You are on page 1of 33

20

Chương 2
Cấu trúc và chức năng của tế bào vi sinh vật
I. Sinh vật nhân sơ
1. Các phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu
1.1. Phương pháp quan sát tế bào
Nhờ kính hiển vi quang học (kính hiển vi thường) với độ phóng đại
1500 - 2000 lần, đặc biệt nhờ kính hiển vi điện tử thường (TEM) và kính
hiển vi điện tử quét (SEM) mà khoa học có thể thấy được tế bào, cấu trúc
siêu hiển vi của vi khuẩn với đường kính khoảng 1μm.
- Quan sát vi sinh vật trên tiêu bản sống: vi sinh vật ở giữa lam và
lamella, nhuộm mực nho để thấy rõ màng nhầy (capsule), đây là phương
pháp hay dùng cho những vi sinh vật nuôi cấy trên môi trường lỏng với
kính hiển vi thường, quan sát được khả năng vận động của chúng.
Bảng 2.1: Một số phương pháp nhuộm màu và nguyên tắc sử dụng
Phươg pháp nhuộm màu Nguyên tắc sử dụng
+Nhuộm đơn (xanh Dung dịch rượu hoặc nước của các kiềm, dùng để
methylene, carbolfuchsin, quan sát hình dạng vi sinh vật, cách sắp xếp tế bào
tinh thể tím, safranin…)
+Nhuộm phân ly Với các phản ứng khác nhau với thuộc nhuộm có thể
phân biệt được chúng
- Gram Chia các vi khuẩn thành 2 nhóm lớn: Gram dương giữ
màu tinh thể tím, Gram âm mất màu khi tẩy do đó sẽ
nhuộm màu phụ hồng safranin
- Ziehl - Nielsen Dùng để phân biệt các loài Mycobacterium và một số
loài Nocardia. Vi khuẩn acid nhuộm với carbolfuchsin
và xử lý với dung dịch rượu acid, vẫn giữ màu đỏ. Vi
khuẩn không acid sẽ mất màu do đó sẽ nhuộm màu phụ
là xanh methylene.

+Nhuộm đặc biệt Dùng để phát hiện sự có mặt của màng nhày, bởi vì
polysaccharide màng nhầy không bắt màu thuốc nhuộm
- Nhuộm âm (negative) bao quanh tế bào vi khuẩn nhuộm màu

Sử dụng để phát hiện bào tử vi khuẩn. khi dùng thuốc


-Nhuộm nội bào tử nhuộm lục malachite với tiêu bản có đun nóng, thuốc
(endospore) nhuộm sẽ thâm nhập vào nội bào tử và làm chúng
nhuộm màu lục, khi bổ sung bằng đỏ safranin sẽ làm
phần bao quang bào tử nhuộm màu đỏ hồng.
-Nhuộm tiên mao
(flagella) Dùng để phát hiện tiên mao ở vi khuẩn, sử dụng thuốc
làm phồng tiên mao rồi sau đó nhuộm bằng
carbolfuchsin
21

- Quan sát vi sinh vật trên tiêu bản cố định và nhuộm màu: Phương
pháp nhuộm Gram và Ziehl - Nielsen cho phép nhận biết 2 nhóm vi khuẩn
Gram dương va Gram âm, hình dạng của bào tử, các vật thể ẩn nhập như
hạt dự trữ polyphosphate (hạt dị nhiễm sắc, hạt volutin), các giọt mỡ,
glycogen… Những tiêu bản cố định này được quan sát ở bội giác lớn X 90
hoặc X 100 (bội giác dùng dầu, vật kính có vòng đen). Tham gia vào cơ
chế nhuộm màu có cấu trúc của thành tế bào và bản chất các hợp chất của
sinh chất khác nhau ở hai loại vi khuẩn. Để quan sát những cấu trúc siêu
hiển vi người ta dùng kính hiển vi điện tử TEM và SEM, có thể thấy được
những cấu tạo rất nhỏ với độ lớn vài nanometre. Những vi khuẩn Gram+
có mối liên hệ chủng loại phát sinh gần gũi nhau, ở đây người ta chia
thành hai nhóm phụ: nhóm có hàm lượng (G + X)% cao hơn 50% như các
Actinomycetales, Corynebacterium, Cellulomonas… và nhóm có (G +
X)% thấp hơn 50% như Clostridium, Bacillus, Staphylococcus,… Những
vi khuẩn Gram- có mối quan hệ chủng loại phát sinh cách xa nhau và ở
đây người ta phân ra rất nhiều nhóm phụ.
Bảng 2.2: Một số tính chất khác biệt giữa vi khuẩn Gram dương và
Gram âm
Tính chất Gram dương Gram âm
Phản ứng với hóa chất giữ màu tinh thể tím, mất màu tím khi tẩy
nhuộm Gram do đó tế bào có màu rửa, nhuộm màu phụ
tím hoặc tía đỏ safranin hay
Fuchsin
Lớp peptidoglucan dày, nhiều lớp mỏng, chỉ có một lớp
Acid techoic có không có
Lớp phía ngoài thành không có có
Lớp lipopolysaccharide rất ít hoặc không có nhiều, hàm lượng cao
Hàm lượng lipid và thấp (vi khuẩn acid có cao (tạo thành lớp
lipoprotein lớp lipid mỏng liên kết ngoài thành)
với peptidoglucan)
Cấu trúc gốc tiên mao hai vòng ổ đĩa gốc bốn vòng ổ đĩa gốc
Tạo độc tố chủ yếu là ngoại độc chủ yếu là nội độc tố
tố (exotoxins) (endotoxins)
Chống chịu với tác nhân khả năng chống chịu khả năng chống chịu
vật lý cao thấp
Mẫn cảm với lysozyme rất mẫn cảm, dễ bị tan ít mẫn cảm (cần phải
với enzyme này xử lý để phá lớp màng
ngoài của
peptidoglucan)
Mẫn cảm với Penicillin và cao thấp
sulfonamide
22

Mẫn cảm với thấp cao


Streptomycine,
Chloramphenicol,
Tetracycline
Kết hợp với thuốc nhuộm cao, chặt chẽ thấp, lỏng lẻo
kiềm
Mẫn cảm với các chất tẩy cao thấp
anionic
Chống chịu với muối Natri cao thấp
Chống chịu với khô hạn cao thấp
1.2. Phương pháp tách ly các thành phần của tế bào
Khi cần nghiên cứu các thành phần riêng biệt của tế bào, người ta
phải tách ly các thành phần này nhờ siêu âm, enzyme làm tan thành, các
kháng sinh tác động vào thành, dùng áp suất thẩm thấu gây co nguyên
sinh, dùng sức ép cơ học, dùng siêu li tâm hoặc li tâm trong đường
gradient…
Nhờ các máy đo quang phổ (Spectrophotometer) chúng ta biết rõ
ràng và nhanh chóng số lượng tế bào trong dịch huyền phù.
Nhờ phương pháp sắc ký giấy hoặc sắc ký cột chúng ta có thể thu
được các hợp chất riêng biệt.
2. Hình dạng vi khuẩn và vi khuẩn cổ
Hình dạng vi khuẩn khác nhau giữa loài này và loài khác, đối với
những vi khuẩn đa hình (polymorphysme) thì hình dạng có thể khác nhau
trong các giai đoạn sống khác nhau của chu kỳ sinh trưởng. Những hình
dạng chính của vi khuẩn:
- Cầu khuẩn (Coccus): Khi phân chia theo một phương và dính nhau
ta có song cầu khuẩn (Diplococcus), hoặc liên cầu khuẩn (Streptococcus),
phân chia hai phương và dính với nhau ta có tứ cầu khuẩn (Tetracoccus),
phân chia 3 phương và dính nhau ta có bát cầu khuẩn (Sarcina) hoặc phân
chia theo nhiều phương ta có tụ cầu khuẩn (Staphylococcus).
- Trực khuẩn: bao gồm trực khuẩn không sinh bào tử (như E.coli…)
và trực khuẩn sinh bào tử như Bacillus, Clostridium với kích thước
khoảng 2-3 x 1μm.
- Xoắn khuẩn: Spirillum, Campylobacter, xoắn thể với các vòng
khác nhau: Spirochaeta, Leptospira với kích thước 1 x 5-500μm.
- Xạ khuẩn: gồm những vi khuẩn thuộc bộ Actinomycetales trong đó
có các giống quan trọng như Streptomyces, Micromonospora…, có kích
thước 1-2 x 100-500μm.
23

Hình 2.1: Các nhóm hình thái chính của vi khuẩn

- Vi sinh vật hình sao như giống Stella và vi sinh vật hình vuông như
giống Haloarcula, một loại "vi khuẩn" ưa mặn thuộc vi sinh vật cổ.
24

3. Sơ đồ cấu tạo tế bào vi khuẩn


Nhờ kính hiển vi điện tử khoa học đã biết rất rõ các tổ chức dưới
mức tế bào của vi khuẩn như lớp màng nhầy, thành tế bào, màng sinh chất,
chất nguyên sinh và các thành phần quan trọng khác.

Hình 2.2: Mô hình và sơ đồ cấu trúc tế bào vi khuẩn


1. Thành tế bào, 2. Màng sinh chất, 3. Thể nhân, 4. Mexosome, 5.
Chất dự trữ, 6. Sinh chất, 7. Bào tử, 8. Tiên mao, 9. Khuẩn mao, 10.
Khuẩn mao giới tính, 11. Bao nhầy, 12. Tầng dịch nhầy, 13. Ribosome,
14. Thể ẩn nhập, 15. Plasmid.
3.1. Màng nhầy (capsule)
Nhiều vi khuẩn được bao bọc bên ngoài bàng một lớp màng nhầy có
bản chất hóa học là polysaccharide của một loại gốc đường
(homopolysaccharide) hoặc của nhiều gốc đường khác nhau
(heteropolysaccharide), ở một số vi khuẩn trong vỏ này còn chứa một ít
lipoprotein. Khi làm khô, người ta xác định được 90 - 98% trọng lượng
của màng nhầy là nước.
Màng nhầy có tác dụng hạn chế khả năng thực bào, do đó tăng
cường độc lực đối với vi khuẩn gây bệnh, do cấu trúc hóa học của màng
nhầy là polysaccharide và ít lipoprotein nên có liên quan đến tính kháng
nguyên của vi khuẩn gây bệnh. Mặt khác, khi môi trường nghèo chất dinh
dưỡng màng nhầy có thể cung cấp một phần các chất sống cho tế bào,
trong trường hợp đó màng nhầy teo đi. Một khuẩn lạc gồm các vi khuẩn
có màng nhầy nhìn thấy dạng nhẵn bóng - dạng S (smooth), còn khuẩn lạc
gồm các vi khuẩn ít hay không hình thành màng nhầy sẽ có dạng nhăn
25

nheo - dạng R (rough), đối với những vi khuẩn trong điều kiện môi trường
quá dư thừa carbon, như ở rảnh các nhà máy đường…, thì màng nhầy rất
dầy và tạo ra khuẩn lạc nhầy nhớt - dạng M (mucoid). Ví dụ ở nhà máy
đường thường gặp Leuconostoc mesenteroides có nhiều màng nhầy dày
gấp 20 lần chiều ngang của tế bào vi khuẩn. Những màng nhầy như vậy
được gọi là những màng nhầy lớn (macrocapsule) còn những màng nhầy
nhỏ hơn 0,2μm (nghĩa là không nhìn thấy trên kính hiển vi thường, mà chỉ
nhìn thấy trên TEM hay SEM) được gọi là màng nhầy nhỏ (microcapsule).
Có những vi khuẩn chỉ hình thành màng nhầy trong các điều kiện nhất
định, ví dụ Bac. anthracis (vi khuẩn gây bệnh nhiệt than) chỉ hình thành
màng nhầy trong môi trường có protein động vật, Diplococcus
pneumoniae (gây bệnh viêm màng phổi) chỉ hình thành màng nhầy khi
xâm nhập vào cơ thể người và động vật.
Muốn quan sát màng nhầy người ta làm tiêu bản âm với mực nho
hoặc nhuộm đơn bằng thuốc nhuộm kiềm.
3.2. Thành tế bào
Ngày nay khoa học đã biết khá rõ về thành tế bào các cơ thể nhân
sơ. Dựa vào sự nghiên cứu cấu trúc phân tử của thành tế bào, kiểu trao đổi
chất… mà ta có thể xếp chúng vào hai giới: vi sinh vật cổ với loại thành tế
bào đặc biệt và kiểu trao đổi chất khác thường và vi khuẩn với ba nhánh
tiến hóa: nhánh có thành tế bào dày là các vi khuẩn Gram dương, nhánh có
thành tế bào mỏng là các vi khuẩn Gram âm và nhóm tiêu giảm, không có
hay thành tế bào rất mỏng.
Nhờ các phương pháp tách ly tế bào như lắc dịch huyền phù vi
khuẩn với các hạt thủy tinh có đường kính 0,1 mm hoắc ép dịch huyền phù
qua màng có lỗ nhỏ hơn đường kính tế bào, hoặc đưa tế bào vào môi
trường ưu trương để gây co nguyên sinh… rồi sau đó qua siêu ly tâm,
người ta có thể thu được lớp thành tế bào khá tinh khiết. Thành tế bào của
các vi sinh vật cổ rất khác biệt với thành tế bào của vi khuẩn và hoàn toàn
khác với cơ thể nhân chuẩn.
Đối với vi khuẩn, thành tế bào chiếm khoảng 20 - 30% trọng lượng
khô của tế bào, đặc biệt ở Corynebacterium diphteria thành tế bào chiếm
tới 76 - 78% trọng lượng khô của tế bào. Thành tế bào vi khuẩn Gram
dương dày 150 - 800A0 Còn ở vi khuẩn Gram âm lớp thành murein mỏng
hơn: từ 50 - 180A0.
Hợp chất cơ bản của thành tế bào vi khuẩn là hai chất dị cao phân tử
(heteropolyme): glucopeptid và acid teichoid. Glucopeptid (hay còn gọi là
peptidoglucan, mucopeptid, murein) là khung rắn chắc giữ vững hình dạng
vi khuẩn, khi thủy phân glucopeptid ta sẽ đựoc 2 hợp chất với số phân tử
26

Gram như nhau là: N-acetyl glucosamin và acid N- acetyl muramic, chúng
liên kết với nhau qua liên kết 1,4 ß glucozid.
Enzyme lysozim cắt liên kết glucozid giữa C1 còn lại của acid N-
acetyl muramic và C4 còn lại của N-acetyl glucosamin (liên kết ß – 1,4).
Các gốc N- acetyl muramic liên kết với nhau qua dây nối peptid, tạo ra
mạng lưới chằng chịt như tổ ong, trong thành phần của N- acetyl muramic
có mặt của các acid amin với trọng lượng phân tử Gram: 2 D.L.alanin, 1
D. glutamic và 1 acid diamin. Acid diamin này ở Sta. aureus là lizin, ở
E.coli là acid L – diaminpimelic (ADP), các acid diamin này có thể kết
hợp với mạch peptid của chuỗi bên, do đó mà hình thành một mạng lưới
murein chắc chắn.
Đối với nhóm vi khuẩn tiêu giảm thành tế bào (Mycoplasmatales,
Mollicustes, Tenericutes) người ta không tìm thấy hợp chất murein, những
vi khuẩn này không có thành rắn chắc cho nên chúng có thể thay đổi hình
dạng, phần lớn chúng là những cơ thể đa hình như các dạng PPLO,
Mycoplasma (vi khuẩn nhỏ nhất có thể nuôi cấy trên môi trường).
Trong thành tế bào vi khuẩn còn có một loại hợp chất đặc biệt đó là
acid teichoic, hợp chất thấy nhiều ở vi khuẩn Gram dương (có thể chiểm
tới 50% trọng lượng khô của thành), ở vi khuẩn Gram âm hiện chưa tìm
thấy hợp chất này. Acid teichoic liên kết với acid muramic qua mạch
phosphodieste. Acid teichoic có hai loại ribiteichoic và glycerin teichoic.
Thành tế bào vi khuẩn có chức năng quan trọng là giữ hình dạng ổn
định của tế bào , tham gia vào việc duy trì áp suất thẩm thấu, sư phân bào,
tham gia vào quá trình nhuộm Gram...
Vi khuẩn Gr+ Vi khuẩn Gr-

Hình 2.3: Mô hình cấu trúc thành tế bào vi khuẩn Gram(+) và Gram(-)
27

3.3. Màng sinh chất


Màng sinh chất của vi khuẩn và các vi sinh vật cổ có thể thấy được
nhờ co nguyên sinh, lớp màng này dưới kính hiển vi đối pha là lớp có độ
dày khoảng 7,5nm, nằm ngay dưới lớp thành hoặc các lớp màng ngoài, nó
bao bọc toàn bộ khối chất nguyên sinh. Khoa học gọi nó là màng cơ sở vì
có cấu tạo giống hầu hết các màng trong tế bào như màng nhân, màng ty
thể, lục lạp, màng lưới nội chất, màng bào tương…
Phân tích hóa sinh cho thấy màng sinh chất gồm 3 loại phân tử: lipid
(chủ yếu ở dạng phospholipid - chiếm khoảng 30 - 40%), protein (gồm rất
nhiều hệ enzyme, trong đó có các hệ permease, thành phần protein này có
thể chiếm tới 60 - 70%) và một ít hợp chất glucid.Các phospholipid có thể
là phosphatidiglycerol và/hoặc là phosphatidylethanolamin. Các
phospholipid dưới kính hiển vi điện tử gồm 2 lớp nằm ở giữa, trong suốt
trong khi các lớp protein bên ngoài có màu đậm tối.
Các phân tử phospholipid có đầu ưa nước (hydrophyle) gồm có
choline - phosphate và glycerol còn đuôi kỵ nước (hydrophone) là các
phân tử acid béo.
Do cấu trúc các phân tử phospholipid như trên nên chúng phải sắp
xếp các đuôi kỵ nước với nhau và đầu ưa nước quay ra phía ngoài và phía
trong sinh chất, chính cách sắp xếp này có lợi nhất cho chức năng vận
chuyển các chất (đưa các dòng proton nhờ các enzyme), chức năng hô
hấp…
Chức năng chủ yếu của màng sinh chất là tấm bình phong ngăn trở
dòng các chất ra cũng như cho đi qua các hợp chất từ phía ngoài vào. Nó
đảm bảo tế bào hấp thụ được các chất dinh dưỡng, các nguyên tố có lợi
cho quá trình trao đổi chất. Nó lựa chọn cho đi qua cả các phân tử chất
hữu cơ loại nhỏ đồng thời ngăn cản các hợp chất phân tử lớn. Đối với các
phân tử bé kị nước như O2, N2, CH4, N2O, H2 hoặc các phân tử có cực
nhưng không tích điện như H2O, urea, CO2,…màng sinh chất thể hiện như
một màng vật lý cho đi qua theo quy luật vật lý học.

Đối với các phân tử có kích thước lớn quan trọng đối với tế bào và
ưa nước thì màng cho đi qua theo cơ chế khuếch tán theo nồng độ chất hòa
tan, có thể là khuếch tán thụ động từ nồng độ cao đến nồng độ thấp hoặc
khuếch tán tích cực chủ động nhờ các enzyme vận chuyển permease, nhờ
đó mà cơ thể tập trung vào trong các hợp chất cần thiết cho tế bào.
28

Có một cách vận chuyển khác là do sự thay đổi vị trí các nhóm chức
năng, ví dụ khi phân tử glucose đi vào đã được phosphoryl hóa và giải
phóng vào bên trong màng tế bào là hợp chất glucoso - phosphate.
Màng sinh chất chứa các enzyme sinh tổng hợp kiểm soát các khâu
kết thúc tổng hợp lipid của màng và các hợp chất kiến tạo thành tế bào.
Cuối cùng, màng sinh chất là nơi định vị của nhiều enzyme tham gia
tổng hợp ATP. Ở các cơ thể nhân chuẩn, các enzyme này có mặt trong ty
thể. Các chuỗi hô hấp của màng sinh chất của vi khuẩn và vi sinh vật cổ
làm chức năng tương tự như màng trong của ty thể.
3.4. Sinh chất và Ribosome
Sinh chất của cơ thể nhân sơ gồm có 80 - 90% là nước, nước có thể
ở trạng thái tự do (chiếm phần lớn) làm nhiệm vụ hòa tan các chất và tạo
nên dung dịch keo với các chất cao phân tử. Nước ở trạng thái kết hợp
(chiếm phần nhỏ) thường liên kết trong các vi cấu trúc như protein, lipid
và hydratcarbon. Phần còn lại của sinh chất là lipoproteid (chiếm 10 -
20%). Hệ keo của sinh chất bao gồm 2 pha: pha thứ nhất là dung dịch
muối khoáng và các hợp chất hòa tan có bản chất là lipoproteid, pha thứ 2
là pha huyền phù gồm các hạt nucleoprotein, lipid và nhiều loại hạt có
kích thước rất khác nhau.
Khi còn non, đang sinh trưởng, chất nguyên sinh có cấu tạo đồng
nhất và bắt màu giống nhau. Khi trưởng thành, trong chất nguyên sinh
xuất hiện các vật thể ẩn nhập, không bào khí làm cho sinh chất có dạng
huyền phù lổn nhổn, bắt màu không đồng đều và có tính chiết quang khác
nhau. Sinh chất của vi khuẩn có pH bình thường là 7 - 7,2. Để nghiên cứu
sinh chất, người ta dùng siêu li tâm cao tốc để tách chất nguyên sinh và
các cấu trúc siêu hiển vi riêng ra.
* RNA và Ribosome
Một tế bào vi khuẩn chứa trung bình khoảng 18.000 ribosome, hạt
70S (S là chữ đầu của Sverberg - 10-3 cm/giây trong siêu li tâm) với đương
kính từ 10 - 30nm, trọng lượng phân tử 3.106 daltons. Mỗi ribosome, khi
giảm nồng độ Mg2+ của dung dịch sẽ tách ra thành 2 tiểu phần trong siêu li
tâm: tiểu phần lớn (50S) và tiểu phần be (30S). tiểu phần lớn liên kết với
tiểu phần bé bàng mối liên kết trung gian RNA - protein và protein -
protein. Các ribosome chứa phần chủ yếu là RNA (63%) và phần kia là
protein (37%).
Ngoài RNA và protein, ribosome có thể còn chứa một lượng nhỏ
lipid và enzyme ribonuclease, lepxinaminopeptidase, galactosidase và một
ít chất khoáng giàu Mg và nghèo Ca.
29

Sự tổ hợp của tiểu phần lớn vào tiểu phần nhỏ bởi liên kết bên trong
ribosome, liên kết RNA - protein, ở đây có 2 site (chốt) đặc biệt có vai trò
quan trọng trong quá trình dịch mã (translation) từ chuỗi RNA sang
protein. Các site này gọi là site "P" (như peptidyl) và "A" (như
aminoacyl).
Ribosome là cơ quan tổng hợp protein của tế bào, nhưng chỉ có một
số nhỏ ribosome (khoảng 5 - 10% tổng số ribosome) ở dạng liên kết với
RNAm đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều yếu tố làm dài chuỗi
polypeptide. Một trong các yếu tố đó là EF-2 thường thấy ở các vi sinh vật
cổ và cơ thể nhân chuẩn, nhưng không thấy ở vi khuẩn, các yếu tố này
thay đổi vị trí phiên âm của histidine (cho diphtamide) làm mẫn cảm với
độc tố diphteria, đây là một sự khác biệt nữa giữa các vi sinh vật cổ và vi
khuẩn.
3.5. Các hạt dự trữ ở vi khuẩn
Ở cuối pha trưởng thành, trong tế bào vi khuẩn xuất hiện những hạt
có độ lớn và thành phần hóa học khác nhau. Kích thước và số lượng các
hạt này tùy thuộc vào loài vi khuẩn và điều kiện nuôi cấy chúng. Trong
khi sinh trưởng, vi khuẩn tích lũy dần các chất dự trữ hữu cơ và vô cơ, các
chất dự trữ này đạt đến kích thước nhất định thì hình thành nên hạt dự trữ
(vật thể ẩn nhập) có thể thấy dưới kính hiển vi. Các chất dự trữ carbon o vi
khuẩn thường thấy là glycogen, tinh bột, poly-β- hydroxy butyrate…
Các hạt dự trữ carbon dễ dàng nhìn thấy khi nhuộm bằng dung dịch
có iod, hợp chất này nhuộm các chất đang trung hợp (polymer) không
phân nhánh của glucose (tinh bột) thành màu xanh thẩm và các
hydratcarbon phân nhánh (glucogen) thành đỏ nâu. Các hợp chất poly-β-
hydroxy butyrate được nhuộm màu bởi Soudan đen như màu các giọt mỡ.
- Các hạt dị nhiễm sắc (metachomatic granulation) hay hạt volutin
được tìm thấy lần đầu ở xoắn khuẩn Spirillum volutans. Chúng bắt màu với
thuốc nhuộm kiềm như xanh methylene, xanh toluidine thành màu đỏ tía
trong khi sinh chất của vi khuẩn lại có màu xanh. Các hạt volutin có dạng
hình tròn, đường kính có thể đạt tới 0,3μm, có thể tan trong nước nóng 800C,
trong dung dịch kiềm hoặc dung dịch NaCl 5%, trong dung dịch HCl
1N…không tan trong rượu, ester, chlorofor. Hạt volutin là những hạt dự trữ
polyphosphate vô cơ.
- Các vi khuẩn Chromatium, Beggiatoa có thể tích lũy lưu huỳnh
bên trong tế bào do oxy hóa H2S giải phóng ra S.
Các vi khuẩn oxy hóa sắt có thể tích lũy sắt trong sinh chất dưới
dạng Fe3O4.
30

- Các hạt carboxysome thường thấy ở Cyanobacteria, ở một số vi


khuẩn màu tía, vi khuẩn nitrat hóa, vi khuẩn oxy hóa lưu huỳng như
Thiobacillus, đó là những hạt ribulose diphosphat carboxylase (hay
carboxydis mutase) được bao bọc bởi sự gấp nếp của màng sinh chất, có
đường kính khoảng 50 - 100nm.
- Tinh thể diệt côn trùng thường thấy ở một số loài vi khuẩn sinh bào
tử như Bacillus thuringiensis, Bacillus dechrolimus, tinh thể này xuất hiện
khi hình thành bào tử, chúng có bản chất là protein và ngày nay được dùng
để diệt sâu hại.
3.6. Các thể mang màu và sắc tố
Ở vi khuẩn quang hợp cơ quan thực hiện quá trình quang hợp là các
thể mang màu (chromatophores) (ở tảo và thực vật là lục lạp -
chlorophaste) vì cấu trúc siêu hiển vi của các thể mang màu khác với lục
lạp. Mặt khác bản chất của các sắc tố quang hợp cũng khác biệt, ở tảo và
thực vật là diệp lục tố (chlorophyll) trong khi ở vi khuẩn quang hợp là các
sắc tố gần với chlorophyll mà người ta gọi là khuẩn diệp lục tố
(bacteriochlorophyll).
Halobacterium halobium (cơ thể sống trong môi trường mặn) có
chứa bacteriorhodopsine ở màng sinh chất, sắc tố gần giống với sắc tố
võng mạc mắt.
Ngoài ra, chúng ta có thể gặp các sắc tố sau:
- Vitamine K2 (hợp chất quinon) ở Bacillus subtilis và Bacillus cereus.
- Sắc tố carotenoid chống tia tử ngoại ở Corynebacterium.
- Pyocyanine, violaceine ở Chromobacterium violaceum, sắc tố có hoạt
tính kháng sinh.
- Một số sắc tố tạo thành màu đặc trưng của khuẩn lạc như
zeaxanthine (carotenoid), sắc tố vàng ở Staphylococcus aureus;
xanthophyll và sarcinaxanthine (carotenoid) là loại sắc tố đỏ ở Sarcina.
- Sắc tố pyocyanine xanh pyoverdine xanh lục huỳng quang ở P.
aeruginosa.
- Dẫn xuất sắc tố pyrolic đỏ ở Serratia marcescens.
3.7. Không bào khí
Đây là một loại túi chứa đầy khí thường gặp ở nhiều loài thuộc 3
nhóm vi khuẩn quang hợp: vi khuẩn lam (Cyanobacteria), vi khuẩn tía và
vi khuẩn lục. Không bào khí giúp vi khuẩn quang hợp trôi lơ lửng trong
nước và nổi lên mặt nước.
31

3.8. Chất nhân của vi khuẩn


DNA của tế bào vi khuẩn chiếm khoảng 1 - 2% trọng lượng khô của
chúng, đó là hợp chất chứa thông tin di truyền chủ yếu của tế bào.
Chất nhân của vi khuẩn không có màng bọc, hình dạng rất khác
nhau và chỉ có 1 sợi gồm 2 mạch DNA. Chiều dài của nó trong tế bào
E.coli đo được là 1mm, tức là gấp 500 - 1000 lần chiều dài của vi khuẩn.
Vòng thể nhiễm sắc được định vị tại một điểm trên màng sinh chất lúc sắp
phân chia. Độ lớn DNA vào khoảng 5.106 pb (cặp base nitơ) với trọng
lượng phân tử vào khoảng 3.109 dalton (4,5.108 đối với Mycoplasma,
1.109 đối với Acholeplasma). Khong thấy protein histone kiểu tế bào nhân
chuẩn mà chỉ có các polyamine như specmidin và specmine làm chức năng
củng cố ổn định DNA. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy ở
Thermoplasma (một loại vi sinh vật cổ - Archaea) đã tìm thấy histone.
Vòng DNA xoắn kép của vi khuẩn thường được gọi là thể nhiễm sắc
vi khuẩn hay genophore. Những nghiên cứu trên kính hiển vi điện tử cho
thấy genophore của vi khuẩn có nhiều vòng, mỗi vòng nhỏ có khoảng 400
cặp base nitơ, nhiều vòng tạo thành búi xoắn. Ở E.coli có 50 búi xoắn và
có gần 500 vòng trong một búi, điều đó giải thích tại sao chuỗi DNA của
vi khuẩn dài tới 1mm và gồm khoảng 5.106 pb.
- Ở E. coli đã tìm thấy ít nhất là 4 loại protein liên kết với DNA, đó
là những protein kiềm, bền nhiệt nên rất gần gũi với histone của các sinh
vật nhân chuẩn:
+ Hu được hình thành bởi 2 tiểu phần α và β (nhị phân protein
ProteinII) nên rất gần với histone H2B.
+ H gần giống với histone H2A.
+ H1 và HLP1, những protein liên kết DNA này có chức năng điều
hòa không đặc hiệu trong quá trình sao mã.
Sự có mặt của các protein trên làm cho cấu trúc thứ cấp DNA của E.
coli vững chắc hơn.
Mặc dù chỉ có một thể nhiễm sắc đối với một tế bào vi khuẩn, nhưng
trong môi trường nuôi cấy liên tục khi có sự sinh sản nhanh, có thể dẫn tới
sự có mặt của 2 thậm chí 4 thể nhiễm sắc trong một tế bào vi khuẩn đang
phân chia.
- Ba loại DNA polymerase đã được chiết từ E. coli:
+ DNA polymerase I: làm chức năng khôi phục, sửa chữa bổ sung,
xúc tác bổ sung desoxyribonucleotide vào đầu của chuỗi DNA. Phản ứng
chỉ xảy ra khi DNA đã được đinh vị ở màng sinh chất.
32

+ DNA polymerase II có hoạt tính ngoài nhân, nó cần thiết cho hoạt
động của RNAm.
+ DNA polymerase III là loại có hoạt tính nhất trong 3 loại
polymerase.
- Các DNA-ligase xúc tác hình thành các đầu nối 2 mạch DNA - cầu
phosphodiester giữa nhóm hydroxyl 3' ở đầu mạch và nhóm phosphate 5'
ở đầu mạch kia. DNA-ligase có thể thực hiện các chức năng sau:
+ Sửa chữa, cắt bỏ một đoạn của mạch trong DNA xoắn kép.
+ Đóng và tạo thành vòng các phân tử DNA xoắn kép mạch thẳng.
+ Hàn các đoạn DNA trong quá trình tái tổ hợp di truyền.
+ Tham gia vào quá trình nhân DNA cùng với DNA polymerase.
Các enzyme tháo mạch của chuỗi xoắn kép làm cho các mạch DNA
trong chuỗi xoắn kép được tách ra để nhân lên. từ hai mạch làm khuôn
tổng hợp hai mạch mới bổ sung để tạo thành hai chuỗi DNA xoắn kép
hoàn toàn giống nhau. Đấy là cơ chế nhân đôi DNA bảo đảm tính di
truyền của các thế hệ vi khuẩn. Các thông tin di truyền từ DNA được sao
mã (transcription) sang mRNA và sau đó được dịch mã (translation) thành
chuỗi polypeptide hay enzyme. Bằng phương pháp phóng xạ tự ghi
(autoradiogragh) khoa học cỏ thể chụp được quá trình nhân lên của nhiễm
sắc thể ở E.coli và nhiều cơ thể nhân sơ khác.
DNA của cơ thể có cấu tạo đặc trưng, số lượng adenine bằng số
lượng thymine và số lượng guanine bằng số lượng cytosine. Tỷ lệ
(G+X)/(A+T) là một chỉ số sinh hóa quan trọng giúp phân loại đến giống
và loài trong phân loại sinh hóa (Chemotaxonomy), ví dụ chỉ số Chargaff
của Micrococcus luteus là 4 và của Clostridium perfringens là 0,34.
3.9. Plasmid
Ngoài các gen nằm trong genophore ra, tế bào vi khuẩn (và một số
loài nấm men) có thể chứa các yếu tố di truyền ngoài thể nhiễm sắc, chúng
có thể tự nhân lên. Vì vậy mà năm 1952, Lederberg đã gọi chúng là
plasmid để chỉ tính chất độc lập của chúng với các gen nằm trên thể nhiễm
sắc.
Khái niệm vật chất di truyền ngoài thể nhiễm sắc bao gồm DNA của
các ty thể, lục lạp (nếu có), các plasmid, các yếu tố giới tính, các yếu tố
"diệt", một số prophage…
Khoa học đã xác định plasmid có ở rất nhiều loài vi khuẩn như E.
coli, các trực khuẩn đường ruột và vi khuẩn Gram âm, tụ cầu khuẩn
33

Staphylococcus aureus, xạ khuẩn Streptomyces coelicolor và ở Rhizobium


melitoli…
Plasmid là phân tử DNA vòng kín 2 mạch, hiếm thấy 2 mạch thẳng,
nằm ngoài thể nhiễm sắc, có kích thước nhỏ (bằng khoảng 1/100 thể
nhiễm sắc của vi khuẩn, gần giống một prophage), có khả năng tự nhân
lên độc lập với tế bào và chúng được phân sang các tế bào con khi nhân
lên cùng với sự nhân lên của tế bào. Các plasmid có thể tăng lên hoặc
giảm đi khi có yếu tố bất lợi như nhiệt độ, thuốc màu, kháng sinh, các chất
dinh dưỡng… Các plasmid có thể ở trạng thái cài vào thể nhiễm sắc, có
khả năng tiếp hợp hoặc không tiếp hợp, có thể có một hoặc nhiều bản sao
cùng loại ngay trong một tế bào vi khuẩn.
Các plasmid không phải là yếu tố nhất thiết phải có đối với sự sống
tế bào, nhưng khi có mặt, chúng đem lại cho tế bào nhiều đặc tính chọn
lọc quý giá như có thêm khả năng phân giải một số hợp chất, chống chịu
với nhiệt độ bất lợi, chống chịu với các kháng sinh… Thường thì các
plasmid nhân lên khi tế bào nhân lên hay tế bào tiếp hợp, nhưng không có
nghĩa sự nhân lên của plasmid phụ thuộc vào sự nhân lên của tế bào. trong
trương hợp cùng nhân lên, chắc phải có cơ chế kiểm soát đảm bảo đồng
thời sự nhân lên, số lượng bản sao và sự phân chia đồng đều các bản sao
cho hai tế bào con, cho đến nay cơ chế này còn chưa sáng tỏ. Có những
plasmid có thể chuyển từ tế bào cho sang tế bào nhận nhờ tiếp hợp (tiếp
hợp được), ngược lại có plasmid không tiếp hợp được. Các plasmid qua tụ
cầu khuẩn Staphylococcus chỉ có thể chuyển sang tế bào nhận nhờ tải nạp.
Một số plasmid (ví dụ yếu tố giới tính F) có thể xâm nhập vào thể
nhiễm sắc ở vị trí đặc biệt có trật tự nucleotide bổ trợ với đoạn nucleotide
trên plasmid, những site như vậy gọi là những yếu tố gia nhập (IS), những
IS này gồm khoảng 1000bp và thấy ở E. coli như IS 1 (768bp) và IS 2
(1327bp). Như vậy, các yếu tố gia nhập (yếu tố điền vào - IS) là đoạn
nucleotide nhỏ (700 - 1500bp) thường chỉ mã hóa sự chuyển vị
(transposition) (tạo ra các site - tự cắt đứt trước của DNA).
Các yếu tố di truyền vận động (Transposon - Tn) là những đoạn
nucleotide dài hơn (vài ngàn đến vài vạn bp) mã hóa khả năng thay
đổi tính chất (như chống chịu) thường định vị bên cạnh IS. Các gen
vận động này có thể di chuyển trong nôi bộ một thể nhiễm sắc hoặc
giưa các thể nhiễm sắc. Các yếu tố Tn thấy ở E.coli như Tn5 (5700bp)
chống chịu Kanamycine, Tn681 (2100bp) sinh độc tố ruột, Tn2571
(23000bp) chống chịu Chloramphenicol, Tn3 (4597bp) chống chịu
Ampicillin. Tần số của sự chuyển vị (Transposition) cũng như tần số
của các đột biến tự phát ngẫu nhiên (10-5 - 10-7).
34

3.10. Tiên mao (Flagelles), tiêm mao (Cils) và nhung mao (Pili)
Tiên mao thường thấy ở Vibrio, Spirillum và nhiều loài vi khuẩn
Gram âm. Số lượng tiên mao có thể từ 1 - 30 sợi tùy thuộc vào loài vi
khuẩn. Một tiên mao có chiều dài từ 6 - 30μm và đường kính 10 -
30nm (12nm ở Proteus, 20 - 25nm ở Vibrio và Pseudomonas). Khi
tiên mao ngắn thì người ta thường gọi là tiêm mao. Tiên mao có cấu
tạo từ một loại protein gần với Keratin mà người ta gọi là flagelline,
protein có trọng lượng phân tử khoảng 40.000 (trong đó có các acid
amin chủ yếu là arginine, lysine, acid aspartic, acid glutamic và
tyrosine), những protein này có tính kháng nguyên (H, kháng nguyên
ứng nhiệt).
Tiên mao giúp cho vi khuẩn chuyển động, khi vi khuẩn di động
tiên mao xoáy vào nước hoặc môi trường lỏng (có thể tới 100 vòng
trong 1 giây), trong khi tiêm mao chuyển động như que gạt. Mặc dù
vậy, trong vi sinh học người ta thường dùng tiên mao và tiêm mao với
cùng một nghĩa, chúng khác với nhung mao (pili) là những sợi mảnh
và ngắn hơn nhiều, thường có xung quanh tế bào Gram âm và ít thấy ở
tế bào vi khuẩn Gram dương. Người ta chia nhung mao (pili hoặc
fimbria) làm 2 loại: loại nhung mao phổ thông (Type I) và loại nhung
mao giới tính (Type II). Loại nhung mao phổ thông phân bố với số
lượng lớn trên bề mặt tế bào vi khuẩn (vài trăm), người ta cho rằng
loại nhung mao này có liên quan đến tính chất kết dinh máu của vi
khuẩn, loại nhung mao này ngắn hơn nhung mao giới tính (loại II có
thể dài tới 10μm), số lượng nhung mao giới tính rất ít, khoảng 1 - 4, ở
đầu cùng có chổ phình ra, nhung mao loai II có vai trò quan trọng
trong quá trình tiếp hợp (conjugation) giữa 2 tế bào vi khuẩn.
Trong số các sợi (tiêm mao và nhung mao) trên bề mặt tế bào vi
khuẩn thì tiên mao được nghiên cứu kỹ hơn và người ta chia chúng
làm 2 nhóm phân bố: phân bố ở cực (polaire) và phân bố xung quanh
(peritriche).
Sự chuyển động của tế bào vi khuẩn có thể đạt tới 10μm/s (tức
là trong 1 giây vi khuẩn có thể đi được khoảng cách dài gấp 10 lần nó)
nên đòi hỏi một năng lượng rất lớn (khoảng 2% năng lượng trao đổi
chất của tế bào). Bộ máy xoay tiên mao ở gốc nằm trong màng sinh
35

chất và thành tế bào gồm 2 vành khuyên, vành trong gồm 16 đơn phần
protein có thể dịch chuyển rất nhanh nhờ dòng proton (H+) đi vào.
Cách sắp xếp tiên mao là một tiêu chuẩn trong phân loại hình
thái (Morphology taxonomy) vi khuẩn:
- Đơn mao ở cực (Monotriche polaire hay parapolaire) đặc trưng
cho nhiều loài Vibrio hoặc chùm mao ở cực (Lophotriche) đặc trung cho
nhiều loài Pseudomonas, Chromatium và Thiospirillum.
- Lưỡng cực (Amphitriche hay Cephalotriche) có thể chùm mao ở
lưỡng cực như các loài Spirillum.
- Chu mao (Peritriche) hay tiên mao sắp xếp xung quanh thân tế bào
vi khuẩn đặc trưng cho nhiều loài Prote
3.11. Nội bào tử vi khuẩn (Endospores)
Một số vi khuẩn ở cuối giai đoạn sinh trưởng, khi chất dinh dưỡng ở
môi trường cạn kiệt và chất qua trao đổi độc hại quá nhiều, hoặc do có sự
thay đổi đột ngột các điều kiện sinh trưởng có khả năng hình thành bào tử
ở bên trong tế bào, được gọi là nội bào tử (endospores). Mỗi tế bào vi
khuẩn chỉ tạo một nội bào tử nên loại bào tử này không phải là bào tử sinh
sản, khác với các loại đính bào tử (conidiospores), bào tử túi (ascospores)
hay bào tử đảm (basidiospores) ở nhiều loài nấm, chúng là những bào tử
sinh sản vô tính hay hữu tính.
Những vi khuẩn có khả năng hình thành nội bào tử gồm nhiều loài
thuộc các giống Bacillus, Clostridium, Desulfotomaculum, Sporosarcina,
Sporolactobacillus, Thermoactinomyces.
Vỏ bào tử đặc trưng bằng sự có mặt của acid dipicolinic (dưới dạng
dipicolinate calcium), hợp chất này có thể chiếm tới 10 - 15% trọng lượng
khô của bào tử. Vai trò của hợp chất dipicolinate calcium làm cho bào tử
chống chịu được nhiệt độ cao, khi thí nghiệm người ta đã thay calcium
bằng strontium thì khả năng chịu nhiệt của bào tử thu được kém đi.
Một hợp chất khác của vỏ bào tử mới tìm thấy là acid L.N-succinyl-
glutamic không có trong tế bào sinh dưỡng và chỉ được tổng hợp khi hình
thành bào tử, ngay giai đoạn đầu khi hình thành vách ngăn DNA mới với
một ít nguyên sinh chất, hợp chất này giúp cho bào tử bền nhiệt.
Khi hình thành bào tử, tế bào có thể mất đi đến 70% nước. Một số vi
khuẩn khi hình thành bào tử có thể tồn tại rất lâu trong tự nhiên, ví dụ Bac.
anthracis có thể sống tiềm sinh trong nhiều năm. Trong một số chất độc tế
bào vi khuẩn bị chết rất nhanh nhưng bào tử có thể tồn tại được khá lâu, ví
dụ trong phenol có thể vẫn sống trong 15 ngày, trong HgCl2 1% tồn tại
36

trong 2 ngày. Thời gian để hình thành bào tử khác nhau tùy loài (từ vài giờ
đến 20 giờ).
Khi đưa bào tử vào môi trường thuận lợi để phát triển, bào tử sẽ có
hàng loạt thay đổi tích cực và mọc mầm, quá trình mọc mầm gồm 3 giai
đoạn chủ yếu: hoạt hóa, nứt vỏ và mọc ra. muốn quan sát được bào tử
người ta dùng phương pháp nhuộm đơn hoặc kép.
4. Xạ khuẩn và vi khuẩn nội bào
Những vi khuẩn thuộc bộ Actinomycetales (nhóm bậc thấp và bậc
cao) là những vi khuẩn có hình sợi Gram dương, sợi có thể phân nhánh,
thường gặp chúng trong đất và nước. Nhưng xạ khuẩn rất gần với nấm về
hình dạng hệ sợi phát triển trong cơ chất như bộ "rễ" hấp thụ chất dinh
dưỡng, hệ sợi mặt có chất tạo nên khung của khuẩn lạc và hệ sợi khí sinh
tận cùng bằng những cuống mang bào tử. Đó là những loài thuộc giống
Streptomyces, một giống đã khai thác được khoảng 50% số kháng sinh
hiện biết, đường kính sợi khoảng 1- 2μm (nhỏ hơn nhiều so với đường
kính sợi nấm 7 - 9μm). Xạ khuẩn cũng giống như vi khuẩn là chưa có
nhân được bao bọc bằng màng, thành tế bào xạ khuẩn khong chứa
cellulose hay chitine mà chứa hợp chất điển hình của vi khuẩn là
glucopeptide. Xạ khuẩn cũng có quá trình sinh sản phân bào theo kiểu
amitose (phân bào không tơ), loại vi khuẩn này cũng chưa có giới tính,
nghĩa là chưa có sự phân hóa thành tế bào đực, cái và có thể hình thành
hợp tử từng phần nhờ tiếp hợp, tải nạp và biến nạp, xạ khuẩn cũng bị
phage tấn công và gọi là Actinophage.
Streptomyces là một giống xạ khuẩn bậc cao được Waksman và
Henrici đặt tên năm 1943. Chúng có vị trí tiến hóa cao trong số các giống
thuộc vi khuẩn Gram dương, có trị số % mol Guanine và Xytozin rất cao
(69 - 77% (G + X) trong DNA).
Xạ khuẩn sinh sản vô tính bằng bào tử. Trên đầu sợi khí sinh của
Streptomyces hình thành cuống bào tử và chuỗi bào tử. Sợi mang bào tử có
những hình dạng khác nhau tùy theo loài: thẳng-lượn sóng (Retiflexibilis), xoắn
(Spirales) hoặc có móc, vòng (Retinaculiaperti)… đoạn tận cùng của cuống
mang bào tử bằng phương pháp cắt khúc (segmentation) hay kết đoạn
(fragmentation) mà hình thành nên chuỗi bào tử.
Bào tử xạ khuẩn (Arthrospores bào tử đốt) hình bầu dục, hình lăng
trụ hoặc hình cầu với đường kính khoảng 1,5μm. Màng bào tử xạ khuẩn
có thể nhẵn (smooth), gai (spiny), tóc (hairy), khối u (warty), nếp nhăn
(rugose)… tùy thuộc vào loài xạ khuẩn. Những tiểu tiết này có thể thay
đổi theo quy luật trên môi trường nuôi cấy, thường thì xạ khuẩn có tiểu tiết
37

có thể có màng nhẵn trên môi trường có nguồn nitơ hữu cơ, trên môi
trường có đạm vô cơ và glucose các bào tử dễ biểu hiện các tiểu tiết rõ
nhất. Màu sắc của khuẩn lạc và hệ sợi khí sinh cũng rất khác nhau tùy theo
nhóm Streptomyces, màu sắc này cũng có thể biến đổi khi nuôi cấy trên
môi trường khác nhau, chính vì vậy mà ủy ban quốc tế về phân loại xạ
khuẩn (ISP) đã nêu ra các môi trường chuẩn và phương pháp chung để
phân loại nhóm vi sinh vật này. Hiện nay khoa học đã mô tả được khoảng
600 loài xạ khuẩn bậc cao này.
- Rickettsia là một giống của Rickettsiaceae, Rickettsiales, đây là vi
khuẩn ký sinh nội bào, có 3 nhóm (Tribus): Rickettsiae, Ehrlichiae và
Wolbachiae với 2 giống chủ yếu là Rickettsia và Coxiella, ký sinh ở động
vật có xương. Những vi khuẩn này cũng có 2 loại acid nucleic, thành tế
bào cũng có hợp chất đặc trưng của thành tế bào vi khuẩn, sinh sản bằng
cách chia đôi khi ở trong tế bào động vật.
- Chlamydia là một giống của Chlamydiaceae, thuộc bộ
Chlamydiales, là những vi khuẩn ký sinh bắt buộc, Gram âm và có nhiều
điểm giống Rickettsia, trong động vật có xương sống chúng không tạo ra
ATP riêng mà sử dụng ATP của vật chủ, kích thước của chúng rất nhỏ
(0,3 - 0,45μm) vì thế trong một thời gian dài trước đây người ta coi chúng
là một loại virus (virus kiềm tính Van Royen).
- Mycoplasma thuộc họ Mycoplasmaceae, họ độc nhất của bộ
Mycoplasmales (đôi khi là Mycoplasmatales - Freundt, 1955). Chúng là
những vi khuẩn không có thành tế bào, thân mềm dễ biến hình, bất động.
Trong bộ Mycoplasmales có các dạng vi khuẩn Mycoplasma dạng L và
PPLO. Đây là những vi khuẩn thuộc Tenerecutes, lớp Mollicutes, đó là lớp
vi khuẩn tiêu giảm thành, vi khuẩn có kích thước nhỏ nhất khoa học hiện
biết (0,1 - 0,3μm) vì vậy chúng dễ qua màng lọc vi khuẩn, chúng là tác
nhân gây các bệnh hô hấp, tiết niệu - sinh dục.
5. Vi sinh vật cổ (Archaea)
Các vi sinh vật cổ mà trước đây gọi là các vi khuẩn cổ
(Archaeobacteria) là nhóm cơ thể nhân sơ có sớm nhất (khoảng 4 tỷ năm
trước đây), được Woese R. và Woese C.R. tách ra thành một nhánh tiến
hóa riêng. Những cơ thể còn lại hiện nay thường sống trong các điều kiện
khác thường.
Những nghiên cứu gần đây về nhiệt độ và pH tối ưu của vi khuẩn ưa
nhiệt và Archaea cho phép chia vi sinh vật cổ thánh 2 nhóm: Crenarchaeota và
Euryarchaeota. Nhóm Crenarchaeota là những vi sinh vật cổ kị khí bắt buộc,
ưa nhiệt và ưa acid (Thermoacidophiles, Thermophiles anaerobies stricts).
38

Nhóm Euryarchaeota là những vi sinh vật cổ ưa mặn, sinh methane


(methanogenes) và một vài loài kị khí ưa nhiệt.
Bảng 2.3: So sánh một số tính chất giữa vi khuẩn và vi sinh vật cổ
Tính chất Bacteria Archaea
Thành phần thành tế bào Murein Pseudomurein,
protein, polysaccharide
Lipid của màng Glycerol, acid Glycerol, ete
béo, aster isopranyl
Hình dạng tế bào có loại - + (hoặc không)
hình vuông và dẹt
Nội bào tử (endospore) + (hoặc không) -
Chất "ở nhánh" của RNAt Ribothymidine Pseudouridine hoặc
L.methylpseudouridine
Hình thành chất kích thích + -
methyonyl RNAt
Các intron trong gen - +
Có Polymerase - RNA loại - +
nhân chuẩn
Có coenzyme đặc biệt - +
Nhiệt độ sinh trưởng tối đa 900C 1100C
Có quang hợp phức tạp Có thể -
Có thể sinh methane - +
Chu trình Calvin được sử Có thể -
dụng khi cố định CO2
Những vi sinh vật cổ (số liệu chủ yếu dựa trên methanogenes) là
những đơn bào nhỏ khoảng 1μm có thành tế bào gồm những hợp chất đặc
biệt (thay vì murein ở đây có acid talosaminuronic, ester của acid béo
mạch không thẳng và glycerol, sự phân nhánh của chuỗi dang ether (-O-)
mà không phải dạng ester (-CO-O-) (lipide ether-phytanyl), có nhiều liên
kết muối và hydro trong protein, có pseudouracil ở vị trí uracil trong
RNAt, không có dihydrouracil, thymine trong vòng bên của RNAt, chất
nhân phân tán trong sinh chất với lượng nhỏ (chỉ bằng khoảng 1/3 so với
chất nhân của E.coli). DNA của chúng giàu hàm lượng G + X (mối liên
kết 3 hydrrogen), ribosome loại cơ thể nhân sơ, có intron, có coenzyme
đặc biệt (M), hầu như không có sự ổn định về quinon và cytochrome.
Chính những đặc điểm đó đã giúp cho vi sinh vật cổ sống trong những
điều kiện khác thường: nhiệt độ cao (có loài sống được ở 2500C) dưới 265
atm, chống chịu với lysozyme…
Có 3 nhóm sinh lý và sinh thái quan trọng là:
* Các cơ thể sinh methane (methanogenes), đây có lẽ là nhánh cổ
xưa nhất, ở các lớp nước sâu, ở đáy, kị khí, một số loài tìm thấy trong
39

đường tiêu hóa của động vật nhai lại. Phân loại cơ thể sinh methane dựa
chủ yếu vào khả năng và cơ chế sinh methane của chúng, gồm có 5 bộ:
- Methanobacteriales, có các loài: Methanobacterium ivanovii, M.
thermoautotrophicum, M. smithii, M. fervidus, M. sociabilis.
- Methanococcales, có các loài Methanococcus voltae, M. vannielii,
M. thermolithotrophicus.
- Methanomicrobiales, có loài Methanomicrococcus sp.
- Methanosarcinales, có các loài Methanosarcina mazeii, M.
barkeri, M. thermophila, M. acetivorans, Methanothrix sp.
- Methanopyrales có loài Methanopyrus sp.
Những cơ thể sinh methane có thể thực hiện những cơ chế khác
nhau tùy theo loài (hầu hết là cơ thể kị khí bắt buộc):
CO2 + 4H2 → CH4 + 2H2O (ΔG10 = -135,4 KJ/mol)
CH3COOH → CH4 + CO2 (ΔG10 = -32,5 KJ/mol)
HCOOH + 3H2 → CH4 + 2H2O
CH3OH + H2 → CH4 + H2O (ΔG10 = -112,5 KJ/mol)
CH3NH2 + H2 → CH4 + NH3
(CH3)2S + 2H2 → 2CH4 + H2S
Người ta cho rằng những cơ thể sinh methane cùng với cơ thể dinh
dưỡng methane (methanotrophes) đã làm tuần hoàn nguyên tử carbon
trong thời kỳ khí quyển không có hoặc rất ít oxy.
Sự biển đổi từ CO2 thành CH4 được biết ở vi sinh vật cổ có 4 giai đoạn:
+
2H 2H+ 2H+ 2H+
2e- 2e- 2e- 2e-
CO2 HCOOH HCHO CH3OH CH4
acid formic H2O formandehyde methanol H2 O
Trong khi đó, quá trình oxy hóa methane ở cơ thể dinh dưỡng
methane (methanotrophes) được thực hiện theo cơ chế như sau:
CO2

CH4 CH3OH HCHO HCOOH CO2

2H+ H PQQ PQQH2 NAD+ NAD+H+ NAD+ NAD+H+2e-


Cơ thể đồng hóa
40

* Các cơ thể ưa mặn (halophiles) như Haloarcula, Halobacterium.


Những cơ thể này sống trong môi trường có nồng độ muối cao (ở biển, ở
các mỏ muối), hấp thu chất dinh dưỡng chủ yếu là do chênh lệch gradient
nồng độ muối tạo ra, quá trình quang hợp ở đây khá đặc bieet nhờ
Bacteriorhodopsine, hợp chất liên kết trong màng sinh chất chứ không
phải là khuẩn diệp lục tố (bacteriochlorophyll).
* Các cơ thể ưa nhiệt, ưa acid (Thermoacidophiles), là những cơ thể
sống ở nguồn đất - nước nóng, ở vùng núi lửa, chúng là những cơ thể hiếu
khí hoặc hiếu kị khí.Ví dụ:
Sulfolobus acidocaldaricus có nhiệt độ sinh trưởng tối đa là 900C và
tối ưu là 750C, ở pH tối ưu là 2,5.
Thermoplasma acidophilum có nhiệt độ sinh trưởng tối đa là 650C
và tối ưu là 600C, ở pH tối ưu là 1,5.
6. Nguyên tắc phân loại cơ thể nhân sơ
Cơ thể nhân sơ ngày càng được phát hiện nhiều hơn, vì vậy để nhận
biết và sử dụng chúng ta cần phải đặt tên cho nó và phải phân loại chúng.
Taxonomy là khoa học nghiên cứu sự đa dạng của vi sinh vật và mối
liên hệ vốn có tồn tại giữa chúng. Khoa học định loại này bao gồm 3 lĩnh
vực khác nhau: Classification (xếp loại), Nomenclature (đặt tên) và
Identification (nhận biết).
Bảng 2.4. Bảng định loại các nhóm lớn cơ thể nhân sơ
(Dựa chủ yếu vào Gergey's Manual, 1984, tên siêu giới đã được đề xuất)
Tên định loại Nhóm cơ thể

+ Siêu giói nhân sơ (Super Cơ thể nhân chưa có màng


kingdom procaryote)
A. Giới vi khuẩn (Kingdom Cơ thể có thành tế bào với hợp chất murein
Bacteria)
I. Ngành I: Gracilicutes Cơ thể nhân sơ có thành đặc trưng vi khuẩn
Gram âm
Lớp 1: Scotobacteria 1. Vi khuẩn hóa dưỡng vô cơ
(Chimiolithotrophes)
2. Myxobacteria
3. Vi khuẩn có bao (Trichome).
4. Vi khuẩn dính kết và vi khuẩn có chồi
5. Spirochaete
6. Vi khuẩn Gram âm, hiếu khí và vi hiếu
khí
7. Vi khuẩn Gram âm, kị khí không bắt buộc
41

8. Vi khuẩn Gram âm, kị khí bắt buộc


9. Rickettsia và Chlamydia
Lớp 2: Vi khuẩn quang hợp 10. Vi khuẩn quang dưỡng
không thải oxy
(Onoxyphotobacteria)
Lớp 3: Vi khuẩn quang hợp thải 11. Cyanobacteria
oxy (Oxyphotobacteria)
II. Ngành II: Firmicute Cơ thể nhân sơ có thành vi khuẩn gram
dương
Lớp 1: Fimibacteria 12. Vi khuẩn Gram+, không sinh bào tử
13. Vi khuẩn Gram+, sinh bào tử
Lớp 2: Thallobacteria 14. Vi khuẩn tia và chỉ (Actinomycetales)
(xạ khuẩn)
III. Ngành III: Tenericutes 15. Mycoplasmes
B. Giới sinh vật cổ (Kingdom
Archaea) Mendosicutes
Lớp 1: Archaea Cơ thể nhân sơ không có thành, hoặc có
thành với hợp chất đặc trưng
Pseudomurein, kiểu sinh lý rất đặc biệt.
Đã từng chiếm đa số trên hành tinh cách
đây 3 tỷ năm về trước, hiện nay chỉ còn lại
vài nhóm: Methanogens, Halophiles và
Thermoacidophiles…
Sự xếp loại (Classification) thiết lập các nhóm định loại (các taxon)
căn cứ vào những tieu chuẩn hình thái và phân tử cấu tạo tế bào.
Sự đặt tên (Nomenclature) là đưa ra một tên cho một nhóm, một cá
thể theo nguyên tắc của Linaeus gồm 2 từ, một từ latin chỉ giống và từ kế
tiếp chỉ loài. Ví dụ tên của trực khuẩn cỏ khô là Bacillus subtilis.
Sự nhận biết (Identification) chỉ định các loài nghiên cứu vào một
trong các loại (các taxon) đã mô tả.
Phân loại học vi khuẩn ngày nay sử dung phương pháp định loại
hình thái (Taxonomy phenetic), hay sử dụng phương pháp định loại số
(Taxonomy numeric), phương pháp này sử dụng một lượng lớn các tính
trạng và so sánh các tính chất để rút ra sự giống nhau giữa hai cá thể, trong
đó chỉ số Jaccard là dễ hiểu và thông dụng nhất trong nghiên cứu đại
cương.
nS+ SAB = hệ số giống nhau giữa A và B
SAB = nS+ = số các đặc điểm giống nhau
nS+ + nd nd = số các đặc điểm khác nhau.
42

Vi khuẩn học còn sử dụng phương pháp định loại di truyền


(Taxonomy genetic), 3 tiêu chuẩn được sử dụng ở đây là chỉ số (G + X)%
(hệ số Chargaff), tử số lai DNA - DNA, số lượng và trật tự các nucleotide
trong 16sRNAt và 5sRNAt. chỉ số lai DNA - DNA là một tiêu chuẩn bắt
buộc để phân tích vị tría các loài vi khuẩn, cho đến nay các loài của họ vi
khuẩn đường ruột Enterobacteriaceae đã cho lai với nhau và thiết lập
được mối liên hệ chủng loại phát sinh giữa chúng. Theo Woese (1981) trật
tự nucleotide trong 16sRNAt là một chỉ số quan trọng xác định sự gần gũi
của hợp chất protein và từ đó quy định mối quan hệ chủng loại phát sinh
giữa các nhóm vi khuẩn. Chính nhờ phân tích 16sRNAt mà hình thành một
hướng định loại mới - định loại chủng loại phát sinh (polygenetic
taxonomy), nhờ đó có thể tách các vi sinh vật cổ ra khỏi vi khuẩn và chứng
minh nó là nhánh tiến hoa độc lập khác xa xạ khuẩn. Các phương pháp
định loại sinh hóa (chimiotaxonomy) ngày nay đã được sử dụng rộng rãi,
như các hợp chất polymer của thành tế bào vi khuẩn (bao gồm vi khuẩn
Gram dương, Gram âm và Cyanobacteria) là peptidogulcan (murein), hợp
chất đặc trưng này không thấy ở nhóm vi khuẩn tiêu giảm thành
Mycoplasmes và ở các vi sinh vật cổ. Các vi sinh vật cổ có hợp chất thành
đặc trưng là pseudomurein, trong đó acid muramic được thay bằng acid
talosaminuromic.
Các mức đơn vị phân loại dùng trong vi sinh vật học là:
Clone → biotype → species → genus → familia → order → classe
→ division → kingdom
- Dòng tế bào (clone): là một quần thể vi khuẩn (hay vi sinh vật) có
được từ một tế bào bố mẹ ban đầu nhờ sự phân chia vô tính.
- Dạng (biotype): một nhóm cá thể có chung đặc điểm di truyền
tuyển chọn và những đặ điểm chủ yếu, dạng có được từ tuyển chọn các
dòng, đây là đơn vị hay dùng trong công nghệ vi sinh.
- Chủng (nòi - souche): là từ thông dụng trong kỹ thuật thực hành,
đó là taaoj hợp những cá thể có được do sự cấy chuyền từ một khuẩn lạc
vi khuẩn.
- Loài (species): tập hợp những cá thể giống nhau về hình dạng, cách
sống, có thể sinh sản bình thường giữa chúng và thường không có khả
năng này với các cá thể thuộc loài khác.
- Giống (genus): tập hợp các vi khuẩn trong bảng xếp loại dưới họ,
trên loài, tập hợp các loài rất gần nhau.
- Họ (familia): tập hợp các giống có một số đặc điểm chung.
43

- Bộ (order): một nhánh trong bảng xếp loại vi khuẩn, bao gồm một
số họ gần nhau nằm dưới lớp.
- Lớp (class): một nhánh trong bảng xếp loại vi khuẩn, bao gồm vi
khuẩn trong một số bộ gần nhau.
- Ngành (division): tập hợp các vi khuẩn ở một số lớp có chung một
số đặc điểm cơ bản.
II. Vi sinh vật nhân chuẩn.
1. Vi nấm
Các cơ thể nấm với cấu tạo thành tế bào, kiểu trao đổi chất và hệ
enzyme khác biệt với các cơ thể nhân chuẩn khác (thực vật, động vật) và
khác xa với cơ thể nhân sơ nên từ lâu đã được xếp thành một giới riêng -
đó là giới nấm (Kingdom Fungi).
Có 3 danh từ thường dùng để chỉ nấm là: nấm men (Levures,
Yeasts), nấm mốc (Moisissures) và nấm lớn hay nấm có quả thể. Trong vi
sinh vật học, vi nấm được hiểu là các nấm có cơ thể hiển vi, bao gồm hai
nhóm:
- Nấm đơn bào hay nấm men.
- Nấm sợi hay nấm mốc.
1.1. Nấm men (Levures, Yeasts)
Nấm men là nhóm nấm cơ thể đơn bào, nhân chuẩn, hiển vi. Nấm
men có thể thuộc về 3 lớp nấm là nấm túi (Ascomycetes), nấm đảm
(Basidiomycetes) và nấm bất toàn (Deuteromycetes). Trong số 75.000 loài
nấm hiện biết thì có hơn 500 loài nấm men thuộc khoảng 50 giống. Nấm
men có hình trứng, quả dưa chuột đứng riêng lẻ hoặc tập hợp thành sợi dễ
gẵy, kích thước tế bào từ 7 - 10μm.
Trên môi trường sống, có những loại nấm men sinh các sắc tố đặc
trưng như đỏ, vàng… Nấm men sinh sản vô tính bằng đâm chồi hoặc phân
chồi, giữa quá trình này có thể sinh sản hữu tính. Nấm men có 3 dạng chu
trình sinh học:
- Chu trình đơn bội - lưỡng bội như loài Saccharomyces cerevisiae.
- Chu trình ưu thế lưỡng bội như loài Saccharomycodes ludgyzii.
- Chu trình ưu thế đơn bội như ở loài Schizosaccharomyces
octosporus.
Nhờ kính hiển vi điện tử khoa học đã thấy có sự khác nhau về thời
gian hình thành thoi vô sắc trong sinh sản vô tính ở nấm men phân đôi và
nấm men đâm chồi.
44

Nấm men nhân đôi thì trong chu kỳ phân bào cũng có các giai đoạn
G1, S, G2 và M như sinh vật nhân chuẩn. Trong khi màng nhân chưa được
phát tán, các thoi vo sắc của mitose được hình thành trong nhân và thể
nhiễm sắc được đưa về hai cực, sau đó mới hình thành vách ngăn tạo
thành hai tế bào riêng.
Ở nấm men đâm chồi có các pha G1 và S bình thường, nhưng thoi vô
sắc ở đây được hình thành rất sớm ngay cuối pha S làm cho pha G2 không
bình thường (ngắn lại) và trong khi chưa hình thành hai nhân thành tế bào
đã bắt đầu gấp lại.
Cơ chế tách các thể nhiễm sắc ở phân bào có tơ của nấm men là nhờ
các thoi vô sắc mà các thể nhiễm sắc trượt về hai đầu được diễn ra trong
nhân. Trong khi ở phân bào vô tơ của các vi khuẩn, các thể nhiễm sắc con
được hình thành vẫn đính lên màng sinh chất và chỉ được tách ra nhờ sự
phát triển và phân vách của màng.
So sánh cấu tạo tế bào nấm men và tế bào vi khuẩn ta thấy có sự tiến
hóa nhảy vọt từ cơ thể nhân sơ chuyển thành cơ thể nhân chuẩn. Cùng với
sự tiến hóa về nhân và cơ chế phân chia nhân (nhân có màng, có các thể
nhiễm sắc, phân bào có tơ…) ở cơ thể nhân chuẩn xuất hiện nhiều cơ quan
tử không thấy ở các cơ thể nhân sơ như ty thể, lục lạp (ở cơ thể nhân
chuẩn quang hợp)… Nghiên cứu các đặc điểm của cơ quan tử ta thấy rất
nhiều điểm giống cơ thể nhân sơ như DNA mạch vòng (DNA nhân mạch
thẳng), không có protein histone (thể nhiễm sắc trong nhân có histone),
ribosome 70 S (trong tế bào là 80S) và phân bào trực phân trong khi tế bào
phân bào gián phân.
Mặt khác, khoa học còn tìm thấy một ít loài động vật nguyên sinh
như Microsporidia và Giardia là những đơn bào nhân chuẩn kị khí còn lại
cho đến nay, không có ty thể, những cơ thể này đại diện cho một nhánh
tiến hóa tiêu giảm không ty thể của các cơ thể nhân chuẩn, kị khí so với
nhánh tiến hóa phát triển của các cơ thể nhân chuẩn hiếu khí.
Con đường tiến hóa hình thành ty thể trong các cơ thể nhân chuẩn
hiếu khí được thúc đẩy nhanh hơn khi hàm lượng oxy trong khí quyển
tăng lên. Người ta cho rằng một con đường tiến hóa để hình thành ty thể
trong tế bào nhân chuẩn là do sự tiếp xúc của các vi khuẩn nội cộng sinh
(endosymbiotic bacteria), những tế bào nhân chuẩn mang trong mình vi
khuẩn hiếu khí nội cộng sinh, sau những thời kỳ nội cộng sinh kéo dài, có
sự chuyển gen từ vi khuẩn vào nhân và chỉ còn lại một số gen tự trị trong
ty thể, đó là tế bào nhân chuẩn hiếu khí mang ty thể như ngày nay.
Ngoài những cấu tạo đặc biệt của nấm men so với vi khuẩn, thành tế
bào của nấm cũng là một nét rất đặc trưng. Thành tế bào nấm có đến 80%
45

là polysaccharide mang tính kháng nguyên, trong đó các hợp chất mannan,
glucan và chitine là rất quan trọng, phần còn lại là protein có thể đến 10 -
20%, trong đó gần một nữa là mannoprotein, chúng tạo thành 3 lớp của
thành tế bào nấm men.
Các polymer của thành tế bào có thay đổi chút ít phụ thuộc vào từng
nhóm nấm.
Bảng 2.5: Bảng phân nhóm đơn giản các nấm men
Lớp Bộ Họ Họ phụ Giống
(Classes)
Saccharomycetaceae Schizosaccharum Schizosaccharo-
vcetoideae myces
Nadsonioideae Hanseniaspora
Lipomycetoideae Lipomyces
Debaryomyces
Nấm túi (Ascomycetes)

Saccharomycetoi-
deae
Hansenula
Endomycetales

Kluyveromyces
Pichia
Spermophthoraceae Sacharomyces
Coccidiascus
Ustilagi Filobasidiaceae Filobasidium
đảm

-nales Leuvures Leucospiridium


(Basidiomy-

Tremell- Sirobasidiaceae Sirobasidium


toàn Nấm

cetes)

ales
Tremellaceae Tremalla
Cryptococcaceae Cryptococcoideae Brettanomyces
Candida
(Deuteromy-cetes)

Cryptococcus
Blastomycetales
bất

Torulopsis
Rhodotoruloideae Rhodotorula
Trichospororoideae Trichosporon
Nấm

Sporobolomycetaceae Sporobolomyces
Nấm men chiếm một vị trí đặc biệt trong công nghiệp thực phẩm:
làm nở bột mì, nấu rượu, làm rượu vang, làm pho mát, sản xuất sinh khối
để chế protein (trong nấm men có thể chứa đến 40% đạm của trọng lượng
khô). Riêng sản xuất bánh mỳ hằng năm thế giới đã tiêu thụ 1,7 triệu tấn
nấm men bánh mỳ.
46

1.2. Nấm mốc


Nấm mốc là loại nấm sợi điển hình. Cũng như nấm men, nấm sợi là
những cơ thể dị dưỡng, một số sống cộng sinh với thực vật, khi cộng sinh
với tảo đơn bào hoặc tập hợp đơn bào thì hình thành địa y (Lichens).
Một số nấm ký sinh trên động vật và thực vật gây nên các bệnh nấm
rất khó chữa. Nhiều nấm sống hoại sinh sử dụng rác thải hữu cơ động vật
và thực vật hoặc phá hoại thức ăn, vật dụng hằng ngày. Chúng thường có
những enzyme phân giải rất mạnh như hệ enzyme phân giải cellulose, phân
giải pectin, các enzyme amylase, protease, lipase… Con người từ lâu đã
biết sử dụng mặt có lợi của nấm mốc trong việc chế tương, nước chấm,
sản xuất kháng sinh, tạo các enzyme…
Bảng 2.6: Bảng phân loại đơn giản một số giống nấm mốc
Ngành Ngành phụ Lớp Bộ Giống
Amastigo- Zygomycotina Zygomycetes Mucorales Mucor
mycota (Zygomycetes) Rhizopus
Ascomycotina Plectomycetes Eurotiales Emericella
(A. nidulans)
Pyenomycetes Spahaeriales Neurospora
(N. grassa)
Hemiascomycetes Endomycetales Eremothecium
(nấm men)
Basidiomycotina Hemibasidiomycetes Urenidales Puccinia
(Basidiomycetes) Ustilaginales Ustilago
Candida
Geotrichum
Deuteromycotina Hyphomycetes Aspergillus
(Deuteromycetes) (dạng nấm men = (A. flavus, A.
Blastomycetes) niger)
Hyphomycetes Moniliales Penicillium
P. votatum,
P.
camenbertii,
P. roquefortii)
Sợi nấm có thể có vách ngăn như các lớp nấm bậc cao
(Ascomycetes, Basidiomycetes, Deuteromycetes) hoặc hình ống trong đó
sợi có nhiều nhân mà người ta gọi là sợi cộng bào (coenocytis). Những
loài nấm sợi không vách ngăn thuộc về các nấm bậc thấp như Oomycetes
47

và Zygomycetes. Các vách ngăn không ngăn cách hoàn toàn giữa các tế
bào của sợi mà chúng thường liên hệ với nhau qua lỗ vách. Một bào tử khi
rơi vào môi trường thuận lợi sẽ nảy mầm và tạo thành khuẩn lạc gồm hệ
sợi phát triển sâu vào cơ chất để hút thức ăn (sợi cơ chất - SM), sợi cơ chất
tạo thành khung của khuẩn lạc và sợi khí sinh mang các cuống bào tử (sợi
khí sinh - AM)
Các nấm bậc thấp có thể sinh ra các động bào tử một roi
(chytridiomycetes) hoặc hai roi (Oomycetes) trong chu trình sinh sản của
mình. Các nấm bậc cao như loài Aspergillus và Penicillium có thể hình
thành cầu tiếp hợp giữa hai tế bào của hai sợi (+ và -), đó là hiện tượng
sinh sản cận tính.
Các cuống mang bào tử phát triển từ một loại sợi khí sinh, có thể
phân nhánh hoặc không, trên đầu cuống bào tử có thể hình thành túi mang
bào tử (Mucor, Rhizopus) với các bào tử túi sinh sản vô tính hoặc trên đầu
cuống bào tử bằng phương pháp đâm chồi mà sinh ra các bào tử đính
(conidie hay conidiospore), các cuống sinh bào tử có thể tập hợp lại thành
thừng hay khoang đính bào tử (pycnide). Đôi khi các bào tử được hình
thành bằng cách phân đốt của sợi (Geo trichum) mà người ta gọi là bào tử
đốt (athrospore).
Các bào tử hữu tính được hình thành nhờ quá trình hữu tính kết hợp
các tế bào đực và cái (các giao tử) hoặc các sợi khác giới tính, hoặc do sự
hợp nhất hai nhân trong sợi cộng bào (coenocytis) để hình thành hợp tử,
sau đó nhờ giảm nhiễm mà hình thành các túi bào tử với các bào tử túi.
Ở các nấm đảm (Basidiomycetes) quá trình hình thành đảm và các
bào tử đảm là giai đoạn cuối cùng, quả thể nhìn thấy được bằng mắt
thường, trong khi phần lớn chu trình phát triển ở dạng sợi mốc. Ở các loài
nấm đảm quá trình hợp nhân xảy ra muộn hơn so với quá trình hợp chất
nguyên sinh. Giai đoạn sợi lưỡng nhân (một tế bào có 2 nhân) tồn tại khá
lâu, chỉ ở giai đoạn hình thành đảm mới có tế bào có nhân là 2n.
* Tổng quát về nấm:
Bảng 2.7: Các lớp nấm thường gặp
Lớp nấm Loại sợi Bào tử vô tính Bào tử hữu Nới sống Ví dụ
tính chính
Oomycetes không có bào tử chuyển động Oospora thủy sinh, Allomyces
vách ngăn nhiều loài gây
(coenocytic) bệnh cho cá,
mốc sương
khoai tây
Zygomycetes coenocytic bào tử túi, đôi khi bào tử Zygospora đất, phân giải Mucor,
đính (conidia) (bào tử tiếp chất hữu cơ Rhizopus
hợp) thực vật
48

Ascomycetes có vách đính bào tử (đâm chồi) bào tử túi đất, phân giải Neurospora,
ngăn, một số (ascospore) chất hữu cơ Saccharo-
đơn bào thực vật myces,
Morchella
Basidiomycetes có vách Uredospora, conidia bào tử đảm đất, phân giải Agaricus,
ngăn, một số (đâm chồi) (basidio- chất hữu cơ Amanita
đơn bào spore) thực vật
Deuteromycetes có vách bào tử đính, bào tử đốt chưa thấy đất, thực vật Candida,
ngăn, một số (arthrospora) và trên cơ thể Trychophyton,
đơn bào động vật Epidermo-
phyton

Bảng 2.8: Các kiểu bào tử nấm

Ví dụ giống nấm Kiểu bào tử Tính chất


Saprolegnia Bào tử vô tính (động bào Bào tử đơn, có roi, chuyên động
tử) Zoospores)
Aspergillus, Đính bào tử (Conidiospore) Bào tử đơn hoặc tập hợp thành
Penicillium chuỗi được hình thành trên cuống
bào tử (Conidiospore)
Mucor, Rhizopus Bào tử túi vô tính Bào tử được hình thành trong túi
(Sporangiospores) (bào tử vô tính)
Coccidioides Bào tử đốt (Arthrospores) Bào tử được hình thành bằng
cách chia đốt các sợi khí sinh
Candida Bào tử dây Thành dày, bào tử đơn, được hình
(Chlamydospore), bào tử thành bằng phân đôi hay chồi giống
mầm (Blastospore) nấm men
Saccharomyces, Bào tử túi Được hình thành trong túi (bào tử
Neurospora hữu tính), thường 4 - 8 bào tử trong
một túi
Agaricus Bào tử đảm Phát triển ở tận cùng của đảm
(Basidiospores) (thường 4 bào tử)
Rhizopus Bào tử tiếp hợp Bào tử lớn được hình thành trong
(Zygospores) một thành dày (bào tử hữu tính)
Saprolegnia Bào tử noãn (Oospore) Bào tử phát triển trong Oogonium
(nguyên bào trứng)
Các loài nấm đảm ăn được như các giống nấm mỡ (Agaricus
bisporus), nấm rơm (Volvariella volvacea), mộc nhĩ (Auricularia), nấm
hương (Lentinus), nhân nhĩ (Tremella)…đang trở thành đối tượng chủ yếu
trong công nghệ nuôi trồng nấm ăn.
Phân loại nấm mốc chủ yếu dựa vào các tính trạng hình thái: cấu tạo
sợi mang bào tử, cấu tạo bào tử và một số tính trạng sinh lý sinh hóa.
49

2. Vi tảo
Vi tảo là tảo hiển vi có sắc tố quang hợp. Vi tảo đơn giản nhất là cơ
thể đơn bào, hoặc tập hợp đơn bào, có thể có roi như Clamydomonas,
Peridium và Euglena (tảo mắt), hoặc không có roi như Chlorella (tảo lục),
Diatomia (tảo cát).
Các vi tảo thường gặp hơn là các cơ thể đa bào hoặc tập hợp đơn
bào, như các tập đoàn Volvox, Pediastrum, Scenendesmus (thuộc nhóm
Archethalle) hoặc phức tạp hơn có bộ phận đính bám và bộ phận dựng
đứng như các sợi mảnh phân nhánh hoặc không (có thể có vách ngăn tạo
thành các tế bào tương đối độc lập hoặc không có vách ngăn như một ống
cộng bào (coenocytic).
Những tảo này sinh sản bằng cách phân chia những tế bào lạ ở giữa
hoặc bằng cách rụng tế bào ở đầu cùng (Sphacelaria, Ectocarpus…),
chúng sinh sản hữu tính bằng tiếp hợp đẳng giao (hai giao tử bằng nhau)
hoặc dị giao (hai giao tử khác nhau).
Các sắc tố quang hợp và hỗ trợ ở các nhóm tảo khác nhau thì khác
nhau, hiện nay người ta đã biết 6 nhóm tảo với các sắc tố đã được nghiên
cứu tương đối kỹ. Bốn giống tảo lục là Clamydomonas (đơn bào 2 roi),
Gonium (tập hợp đơn bào 2 roi), Pandorina (tập hợp đơn bào, phía ngoài
còn có 2 roi, phía trong mất roi) và Volvox (tập hợp đơn bào, phía ngoài có
2 roi làm chức năng di động cho cả tập đoàn, phía trong tế bào mất roi làm
chức năng quang hợp, hô hấp) là một ví dụ rõ nét chứng minh sự tiến hóa
từ tổ chức đơn bào lên tổ chức đa bào phân hóa thô sơ.
Bảng 2.9: Sắc tố và một số tính chất của các nhóm tảo khác nhau
Ngành Diệp Carote Oxycaroten Một số tính chất
tảo lục -noid
Lutein, Tế bào 2 roi, sinh sản vo tính
α và một ít
Chrysophy Euglenoph Chlorophy

Zeaxanthine, bằng chia đôi hoặc sinh sản hữu


ta (tảo vàng, yta (tảo mắt) ta (tảo lục)

a và b

Neoxanthine, tính, chất dự trữ là tinh bột,


β

Violaxanthine thành tế bào chủ yếu là cellulose

Astaxanthine, Đơn bào có 1 roi (một số có 2 -


Neoxanthine 3 roi), sinh sản vô tính bằng chia
a và b

đôi hoặc hữu tính, chất dự trữ là


β

mỡ và loại tinh bột paramylon,


không có thành tế bào
Lutein, Phần lớp là đơn bào, một số nhỏ
Fucoxanthine, dạng sợi có 1 - 2 roi, sinh sản vô
a và c
tảo silic)

Diadinoxanthine, tính hoặc hữu tính, chất dự trữ là


β

Diatoxanthine dầu và lecucosin với silic, thành


tế bào thấm pectin, silica
50

Dinoxanthine, Đơn bào 2 roi ở bên, sinh sản


lửa,
Phaeophyta (tảo Pyrophyta
Diadinoxanthine, vô tính bằng phân đôi, chất dự

a và c
tảo giáp) Peridinine trữ là tinh bột, thành tế bào là

β
cellulosse
(Tảo

Tucoxanthine, Đa bào, kích thước lớn, hai roi


Lutein, khác biệt ở bên, sinh sản vô tính
Diatoxanthine, bằng động bào tử, sinh sản hữu
a và c

β Xanthophylls tính bằng giao tử chuyển động,


chất dự trữ là Laminarian, thành
tế bào có cellulosse và acid
nâu)

alginic
Phycocyanine, Hầu hết đa bào, kích thước lớn,
Phycoerythrine, bất động, sinh sản vô tính bằng
Rhodophyta

α và β
a và d

Neoxanthine, Lutein, bào tử, sinh sản hữu tính bằng


Zeaxanthine, giao tử, chất dự trữ là tinh bột,
(tảo đỏ)

Violaxanthine thành sinh chất chủ yếu là


cellulosse
3. Động vật đơn bào
Toàn bộ động vật được chia làm hai mức độ tổ chức: động vật đơn
bào (Protozoa) và động vật đa bào (Metazoa) (theo phân giới truyền thống
thì đó là hai giới phụ). Động vật đơn bào (đôi khi người ta gộp vào nhóm
này cả những động vật hiển vi dạng sợi nhiều nhân) là những cơ thể đơn
bào nhân chuẩn, thường dinh dưỡng hữu cơ, một số nhỏ quang dưỡng.
Những động vật đơn bào đầu tiên đã được Leeuwenhoek A.V phát hiện ra
ngay từ thế kỷ XVII nhưng được nghiên cứu vào thế kỷ XVIII bởi Joblot
L. và nhiều tác giả khác.
Theo hệ thống phân loại hiên nay thì động vật dơn bào được chia
làm 4 nhóm:
1. Sarcomastigophora với các nhánh Sarcodina hay Rhizopodes
(Rhizopodes và Actinopodes), nhánh Mastigophora hay Flagelles, nhánh
Opalinata (cũng có tài liệu hợp nhất Rhizopodes và Flagelles vào dạng
Rhizoflagelles).
2. Sporzoa (ký sinh trên động vật, một hoặc nhiều vật chủ).
3. Cnidospora (ký sinh trên động vật có xương và không xương).
4. Ciliophora hay cilie (roi ngắn - cils, có hai loại nhân: nhân to và
nhân bé).
Với hơn 30.000 loài được mô tả, động vật đơn bào sống ở đất và
nước, nhiều động vật đơn bào có vai trò quan trọng ở các lớp bùn hoạt tính
tại các trạm lọc nước thải.
51

Bảng 2.10: Một số nhóm động vật đơn bào và tính chất của chúng
Nhóm Một số tính chất Nơi sống Ví dụ
Mastigophora Một hoặc nhiều roi Nước ngọt, ký sinh Trypanosoma,
(flagella), tế bào có thể trên động vật Giardia,
chia dọc. Leishmania
Sarcodina Dạng amip, giả túc, Nước ngọt và mặn, Amoeba,
không roi, chia đôi. ký sinh trên động vật Entamoeba
Sporozoa Thường bất động, một số Ký sinh sơ cấp trên Plasmodium (gây
có thể trườn, bò, chia động vật chân đốt, bệnh sốt rét cơn
đôi, ký sinh động vật, sâu tác nhân truyền bệnh Malaria),
bọ. ký sinh Toxoplasma
Ciliophora Nhiều roi ngắn (tiêm Nước ngọt và mặn, Paramecium,
mao-cilia), chia đôi ký sinh trên động vật, Balantidium
ngang, mỗi tế bào trong dạ con của
thường có 2 nhân, nhân động vật nhai lại
lớn và nhân bé làm chức
năng khác nhau.
Cnidophora Hình thành chuỗi bào tử Ký sinh trên động vật Nosema gây bệnh
nhờ sợi phình ra và cắt có xương và không tầm gai (Pebrina)
khúc. xương.
Sau đây là so sánh một số tính chất của các nhóm vi sinh vật
Bảng 2.11: So sánh một số tính chất của các nhóm vi sinh vật
Tính chất Vi khuẩn Nấm Tảo Động vật đơn Ghi chú
bào
Loại tế nhân sơ nhân chuẩn nhân chuẩn nhân chuẩn
bào
Kiểu dinh hóa dị dưỡng hóa dị dưỡng quang tự hóa dị dưỡng tính chất
dưỡng (một số quang hữu cơ dưỡng hữu cơ số đông
dưỡng)
Đa bào, đơn bào đa bào (trừ một số đơn đơn bào
đơn bào nấm men) bào và một số
đa bào
Cách sắp riêng lẻ, một đơn bào, sợi đơn bào, tập riêng lẻ, tập
xếp tế bào số hình thành không vách hợp sợi và hợp
tập hợp ngăn và sợi có bắt đầu hình
vách ngăn thành mô
Phương quang hợp, hấp thụ, thực tính chất
pháp thu hấp thụ hấp thụ hấp thụ bào số đông
nhận thức
ăn
Tính chất phân bào vô bào tử hữu sắc tố quang chuyển động
đặc trưng tơ (trực phân) tính và vô hợp và sắc tố
tính hỗ trợ
Thành tế Murein Hemicellulose cellulose không có hoặc
bào và chitine lipoproteid
pH tối ưu 6,5 - 7,5 3,8 - 5,6 gần trung trung tính tính chất
52

tính số đông
Nhu cầu kị khí đến hiếu khí hiếu khí hiếu khí tính chất
O2 hiếu khí số đông
Chất dự các loại poly- glucogen tinh bột glucogen và
trữ chính saccharide nhiều loại poly-
saccharide
Số loài 4000 80.000 (tất cả 15.000 (chỉ 30.000 (chỉ
hiện biết giới nấm) tính tảo đơn tính động vật
bào) đơn bào)
Câu hỏi ôn tập chương 2
1. Vẽ sơ đồ cấu tạo tế bào vi khuẩn, trong đó ghi rõ các cấu tạo bắt buộc
phải có và cấu tạo không thường xuyên phụ thuộc vào nhóm vi khuẩn.
2. So sánh cấu tạo thành tế bào vi khuẩn và vi sinh vật cổ. Nói rõ vai trò
của thành trong hoạt động sống và trong phương pháp nhuộm Gram.
3. Vẽ sơ đồ cấu tạo màng sinh chất của vi khuẩn, nói rõ chức năng vận
chuyển các chất qua màng.
4. Bản chất của các vật thể ẩn nhập, cấu tạo của chúng và khả năng
nhuộm màu.
5. Chất nhân của vi khuẩn, những phát hiện mới trong vấn đề genophore
của cơ thể nhân sơ.
6. Plasmid ở cơ thể nhân sơ, vai trò và chức năng.
7. Màng nhầy và tiên mao, cấu tạo và chức năng các loại.
8. Nội bào tử, cấu tạo và nhuộm màu.
9. Nêu một số ví dụ vi khuẩn sinh bào tử và không sinh bào tử, ứng dụng
của chúng trong công nghệ vi sinh.
10. Vẽ sơ đồ cấu tạo tế bào nấm men.
11. Cấu tạo thành tế bào nấm.
12. Các chu trình sinh học của nấm men, đại diện nấm mốc.
13. Nguyên tắc và phương pháp phân loại vi sinh vật.
14. Định nghĩa và cho ví dụ các khái niệm sau: bào tử vô tính, bào tử
hữu tính, nội bào tử, bào tử đính, bào tử túi, bào tử đảm, sợi nấm có vách
ngăn, sợi cộng bào, sợi hai nhân.
15. Nêu một số nấm có lợi và gây hại.
16. Các nhóm tảo, cấu tạo tế bào và thành tế bào.
17. Động vật đơn bào, cấu tạo đặc trưng khác với vi khuẩn.
18. So sánh tổng quát sự khác biệt của vi khuẩn, nấm, tảo đơn bào và
động vật đơn bào.

You might also like