You are on page 1of 20

Câu 1: Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng

Cộng Sản Vn. Ý nghĩa của sự kiện Đảng Cộng Sản VN ra đời (3/2/1930)

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

a. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

- Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa.Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong
nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng
cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng
gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước
thuộc địa.

- Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác-
Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Đối với các dân tộc thuộc địa,
Cách mạng tháng Mười Nga nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân
tộc bị áp bức.

- Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3-1919 đã thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt
Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

b. Bối cảnh trong nước

* Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập
bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa
phong kiến.

- Về chính trị: thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền
lực đối nộivà đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt
Nam thành ba xứ: BắcKỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế
độ cai trị riêng. Thực dân Phápcâu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dânViệt Nam.

- Về kinh tế: thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để
lập đồnđiền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp,
hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
- Về văn hoá: thực dân Pháp thực hiện chính sách giáo dục thực dân và dung
túng, duy trìcác hủ tục lạc hậu.

* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam.

- Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục
thực dân,xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ
câu kết với thực dânPháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong
nội bộ địa chủ Việt Nam lúcnày có sự phân hoá, một bộ phận địa chủ có lòng
yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đãtham gia đấu tranh chống Pháp dưới các
hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nôngdân là lực lượng đông đảo nhất
trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức,bóc lột nặng nề. Tình
cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng
căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họtrong
cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân
ViệtNam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa
số xuất thân từgiai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp
nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư
sản Pháp và tư sản người Hoacạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị
chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thầndân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm
nghề tự do v.v. đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thànhngười vô sản, có lòng
yêu nước, căm thù đế quốc thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến
bộ từ bên ngoài truyền vào.

- Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận
người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc
lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa
cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất
của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu:
một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân; hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho
nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải
phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

* Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
- Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân
ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết
quả. Phong trào Cần Vương (phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do
giai cấp phong kiến lãnh đạo) đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi
nghĩa của Phan Đình Phùng (1896).

Sang đầu thế kỷ XX khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu
nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo cũng bị thất bại.

- Các phong trào yêu nước trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc
qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức
và lực lượng cần thiết nêncác phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng
Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
ngày 5-6-1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
Người đã đi qua nhiều nước của Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã phát hiện
ra chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau
khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các thuộc
địa.

- Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Pari và năm 1919 gia nhập Đảng Xã
hội Pháp.

- Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái

Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa”của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộcViệt Nam.
- Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 2-1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán
thành việcgia nhập Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham
gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt
Nam. Đó là một sự kiện lịchsử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ
nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin,
mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng củacon đường giải phóng dân tộc
Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không cócon đường nào khác
con đường cách mạng vô sản.

- Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế,
Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng
chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.

- Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn
bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh:
Cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo;
đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ
tư tưởng Mác-Lênin.

- Người đã viết nhiều bài báo, nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế,
viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo: Thanh
niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-
Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân
tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của
Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trịtiến tới thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có
một Đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

- Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán
bộ. Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều
lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc và gửi đi học tại trường Đại
học Phương Đông (ở Liên Xô cũ) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc)
nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động không mệt mỏi
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những
điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.
- Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản
thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổchức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại
Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6-1 đếnngày 7-2-1930. Hội nghị đã quyết
định hợp nhất 3 tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sảnĐảng, An Nam Cộng sản
Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sảnViệt Nam. Hội
nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lượcvắn
tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện
đódo Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự
vận dụngsáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc
tế Cộng sản và Đảng Cộng sảnViệt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả
nước nhân dịp thành lập Đảng.

- Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành
lập Đảng.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt của
Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái
Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3-2
dương lịchhằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng.

2. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

- Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng
Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị
đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong
trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc
son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta

- Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng
ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội.

- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng
đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải
phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng
Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách
mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách
mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường
và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này
là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn
dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại
giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định
phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm
qua.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam
cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Câu 2: Đồng chí hãy nêu nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh. Hãy phân tích một nội dung mà đồng chí thấy tâm đắc nhất. Liên hệ
bản thân ?

I. Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc


ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức.
Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người
để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác
phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt
Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách
người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người
viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo
Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất
coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của
dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát
triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và
phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng
đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và
toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những
phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu
cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng.
1. Về vị trí, vai trò của đạo đức trong xã hội và trong đời sống của
mỗi người.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách
mạng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư
cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể
hiện chủ yếu trong 3 mối quan hệ: với mình, với người và với việc. Người viết:
“Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ
vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức
tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
- Với mỗi người, Hồ Chí Minh ví đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát
triển con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách. Người viết : “có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian
khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Với yêu cầu đó, Hồ Chí Minh nêu ra năm điểm đạo đức mà người đảng
viên phải giữ gìn cho đúng, đó là:
+ Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
+ Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu
cúi đầu.
+ Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên
hết.
+ Hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
- Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây
dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người
thường nhắc lại ý của V. I. Lênin: Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ,
danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người
nêu yêu cầu đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi
lĩnh vực hoạt động, trong mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối
quan hệ của con người: đối với mình, đối với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ
Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức của cán bộ, đảng viên,
nhất là khi Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất hủ,
Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư”.
2. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong
thời đại mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Trung với nước, hiếu với dân
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương
Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ
nước, phát triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm
châu". Nước là của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì
lợi ích của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều
vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh
đạo, vừa là đầy tớ trung thành của dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách
mạng. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của
người làm chủ đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan
điểm của Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng,
đất nước.
b. Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân
loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là
phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với cá nhân trong quan hệ xã hội.
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại
đa số nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người
nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát
huy sức mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ,
nghiêm khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên,
kể cả với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp
hơn. Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa
chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm để không ngừng tiến bộ.
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải
phóng con người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác -
Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà
sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được".
c. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là
phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí
Minh, là mối quan hệ “với tự mình”.
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ
thể nội dung từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không
ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn
sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân,
của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ,
không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong
công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”,
“không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không
tham địa vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình
không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá,
lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để
việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm
cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng
tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng
riêng, thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công,
vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình
trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Muốn "chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý",
không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật.
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô
tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô
tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những
quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì
Người là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới,
anh hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau:
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột.
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu
chung, “bốn phương vô sản đều là anh em”.
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước
chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của
chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
3. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong
xã hội và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động
viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện. Đó là:
a. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế
hệ đi trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng.
Người yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông
bà làm gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên...
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu
mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng
dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” .
b. Xây đi đôi với chống
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt
đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với
những yêu cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với
chống là muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ
gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất
phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể
hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và
nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức
lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong
trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát
động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên
truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
c. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa
xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người
thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong
mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn
hoặc; thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái
ác để khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động
thực tiễn, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan
hệ của mình
II. Hãy phân tích 1 nội dung mà đồng chí thấy tâm đắc nhất

• Quan điểm “ Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong lịch sử thế giới hiện đại, Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ cách mạng và
nhà tư tưởng quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức. Trước Hồ Chí Minh, các
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã xây dựng lý luận khoa học về đạo
đức, nhưng chưa có điều kiện bàn nhiều về đạo đức của những người cách
mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm đến lĩnh vực đạo đức nhất là đạo đức cách mạng. Tư tưởng đạo đức của
Người bao quát mọi đối tượng, đề cập đến mọi lĩnh vực hoạt động của con
người, trên mọi quan hệ xã hội với phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Phương pháp
luận của Hồ Chí Minh là quy tất cả thành ba mối quan hệ chủ yếu của mỗi
người – đó là đối với mình, đối với người, đối với việc. Xuyên suốt trong các
mối quan hệ đó là quan điểm “Đức là gốc”, một quan điểm cơ bản trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đã có nhiều bài viết, nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu và đi sâu phân tích quan điểm “Đức là gốc” của Hồ Chí Minh,
nhưng theo chúng tôi, vẫn còn một số khía cạnh xung quanh quan điểm này cần
phải được làm sáng tỏ thêm. Bài viết này là một cố gắng nghiên cứu của tác giả
theo tinh thần đó.

1. Nội dung cơ bản của quan niệm “Đức là gốc” trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không để lại những trước tác đạo đức lớn [xét về dung
lượng tác phẩm] nhưng những tư tưởng lớn của Người về đạo đức lại hiển hiện
rất rõ trong những bài nói, bài viết ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, theo phong
cách lý luận phương Đông và rất quen thuộc với con người Việt Nam. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam,
đồng thời kế thừa những tư tưởng đạo đức phương Đông, những tinh hoa đạo
đức của nhân loại và đặc biệt quan trọng là tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Trong lĩnh vực đạo đức, Hồ Chí Minh có sử dụng một số khái niệm và
mệnh đề tư tưởng đạo đức của Nho giáo, nhưng trên cơ sở mới, chuyển tải
những nội dung mới, và vì vậy, về thực chất, đó là đạo đức mới – đạo đức cách
mạng.

Quan điểm “đức là gốc” của con người đã xuất hiện từ xa xưa trong học
thuyết “đức trị” của Nho giáo. Rõ ràng, quan điểm “đức là gốc” của Nho giáo
chứa đựng những yếu tố hợp lý nhất định, nhưng vấn đề ở đây là “đức” mà Nho
giáo nói đến lại là những chuẩn mực đạo đức phong kiến trói buộc con người
vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp, tôn ti trật tự hết sức hà
khắc của giai cấp phong kiến. “Đức là gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đạo
đức mới – đạo đức cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân, kết hợp truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những tinh hoa của đạo đức nhân loại. Sự
khác biệt giữa đạo đức cũ với đạo đức mới đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Có
người cho đạo đức cũ và đạo đức mới không có gì khác nhau. Nói như vậy là
lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu
ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng
vững dưới đất, đầu ngẩng lên trời”. Đó quyết không phải là đạo đức thủ cựu.
“Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì
lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”

Xét về lý luận, quan điểm “đức là gốc” của Hồ Chí Minh có nội dung
phong phú, bao trùm và xuyên suốt toàn bộ tư tưởng đạo đức cách mạng của
Người. Theo tôi, bước đầu, có thể hiểu quan điểm “đức là gốc” của Hồ Chí
Minh gồm những nội dung cơ bản như sau:

Thứ nhất, đạo đức là “gốc”, là nền tảng của người cách mạng. Giống như
cây phải có gốc, sông, suối phải có nguồn, người cách mạng phải có đạo đức
cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được sự nghiệp cách mạng cực kỳ
gian khổ khó khăn. Không phải ngẫu nhiên mà khi Lênin mất, Hồ Chí Minh đã
viết những dòng đầy xúc động trước tấm gương đạo đức trong sáng mẫu mực
của người thầy vĩ đại : “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính
coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị,
tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới
các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về người, không gì
ngăn cản nổi”. Còn trong “Đường kách mệnh” tác phẩm “gối đầu giường” của
những người cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giành chương đầu tiên để
bàn về tư cách người cách mệnh, sau đó mới nói về lý luận và đường lối cách
mạng. Với Hồ Chí Minh, “đức là gốc” cho nên, đạo đức cách mạng không chỉ
giúp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới mà còn giúp người cách mạng
không ngừng cầu tiến bộ và hoàn thiện bản thân mình. Người có đạo đức cách
mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại tạm thời... cũng không rụt dè lùi
bước, khi gặp thuận lợi và thành công, vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm
tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành
người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Vì “đức là gốc” cho nên đạo đức
cách mạng là thước đo lòng cao thượng của con người. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, trong đời sống xã hội cũng như trong hoạt động cách mạng, mỗi
người có công việc, tài năng, vị trí khác nhau, người làm việc to, người làm việc
nhỏ, nhưng bất cứ ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng.

Thứ hai, trong mối quan hệ giữa đức và tài thì “đức là gốc” nhưng đức và
tài phải đi đôi với nhau, không thể có mặt này mà thiếu mặt kia được. Bởi người
nào có đức mà không có tài thì chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không
làm hại ai, nhưng cũng chẳng ích gì, còn nếu có tài mà không có đức thì chỉ có
hại cho dân cho nước còn sự nghiệp bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Hồ Chí
Minh yêu cầu: tài lớn thì đức càng phải cao. Vì khi đã có cái trí thì cái đức
chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình
đã giác ngộ, đã chấp nhận và lựa chọn tin theo. Chính vì thế, Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một
công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ
hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”[4]. “Đức là gốc” vì trong đức đã có tài, có
cái đức sẽ đi đến cái trí. Bởi người thật sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học
tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao. Và khi đã thấy sức không vươn lên được thì sẵn sàng nhường bước, học
tập và ủng hộ người tài đức hơn mình, để họ gánh vác việc nước việc dân. Như
vậy, “đức là gốc” ở đây phải là “đức lớn” – đức tận tâm, tận lực phấn đấu hy
sinh vì cách mạng, vì nước vì dân, nó không đồng nhất với những phẩm chất
đạo đức thông thường cụ thể, như hiền lành, ngoan ngoãn, tốt bụng... trong đời
sống hàng ngày.

Thứ ba, "Đức là gốc" trong xây dựng Đảng là Đảng phải “là đạo đức, là
văn minh”.

Phát triển tư tưởng của Mác, Ăngghen, Lênin về Đảng của giai cấp công
nhân, trong bài phát biểu tại lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng ta, Hồ Chí
Minh đã đưa ra một hình tượng về Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản:

"Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,

Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.

Đảng ta là đạo đức, là văn minh"[5]...

Như vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh" trong
đó đạo đức là "gốc", vẫn là vấn đề được Hồ Chí Minh đặt lên trên hết, trước hết.
Bởi Đảng cộng sản muốn đóng được vai trò tiên phong thì trước hết phải là một
đảng tiêu biểu cho đạo đức cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc và
nhân dân. Có lẽ trong lịch sử phong trào cách mạng thế giới, hiếm có một lãnh
tụ cách mạng nào coi trọng vấn đề đạo đức đến tầm mức như Hồ Chí Minh, đã
đặt đạo đức lên vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Bởi thế, một
đảng nếu xa rời mục tiêu lý tưởng cách mạng, nếu thoái hóa về đạo đức thì tức
là đã hỏng từ "gốc" và cuộc cách mạng nếu được tiếp tục, tất yếu sẽ bị biến chất
và không còn ý nghĩa. Tất nhiên, một đảng tiên phong cách mạng nếu chỉ có
đạo đức cách mạng thì chưa đủ mà Đảng còn phải "là văn minh", phải tiêu biểu
cho trí tuệ của cả dân tộc. Ngoài đạo đức cách mạng là yêu cầu tiên quyết, Đảng
còn phải có trí tuệ, có năng lực nhận thức quy luật và hành động cách mạng
đúng đắn, biết phân tích chính xác tình hình, đề ra đường lối, chủ trương sát
đúng, đưa cách mạng tiến lên từng bước.

Có thể nhận thấy, quan niệm "Đảng ta là đạo đức, là văn minh", đạo đức
là "gốc" trong xây dựng Đảng là một tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo và
không được nhân dân tín nhiệm nữa nếu Đảng yếu kém, không trong sạch, suy
thoái về đạo đức. Người cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người,
ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày
mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Do đó, thường xuyên tự đổi mới và tự chỉnh đốn
Đảng là một yêu cầu khách quan của chính sự nghiệp cách mạng trong tất cả
các thời kỳ. Trong di chúc của mình, phần nói về những công việc phải làm sau
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: "việc
cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn
viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn
tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy,
khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi"[7]. Và, không chỉ trong Di
chúc, mà chính trong bài viết cuối cùng mà Hồ Chí Minh để lại cũng là bài viết
về đạo đức. Phải chăng, Người muốn dành bài viết cuối cùng cho điều mà
Người tâm huyết nhất và cũng là điều mà Người trăn trở nhất trong sự nghiệp
cách mạng - Đó là vấn đề "nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân", là "thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc
đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân".

2. Kết luận

"Đức là gốc" là quan điểm cơ bản, xuyên suốt trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Với những nội dung sâu sắc, chứa đựng chiều sâu tư tưởng lớn, quan
điểm "đức là gốc" của Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối và nâng cao quan niệm
đạo đức truyền thống của phương Đông và Việt Nam mà còn là một cống hiến
quan trọng của Người đối với kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đối
với dân tộc ta, di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về đạo đức
cách mạng là tài sản tinh thần vô giá, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Mà không chỉ là tư tưởng, cuộc đời cách mạng không một gợn một chút
riêng tư của chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những bài học lớn về
đạo làm người. Xét đến cùng, triết lý lớn về con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là triết lý về đạo làm người được tóm gọn trong sáu chữ: Thành người,
làm người và ở đời. Và phải chăng, "tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ
giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng... ở chỗ lựa chọn giáo điều
quen thuộc hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy là ở mức quan tâm đến con
người, con người thật đang phải sống trên quả đất này và chắc còn sống lâu dài
đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi
hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó"[8].

III. Liên hệ bản thân

Với bản thân tôi, tôi luôn phấn đấu trở thành sinh viên giỏi, tuy nhiên ,cùng với
quan điểm về “đức là gốc” của Bác, tôi luôn có gắng học tập chăm chỉ, dựa vào
sức của chính bản thân mình. Vì tôi hiểu, có tự mình vươn lên, mới có thể lấy
được kiến thức giúp ích cho xã hội sau này, cũng như không phụ sự mong đợi
của những người đã đặt niềm tin lên mình. Hơn nữa, trong lớp, tôi cũng là 1
thành viên của ban cán sự lớp, tôi luôn cố gắng làm tốt trách nhiệm của mình.
Tôi nghĩ rằng, đó cũng là 1 trong những hành động nhỏ mà mang ý nghĩa đạo
đức, rất quan trọng cho lớp trẻ ngày nay

Câu 3: Vì sao vấn đề xác định động cơ vào Đảng được đặt lên hang đầu và
có ý nghĩa quyết định với việc phấn đấu trở thành đảng viên. Liên hệ với
quá trình phấn đấu rèn luyện của bản thân đồng chí?
 Liên hệ bản thân

Bản thân tôi, để phấn đẫu trở thành Đảng viên, tôi đã nỗ lực trong học tập và
rèn luyện, 2 năm liền, tôi đều đạt thành tích tốt trong học tập với điểm rèn luyện
trên 90. Với mục đích vào Đảng với lý tưởng sống tốt đẹp, giúp cho bản thân,
đất nước.

You might also like