Professional Documents
Culture Documents
Ngày nay khuyến mại đang là một vũ khí ngày càng quan trọng trong hỗn hợp tiếp
thị. Ở nhiều doanh nghiệp, chi phí cho hoạt động này tăng nhanh, bắt đầu vươn lên bằng
hoặc vượt chi phí dành cho quảng cáo, nhiều khi chiếm trên 50% ngân sách dành cho các
hoạt động tiếp thị. Vậy tại sao các doanh nghiệp lại chịu chi nhiều ngân sách cho hoạt
động khuyến mại đến như vậy ? Phải chăng khuyến mại đã đem lại những khoản lợi
nhuận to lớn cho các doanh nghiệp ? Chính vì lý do đó đã thôi thúc người viết tìm hiểu về
khuyến mại, và công ty mà người viết chọn để nghiên cứu là công ty Nestlé Việt Nam
-một trong những công ty có nhiều chương trình khuyến mại khá sôi nổi trong năm 2008
vừa qua.
Bằng việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp nghiên cứu tại
bàn, phương pháp quan sát, phân tích, đánh giá; đề tài: “Một số nhận xét và đánh giá về
hoạt động khuyến mại của công ty Nestlé từ năm 2008 đến nay” sẽ là một tập tài liệu,
giúp hệ thống hóa lý thuyết về khuyến mại để từ đó đưa ra những nhận xét và đánh giá về
một số hoạt động khuyến mại của công ty Nestlé. Bên cạnh đó dựa trên những nhận xét
và đánh giá để đưa ra những đề xuất cũng như giải pháp hợp lý nhằm mang lại hiệu quả
cho công ty.
Ngoài lời mở đầu và phần kết luận, bố cục của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khuyến mại
Chương 2: Giới thiệu về công ty Nestlé
Chương 3: Một số nhận xét và đánh giá về các chương trình khuyến mại của
công ty Nestlé Việt Nam từ năm 2008
Tuy nhiên do thời gian có hạn, cũng như là điều kiện khách quan lẫn chủ quan
không cho phép, nên đề tài chỉ nghiên cứu ở phạm vi thành phố Hồ Chí Minh và chỉ dừng
lại ở những nhận xét và đánh giá một số chương trình khuyến mại tiêu biểu của công ty
Nestlé từ năm 2008 đến nay chứ không phải là tất cả các chương trình khuyến mại của
công ty.
Chương 1: Cơ sở lý luận về khuyến mại
1.1 KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA KHUYẾN MẠI
Theo Hiệp hội tiếp thị Mỹ định nghĩa thì khuyến mại là những hoạt động tiếp thị
khác với các hoạt động bán hàng trực tiếp, quảng cáo, và tuyên truyền nhằm kích thích
người tiêu dùng mua hàng và làm tăng hiệu quả các đại lý.
Còn theo Hiệp hội các công ty quảng cáo của Mỹ lại định nghĩa khuyến mại là bất
kỳ hoạt động nào tạo ra một động cơ để mua sản phẩm ngoài các lợi ích vốn có của sản
phẩm.
Trong khi đó Theo Luật Thương mại Việt Nam 2005 (điều 88): “Khuyến mại là
hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho những khách hàng những lợi ích nhất định.”
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khuyến mại nhưng về bản chất thì theo
người viết khuyến mại là những kích thích hay giá trị tăng thêm của sản phẩm nhắm vào
lực lượng bán hàng, hệ thống phân phối, và người tiêu dùng cuối cùng để tạo ra sự tiêu
thụ nhanh sản phẩm.
1.2 VAI TRÒ CỦA KHUYẾN MẠI
Khuyến mại ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động marketing nói
chung và hoạt động chiêu thị nói riêng. Ngân sách khuyến mại của các công ty ngày càng
tăng về số tuyệt đối và tăng tương đối so với ngân sách cho các hoạt động marketing và
chiêu thị khác ví dụ như quảng cáo. Trong những năm gần đây và sắp tới, ngân sách
khuyến mại nhắm vào hệ thống phân phối tăng rất nhanh so với ngân sách khuyến mại
nhắm vào người tiêu dùng.
Các yếu tố làm cho các công ty chuyển một phần ngân sách quảng cáo qua ngân
sách khuyến mại là:
Một là vai trò của người bán lẻ ngày càng tăng: Trước đây nhà sản xuất các nhãn
hiệu mạnh có vai trò quan trọng trên thị trường còn người bán lẻ chỉ đóng vai trò là người
phân phối thụ động. Các nhà sản xuât sản phẩm tiêu dùng sử dụng mạnh quảng cáo và
khuyến mại nhắm vào người tiêu dùng để tạo áp lực đối với người bán lẻ. Gần đây vai trò
đã dần thay đổi, người bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh tiêu thụ. Họ
thường yêu cầu các quyền lợi khuyến mại từ các công ty để tiêu thụ các sản phẩm mới,
sản phẩm khó tiêu thụ. Sự lớn mạnh của các nhà bán lẻ, và nhất là xu hướng hợp nhất các
hệ thống bán lẻ tạo ra các tập đoàn bán lẻ lớn (ví dụ như Big C, Coop mart). Các nhà bán
lẻ quy mô lớn có thế mạnh của họ trong quan hệ với các nhà sản xuất.
Hai là sự trung thành với nhãn hiệu có xu hướng giảm: Người tiêu dùng ngày càng
có xu hướng giảm sự trung thành với các nhãn hiệu. Họ thường quyết định mua hàng trên
cơ sở giá cả, giá trị thực sự của sản phẩm, và tiện ích. Nhiều người tiêu dùng thay đổi qua
lại giữa các nhãn hiệu mà họ cho rằng tương đương nhau, và họ sẽ mua nhãn hiệu nào có
khuyến mại.
Ba là người tiêu dùng ngày nhạy cảm với khuyến mại: Họ có khuynh hương tiết
kiệm tiền và thời gian. Tại nơi mua hàng có nhiều hay quá nhiều lựa chọn, họ có khuynh
hướng chọn sản phẩm có khuyến mại.
Bốn là sự gia tăng nhanh chóng số lượng các nhãn hiệu: Thị trường đã trở nên bão
hòa với nhiều nhãn hiệu sản phẩm mới. Các nhãn hiệu mới thường không có những lợi
thế rõ rệt so với những nhãn hiệu khác, do đó khó mà quảng cáo. Vì vậy các công ty tăng
cường sử dụng khuyến mại để kích thích người tiêu dùng dùng thử các nhãn hiệu mới.
Năm là thị trường tiêu dùng ngày càng bị chia cắt: Thị trường ngày càng bị chia cắt
(nhu cầu ngày càng khác biệt) và quảng cáo dựa vào các phương tiện truyền thông đại
chúng ngày càng ít hiệu quả, vì vậy các nhà marketing tăng cường sử dụng những cách
tiếp cận sát mục tiêu hơn. Các công ty điều chỉnh hoạt động chiêu thị theo khu vực địa lý,
theo từng kênh phân phối, khuyến mại trở thành một công cụ chính để thực hiện việc
thích nghi hoạt động chiêu thị theo các khúc thị trường ngày càng nhỏ.
Sáu là cạnh tranh: Thị trường của nhiều sản phẩm đi vào giai đoạn trưởng thành và
bắt đầu đình trệ. Do ngày càng khó khăn hơn trong việc dùng quảng cáo để gia tăng
doanh số nên những người làm tiếp thị chuyển qua khuyến mại.
1.3 CÁC HÌNH THỨC KHUYẾN MẠI
1.3.1 Khuyến mại đối với người tiêu dùng
Hàng mẫu
Hàng mẫu là những phiên bản nhỏ hơn của sản phẩm thực tế, chứa một lượng vừa
đủ để người tiêu dùng có thể đánh giá được các tính chất của sản phẩm.
Hàng mẫu rất hiệu quả trong việc kích thích người tiêu dùng dùng thử sản phẩm
mới hay sản phẩm cải tiến. Thông thường mẫu miễn phí được trao tận tay người tiêu dùng
để dùng thử, với ý tưởng là hãy để sản phẩm tự nó quảng cáo. Trong thực tế những sản
phẩm thường được phát mẫu là xà bông cục, dầu gọi đầu, kem đánh răng, nước xả quần
áo…Đây là những sản phẩm có thể tạo phiên bản nhỏ dễ dàng.
Nhược điểm: chi phí cao, chủ yếu là do chi phí đóng gói và phân phối cao, chưa kể
đến giá trị của bản thân sản phẩm trong mẫu hàng. Do đó hình thức này chỉ được sử dụng
khi khả năng thành công lớn.
Hàng mẫu được vận dụng đặc biệt hiệu quả trong những tình huống sau đây:
Thứ nhất là tính chất ưu việt hơn hẳn của sản phẩm so với sản phẩm cạnh tranh có
thể được chứng minh dễ dàng (qua việc dùng thử).
Thứ hai là sản phẩm được sử dụng và mua thường xuyên.
Thứ ba là sản phẩm có tỉ lệ lãi cao trong khi giá bán lẻ tương đối thấp.
Thứ tư là ưu điểm chính và các thuộc tính chủ yếu của sản phẩm thì đặc biệt khó
truyền đạt thông qua các phương tiện quảng cáo.
Thứ năm là ngân sách chiêu thị đủ để quảng cáo phối hợp cho chương trình biếu
không hàng mẫu.
Hàng mẫu có thể được sử dụng để bù trừ các hoạt động tiếp thị cạnh tranh hay
hoạt động phát hàng mẫu của đối thủ. Bằng cách nhắc nhở khách hàng sử dụng hàng mẫu,
công ty muốn nói rằng sản phẩm của công ty có nhiều ưu điểm và khách hàng nên tiếp tục
mua sản phẩm của công ty. Hàng mẫu có thể được sử dụng để trao tận tay tới các khách
hàng của đối thủ nhằm thuyết phục họ nên sử dụng sản phẩm của công ty để so sánh với
sản phẩm cạnh tranh mà họ đang sử dụng. Hàng mẫu rất hiệu quả trong việc giữ khách
hàng cũ và chinh phục khách hàng mới.
Về phân phối hàng mẫu thì có nhiều phương pháp phân phối hàng mẫu đến khách
hàng tiềm năng. Phương pháp thích hợp phụ thuộc vào các yếu tố như là loại, kích cỡ,
khối lượng, khả năng hư hỏng của sản phẩm mẫu; số lượng và vị trí của người nhận; mức
độ chọn lọc khả năng linh hoạt mong muốn; hạn chế về mặt thời gian; và dĩ nhiên là chi
phí của bản thân phương pháp. Các phương pháp phổ biến nhất là: bưu phẩm, phát tận
nhà, phát tại điểm bán, và có thể là kết hợp với trưng bày và chứng minh sản phẩm trong
các cửa hàng. Hàng mẫu cũng có thể được đính vào hoặc để vào trong bao bì của những
sản phẩm khác, hoặc được kẹp vào báo hay tạp chí; hoặc dưới dạng phiếu nhận hàng.
Không phải tất cả hàng mẫu đều phát không cho khách hàng. Việc phân phối hàng
mẫu bằng cách bán các gói hàng có kích cỡ nhỏ có tính chất giới thiệu gần đây đã được áp
dụng. Người tiêu dùng dường như sẵn sàng mua dùng thử một sản phẩm nếu họ có thể
mua một lượng nhỏ với chi phí tối thiểu. Những người bán lẻ cũng ủng hộ cách phân phối
này bởi vì những mặt hàng nhỏ này đem lại cho họ lãi suất cao. Một ưu điểm khác là
người tiêu dùng thích dùng thử mẫu hàng do họ mua hơn là dùng thử mẫu hàng biếu
không. Đối với nhà quảng cáo dĩ nhiên là hàng mẫu bán hay hơn là biếu không vì nhà
quảng cáo có thể giảm được chi phí phân phối hàng mẫu xuống một cách đáng kể.
Một chương trình hàng mẫu thường khá phức tạp, cần phải lập kế hoạch và thực
hiện kỹ lưỡng. Vì lý do này nhiều công ty đã sử dụng dịch vụ của các tổ chức nhận thực
hiện việc phân phối hàng mẫu, thông qua gửi thư, đưa trực tiếp, hay đặt ở trước cửa hay
đưa tận tay người trong nhà.
Phiếu mua hàng
Phiếu mua hàng là phiếu xác nhận được phân phối bởi nhà sản xuất hay người
cung cấp và được hoàn lại tại điểm bán lẻ cho nhà sản xuất hay phân phối,tạo cho người
tiêu dùng một cơ hội mua hàng với giá ưu đãi một loại sản phẩm nào đó.
Phiếu mua hàng rất có ích trong việc giới thiệu sản phẩm mới cũng như hấp dẫn
những khách hàng mới và khuyến khích lặp lại hàng động mua đối với sản phẩm đã mua.
Phiếu mua hàng cũng kích thích người tiêu dùng mua hàng thường xuyên hơn hay mua
nhiều hơn một món hàng nào đó và giúp làm giảm đi mức độ hấp dẫn của nhãn hiệu cạnh
tranh. Phiếu mua hàng thường đặc biệt hữu ích khi nhà phân phối sử dụng nó như một
cách duy nhất để làm cho sản phẩm khác biệt với các sản phẩm tương tự khác.
Các phương pháp phân phát phiếu mua hàng:
Phiếu mua hàng có thể được phân phát trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua thư
gửi trực tiếp hoặc phát trực tiếp tại nhà. Ưu điểm của phương pháp này là giúp nhà sản
xuất thực hiện việc phát phiếu trên diện rộng hơn là chỉ nhắm vào một số người có chọn
lọc. Còn nhược điểm của phương pháp này là chi phí lớn. Với chi phí gửi bằng bưu điện
cao và chi phí thuê các công ty dịch vụ chuyên đi phân phát tận nhà ngày càng tăng, các
nhà sản xuất có thể cùng hợp tác với nhau để phát phiếu mua hàng. Các công ty có sản
phẩm không cạnh tranh với nhau cùng chia sẻ chi phí gửi thư chung các phiếu mua hàng
của họ. Mặc dù vậy, phương pháp này cũng không thể hoàn hảo vì các phiếu mua hàng dễ
bị lạc giữa đống thư từ lộn xộn của người nhận.
Phiếu mua hàng có thể được in hoặc để trong các báo, tạp chí, hay các phụ trương
của số chủ nhật. Các báo ra hàng ngày là phương tiện được sử dụng rộng rãi nhất để phân
phát phiếu mua hàng. Tuy nhiên các báo hàng ngày cũng đem lại tỷ lệ hồi phiếu trung
bình thấp nhất trong tất cả các phương tiện phát phiếu mua hàng. Lý do là nó đòi hỏi
người đọc phải cắt phiếu này ra; báo ngày có cuộc sống rất ngắn ngủi, ít người đọc cho
một trang so sách với một số phương tiện khác; và do báo có đối tượng độc giả kém chọn
lọc hơn chẳng hạn như so với tạp chí.
Có thể phân phối qua các tờ in rời lồng vào các báo. Những tờ này được lồng hay
dính vào các tờ báo chủ yếu là số ra ngày chủ nhật, in một số các phiếu mua hàng trên
cùng mốt tờ. Tỷ lệ hồi phiếu đối với các phiếu loại này thì cao hơn nhiều so với các phiếu
in trong các báo ra hàng ngày. Các tạp chí cũng là một phương tiện phổ biến để phân phát
phiếu mua hàng. Nó cũng đem lại tỷ lệ hồi phiếu cao hơn phiếu in thẳng trong báo ra hàng
ngày.
Nhiều phiếu mua hàng cũng được in hằn lên hay chèn vào chính bao bì của sản
phẩm. Chúng được hồi lại trong lần mua kế tiếp. Do kết hợp trực tiếp với sản phẩm nên
phiếu loại nằm trên/trong bao bì có tỷ lệ hồi phiếu cao nhất trong tất cả các phương pháp.
Đối với nhà sản xuất thì phiếu mua hàng vừa là cơ hội kinh doanh tốt đồng thời có
nghĩa là chi phí lớn. Các nhà sản xuất phải chịu chi phí quảng cáo và phân phát phiếu mua
hàng, trả lại mệnh giá khi thu hồi phiếu cho nhà bán lẻ và trả phí quản lý phiếu cho nhà
bán lẻ.
Nhiều nhà marketing đã sử dụng kết hợp phiếu mua hàng với các hình thức khuyến
mại khác để tăng sự hấp dẫn đối với người mua hàng. Một số công ty hiện nay đang sử
dụng cùng một lúc phiếu mua hàng và xổ số trúng thưởng. Mỗi phiếu mua hàng cũng là
một phiếu dự xổ số. Người tiêu dùng chỉ cần điền vào phiếu và có được cùng một lúc hai
cơ hội mua hàng giảm giá và trúng thưởng.
Quà tặng
Quà tặng là những món hàng được biếu không hay bán với giá ưu đãi cho người
mua hàng để khuyến khích họ mua một loại sản phẩm nào đó. Mục tiêu cơ bản của chiến
dịch tặng quà là tăng số lượng bán ra, ngoài ra tặng quà còn có một số mục tiêu khác nữa :
Một là: Bù trừ tác động của các sản phẩm cạnh tranh.
Hai là: Lôi kéo khách hàng đang sử dụng những nhãn hiệu cạnh tranh chuyển sang
sử dụng nhãn hiệu của công ty và trở thành người sử dụng thường xuyên.
Ba là: Tạo ra sự trung thành với nhãn hiệu và hấp dẫn người mua mua lại sản phẩm
của công ty.
Bốn là: Bù trừ với sự đình trệ do ảnh hưởng thời vụ.
Năm là: Tăng diện tích và không gian trưng bày hàng tại các cửa hàng.
Sáu là: Khuyến khích người mua mua số lượng lớn.
Bảy là: Kích thích việc mua không chủ định trước của khách hàng.
Tám là: Hấp dẫn người mua khi sản phẩm không có gì khác biệt lắm so với các sản
phẩm cạnh tranh.
Các hình thức quà tặng: phổ biến nhất là quà tặng trực tiếp, quà tặng người nhận
phải trả tiền, quà tặng trao tay.
Quà tặng trực tiếp:
Quà tặng trực tiếp đi thẳng đến tay người mua hàng, cho không vào thời điểm mua
hàng. Có bốn loại chính là: quà kẹp vào gói hàng, quà để trong gói hàng, quà để gần gói
hàng, và quà tặng là vật chứa hàng.
– Quà kẹp vào gói hàng: là quà tặng được dính vào bao bì của sản phẩm hay là
được để trong một bao bì đặc biệt vừa chứa cả sản phẩm của người quảng cáo vừa
chứa luôn quà. Quà kẹp vào gói hàng tạo ra được sự đáp ứng nhanh chóng của
khách hàng vì quà tặng hiện ra ngay trước mắt cũng như khuyến khích người bán
trưng bày hàng nhiều hơn. Khuyến mại dạng này có lợi thế là hấp dẫn được mắt
người mua. Nhược điểm chính của quà tặng kẹp vào gói hàng là tạo cơ hội cho
trộm cắp. Ngoài ra nếu không chú ý đến kích cở của món quà khi lên kế hoạch có
thể làm cho gói hàng cồng kềnh hay to quá khổ bình thường và gây khó khăn cho
việc trưng bày trên kệ hàng.
– Quà để trong gói hàng: quà trong gói hàng thực sự nằm hẳn trong bao bì của
sản phẩm. Nó có thể là tặng vật hay phiếu mua hàng với giá ưu đãi. Nó thay thế tốt
cho phương án giảm giá hàng và thường được sử dụng đối với các sản phẩm dành
cho trẻ em. Không như quà tặng kẹp vào gói hàng, quà trong gói hàng không gây
khó khăn cho việc trưng bày hàng, ít đòi hỏi phải thay đổi bao bì và tiết kiệm chi
phí.
– Quà để gần gói hàng: do khối lượng và kích cỡ của tặng vật mà một số quà
tặng không thể kẹp vào hay đặt vào trong bao bì sản phẩm được. Những tặng vật
này, được gọi là quà để gần gói hàng, thường được để tại một nơi trưng bày riêng
biệt gần với nơi trưng bày sản phẩm. Mặc dù hình thức này cho phép trưng bày quà
ra để thu hút khách và có thể tặng những món quà to lớn, nhưng nó sẽ gây khó
khăn cho việc quản lý nhân viên cửa hàng và có thể bị nhân viên lấy mất quà.
– Quà tặng là vật chứa hàng: đây là một loại bao bì hàng hóa sử dụng lại được
dùng làm vật chứa sản phẩm. Người tiêu dùng coi đây là giá trị thêm vào sản
phẩm. Loại quà tặng này có thể giúp công ty duy trì một mức lợi nhuận hợp lý khi
bị các đối thủ cạnh tranh có giá thấp hơn tấn công từ bên dưới. Quà tặng là vật
chứa hàng đặc biệt hấp dẫn người quảng cáo vì người tiêu dùng sử dụng các vật
chứa hàng này sẽ luôn luôn được nhắc nhớ về sản phẩm. Loại quà này cũng kích
thích việc mua hàng của người tiêu dùng, đặc biệt khi vật chứa hàng có thêm chức
năng khác với chức năng là vật chứa hàng.
Quà tặng người nhận phải trả một phần:
Quà tặng trả một phần đòi hỏi người nhận phải trả một số tiền nào đó cho tặng vật
và đưa ra bằng chứng là đã mua sản phẩm rồi. Số tiền phải trả thông thường là bằng giá
vốn của tặng vật đối với người quảng cáo cộng với chi phí bưu điện và bốc dỡ. Phương
pháp này đặc biệt thuận lợi cho công ty tặng quà bởi vì nó có thể giúp đưa ra những hàng
hóa làm tặng vật với một số chi phí hơn rất ít hay bằng với chi phí thông thường để quảng
cáo quà tặng của công ty. Doanh số sản phẩm cũng có thể gia tăng, đặc biệt khi muốn
nhận được quà tặng người mua phải mua nhiều hàng. Ngoài ra nhà quảng cáo có thể in
tên của mình lên tặng vật và đạt được quảng cáo tăng thêm khi tặng vật được người mua
hàng sử dụng hay trưng bày.
Nhược điểm cơ bản của quà tặng trả một phần là quà tặng không sẵn sàng ngay lập
tức cho người tiêu dùng ngay tại cửa hàng khi mua. Vì vậy ấn tượng ban đầu của quà tặng
trả một phần thì không mạnh như các loại quà tặng trực tiếp.
Quà tặng trả một phần hấp dẫn người tiêu dùng bởi vì chi phí để có được tặng vật
này thì thường thấp hơn nhiều cái giá mà người tiêu dùng phải trả ở các cửa hàng bán lẻ.
Nhà sản xuất có thể tiết kiệm một cách đáng kể khi mua một số lượng lớn hàng hóa, cho
nên có thể đưa ra những quà tặng với giá thấp. Loại quà tặng này cũng kích thích việc
mau sản phẩm khi người tiêu dùng muốn có những món quà có liên quan đến sản phẩm
mua.
Quà thưởng tại chỗ:
Người bán sẽ tặng trực tiếp cho khách hàng vào thời điểm sản phẩm được mua. Mục
tiêu cơ bản là làm tặng sự đi lại xem và mua hàng của khách hàng tại cửa hàng. Ví dụ như
một cửa hàng bán bánh ngọt sẽ tặng một cái ly thủy tinh cho khách hàng nào mua một ổ
bánh sandwich. Phần lớn các chương trình quà thưởng tại chỗ là do nhà sản xuất sản
phẩm tài trợ, nhưng các cửa hàng cũng có thể tự thực hiện chương trình này. Nhiều
chương trình quà thưởng tại chỗ là nhằm để kỷ niệm những sự kiện đặc biệt như nhân
ngày khai trương cửa hàng hay kỷ niệm ngày khai trương cửa hàng.
Thi có thưởng và xổ số
Thi có thưởng và xổ số là những hình thức chiêu thị kích thích gần đây đã tỏ ra có
sức lôi cuốn rộng rãi và hiện nay đang là một trong các biện pháp khuyến mại phổ biến
nhất trên thế giới. Có ba lý do của sự thu hút nay là: (1) sự quan tâm ngày càng tăng đối
với các trò chơi may rủi, (2) sự quyến rũ của khả năng trúng các giải thưởng có giá trị lớn,
(3) loại chiêu thị này có khả năng lôi cuốn người tiêu dùng mang tính quảng cáo thông
qua sự tham gia trực tiếp của họ trong quá trình chiêu thị. Giá trị của các giải bằng hiện
vật hay tiền mặt đã tăng lên rất nhanh chóng trong những năm gần đây, từ những tặng
phẩm trị giá vài trăm ngàn cho đến vài lượng vàng 9999, xe máy, xe hơi hay đi du lịch
nước ngoài.
Hình thức thi đòi hỏi người tham gia phải sử dụng một kỹ năng nào đó để đánh giá
so sánh với những người khác. Một hội đồng giám khảo đánh giá và trao các giải thưởng.
Các hình thức thi có thể là: tạo ra một khẩu hiệu hay biểu tượng, vẽ một áp-phích liên
quan tới một chủ đề nhất định, viết một bài văn, chụp ảnh, đề nghị một phương pháp. Khi
tham gia cuộc thi, người tham dự có thể phải nộp một bằng chứng về việc mua nhãn hiệu
của nhà sản xuất để có tư cách dự thi và trúng giải.
Không giống như thi, xổ số là các trò chơi may rủi, không yêu cầu người tham dự
chứng minh một kỹ năng nào hết. Những người trúng giải được lựa chọn một cách ngẫu
nhiên thông qua việc bốc thăm các phiếu tham gia của những người tham dự cuộc xở số.
Vì vậy, tất cả những người tham dự đều có cùng một cơ hội trúng giải. Cũng không giống
như thi, những người tham dự có thể không cần phải đưa ra bằng chứng là đã mua sản
phẩm để có đủ tư cách tham dự. Trong một số cuộc sổ xố, nhà quảng cáo có thể yêu cầu
những người tham gia nộp một bằng chứng mua nào đó, nhưng để tránh phạm luật xổ số
họ phải giải quyết vấn đề bản sao (nộp bản in của tên nhãn hiệu, hoặc hình biểu tượng hay
nhãn hiệu thương mại). Thường thì các nhà chiêu thị thích chọn hình thức xổ số hơn là
thi.
Ưu điểm: liên kết trực tiếp với một sản phẩm hay một cị thế cụ thể, có thể nhắm
vào một nhóm khách hàng nhất định, giúp đạt được nhiều vị trí trưng bày tốt tại các cửa
hàng, tăng thêm các hình thức khuyến mại, nâng cao hình ảnh nhãn hiệu, và tạo lập số
lượng khách hàng đến mua sắm tại các cửa hàng bán lẻ.
Nhược điểm: ít có tác dụng kích thích người tiêu dùng thử sản phẩm trừ phi được
quảng cáo rất mạnh. Chỉ có một số người tiêu dùng nhất định mới quan tâm và tham dự
cuộc thi hay xổ số. Những người trung gian (bán sỉ và bán lẻ) thì thường khá miễn cưỡng
trong việc cho muợn các phương tiện hỗ trợ chỉ để trưng bày các sản phẩm trong các cuộc
thi hay xổ số.
Vận dụng: các điều lệ là yếu tố chính để thực hiện thành công một chiến dịch chiêu
thị thi hoặc xổ số; và chúng cần được nghiên cứu, soạn thảo kỹ lưỡng trước khi công bố
và cần phải thông báo rõ ràng cho tất cả những người tham gia. Trong tất cả các cuộc thi
hay xổ số, các điều lệ phải càng đơn giản càng tốt nếu không rất nhiều rắc rối sẽ phát sinh.
Luật chơi được thông báo đến tất cả những ai tham gia, tối thiểu phải bao gồm các chi tiết
sau: hạn chót tham gia, các phương pháp chấm chọn, các yêu cầu đối với người tham gia
(ai có đủ tư cách tham gia), cơ cấu giải thưởng, ai sẽ chấm chọn (và ghi chú rằng quyết
định của ban giám khảo là quyết định cuối cùng), tất cả những bài dự thi đều thuộc sở hữu
của người/ công ty tổ chức hay đỡ đầu cuộc thi, và người đoạt giải thưởng sẽ được thông
báo như thế nào.
Nhiều công ty giao việc lập kế hoạch và thực hiện các cuộc thi và xổ số cho các
đơn vị chuyên nghiệp đặc trách những hoạt động khuyến mại. Các công ty này xử lý mọi
chi tiết của chiến dịch khuyến mại, kiểm tra các điều kiện cần thiết về mặt pháp luật và
quy định, đặt ra điều lệ cuộc thi hay xổ số, phân phối các phiếu tham gia, đánh giá các bài
dự thi, và thông báo đến những người trúng thưởng hay đoạt giải.
Thi và xổ số là các hoạt động thành công nhất nếu được chuẩn bị kỹ lưỡng và các
mục đích cụ thể của chúng phải hòa hợp với các hoạt động quảng cáo hổ trợ khác, với
hoạt động của lực lượng bán hàng của công ty và hoạt động chiêu thị đối với người bán
hàng (nhà buôn sỉ, người bán lẻ).
Các hình thức ưu đãi người tiêu dùng
Ưu đãi người tiêu dùng là các hình thức chiêu thị ngắn hạn tạo điều kiện cho người
tiêu dùng tiết kiệm được trong việc mua sản phẩm. Các nhà sản xuất dùng các hình thức
ưu đãi người tiêu dùng để khuyến khích khách hàng mới dùng thử sản phẩm và khách
hàng cũ dùng thử sản phẩm mới, và để kích thích các nhu cầu đối với các sản phẩm ở giai
đoạn trưởng thành trong chu kỳ sống của chúng. Các hình thức chính của ưu đãi người
tiêu dùng gồm có: giảm giá trực tiếp, thưởng hàng, hoàn tiền một phần, và ưu đãi phối
hợp.
Giảm giá trực tiếp: giảm giá trực tiếp tạo cơ hội cho người tiêu dùng mua một sản
phẩm ở một mức giá thấp hơn mức giá bình thường. Loại ưu đãi này thường mang hình
thức là “hàng giảm giá” xuất hiện ở trên nhãn hay bao bì của sản phẩm và rất phổ biến đối
với các nhà sản xuất các mặt hàng được mua thường xuyên trong các siêu thị và cửa hàng.
Loại ưu đãi này cũng đặc biệt hiệu quả trong việc kích thích mua hàng trong giai đoạn trái
mùa. Nhiều nhà sản xuất cho rằng khi giá cả giảm xuống khoảng 15 – 20% thì ảnh hưởng
đến khách hàng đạt mức tối đa.
Thưởng thêm hàng: ưu đãi bằng cách thưởng thêm hàng tạo cơ hội cho người tiêu
dùng mua được một lượng sản phẩm nhiều hơn mà vẫn với giá bình thường. Tùy thuộc
vào đặc tính của sản phẩm mà sự gia tăng về lượng này sẽ xảy ra dưới hình thức khối
lượng nhiều hơn hay số lượng sản phẩm nhiều hơn. Những biến thể của thưởng thêm
hàng thường là kết hợp giữa các loại thưởng thêm hàng của các sản phẩm khác nhau,
trong đó người tiêu dùng mua hai hay ba sản phẩm với giá thấp hơn tổng cộng hai hay ba
mức giá cá biệt lại nếu như người tiêu dùng mua riêng rẽ từng loại sản phẩm. Các rắc rối
có thể nảy sinh khi sử dụng hình thức thưởng thêm hàng, đặc biệt là khi các đơn vị sản
phẩm được buộc vào nhau. Người bán hàng có thể lấy cắp hàng thưởng. Hoặc họ có thể
tách rời khối hàng đã buộc vào nhau thành từng đơn vị hàng riêng rẽ và bán đơn vị hàng
thưởng thêm với giá cả bình thường của một đơn vị hàng đó. Thưởng thêm hàng cũng có
thể tạo ra một số tạo ra một số rắc rối trong việc bốc dỡ, sắp xếp, trưng bày hàng cũng
như tăng chi phí bao bì đối với nhà sản xuất. Tuy nhiên ưu điểm chính là khả năng kích
thích mua hàng bởi vì người tiêu dùng suy nghĩ là giá trị sử dụng được gia tăng và sự hấp
dẫn “được cho không một cái gì đó”
Hoàn tiền một phần: hoàn tiền một phần là một hình thức ưu đãi người tiêu dùng
ngày càng phổ biến tại các nước. Theo hình thức này thì người tiêu dùng sẽ được trả lại
một số tiền mặt khi đưa ra các bằng chứng về việc đã mua sản phẩm.
Ưu đãi phối hợp: ưu đãi phối hợp là một hình thức kết hợp một loại ưu đãi người
tiêu dùng này với một hình thức khuyến khích người tiêu dùng khác. Ví dụ như: “Với ba
bằng chứng mua hàng bạn sẽ được hoàn lại 20.000 đồng cùng với một phiếu mua hàng
giảm được 5.000 đồng”, “Với một bằng chứng mua hàng bạn sẽ được hoàn lại 30.000
đồng và một phiếu tham gia xổ số”.
1.3.2 Khuyến mại đối với hệ thống phân phối
Hội thi bán hàng
Hội thi bán hàng làm tăng động lực và năng suất của lực lượng bán hàng của côn ty
hay những người phân phối trung gian và người bán lẻ. Các hình thức kích thích thường
dưới dạng giải thưởng bằng tiền mặt, hàng hóa, kì nghỉ mát, hay một sự ghi nhận thành
tích hay phần thưởng đặc biệt. Tất cả hội thi bán hàng đều có mục đích chung là tăng
doanh số và khả năng sinh lời, và hầu hết đều có mục tiêu cụ thể như là thúc đẩy việc tiêu
thụ các mặt hàng luân chuyển chậm hay các mặt hàng bán theo mùa, tìm được các khách
hàng mới, gia tăng doanh số các sản phẩm có lợi nhuận cao, thúc đẩy việc tiêu thụ sản
phẩm mới, tăng thêm chỗ bày hàng trong các cửa hàng bán lẻ, và tăng quy mô đơn đặt
hàng.
Hai yếu tố quan trọng để thực hiện thành công một hội thi là (1) thời gian của hội
thi và (2) tính chất và cơ cấu của giải thưởng. Mặc dù không có một nguyên tắc chung
nào về vấn đề này, nhưng thời gian tổ chức hội thi nên đủ để kích thích lòng nhiệt tình và
không nên kéo dài quá lâu làm cho người tham gia thi bán hàng mất đi hứng thú. Hầu hết
các hội thi diễn ra trong vòng từ một đến bốn tháng.
Trợ cấp thương mại
• Trợ cấp mua hàng:
Nhà sản xuất đưa cho người trung gian một số tiền cụ thể (hoặc chiết khấu) để đổi
lại người trung gian mua một số hàng cụ thể trong thời gian nhất định. Hình thức kích
thích này (thường được trả dưới hình thức tiền mặt, giảm giá trên hóa đơn, hay một cam
kết cung cấp tín dụng) sẽ tạo ra các đơn đặt hàng nhiều hơn bình thường từ người bán sỉ
và bán lẻ.
• Trợ cấp trưng bày hàng:
Trợ cấp trưng bày dành cho người bán lẻ để chiếm những chỗ trưng bày đặt biệt
cho các sản phẩm của nhà sản xuất, theo các tiêu chuẩn đã được xác định trong một hợp
đồng chính thức giữa hai bên. Trợ cấp trưng bày được sử dụng như là một biện pháp
khuyến khích các nhà bán lẻ đề cao các sản phẩm của một nhà sản xuất nào đó trong khu
vực trưng bày hay quảng cáo của họ.
• Hàng tặng:
Với thỏa thuận hàng tặng, các nhà trung gian nhận được một số hàng miễn phí
(không phải bằng tiền như hầu hết các trường hợp ưu đãi thương mại khác) cho việc mua
lượng sản phẩm cụ thể hay một số sản phẩm khác của cùng một nhà sản xuất. Phương
pháp này tạo cho những nhà trung gian một cơ hội kiếm được lợi nhuận cao hơn thông
qua việc bán các sản phẩm có được do mua miễn phí, nhưng nó lại không có hiệu quả đối
với sản phẩm luân chuyển chậm bởi vì việc mua nhiều đơn giản là không thể làm tăng số
lượng bán một mặt hàng như thế.
Trưng bày và phương tiện trưng bày
Trưng bày tại nơi bán hàng giúp nhà sản xuất và cung ứng hàng hóa có được lợi
thế trong việc trình bày hàng hóa trong các cửa hàng. Nhà sản xuất có thể cung cấp các
phương tiện bày hàng tại các điểm đầu và cuối của các dãy kệ hàng trong cửa hàng hay
siêu thị, áp-phích, băng-rôn, vật trưng bày chuyển động bắt mắt…
Hội chợ và triển lãm
Mỗi năm hàng trăm hội chợ và triển lãm thương mại diễn ra trên toàn quốc. Tại
đây các nhà sản xuất chiêu thị vô số sản phẩm bao gồm xe ô tô, thiết bị tàu biển và tàu
thủy, thiết bị nhà kho, thiết bị viễn thông, máy vi tính và máy văn phòng, vật liệu xây
dựng, thiết bị nhà hàng, máy móc gia đình, công cụ, dụng cụ thể dục thể thao và v.v…Hội
chợ và triển lãm thương mại đóng vai trò nổi bật trong thị trường hàng công nghiệp, và
chúng đang đạt được những thành công trong thị trường hàng tiêu dùng. Có nhiều lý do
tại sao những nhà triển lãm trưng bày sản phẩm của họ tại các hội chợ và triển lãm thương
mại. Họ mong muốn giới thiệu sản phẩm mới, ký kết các hợp đồng bán hàng, tạo nguồn
khách hàng tiềm năng, thu hút các nhà phân phối mới, đề cao hình ảnh công ty, thực hiện
nghiên cứu thị trường, quan sát hoạt động cạnh tranh, huấn luyện nhân viên bán hàng, hay
thu thập các thông tin phản hồi tại chỗ.
Mặc dù hoạt động bán hàng ngay lập tức có thể xảy ra như là kết quả trực tiếp của
triển lãm thương mại, lý di cơ bản của việc tham dự các diễn đàn này là nhằm cung cấp
cho thị trường có chọn lọc những thông tin về sản phẩm và để thiết lập các quan hệ với
các khách hàng triển vọng. Các nhà triển lãm dựng các gian hàng để trưng bày hàng hóa,
biểu diễn sản phẩm, phân phối hàng mẫu, cung cấp tài liệu về sản phẩm, và thực hiện việc
trình bày trước các phương tiện truyền thông. Họ cũng hăng hái xây dựng một danh sách
gửi thư từ danh tánh của các khách tham quan có quan tâm đến sản phẩm cảu công ty để
nhân viên bán hàng có thể tiếp tục liên hệ và phục vụ họ.
Triển lãm thương mại rất tốn kém, nhưng nếu được hoạch định và thực hiện đúng
đắn thì có thể đạt hiệu quả về chi phí. Nhà triển lãm sử dụng hai phương pháp đo lường
cơ bản để đánh giá hiệu quả của triển lãm thương mại: một là số lượng khách thăm viếng
được đếm bởi một quan sát viên độc lập và hai là tiểu sử của đối tượng tham gia.
Quảng cáo hợp tác
Quảng cáo hợp tác là quảng cáo trong đó trách nhiệm và chi phí được chia sẻ cho
hai hay nhiều người tham gia quảng cáo, các bên tham gia có thể thỏa thuận với nhau theo
nhiều tỷ lệ khác. Mặc dù quảng cáo hợp tác có thể là một động lực quan trọng trong
chương trình chiêu thị, quảng cáo hợp tác có hiệu quả nhất khi nó được kết hợp với một
chương trình quảng cáo (của bản thân công ty) mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc.
Tài liệu chào hàng
Tài liệu chào hàng là một hình thức khác của khuyến mại. Nhà sản xuất phân phối
chúng cho nhân viên bán hàng, người trung gian, và khách hàng của họ. Tài liệu chào
hàng rất hữu ích khi sản phẩm đa dạng về kiểu dáng, kích cỡ, và màu sắc hay có một số
đặc tính có thể thay đổi tùy ý khách hàng chọn lựa. Tài liệu chào hàng này thường được
dùng giải thích tính năng kỹ thuật của sản phẩm.
Đối với lực lượng bán hàng, tài liệu chào hàng có tác dụng giúp cập nhật các sản
phẩm mới, các thay đổi về kiểu dáng, thay đổi về mẫu mã, và v.v…Chúng được tăng
không để lực lượng bán hàng có thể sử dụng trong việc xây dựng mối quan hệ với các đại
lý.
Đối với các đại lý, tài liệu chào hàng cung cấp nhiều thông tin và các nhân viên
bán hàng của cửa hàng có thể sử dụng nó để mô tả sản phẩm một cách đầy đủ. Một hình
thức khác của tài liệu chào hàng là những tài liệu phát không (ví dụ tài liệu hướng dẫn
cách sử dụng), những tài liệu này sẽ thúc đẩy mối quan hệ với khách hàng.
Đối với khách hàng, tài liệu chào hàng hỗ trợ họ trong quá trình ra quyết định bằng
cách cung cấp các thông tin chi tiết liên quan đến đặc trưng của sản phẩm, công dụng, các
lựa chọn tùy ý v.v…Tài liệu này có thể làm cho khách hàng thực hiện việc mua sắm của
mình tại nhà tránh được các áp lực từ phía nhân viên bán hàng. Chúng cũng phục vụ như
một nguồn thông tin tốt cho việc bảo trì và sử dụng sản phẩm một cách hoàn hảo.
1.4 CÁC TÁC ĐỘNG CỦA KHUYẾN MẠI ĐẾN KHÁCH HÀNG
Khuyến mại có thể có những tác động tích cực hoặc tiêu cực đến khách hàng thông
qua ba con đường: kinh tế, thông tin (nhận thức) và cảm xúc. Hãy xét ví dụ:
Một chương trình khuyến mại giảm giá lắp đặt ban đầu cho một dịch vụ bưu chính
viễn thông (như điện thoại cố định, Internet…). Việc giảm giá góp phần làm giảm chi phí
cho khách hàng. Đồng thời đơn giản hoá quá trình chọn lựa dịch vụ, chọn lựa doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ, tiết kiệm thời gian, công sức của khách hàng (đó là 2 trong số
các tác động tích cực về mặt kinh tế). Khuyến mại thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ, dù
trên thực tế khách hàng chưa có nhu cầu thật sự (tác động tiêu cực về mặt kinh tế). Ngoài
ra, khách hàng có xu hướng cho rằng chi phí lắp đặt trước và sau khi khuyến mại là cao
(tác động thông tin tiêu cực đến đánh giá, nhận thức của khách hàng), và họ sợ bỏ lỡ dịp
khuyến mại, nhất là những khách hàng trung thành cảm thấy không hài lòng vì doanh
nghiệp chỉ chú trong lôi kéo khách hàng mới (tác động tiêu cực đến tình cảm của khách
hàng)…
Tác động về mặt kinh tế
Đây là các tác động dễ nhận thấy nhất cũng như được các doanh nghiệp chú ý
nhiều nhất khi tiến hành khuyến mại.
Tác động tích cực nổi bật nhất là việc giảm chi phí mà khách hàng phải bỏ ra để có
được hàng hoá, dịch vụ thông qua hình thức trực tiếp giảm giá hay quà tặng; dẫn đến việc
khách hàng có thể tăng khối lượng mua trên một hạn mức tiền tệ, tăng chủng loại hàng
hoá trên cùng một hạn mức chi phí… tiết kiệm thời gian và chi phí khách hàng phải bỏ ra
cho việc chọn lựa mua sắm (khuyến mại tạo cho khách hàng một lý do để dùng thử, chọn
một nhãn hiệu hàng hoá nào đó).
Tuy nhiên, cũng có những tác động tiêu cực như việc tăng chi phí bảo quản hàng
hoá (khách mua nhiều hơn nên phải bảo quản nhiều hơn, lâu hơn), tăng sự lãng phí, tiêu
thụ không cần thiết (giá rẻ nên mua nhiều hơn mức cần thiết). Ngoài ra, khách hàng cần
thời gian tìm kiếm, so sánh các chương trình khuyến mại của sản phẩm (nhằm tìm ra
chương trình tốt nhất) hay thậm chí không mua hàng khi có nhu cầu thực sự mà cố đợi
đến đợt khuyến mại. Về lâu dài có thể làm giảm các chọn lựa có thể có của khách hàng
(khách hàng biết là chọn lựa không hợp lý nhưng vẫn tiếp tục giữ sự chọn lựa này với hy
vọng sẽ được doanh nghiệp thưởng cho lòng trung thành của mình như vẫn thường thấy
trong hàng không)…
Có thể thấy, các tác động thường là tích cực trong ngắn hạn và tiêu cực trong dài
hạn.
Tác động thông tin lên nhận thức của khách hàng
Đây là những tác động liên quan đến thông tin, nhận thức của khách hàng về một
chương trình, chiến dịch khuyến mại, có ảnh hưởng đến suy nghĩ, đánh giá của khách
hàng về chương trình, chiến dịch khuyến mại và các đối tượng liên quan. Các tác động
này bao gồm nhận thức, đánh giá của khách hàng về giá cả, chất lượng, thời điểm và loại
hình khuyến mại.
Về giá cả, khuyến mại giảm giá có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức của
khách hàng về hàng hoá, dịch vụ được khuyến mại, nhất là khi doanh nghiệp lạm dụng
khuyến mại. Bởi khi đó, khách hàng dần dần có xu hướng cho rằng giá thực tế của hàng
hóa dịch vụ chính là giá khuyến mại, và như vậy, vô hình chung, đối với họ, mức giá
thông thường của hàng hóa dịch vụ khi chưa có khuyến mại là cao, không chấp nhận
được.
Về chất lượng, khuyến mại giảm giá cũng có thể gây tác động tiêu cực đến nhận
thức của khách hàng về chất lượng bởi khách hàng cho rằng hàng hoá, dịch vụ được
khuyến mại thường có chất lượng thấp, ít nhất là so với các hàng hoá, dịch vụ cùng loại
của nhà sản xuất khác, thậm chí là thấp hơn với chính hàng hoá, dịch vụ đó khi chưa có
khuyến mại. Tác động này sẽ nghiêm trọng hơn khi trong cả ngành công nghiệp không có
doanh nghiệp nào khác áp dụng khuyến mại.
Thời điểm khuyến mại cũng có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến suy nghĩ,
đánh giá của khách hàng. Việc tiến hành các chiến dịch khuyến mại theo chu kỳ khiến
khách hàng có những dự đoán nhất định về thời điểm khuyến mại. Nếu khuyến mại xuất
hiện vào thời điểm khách hàng không mong đợi sẽ tạo niềm vui, bất ngờ cho khách hàng
và kích thích họ mua sắm. Ngược lại, tác động tiêu cực sẽ lớn hơn khi vào thời điểm mà
khách hàng cho rằng hàng hoá, dịch vụ đáng ra phải được khuyến mại thì chúng lại không
được khuyến mại.
Cuối cùng, loại hình khuyến mại theo kiểu “mua X tặng Y” cũng có thể có tác
động tiêu cực đến suy nghĩ, đánh giá của khách hàng. Với mặt hàng X, cơ chế tiêu cực
tương tự như mô hình giảm giá ở trên. Nhưng đối với mặt hàng Y, mặt hàng được tặng,
cơ chế tác động tiêu cực có khác đôi chút, theo đó, mặt hàng Y sẽ dễ bị coi là hàng hoá,
dịch vụ thứ cấp, chi phí sản xuất và chất lượng thấp, ít nhất là đã lỗi thời, không được ưa
chuộng nữa nên mới được dùng làm “mồi nhử” cho các mặt hàng khác.
Tuy nhiên, không phải mọi tác động thông tin đến nhận thức của khách hàng đều là
tiêu cực. Một chương trình khuyến mại được thiết kế hợp lý sẽ đem lại những tác động
thông tin tích cực. Ví dụ, khi người bán đề rõ loại mặt hàng, dịch vụ khuyến mại bị giới
hạn về số lượng, thời gian (mỗi người chỉ được mua nhiều nhất N sản phẩm hay khuyến
mại chỉ kéo dài đến ngày X), khách hàng sẽ cho rằng loại hàng hoá này rất tốt và/hoặc
chúng đang rất được ưa chuộng hiện nay và nếu họ không mua sẽ bị người khác mua hết.
Tác động cảm xúc
Loại hình tác động này ảnh hưởng đến quyết định mua hàng của khách hàng thông
qua cảm xúc, tình cảm của khách hàng đối với việc khuyến mại, đối với việc mua hàng
trong dịp khuyến mại, thậm chí đối với việc bỏ lỡ cơ hội mua hàng trong dịp khuyến mại
đó.
Tác động tích cực đầu tiên là khi mua hàng trong đợt khuyến mại, khách hàng sẽ
thấy thoải mái và tự tin hơn vì cho rằng mình là “nhà mua sắm” khôn ngoan tài tình (do
tìm mua được hàng hóa rẻ hơn bình thường). Ngoài ra, khuyến mại cũng kích thích khách
hàng khám phá, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm trong cuộc sống (thông qua dùng thử
những mặt hàng, nhãn hiệu mới). Bản thân khuyến mại vẫn được coi là thú vị, việc tìm
hiểu các chương trình khuyến mại, tham gia các chương trình quà tặng, bắt thăm… là một
thú vui đối với nhiều khách hàng. Và với các bức hình cổ động, các biểu giá khuyến mại
với nhiều màu sắc khác nhau, khuyến mại cũng tạo nên sự khác biệt, sự đa dạng, “vui
mắt” trong trưng bày sản phẩm.
Tác động tiêu cực của khuyến mại là tạo cảm giác thất vọng cho khách hàng khi
chất lượng, giá cả trên thực tế không như những gì mà doanh nghiệp hứa hẹn. Khuyến
mại cũng có thể tạo cảm giác “bất công” trong khách hàng khi khách hàng bỏ lỡ dịp
khuyến mại, nhất là khi khách hàng trung thành thấy doanh nghiệp có các chương trình
khuyến mại chỉ tập trung thu hút khách hàng mới, họ sẽ có cảm giác doanh nghiệp “qua
cầu rút ván”.
Như vậy, khuyến mại tác động đến quyết định mua hàng của từng khách hàng nói
riêng, đến doanh số, lượng hàng bán ra nói chung thông qua 3 con đường: kinh tế, thông
tin (nhận thức) và cảm xúc. Với mỗi con đường, sự tác động có thể là tích cực hoặc tiêu
cực. Điều này đòi hỏi nhà quản lý phải chú ý, xem xét tổng thể các tác động có thể có của
chương trình khuyến mại trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Từ đó tìm cách phát huy các
tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực, đảm bảo sự thành công của chương trình
khuyến mại.
1.5 PHỐI HỢP KHUYẾN MẠI VÀ QUẢNG CÁO
Phối hợp về ngân sách
Phối hợp về ngân sách giữa khuyến mại và quảng cáo tùy thuộc vào các yếu tố
như: mục tiêu của khuyến mại, đặc điểm thị trường và tình thế cạnh tranh, nhãn hiệu đang
ở giai đoạn nào trong chu kỳ đời sống sản phẩm.
Trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm thì có thể phần lớn ngân sách sẽ dồn vào các
hình thức khuyến mại như phát hàng mẫu, phiếu mua hàng với giá ưu đãi để kích thích
khách hàng dùng thử. Trong giai đoạn tăng trưởng, ngân sách khuyến mại quảng cáo có
thể dùng chủ yếu để quảng cáo nhấn mạnh sự khác biệt của nhãn hiệu và đưa tên tuổi
nhãn hiệu ăn sâu vào tâm trí người tiêu dùng.
Đến giai đoạn trưởng thành, quảng cáo chỉ dùng để nhắc nhở người tiêu dùng tiếp
tục chú ý đến nhãn hiệu. Các hình thức khuyến mại nhắm vào người tiêu dùng như phiếu
mua hàng giảm giá, quà tặng, thưởng thêm hàng có thể dùng định kỳ để duy trì sự trung
thành nhãn hiệu, lôi kéo khách hàng mới và chống lại các hoạt động cạnh tranh. Khuyến
mại nhắm vào người trung gian có thể được sử dụng để duy trì diện tích trưng bày hàng
tại các điểm bán lẻ và kích thích người bán lẻ quảng bá cho nhãn hiệu.
Phối hợp về chủ đề quảng cáo và khuyến mại
Để phối hợp quảng cáo và khuyến mại thành công, chủ đề khuyến mại phải sát với
chủ đề của quảng cáo và định vị sản phẩm. Các hình thức khuyến mại phải truyền đạt
những thuộc tính độc đáo hay lợi ích nổi bật của sản phẩm để tăng cường hiệu quả của
quảng cáo và chào hàng.
Phối hợp về phương tiện và thời gian
Phương tiện truyền thông hỗ trợ khuyến mại rất cần thiết và nên được phối hợp với
chương trình quảng cáo. Phương tiện truyền thông có thể dùng để phân phối phiếu mua
hàng, công bố chương trình xổ số và thi có thưởng, phiếu tham gia thi và xổ số, thậm chí
là phân phối hàng mẫu…Hoặc để thông tin cho người tiêu dùng biết về một chương trình
khuyến mại khác và tạo ra nhận thức, sự thích thú và thái độ thuận lợi đối với nhãn hiệu.
Sử dụng khuyến mại mà không phối hợp đồng thời với chương trình quảng cáo có
thể giới hạn hiệu quả khuyến mại và làm giảm hình ảnh của nhãn hiệu. Người tiêu dùng
có thể hiểu là nhãn hiệu chỉ chú trọng đến tiêu thụ ngắn hạn qua khuyến mại hoặc có chất
lượng kém. Ngược lại, hiệu quả của quảng cáo có thể được tăng cường với các chương
trình khuyến mại như phiếu mua hàng, quà tặng, xổ số, thi có thưởng.
Koko Crunch: Được làm từ những loại ngũ cốc giàu dinh dưỡng, bánh ăn sáng
Nestlé Koko Krunch càng thêm hấp dẫn với vị sôcôla. Một khẩu phần bánh ăn sáng
Nestlé Koko Krunch với nửa tách sữa (30g bánh với 125 ml sữa) cung cấp 29% hàm
lượng canxi và 30% hàm lượng vitamin C cần thiết mỗi ngày.
Nestlé Milo – Bánh ăn sáng: Được làm từ những loại ngũ cốc giàu dinh dưỡng như
lúa mì, bắp, gạo, yến mạch, cùng với đó là các khoáng chất thiết yếu, đặc biệt là canxi và
sắt, bánh ăn sáng Nestlé Milo sẽ cho trẻ nguồn năng lượng để bắt đầu một ngày mới thật
năng động.
• Dành cho mọi người (Nestle Cornflakes)
Được bổ sung thêm 10 vitamin và khoáng chất thiết yếu, bánh ăn sáng Nestlé Corn
Flakes không chỉ thơm ngon mà còn cung cấp nguồn dinh dưỡng cân đối cho cả gia đình.
Dùng bánh ăn sáng Nestlé Corn Flakes thơm ngon và giòn tan, bạn và cả gia đình sẽ hào
hứng hơn để bắt đầu một ngày mới. Các nghiên cứu lâu năm cho thấy các chế độ ăn có
chứa nhiều ngũ cốc nguyên hạt, ít béo và ít choresterol thì sẽ tránh được nguy cơ mắc
bệnh tim mạch, một số loại ung thư.
2.3.4 Thực phẩm làm đậm đà món ăn và cuộc sống
• Nước tương MAGGI
Được sản xuất theo công nghệ lên men tự nhiên đạt tiêu chuẩn 3-MCPD. Với công
thức độc đáo của Maggi, ta có thể dùng để chiên, sào, ướp, chấm. Nước tương Maggi
được làm từ nguyên liệu đậu nành cao cấp và được chọn lọc kỹ tạo nên hương vị thơm
ngon. Bên cạnh đó Nước tương Maggi còn giúp bổ sung lượng I-ốt cần thiết cho cơ thể.
• Dầu hào MAGGI
Dầu hào Maggi là hỗn hợp sốt được chiết xuất từ hào nguyên chất kết hợp với các
loại gia vị khác để tạo hương vị đặc trưng cho món xào, không chứa dầu. Ngoài ra Dầu
hào Maggi còn cung cấp vị ngọt đạm, tạo độ sáng bóng hấp dẫn, tăng hương vị thơm
ngon cho món ăn. Với vị ngọt dịu của đạm, hương thơm nhẹ mùi của hào biển, độ sệt vừa
phải, Dầu hào Maggi sẽ là lý tưởng cho các món xào. Chỉ cần xào rau theo cách thông
thường từ dầu ăn, sau đó cho Dầu hào Maggi vào (không cần nêm thêm các gia vị khác),
món xào của bạn sẽ trở nên thơm ngon và hấp dẫn như món xào nhà hàng.
• Hạt nêm cao cấp MAGGI
Hạt nêm cao cấp Maggi Xương Hầm là lý tưởng để tạo độ ngọt đậm đà căn bản
của xương và thịt cho bất kỳ món canh nào. Với Maggi xương hầm thì món canh của bạn
sẽ thật tuyệt vời! Nước canh trong và nguyên chất (giữ được màu sắc của nguyên liệu
tươi), cùng với đó là mùi thơm dễ chịu (hài hòa với mùi thơm của rau củ) và vị ngọt thịt
đậm đà (thanh quyện ở đầu lưỡi)
Hạt nêm Maggi Ngon Ngon dùng để nêm nếm và cung cấp vị ngọt của thịt cho tất
cả các món ăn. Nước súp trong lý tưởng. Đây là sản phẩm được hơn 60% người tiêu dùng
ưa thích hơn so với các sản phẩm cùng loại
Hạt nêm Maggi Nấm Hương được làm từ loại nấm hương cao cấp, chay mặn đều dùng
được, tạo cho bữa chay nhẹ nhàng ngon miệng.
Hạt nêm Maggi Bột Nêm Gà Thượng Hạng được làm từ thịt gà nguyên chất, với
lượng thịt vượt trội và có bổ sung bào ngư nguyên chất cao cấp, vị ngọt thịt đậm đà hơn
nhiều lần.
2.3.5 Thực phẩm giúp cơ thể tỉnh táo
• Nescafé
Là nhãn hiệu cà phê hòa tan hàng đầu trên thế giới với bề dày lịch sử 70 năm,
Nescafé luôn cải tiến không ngừng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu
dùng. Đối với công ty, chất lượng luôn là yếu tố hàng đầu và mỗi một ly café là kết quả
của 1 quá trình thấu hiểu thói quen, xu hướng. Năm 2007, Nescafé đã cho ra đời lọat sản
phẩm mới với công thức cải tiến cho cả 3 lọai Nescafé 3in1 đậm vừa, đậm đà, đậm đà
hơn. Được làm từ những hạt cà phê chất lượng, với bí quyết rang hạt để đạt được màu sắc
và mùi thơm tự nhiên, qua quá trình chế biến và hòa trộn với đường và sữa cho ra 1 lọat
sản phẩm mới với hương vị hòan hảo. Với đặt tính mùi cà phê thơm hơn, vị cà phê mạnh
hơn (hàm lượng cà phê nhiều hơn) , sản phẩm Nescafé mới hòan tòan đáp ứng được nhu
cầu và thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Nescafé 3in1 My Cup: Là cà phê hòa tan được kết hợp hài hòa giữa cà phê hòa tan
sản xuất từ 100% cà phê trồng tại Việt Nam, bột kem pha cà phê Nestlé Coffee Mate và
đường.
Nescafé Red Cup: Là cà phê hoà tan không pha sẵn (không đường, không sữa),
được rang từ 100% cà phê Việt Nam, dành cho những người muốn được thưởng thức cà
phê theo khẩu vị riêng của mình: có thể là ly cà phê đen, hoặc có thể là ly cà phê sữa với
sự hài hòa tuyệt hảo của độ béo, ngọt, đắng để bạn tận hưởng buổi sáng
Nescafé Café Việt mới: lần đầu tiên tại Việt Nam, Nescafé Café Việt mới mang
đến cho bạn 1 hương vị cà phê đen đậm đà với hương thơm lôi cuốn, thỏa niềm đam mê
thưởng thức cà phê đen thuần túy Việt Nam. Nhờ bí quyết hòa trộn đặc biệt và sử dụng
100% cà phê Việt Nam của Nescafé Café Việt, bạn có thể dễ dàng pha ngay cho mình ly
cà phê đen hòa tan sánh đậm phù hợp với cuộc sống năng động và hiện đại. Cảm nhận sự
mạnh mẽ từ Nescafé Café Việt mới.
Ưu điểm nổi bật của Nescafé là nguyên liệu được chọn lọc từ những hạt cà phê
tươi ngon nhất, qua các qui trình sản xuất với tiêu chuẩn chất lượng cao nhất, rang đúng
độ để giữ hương thơm cà phê đậm đà tự nhiên. Sau cùng cà phê được hoà thêm đường và
Nestlé Coffee Mate sao cho hương vị cà phê thật hài hoà, vừa uống. Nên mỗi ly cà phê
Nescafé đều đậm đà, hấp dẫn và đầy ắp sự sảng khoái.
2.3.6 Thực phẩm giúp cơ thể sảng khoái
• Nestea
Trà Chanh Nestea mang đến cho bạn một cảm giác sảng khoái tràn đầy sức sống.
Với cảm giác mát lạnh hết ý và hương vị sảng khoái hơn, bạn có thể uống một ngụm lớn
để giải tỏa cơn khát ngay tức thì .
Nestea Chanh: gồm đường, axit citric, trà tinh chế, hương chanh tổng hợp, muối và
vitamin C.
Nestea Cơn Lốc: vẫn là vị trà chanh chua chua ngọt ngọt nhưng đã khát hơn nhờ
chất làm mát đặc biệt.
Nestea Lite: giảm 25% đường, bổ sung Vitamin C và chất xơ.
• La Vie
Nước khoáng La Vie, được thiên nhiên tinh lọc qua hàng ngàn năm, là sự hài hòa
hoàn hảo với cơ thể con người. Được lấy từ nguồn nước thiên nhiên tinh khiết nhất, La
Vie được bổ sung rất nhiều khoáng chất có lợi cho cơ thể trong cuộc sống năng động hàng
ngày.
Giờ đây, vẫn là sản phẩm với những giá trị vượt trội mà người tiêu dùng tin cậy và
ưa thích, La Vie đã có hình ảnh mới. Những phẩm chất của La Vie vẫn được duy trì và
nâng lên tầm cao hơn: sảng khoái, cao cấp và tin cậy.
Với kiểu dáng mới, La Vie sẽ đem đến cảm nhận về những giá trị mới: năng động,
trẻ trung và ấn tượng.
2.3.7 Sản phẩm dinh dưỡng y học
Là một công ty dinh dưỡng hàng đầu thế giới, với hơn 150 năm kinh nghiệm,
nestlé không ngừng nghiên cứu và cho ra đời những sản phẩm không chỉ có hương vi
thơm ngon mà còn đưa ra những giải pháp dinh dưỡng cho sức khỏe dành cho mọi lứa
tuổi, mọi đối tường. Đặc biệt là đối với những người cần có chế độ dinh dưỡng và chăm
sóc đặc biệt như người có vấn đề về tiêu hóa, tiểu đường, bệnh mới hồi phục... Nestlé vừa
giới thiệu một loạt sản phẩm dinh dưỡng mới như : Nutren Fibre, Nutren Diabetes,
Peptamen và Isoca tại thị trường Việt Nam với rất nhiều ưu điểm, tác dụng tích cực, cung
cấp một chế độ dinh dưỡng cân bằng, hợp lý, thích hợp với từng đối tượng khác nhau.
• NUTREN Fibre
Nutren Fibre có mùi vị thơm ngon dễ uống. Hỗn hợp độc đáo của Nutren Fibre
gồm hỗn hợp các chất xơ hòa tan và không hòa tan giúp cho sự phát triển của các vi
khuẩn có lợi, đặc biệt là khuẩn tốt Bìidobacteria, tác dụng bảo vệ hệ tiêu hóa. Nguồn đạm
trong Nutren Fibre có giá trị sinh học cao với tỉ lệ hợp lý whey và casein giúp hấp thu tối
đa. Vitamins và khoáng chất đáp ứng được 100% nhu cầu khuyến cáo hàng ngày của Hoa
Kỳ.
• NUTREN Diabetes
Nutren Diabetes có chứa các cacbohydrate dạng phức giúp điều hòa lượng đường
trong máu. Không chứa đường lactose tránh những khó chịu ở đường tiêu hóa và tiêu
chảy thường gặp do bất dung nạp lactose của sữa. Hỗn hợp chất xơ độc đáo của Nutren
Diabetes kích thích sự phát triển của các vi khuẩn có lợi, giúp hệ tiêu hóa khỏe mạnh,
ngăn ngừa và kiểm soát tiêu chảy hay táo bón. Nutren Diabetes giàu chất béo đơn, chưa
no (MUFA) từ đầu hướng dương, dầu cải hỗ trợ hấp thu tối đa, giảm cholesterol trong
máu. Tỉ lệ đạm trong Nutren Diabetes có giá trị sinh học cao. Sản phẩm Nutren Diabetes
không chứa gluten, dễ tiêu hóa. Nutren Diabetes còn có đầy đủ các loại vitamin và
khoáng chất cần thiết cho cơ thể.
• PEPTAMEN
Bột Peptamen hoàn chỉnh về dinh dưỡng, với phân bố dinh dưỡng cân bằng, gồm
16% chất đạm, 34% chất béo, 50% chất bột đường. Ở những bệnh nhân có chức năng
đường tiên hóa bị suy giảm, Peptide có lợi thế hơn so với acid amin tự do hoặc protein
nguyên vẹn. 100% đạm whey dễ tiêu hóa giúp xây dựng tế bào mới và hồi phục nhanh
chóng. Peptamen chứa 70% chất béo MCT, là nguồn năng lượng dễ hấp thụ và được sử
dung nhanh chóng ở những bệnh nhân bị kém hấp thụ. Sản phẩm còn có thể được sử dụng
cho những bệnh nhân cần giới hạn mỡ vì chỉ 11% Kcal được cung cấp từ các triglyceride
chuỗi dài. Peptamen còn chứa các dưỡng chất chống oxy hóa, tăng cường sức đề kháng
giúp bênh nhân hồi phục nhanh.
2.4 TÌNH HÌNH KINH DOANH CỦA CÔNG TY NESTLÉ VIỆT
NAM HIỆN NAY
Hiện tại Nestlé là một trong những nhà đầu tư hàng đầu của Thụy Sỹ tại Việt Nam
với tổng số vốn đầu tư khoảng 80 triệu USD, tăng trưởng về doanh thu bán hàng hàng
năm đạt trên mức trung bình của thị trường (20%-25%). Các sản phẩm của Nestlé hiện có
mặt tại Việt Nam là các loại dinh dưỡng dành cho trẻ sơ sinh như LACTOGEN, NAN,
bột ngũ cốc ăn dặm trẻ em, sữa cho trẻ đang tăng trưởng (NESTLÉ GẤU 1+, 3+ và 6+),
sản phẩm sữa chua. Nhóm mặt hàng thức uống có NESCAFÉ, NESTEA, MILO. Thức ăn
cho động vật cảnh, hạt nêm MAGGI, nước tương và dầu hào MAGGI. Ngoài ra Nestlé
còn liên doanh với Công ty Thương mại tổng hợp Long An sản xuất nước uống đóng
chai La Vie; các sản phẩm nhập khẩu như bánh sô-cô-la Kitkat, ngũ cốc điểm tâm, kẹo
Fox…Và hầu hết các sản phẩm này đều được phân phối ở các siêu thị, chợ và các cửa
hàng bán lẻ trong khắp cả nước.
Hai mảng kinh doanh thành công nhất của Nestlé trong năm qua được giới thiệu ra
thị trường với chất lượng cải tiến đáng kể và được người tiêu dùng ưa chuộng là: sản
phẩm NAN, sữa bột của Nestlé trên toàn cầu, được giới thiệu tại Việt Nam trước khi có
mặt tại các thị trường khác; và Bột nêm MAGGI Xương hầm được sản xuất dành riêng
cho thị trường Việt Nam.
Ngoài ra, Tập đoàn Nestlé còn tiếp tục phát triển thành công thị trường cà phê tại
Việt Nam. Trung tâm Kiểm tra Chất lượng Cà phê của Nestlé tại nhà máy Đồng Nai đã
thực hiện kiểm tra được hơn 185.000 tấn hạt cà phê hạt Việt Nam để sử dụng tại các nhà
máy của Nestlé toàn cầu. Nói cách khác, Nestlé mua hơn 20% lượng cà phê xuất khẩu của
Việt Nam, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam và vào việc nâng cao
chất lượng cà phê xuất khẩu. Lần đầu tiên Nestlé Việt Nam nhập các giống cây cà phê
chất lượng cao, do Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Nestlé chọn lọc và gây giống. Các
giống cây cà phê này được cung cấp miễn phí cho WASI (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
lâm nghiệp Tây nguyên, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) tại Buôn Mê
Thuột, cũng như cho nông dân trồng thử nghiệm tại Đồng Nai. Bên cạnh đó Nestlé còn tổ
chức thường xuyên các khóa huấn luyện nhằm nâng cao kiến thức cho những nông dân
trồng cà phê về việc trồng, thu mua, bảo quản...
Chương 3: Một số nhận xét và đánh giá về
các chương trình khuyến mại của công ty
Nestlé Việt Nam từ năm 2008 đến nay