việc xác định cơ chế
truyền tải và lựa chọn một khuôn khổ CSTT hiệu quả, tránh tình trạng điều
hành CSTT bị động và kém hiệu quả cũng như hỗ trợ tích cực cho việc xây
dựng chương trình tiền tệ có mức độ chính xác cao. Do vậy, cần đổi mới căn
bản thực trạng này bằng cách đưa mô hình kinh tế lượng vào việc phân tích,
dự báo tiền tệ.
Kinh tế lượng là vấn đề rất phức tạp đòi hỏi phải có một phần mềm dự
báo với cơ sở dữ liệu của 10 năm qua; phải có cán bộ có kiến thức về kinh tế
vĩ mô, mô hình dự báo tiền tệ đòi hỏi phải phù hợp với tình hình thực tế, nên
cần có những cán bộ có kinh nghiệm phân tích các nhân tố tác động. Vì vậy,
cần có giải pháp để từng bước thực hiện. Trên thực tế, tại NHNN, một số cán
bộ đã chạy thử mô hình dự báo thử về hàm cầu tiền tệ và lạm phát, nhưng còn
quá đơn giản và còn nhiều hạn chế. Để đóng góp cơ sở khoa học trong phân
tích định lượng về điều hành CSTT, cần một số công tác như:
Thứ nhất, có kế hoạch đào tạo cán bộ toàn diện nắm vững kiến thức về
kinh tế vĩ mô hiện đại, phân tích và lập chương trình tài chính xem xét tổng
thể việc điều hành CSTT trong mối liên hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác. Đồng thời biết áp dụng kỹ thuật phân tích kinh tế lượng. Hiện nay, số
lượng cán bộ đủ yêu cầu trên còn ít và mới chỉ bước đầu sử dụng được kinh tế
lượng, chưa được đào tạo bài bản nên hạn chế trong việc sử dụng, phân tích
và dự báo.
Thứ hai, cần bố trí cán bộ chuyên trách cho công việc phân tích và dự
báo trên cơ sở phân tích định lượng. Hiện nay, những cán bộ có kiến thức về
kinh tế lượng chưa có thời gian nghiên cứu sâu do phải thực hiện các nhiệm
vụ chuyên môn khác.

69
Thứ ba, cần chú trọng đến việc trang bị đầy đủ các trang thiết bị cho
việc phân tích định lượng như trang bị tài liệu chuyên về phân tích kinh tế
lượng, tài liệu hướng dẫn sử dụng phần mềm và cài đặt các chương trình
trong máy tính, tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính sách có đủ trang
thiết bị làm việc.
3.3.3. Áp dụng lạm phát mục tiêu ở Việt Nam
Việc điều hành CSTT của NHNN VN hiện nay còn có những khó khăn,
bất cập. Điều hành CSTT chủ yếu theo phương thức lấy tổng phương tiện
thanh toán (M2) làm mục tiêu trung gian và duy trì sự ổn định của tỷ giá, chủ
trương neo tỷ giá VND với USD trong nhiều năm và can thiệp vào thị trường
ngoại hối nhằm khuyến khích xuất khẩu nhưng nhập siêu vẫn tăng từ 16,9 tỷ
USD năm 2008 lên 12,2 tỷ USD năm 2009, mức tăng trưởng tín dụng năm
2008 là 25,43% và tiếp tục tăng trong năm 2009 đạt 37,73%, làm cho M2
tăng cao. Điều này tuy góp phần làm tăng trưởng kinh tế nhưng lạm phát đã
lên tới 19,89% năm 2008 và 8,9% năm 2009. CSTT đang tập trung vào quá
nhiều mục tiêu mà chúng ta nên chỉ tập trung giải quyết một mục tiêu chính,
mục tiêu này được thực hiện thì tác động thực hiện các mục tiêu khác. Do đó,
CSTT nên chuyển hướng sang thực hiện cơ chế lạm mục tiêu. Những thành
công đạt được về kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế ở những nước áp
dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu cho thấy đây là một khuôn khổ CSTT có
nhiều ưu điểm, ngày càng nhiều quốc gia theo đuổi. Thực tế cũng cho thấy
trên thế giới rất nhiều nước đã áp dụng thành công cơ chế này như Canada,
Niu Di-Lân, Chi lê, Ôtx-trây-li-a, v.v...và gần đây nhất là Nhật Bản. Các nước
này đều duy trì mục tiêu lạm phát ở mức thấp từ 1% - 3%. Với việc điều hành
CSTT hướng vào mục tiêu lạm phát đề ra như vậy, họ đều thành công khi duy
trì lạm phát ở mức thấp và ổn định trong thời gian dài. Do đó, việc điều hành
CSTT theo cơ chế lạm phát mục tiêu là điều mà NHNN đáng lưu tâm.

70
3.3.4. Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ ngân hàng nhà
nước
Con người luôn là yếu tố then chốt và quyết định trong mọi hoạt động
kinh tế, xã hội. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ của cán bộ NHNN trong
xây dựng và điều hành CSTT là nhu cầu vừa mang tính cấp thiết vừa lâu dài.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia điều hành thành công CSTT thì
năng lực và kinh nghiệm của các cán bộ xây dựng và điều hành CSTT được
đặc biệt chú trọng. Tại một số quốc gia, như Mỹ, Hội đồng lãnh đạo NHTƯ
có nhiệm kỳ làm việc rất dài. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ NHTƯ cao hơn
chế độ thông thường. Do vậy, để hoàn thiện và thực thi hiệu quả CSTT, điều
quan trọng là phải nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ đội
ngũ cán bộ NHNN, thường xuyên đào tạo nâng cao nghiệp vụ, đặc biệt là cán
bộ quản lý, dự báo, phân tích, v.v… Chương trình đào tạo cần phải được
chuẩn hoá và phù hợp với yêu cầu, xu thế phát triển của hệ thống ngân hàng.
Bên cạnh đào tạo lý thuyết cơ bản thì cũng cần tiến hành các khoá học ở
trong nước và nước ngoài.

3.4 Một số kiến nghị

3.4.1. Đối với Chính phủ


Thứ nhất, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, tạo điều kiện thuận lợi,
bình đẳng cho các thành phần kinh tế phát triển .
Thứ hai, đối với Việt Nam hiện nay, việc NHNN có sự độc lập hoàn
toàn với Chính phủ là không hợp lý bởi NHNN cần hoạch định CSTT dựa
trên các mục tiêu kinh tế của Chính phủ. Mức độ độc lập hoàn toàn có thể dẫn
tới sự mâu thuẫn hay không nhất quán trong thực thi các chính sách kinh tế vĩ
mô. Chính vì vậy, NHNN VN cần có sự độc lập nhất định trong chức năng
phát hành và kiểm soát khối lượng tiền tệ. Chính phủ đưa ra định hướng, mục
tiêu lớn về cung ứng tiền trong những khoảng thời gian nhất định (6 tháng

71
hay 1 năm) và kiểm soát việc điều hành của NHNN theo các mục tiêu đó.
Như vậy, NHNN có sự chủ động trong điều hành cung ứng tiền hướng vào
các mục tiêu đó. Lượng tiền cung ứng trong các hoạt động bơm tiền vào nền
kinh tế hay rút bớt tiền khỏi nền kinh tế diễn ra thường xuyên, NHNN tự
quyết định trong việc sử dụng khối lượng tiền cung ứng là bao nhiêu và sử
dụng cách thức con đường nào cho phù hợp. Từ đó tạo ra sự linh hoạt trong
điều hành CSTT vì lợi ích quốc gia, qua đó, NHNN cũng tự nâng cao được
năng lực, tự chịu trách nhiệm trước các chính sách đưa ra đồng thời cũng hạn
chế được sức ép chính trị có thể can thiệp vào quá trình cung ứng tiền tệ trong
thời gian ngắn.
Bên cạnh đó, khi đã trao quyền độc lập nhất định cho NHNN, Chính
phủ cũng cần tăng cường vai trò kiểm tra kiển soát đối với hoạt động của
NHNN. Hoạt động kiểm tra kiểm soát có thể tiến hành trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua dư luận của quần chúng nhân dân. Các định hướng lớn của
NHNN trước khi ban hành có thể đưa ra thăm dò trong dư luận, qua đó,
Chính phủ có thể kiểm soát được hoạt động của NHNN.
Thứ ba, tập trung các chu chuyển tiền tệ qua một đầu mối quản lý duy
nhất là NHNN nhằm thực hiện chức năng NHTƯ tốt hơn. Xem xét lại việc
tồn tại của hệ thống Kho bạc Nhà nước nhằm tạo điều kiện để NHNN thực
hiện vai trò là ngân hàng của Chính phủ. Đồng thời, việc phát hành tín phiếu,
trái phiếu Kho bạc và công trái nên thông qua hệ thống ngân hàng.

3.4.2. Đối với Quốc hội


Đến nay, Luật NHNN Việt Nam và Luật các TCTD đã có hiệu lực thi
hành trong thực tiễn trong hơn 5 năm. Đây là giai đoạn hoạt động của hệ
thống Ngân hàng Việt Nam gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế đất
nước thực hiện kế tiếp hai Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng
cộng sản Việt Nam khoá VIII và khoá IX với những đặc điểm kinh tế - xã hội

72
có nhiều nhân tố mới bởi những thời cơ và thách thức vận động đan xen rất
mạnh mẽ và mang tính thời đại mới. Đây cũng là giai đoạn nằm trọn vẹn
trong thời kỳ khủng hoảng tài chính - tiền tệ và quá trình khắc phục cuộc
khủng hoảng đó trong khu vực. Do những biến đổi nhanh chóng mang tính
khách quan của quá trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế mà vai trò của
hai luật này cần phải được đổi mới để mở rộng đối tượng điều chỉnh, tăng
cường vị thế pháp lý và trách nhiệm cao hơn cho NHNN.

3.4.3. Đối với các Bộ, Ngành liên quan


Sự phối hợp đồng bộ, toàn diện giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc
biệt từ khâu hoạch định CSTT và CSTK, nhất quán trong xác định mục tiêu,
điều hành sẽ giúp hạn chế những tác động ngược chiều của các chính sách,
qua đó nâng cao hiệu quả điều hành CSTT. Muốn vậy, cần xây dựng cơ chế
phối hợp cung cấp thông tin giữa các Bộ, các Ngành liên quan (Tổng cục
Thống kê, Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước, v.v...) và NHNN để đảm bảo
NHNN có thể dự báo được vốn khả dụng và kiểm soát được toàn bộ lượng
tiền cung ứng trong nền kinh tế.
Bộ Tài chính cần cung cấp thông tin về thu chi ngân sách nhà nước,
nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách, kế hoạch cho vay, trả nợ của Chính phủ,
tình hình cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch. Thông tin này
cần thiết để NHNN dự báo các diễn biến tiền tệ và nguồn vốn khả dụng của
các TCTD. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần thực hiện nghiêm túc những cam
kết về các khoản tạm ứng từ NHNN, về xác định số lượng tín phiếu kho bạc
phát hành để không ảnh hưởng đến quá trình điều hành CSTT. Ngoài ra, Bộ
cũng cần cung cấp thông tin về biến động giá cả thị trường từ đó NHNN có
cơ sở đưa ra mục tiêu kiểm soát lạm phát.

73
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần cung cấp thông tin về chiến lược phát triển
kinh tế xã hội của cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế. Qua đó,
NHNN có cơ sở dự báo nhu cầu tín dụng, nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.
Bộ Thương mại có nhiệm vụ cung cấp thông tin về chính sách thương
mại, tình hình xuất nhập khẩu từ đó NHNN có cơ sở phân tích cán cân thanh
toán quốc tế và dự báo sự biến động tài sản có ngoại tệ.
Tổng cục thống kê cung cấp số liệu tổng hợp về các chỉ tiêu kinh tế xã
hội có liên quan tới hoạch định và thực thi chính sách CSTT, kịp thời thông
báo các chỉ tiêu kinh tế thực hiện trong kỳ để NHNN nắm được diễn biến tình
hình, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

74
KẾT LUẬN
Những vấn đề nghiên cứu của đề tài đã hệ thống hóa CSTT của
NHNNVN và đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất là, hệ thống hóa lý luận về điều hành CSTT nhằm mục tiêu
kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Trung ương.
Thứ hai là, đánh giá thực trạng điều hành CSTT nhằm mục tiêu kiểm
soát lạm phát, từ đó đưa ra những thành tựu đạt được và hạn chế trong việc
điều hành CSTT của NHNNVN từ năm 2004 đến nay.
Thứ ba là, đề xuất giải pháp để hoàn thiện điều hành CSTT nhằm mục
tiêu kiểm soát lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ tư là, đề xuất một số kiến nghị với Chính phủ, Quốc hội và các Bộ,
Ngành liên quan để có thể thực hiện thành công các giải pháp nêu trên.
Điều hành CSTT linh hoạt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát nhưng
vẫn hỗ trợ tốt cho tăng trưởng kinh tế là một vấn đề phức tạp và cấp thiết
trong thời điểm hiện nay. Chính vì vậy, nghiên cứu và đánh giá những thành
tựu cũng như hạn chế của việc điều hành CSTT là việc rất cần thiết, góp phần
giúp NHNNVN có những điều chỉnh CSTT phù hợp với thực tiễn và đạt hiệu
quả cao.
Trong quá trình nghiên cứu, do còn thiếu kinh nghiệm nên chắc chắn đề
tài không tránh khỏi thiếu sót, vì vậy rất mong thầy cô và các bạn đóng góp ý
kiến để chúng tôi có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa./.

75
PHỤ LỤC 1

Bảng 2.11

Năm Tình hình Văn bản áp dụng Nội dung


chung
2004 Lãi suất VND 1.QĐ số 1048/QĐ- . Lãi suất huy động và
và ngoại tệ NHNN cho vay của các tổ chức
nhìn chung có tín dụng trong 4 tháng
2.QĐ số 923/QĐ –
xu hướng tăng đầu năm 2004 được duy
NHNN.
nhẹ. Riêng lãi trì tương đối ổn định.
suất cho vay 3.QĐ số 210/QĐ – Lãi suất huy động phổ
ngoại tệ được NHNN biến loại không kỳ hạn
giữ ổn định 4.1325/2004/QĐ-NHNN là 0,2%/tháng, 3 tháng
trong cả năm là 0,5%/tháng, 6 tháng
2004. là 0,54%/tháng, 12
tháng là 0,59%.tháng;
lãi suất cho vay ngắn
hạn phổ biến : ở khu
vực thành thị là
0,73%/tháng, ở khu vực
nông thôn là
0,95%/tháng; lãi suất
cho vay trung và dài
hạn phổ biến; ở khu vực
thành thị là
0,82%/tháng, ở khu vực

76
nông thôn là
1,05%/tháng.

Từ tháng 5,6 các


NHTM nâng nhẹ lãi
suất huy động và cho
vay VND và giữ ổn
định cho đến cuối năm;

Về lãi suất ngoại tệ,


trong những tháng đầu
năm tương đối ổn định,
do mặt bằng lãi suất thị
trường trong nước
tương đối cao so với thị
trường nước ngoài và
các ngân hàng có khả
năng cân đối được
ngoại tệ.Mức lãi suất
huy động phổ biến loại
không kỳ hạn đầu năm
là 1,2%/năm, 6 tháng là
1,4%/năm và 12 tháng
là 1,9%/năm.Tuy nhiên
do FED liên tục thay
đổi lãi suất từ tháng
9/2004, các ngân hàng
thương mại bắt đầu thay
đổi lãi suất.Lãi suất cho

77
vay ngắn hạn phổ biến
ở mức 3,5%/năm, trung
và dài hạn ở mức
4,5%/năm.

2005 Lãi suất VND 1. 316/2005/QĐ- Trong năm 2005, lãi


và tiền tệ có NHNN suất VND và ngoại tệ
xu hướng tăng 2. 210/2005/QĐ- có xu hướng tăng so với
do xu hướng NHNN cuối năm 2004, lãi suất
tăng lãi suất 3. 315/2005/QĐ- huy động VND tăng
trên thị trường NHNN khoảng 0,36-
tiền tệ quốc tế. 4. 1247/2005/QĐ- 1,2%/năm,lãi suất cho
NHNN vay VND tăng khảng
5. 1246/2005/QĐ- 0,36-0,96%/năm, lãi
NHNN suất huy động USD
tăng khảng 0,7 –
2,5%/năm và lãi suất
cho vay USD tăng 0,75
– 2%/năm.

-Nhiều hình thức huy


động vốn được mở rộng
như : tiết kiệm dự
thưởng, tiết kiệm lãi
suất bậc thang, tiết kiệm
VND…

-Trong năm 2005, mặc

78
dù Fed điều chỉnh nhiều
lần tăng lãi suất định
hướng liên ngân hàng
nhưng lãi suất huy động
ở VN chỉ tăng nhẹ. Lãi
suất cho vay ở mức 5,25
– 6,2%/năm đối với
ngắn hạn và 5,5 –
7,5%/năm đối với dài
hạn.

- Trong năm 2005, thị


trường ngoại tệ liên
ngân hàng hoạt động sôi
nổi với doanh số giao
dịch giữa các ngân hàng
tăng khoảng 29% so với
năm 2004.

79
2006 Mặt bằng lãi 1. 51/2006/QĐ- Lãi suất huy động VND
suất VND và NHNN tăng khoảng 0,1 –
USD đều tăng 2. 62/2006/QĐ- 0.4%/năm, lãi suất cho
so với cuối NHNN vay VND tương đối ổn
năm 2005. 3. 63/2006/QĐ- định. Trong 7 tháng đầu
NHNN năm, lãi suất huy động
VND chủ yếu của các
NHTM cổ phần đều
tăng do các ngân hàng
cạnh tranh và thu hút
vốn.

NHNN mở rộng hình


thức phát hành giấy tờ
có giá với lãi suất cao
hơn mức lãi suất tiết
kiệm khoảng 0,1 –
0,3%/năm.

-Trong 6 tháng đầu năm


2006, Fed 3 đã 6 lần
điều chỉnh lãi suất định
hướng liên ngân
hàng,so đó lãi suất USD
trong nước có xu hướng

80
tăng nhưng tăng thấp
hơm mức mà Fed điều
chỉnh.Lãi suất cho vay
khoảng 5,8-6,7% đối
với ngắn hạn và 6,0 –
8% đối với dài hạn.

-Thị trường ngoại tệ


liên ngân hàng phát
triển mạnh với qui mô
và doanh số giao dịch
tăng cao.Doanh số giao
dịch tăng 45% so với
năm 2005.

2007 Biến động nhẹ 1. 2881/QĐ-NHNN Lãi suất VND trong 4


lãi suất VND 2. 305/QĐ-NHNN thán đầu năm 2007 có
và ngoại tệ. sụ thay đổi nhẹ : tăng từ
0.06% đến 0.12%. đối
với nhóm NHTM Cổ
phần và do các TCTD
phát hành các giấy tờ có
giá với lãi suất cao hơn
lãi suất tiết kiệm cùng
kỳ hạn khoảng từ 0.12
đến 0.6%.Gần cuối
năm, lãi suất có hiện
tượng tăng cục bộ ở một

81
số NHTM Cổ phần.

-Thị trường ngoại tệ


liên ngân hàng phát
triển mạnh với tổng số
giao dịch lên gấp 113%
so với năm 2006.

-Năm 2007, với vai trò


là người cho vay cuối
cùng của nền kinh tế,
NHTW đã thực hiện
mua bán ngoại tệ với
các NHTM nhằm ổn
định ngoại tệ trong
nước, tăng dự trữ ngoại
tệ và tạo thế chủ động
trong việc điều hành
chính sách tiền tệ.
2008 Thị trường 1. 16/2008/QĐ – Trong những tháng đầu
tiền tệ phát NHNN năm 2008, lãi suất huy
triển nóng và 2. 1098/QĐ – động VND biến động
phát triển lên NHNN tăng chủ yếu do việc
mức “lãi suất 3. công điện huy động vốn của các
nguy hiểm” 02/CĐ-NHNN TCTD gặp nhiều khó
khăn, nhiều TCTD đã
điều chỉnh lãi suất huy
động VND lên mức
3.36%/năm.Trước nguy

82
cơ các NHTM đua nhau
tăng lãi suất, NHNN đã
có công điện số 02/CĐ-
NHNN yêu cầu các
ngân hàng không được
tăng lãi suất quá
12%/năm. Ngày
11/4/2008, NHNN điều
chỉnh lãi suất từ 12%
lên 14%/năm , nhiều
NHTM đã điều chỉnh
lãi suất ở mức cao, 17,5
– 18,5%/năm.

Từ tháng 7 đến hết quí


III/2008, lãi suất huy
động VND giảm nhẹ và
giảm mạnh vào tháng
11/2008.Cuối năm mức
lãi suất huy động tiền
gửi vào mức thấp nhất,
giảm khoảng 9 -9.5% so
với thời điểm cao nhất
của năm(17.5 –
18.5%/năm).

2009 Chính phủ 1 .174/QĐ-NHNN Qua 8 tháng đầu


triển khai gói

83
kích cầu hỗ 2. 378/QĐ-NHNN năm 2009, kinh tế nước
trợ lãi suất cho ta đã có những chuyển
3. 776/NHNN-CSTT
các DN sản biến tích cực trên tất cả
xuất kinh 4. 02/2009/TT-NHNN các mặt. Do đó, để đạt
doanh, lãi suất 5.02/2009/TT-NHNN được mục tiêu tăng
tiếp tục giảm 6.2665/QĐ-NHNN trưởng kinh tế cả năm
mạnh.Các khoảng 5%; tiếp tục giữ
7.QĐ 2024/QĐ – NHNN
biện pháp này ổn định kinh tế vĩ mô,
giúp nền kinh 8.QĐ 1811/QĐ – NHNN kiểm soát và khống chế
tế dần dần tăng chỉ số giá tiêu
phục hồi trong dùng, ngày 26/8/2009,
bối cảnh suy Thống đốc Ngân hàng
thoái của kinh Nhà nước (NHNN) Việt
tế thế giới. Nam đã có Quyết định
số 2024/QĐ-NHNN về
việc giữ mức lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt
Nam như tháng trước.

Theo đó, mức lãi


suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam là 7% năm.
Quyết định này có hiệu
lực từ ngày 01/9/2009,
thay thế Quyết định số
1811/QĐ-NHNN của
Thống đốc NHNN Việt
Nam về mức lãi suất cơ

84
bản bằng đồng Việt
Nam ban hành ngày
30/7/2009.

Cùng ngày,NHNN
Việt Nam cũng đã
thông báo một số mức
lãi suất áp dụng từ ngày
01/9/2009, cụ thể như
sau:

1. Lãi suất tái cấp


vốn của NHNN đối với
các tổ chức tín dụng là
7,0%/năm.

2. Lãi suất tái chiết


khấu của NHNN đối với
các tổ chức tín dụng là
5,0%/năm.

3. Lãi suất cho vay


qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp
thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNN
Việt Nam đối với các
Ngân hàng là
7,0%/năm.

85
-Ngày 25/11/2009,
Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước (NHNN) Việt
Nam đã ban hành Quyết
định số 2665/QĐ-
NHNN về việc tăng lãi
suất cơ bản bằng đồng
Việt Nam từ 7% lên
mức 8,0%/năm.

- Ngày 31/12/2009,
Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) ban
hành Thông tư số
27/2009/TT-NHNN
(Thông tư 27) quy định
chi tiết thi hành việc hỗ
trợ lãi suất (HTLS) đối
với các tổ chức, cá nhân
vay vốn trung, dài hạn
ngân hàng trong năm
2010 để thực hiện đầu
tư phát triển sản xuất –
kinh doanh.

86
PHỤ LỤC 2

Bảng 1.1 Hệ thống mục tiêu chính và công cụ CSTT của một số nước

Nước Công cụ CSTT Mục tiêu hoạt Mục tiêu Mục tiêu chính
động trung gian sách
Pháp - tín dụng theo lãi lãi suất thị -M3 ổn định giá cả
suất biến đổi trường liên ngân -tỷ giá đối
-dự trữ bắt buộc hàng với DM

Đức -tái chiết khấu M3 ổn định giá cả


-thị trường mở lãi suất thị
-dự trữ bắt buộc trường liên ngân
hàng
Anh -thị trường mở ổn định giá cả

lãi suất thị


Mỹ -thị trường mở trường liên ngân M2,M3 -đủ việc làm
-dự trữ bắt buộc hàng -ổn định giá cả
-ổn định các lãi
lãi suất thị suất dài hạn
trường liên ngân
Nhật -thị trường mở hàng M2+Cds -ổn định giá cả
-chính sách chiết -tăng trưởng
khấu kinh tế
-dự trữ bắt buộc -cân bằng cán
lãi suất thị cân thanh toán
trường liên ngân

87
Việt -lãi suất hàng M2 -ổn định giá cả
Nam -chính sách tái -tăng trưởng
cấp vốn kinh tế
-tỷ giá -ổn định hệ
-dự trữ bắt buộc thống tổ chức
-hạn mức tín dự trữ của các tín dụng
dụng ngân hàng
-thị trường mở thương mại

88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2008), Nhập môn Tài chính tiền
tệ, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh

2. Đại học Kinh tế Quốc dân (2007), Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ,
Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân

3. Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà
xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội

4. Lê Văn Tư (2001), Tiền tệ, ngân hàng, thị trường tài chính, Nhà xuất bản
Thống kê

5. Ngân hàng Nhà nước ( 2004 – 2008), Báo cáo thường niên

6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2009), Hội thảo vai trò chính sách tiền tệ
đối với nền kinh tế Việt Nam sau thời kỳ suy giảm

7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam(2009, 2010), Thông cáo báo chí, tháng
1/2009 đến tháng 3/2010

8. Ngô Hướng, “Ổn định thị trường tài chính và những vấn đề đặt ra”, Tạp
chí Ngân hàng số 23/2009

9. Nguyễn Thị Kim Thanh, “Chính sách tiền tệ với nhiệm vụ ổn định kinh tế
vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế sau khủng hoảng”, Tạp chí Ngân hang số
19/2009

10. Thanh Huyền, “Hài hòa giữa tăng trưởng và lạm phát”, Thời báo Ngân
hàng ngày 20/04/2010

Các trang web

1. www.bankofcanada.ca

2. www.cbc.gov.tw

3. www.ecb.int

89
4. www.gso.gov.vn

5. www.rbnz.govt.nz

6. www.sbv.gov.vn

7. www.vneconomy.vn

90
91

You might also like