Professional Documents
Culture Documents
Lương thực là nguồn thực phẩm chính cung cấp hơn một nửa nhu cầu năng lượng cho con
người. Hơn nữa, các hạt lương thực còn cung cấp cho chúng ta protein, vitamin và một số loại
khoáng chất. Trong bữa ăn hàng ngày, lương thực được tiêu thụ với tỷ lệ cao nhất so với tất cả các
loại thực phẩm khác, khoảng 2/3 khối lượng thức ăn. Từ các hạt lương thực con ngưới có thể chế
biến ra được rất nhiều loại thức ăn ngon khác nhau. Nguyên nhân chính để cây lương thực có thể
chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người là do các cây lương thực có khả năng
thích ứng cao với loại đất trồng và thời tiết. cây lương thực cũng cho năng suất thu hoạch lớn. Hơn
2/3 diện tích trồng trọt trên thế giới được dành để canh tác cây lương thực. Trung bình một năm toàn
thế giới sản xuất và tiêu thụ khoảng gần hai tỷ tấn hạt lương thực các loại.Ưu điểm chính của hạt
lương thực là có thể bảo quản được trong một thời gian tương đối dài. Hạt lương thực không chỉ làm
thức ăn cho người mà còn là nguồn thức ăn phục vụ cho chăn nuôi và là nguyên liệu cho nhiều ngành
công nghiệp.
Việt Nam thuộc vùng khí hậu nóng ẩm, nên có khả năng sản xuất lương thực với sản lượng
cao. Việt Nam đã trở thành một trong những nước đứng đầu về xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn còn chịu nhiều tổn thất sau thu hoạch do bảo quản chưa hợp lý. Mặt khác, giá trị xuất khẩu của
gạo nói riêng và nông phẩm Việt Nam nói chung chưa cao. Thậm chí gạo của Việt Nam còn có nguy
cơ bị đánh bại ngay trên sân nhà bởi các loại gạo của các nước trong khu vực, điển hình là gạo Thái
Lan. Bên cạnh đó, mặc dù đã ký kết các Hiệp định thương mại nhưng Việt Nam vẫn chưa xâm nhập
sâu rộng vào thị trường nước ngoài. Một trong các nguyên nhân chủ yếu là do kĩ thuật chế biến lạc
hậu nên chỉ sản xuất sản phẩm thô, có giá trị thấp, khách hàng thế giới không ưa chuộng.
Do đó, việc tìm hiểu về các tính chất của hạt lương thực, các biện pháp hạn chế các tổn thất sau
thu hoạch, các quy trình chế biến để nâng cao giá trị sử dụng của hạt là một vấn đề cần quan tâm đối
những người làm công tác chuyên môn có liên quan đến lương thực.
Phần 1. TỒNG QUAN
I. Giới thiệu về cây lương thực
Cây lương thực là các loại cây trồng mà sản phẩm dùng làm lương thực cho người, nguồn cung
cấp chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat trong khẩu phần thức ăn cho toàn dân số trên thế
giới.
Hiện nay trên thế giới có 5 loại cây lương thực được trồng chủ yếu, bao gồm: ngô, lúa nước, lúa mì,
sắn, và khoai tây. Trong đó ngô, lúa gạo và lúa mì chiếm khoảng 87% sản lượng lương thực toàn cầu
và khoảng 43% calori từ tất cả mọi lương thực, thực phẩm.
Bốn loại cây lương thực chính ở Việt Nam là lúa, ngô, sắn, và khoai lang.
Tình hình lương thực trên thế giới
Vấn đề lương thực là vần đề sống còn của loài người. Không một dân tộc nào trên thế giới không
quan tâm tới. Song song với tăng trưởng của dân số diện tích trồng hạt và củ cũng tăng trong những
năm 1965 – 1981. Nhưng kể từ năm 1981 đến nay cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học và dân
số thế giới, diện tích trồng trọt giảm dần còn năng suất hạt và củ tăng dẫn đến tổng sản lượng lương
thực vẫn tăng nhanh. Tuy nhiên tốc độ tăng không đều nhau giữa các giống cây lương thực khác
nhau. Trong số các loại hạt thì tập trung tăng nhanh là hạt lúa mì, lúa gạo và ngô. Trong số các loại
củ thì củ khoai tây và khoai mì được ưu tiên phát triển mạnh.
Các loại hạt lương thực chính được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm lúa gạo, lúa mì,
ngô, hạt kê và lúa mạch. Trong số năm loại hạt kể trên, lúa mì và lúa gạo là hai loại lương thực cơ
bản nhất mà con người sử dụng.
Về tình hình lúa gạo, theo các số liệu thống kê, thóc chiếm đến 1/3 sản lượng lương thực dự trữ
của thế giới. Đặc biệt, ở các nước châu Á, lượng lúa được sử dụng chiếm 55% tổng sản lượng lương
thực. khoảng 40% dân số thế giới xem lúa gạo là nguồn lương thực chính, 25% dân số sử dụng lúa
gạo trên 50% khẩu phần lương thực hàng ngày. Như vậy lúa gạo có ảnh hưởng đến đời sống ít nhất
65% dân số thế giới. trong cơ cấu phân bố các loại lương thực được sử dụng trên thế giới, lúa gạo
được tiêu thụ nhiều nhất ở các nước châu Á, chiếm tới 90% sản lượng lúa gạo trên toàn thế giới,
phần còn lại chủ yếu phân bố ở các quốc gia châu Phi và châu Mỹ Latinh.
Cùng với sự gia tăng dân số, sản lượng gạo trên thế giới ngày càng tăng và đạt gần 400 triệu tấn vào
năm 2004. nước có sản lượng gạo cao nhất thế giới là Trung Quốc với 112 triệu tấn và Ấn Độ với 87
triệu tấn (năm 2004).
Nước xuất khẩu gạo chính hiện nay là Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan.
Những nước nhập khẩu gạo chính là Braxin, các nước châu Âu, Indonesia, Nigieria, Philippin, và
khu vực Trung Đông.
Tình hình sản xuất gạo trên thế giới năm 2003-2004 (triệu tấn)
Thế giới/Vùng Sản lượng Nhập khẩu Xuất khẩu
Thế giới 389.407 24.78 26.78
Những nước xuất
131.99 0.04 19.21
khẩu chính
Ấn Độ 87 0 3
Pakistan 4.8 0 1.78
Thái Lan 18.1 0 10.14
Việt Nam 22.08 0.04 4.3
Những nước nhập
59.22 9.59 0.34
khẩu chính
Braxin 8.71 0.7 0.05
EU-25 1.72 1.02 0.23
Indonesia 35.02 0.7 0
Nigieria 2.2 1.6 0
Philippin 9 1.29 0
Trung Đông 2.28 3.1 0.06
Một số nước khác
Myanma 10.73 0 0.13
Trung Mỹ 0.09 0.35 0
Trung Quốc 112.46 1.12 0.88
Nhật 7.09 0.7 0.2
Hàn Quốc 4.45 0.18 0.2
Tình hình sản xuất lương thực của Việt Nam
Việt Nam là đất nước nông nghiệp với truyền thống trồng lúa từ rất lâu đời. chúng ta tự hào được
xem là một trong những chiếc nôi của cây lúa. Từ những năm khó khăn phải nhập lương thực, chúng
ta đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới. Diện tích trồng, năng suất và
tổng sản lượng lúa, ngô và củ khoai mì tăng mạnh từ năm 1965-2004. Riêng đối với khoai lang cũng
tăng nhưng không nhiều và khoai tây còn hơi giảm về năng suất.
Hiện nay, chúng ta đang chuyển đổi cơ cấu cây lương thực, tập trung vào trồng các cây cho chất
lượng cao, có tiềm năng xuất khẩu, điển hình là cây lúa. Diện tích trồng lúa chiếm một tỷ lệ rất lớn
tổng diện tích trồng trọt ở Việt Nam. Và trong tương lai, Việt Nam sẽ không tăng diện tích trồng lúa
mà tập trung tăng năng suất bằng cách cải tạo giống, phương cách trồng trọt, kỹ thuật canh tác…
nhằm tăng sản lượng lúa gạo.
Lượng lúa gạo Việt Nam chủ yếu tập trung ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông
Hồng. với những điều kiện thuận lợi cho cây lúa nước, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới.
Ngoài những giống lúa cao sản, những giống lai cho năng suất cao (có thể đạt 7 tấn/ha) đáp ứng
nhu cầu lúa gạo về mặt số lượng, Việt Nam còn thực hiện trồng trọt và sản xuất những giống gạo đặc
sản có giá trị dinh dưỡng và cảm quan. Các giống lúa đặc sản này tuy không cho năng suất cao,
nhưng với những đặc tính như mùi thơm, màu sắc…các giống lúa này đã có một thị trường nhất
định.
Sản lượng lúa trong cả nước: Sản lượng lúa của các địa phương không ngừng tăng qua các năm.
Trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng chiếm hơn 50% sản lượng lúa ở miền Bắc, đồng bằng sông
Cửu Long chiếm hơn 80% sản lượng lúa miền nam. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long có thể
coi là hai nơi sản xuất lúa chủ yếu trong vùng với diện tích trồng, năng suất, và sản lượng lúa đạt
được cao hơn các địa phương khác trong cả nước.
Sản lượng lúa của các địa phương trong cả nước (đơn vị tính: 1000 tấn)
Năm
Stt Tỉnh
2001 2002 2003 2004
Cả nước 32108.4 34447.2 34568.8 35867.8
Miền Bắc 12076.9 12740.3 12671.8 13064.9
1 ĐB sông Hồng 6419.4 6752.2 6487.3 6708.8
2 Đông Bắc 2249.9 2374.6 2475.2 2484.5
3 Tây Bắc 440.7 457.5 488.2 545.9
4 Bắc Trung Bộ 2966.9 3156.0 3221.1 3325.7
Miền Nam 20031.5 21706.9 21897.0 22802.9
1 Nam Trung Bộ 1707.1 1711.0 1878.3 1836.1
2 Tây Nguyên 646.2 606.6 748.2 722.1
3 Đông Nam Bộ 1680.7 1679.7 1742.7 1724.5
4 ĐB sông Cửu Long 15997.5 17709.6 17527.8 18520.3
Nguồn: Niên giám thống kê 2004.
Với sản lượng sản xuất lúa gạo cao, Việt Nam hoàn toàn có khả năng giải quyết vấn đề lương
thực cho người dân. Số lượng lúa gạo tiêu thụ trong nước chiếm tỉ lệ khoảng 70% tổng sản lượng thu
được. Với lượng lúa gạo dồi dào, Việt Nam đã xuất khẩu lúa gạo.
Theo các nhà thống kê, nhu cầu lúa gạo trên thế giới ngày càng tăng, khối lượng giao dịch của
lúa gạo đã đạt ở mức 25-29 triệu tấn/năm. Với điều kiện khắc nghiệt và những biến đổi bất lợi của
thời tiết ở khắp nơi trên thế giới cùng sự bùng nổ dân số hay do sự thay đổi cơ cấu kinh tế, một số
quốc gia không thể tự sản xuất nguồn lương thực. do đó, nhu cầu về lúa gạo thế giới ngày càng tăng.
Hiện nay, thị trường xuất khẩu lúa gạo Việt Nam đã hơn 20 quốc gia, và thị trường này vẫn tiếp tục
tăng trong tương lai. Thị trường xuất khẩu lúa gạo Việt Nam tập trung chủ yếu ở các nước châu Á và
vùng Trung Đông. Trước đây, Việt Nam xuất khẩu lúa gạo vào thị trường châu Phi với tỉ lệ lớn,
nhưng những năm gần đây, số lượng đã giảm dần.
Sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây đạt giá trị xấp xỉ 25 triệu tấn/năm
và tập trung vào nhóm nước đang phát triển khoảng 80% sản lượng. Dự đoán trong tương lai, các
nước đang phát triển sẽ nhập khẩu gạo nhiều hơn nữa.
Xuất khẩu gạo thật sự đem lai cho Việt Nam một nguồn thu ngoại tệ lớn, những năm gần đây
tổng kim ngạch xuất khẩu lúa gạo Việt Nam lên đến 650 triệu USD. Giá gạo xuất khẩu ở Việt Nam
vẫn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các nhà sản xuất và kinh doanh lúa gạo nước ta. Trong thời
gian qua chất lượng gạo đã được cải thiện đáng kể, từ đó đã góp phần nâng cao, ổn định giá xuất
khẩu gạo Việt Nam và thu hẹp khoảng cách chênh lệch so với thế giới. Tuy nhiên nhìn chung giá
xuất khẩu gạo ở nước ta còn thấp so với giá quốc tế và chênh lệch này sẽ dần thu hẹp dần vì những
tiến bộ trong chất lượng giống, quá trình sản xuất chế biến và phương thức kinh doanh.
Tuốt
lúa là hoạt động làm tách hạt lúa khỏi bông lúa. Tuốt lúa thường sử dụng các nông cụ như đập bồ,
tuốt bằng máy đạp chân và tuốt bằng máy suốt (máy phóng). Hiện nay khâu tuốt lúa bằng máy có vài
điểm cần lưu ý:
- Tỷ lệ hao hụt còn cao (khoảng 2 - 3%).
- Tồn tại đến hạt giống: Do cấu tạo của trống đập và tốc độ quay nhanh làm cho hạt giống va đập
mạnh vào vách thùng suốt hay bị cuốn đập mạnh nên làm cho hạt bị nứt.
Để giảm bớt tổn thất về số lượng và chất lượng giống do khâu suốt, một số điểm cần được quan
tâm đối với các cơ sở sản xuất lúa giống như:
- Chọn mua máy suốt chất lượng: Tỷ lệ thất thoát dưới 1%, hệ thống quạt gié lúa, lưới sàng tạp
chất và thiết kế động cơ với tốc độ quay của trống đập thích hợp và cần xem xét các răng trên trống
đập (nhờ kỹ thuật viên cơ khí nông nghiệp tư vấn).
- Vận hành máy: Người đứng suốt cần quan sát đống lúa, cắt dài hay ngắn, rạ ướt hay rạ khô,
suốt ngay sau khi gặt hay ủ qua đêm, ... để điều chỉnh lượng nguyên liệu đưa vào máy suốt (vì thông
thường chủ máy suốt cho động cơ chạy tốc độ cao và nạp lúa nhiều để hoàn thành sớm).
III.4. Sấy lúa
Lúa mới thu hoạch thường có độ ẩm cao nên dể nảy mầm; men, mốc và nấm trong lúa dễ phát
triển làm cho lúa dễ bị hư hoặc kém phẩm chất. Nhìn chung độ ẩm của thóc khi mới thu hoạch về
thường dao động từ 20 – 27% (tùy nơi, tùy lúc mà độ ẩm có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn). Lúa đập
xong phải được làm sạch loại bỏ các chất như: đất, đá, cỏ dại, hạt lép lững, rơm rạ hoặc những tạp
chất khác.
Muốn lúa không bị hư hay giảm phẩm chất thì trong vòng 48 giờ sau khi thu hoạch phải làm
khô lúa để xay xát liền hoặc để tồn trữ lâu dài, hay để làm giống mà yêu cầu làm khô và chế độ công
nghệ sấy khác nhau. Quá trình sấy phải tiến hành như thế nào ấy để độ ẩm thoát ra từ từ, từng bước
và độ ẩm mong muốn cần đạt được cũng như sự chênh lệch nhiệt độ trong hạt lúa nhỏ nhất.
Độ ẩm an toàn của thóc cho bảo quản phụ thuộc vào tình trạng thái, khí hậu cũng như điều kiện
bảo quản. Nhìn chung khi thóc có độ ẩm 13-14% có thể bảo quản được 2-3 tháng. Nếu muốn bảo
quản dài hơn 3 tháng thì độ ẩm thóc tốt nhất là từ 12-12.5 %. Độ ẩm thóc công nghệ sấy cũng ảnh
hưởng đến hiệu suất thu hồi gạo, tỷ lệ gạo gãy trong quá trình xay xát, độ ẩm tối thích cho quá trình
sấy là 13-14%.
Lúa có thể làm khô bằng phương pháp tự nhiên hay nhân tạo.
Phương pháp tự nhiên chỉ trông chờ vào gió của trời đất, nhiệt năng trực tiếp hay gián tiếp của
mặt trời để làm khô lúa.
Làm khô nhân tạo nói chung là quá trình cưỡng bức một dòng khí nóng có khả năng hút ẩm đi
qua lớp hạt, làm nóng hạt gây lên hiện tượng bốc hơi nước khỏi hạt, hút ẩm từ hạt, chuyển ẩm ra mặt
ngoài hạt rồi chuyển vào không khí để đưa độ ẩm của hạt đến độ ẩm cần thiết thông qua quá trình
sấy.
Phương pháp làm khô tự nhiên
Lúa làm khô dưới ánh nắng mặt trời, trong bóng mát, phơi trên nền xi măng, sân gạch, trên nền
đất nện, trong nong nia, trên các tấm polyetylen…Phương pháp này ít tốn kém, đầu tư thấp, được đa
số nông dân trên thế giới áp dụng rộng rãi, vì dễ dàng sử dụng công lao động thừa trong gia đình,
nhưng lại phụ thuộc vào thời tiết khí hậu, lệ thuộc vào sân bãi.
• Phương pháp phơi nhanh:
Lúa phơi lâu dưới ánh nắng mặt trời, thời gian ở trong nhiệt độ cao quá lâu khi trời nắng tốt,
nhiệt độ không khí lên tới 400C. Nhiệt độ trên sân xi măng, sân gạch có thể lên tới 60 -70oC
kết quả là nhiệt độ hạt lúa có thể lên trên 500C và nước bên trong hạt không đủ thời gian
khuếch tán ra bên ngoài, làm cho hạt gạo bị nứt nẻ. Hiện tượng này gọi là hiện tượng rạn nứt
do ánh nắng mặt trời. Do vậy nên khi xay xát, lúa sẽ cho tỷ lệ gạo gãy, gạo nát cao. Phơi theo
cách này bà con chỉ cần phơi lúa từ 8, 9 giờ sáng đến 4,5 giờ chiều trong 2,3 ngày nắng tốt là
lúa có thể xay xát được.
Lúa được phơi thành luống, mỗi luống cao khoảng 10 -15 cm, rộng khoảng 40 -50cm và cứ
nửa tiếng thì cào đảo một lần theo các hướng khác nhau.
• Phương pháp phơi lâu
Theo phương pháp này thời gian phơi đòi hỏi phải dài hơn, và tốn lao động hơn nhưng bù lại
gạo sẽ ít tấm hơn. Để phơi lúa cũng được trải thành luống như ở cách thức trên, nhưng ngày
đầu tiên chỉ phơi lúa dưới ánh nắng mặt trời 2 giờ, ngày thứ hai chỉ được phơi nắng 3 giờ,
ngày thứ 3 phơi 4 giờ. Cứ 15 phút các luống được cào đảo một lần theo các hướng khác nhau.
Trong ba ngày đầu trong một thời gian ngắn lúa được phơi ngoài nắng, bà con nên để lúa ở
nơi bóng mát, nhưng càng thoáng gió càng tốt. Các ngày sau đo lúa tiếp tục được phơi cho
đến khi lúa có độ ẩm thích hợp cho việc xay xát hoặc tồn trữ .nếu nắng tốt thì đến ngày thứ
tư thì độ ẩm của lúa có thể đạt tới 14%. Tức độ ẩm tới ưu cho tỷ lệ tấm thấp nhất khi xay xát.
Phương pháp làm khô nhân tạo
Ưu thế của phương pháp là lúa có thể sấy vào bất cứ thời
điểm nào, không phụ thuộc vào thời tiết nắng hay mưa, độ ẩm của
hạt có thể khống chế hợp lý trong thời gian giới hạn và khi xay xát
hiệu xuất thu hồi cao hơn so với phương pháp sấy tự nhiên. Có
nhiều cách sử dụng nhiều thiết bị nhân tạo khac nhau. Dưới đây là
một vài phương pháp sấy nhân tạo:
• Làm khô bằng không khí thông thường
Lúa được chứa trong bồn sấy, nhà sấy hoặc lò sấy. Không
khí thường được các quạt gió thổi qua các hệ thống phân
phối gió đi qua các lớp lúa chứa trong thiết bị sấy. Phương
pháp này chỉ áp dụng tốt ở những nơi có độ ẩm không khí thấp và nhiệt độ không khí cao.
Phương pháp này thường được sử dụng với thóc mới thu hoạch chờ đợi thời tiết thuận lợi để
phơi khô sấy kỹ, hoặc dùng để bảo quản lúa đã được phơi khô sấy kỹ trong kho siro hoặc
dùng để phối hợp với các phương pháp sấy có gia nhiệt khác.
• Phương pháp sấy lúa với không khí nóng
Dựa trên phương pháp gia nhiệt có thể chia thành nhiều phương pháp khác nhau:
- Phương pháp sấy đối lưu: Nguồn nhiệt cung cấp cho quá trình sấy là truyền nhiệt từ
môi chất sấy đến vật liệu sấy bằng cách truyền nhiệt đối lưu. Đây là phương pháp
dùng rộng rãi hơn cả cho sấy hoa quả và sấy hạt.
- Phương pháp sấy bức xạ: nguồn nhiệt cung cấp cho quá trình sấy là thực hiện bằng
bức xạ từ một bề mặt nào đó đến vật sấy, có thể dùng bức xạ thướng, bức xạ hồng
ngoại hoặc bức xạ hồng ngoại dãi tần hẹp.
- Phương pháp sấy tiếp xúc: nguồn cung cấp nhiệt cho vật sấy bằng cách cho tiếp xúc
trực tiếp vật sấy với bề mặt nguồn nhiệt.
- Phương pháp sấy bằng điện trường dòng cao tần: nguồn nhiệt cung cấp cho vật sấy
nhờ dòng điện cao tần nên điện trường cao tần trong vật sấy làm vật nóng lên.
- Phương pháp sấy thăng hoa: được thực hiện bằng làm lạnh vật sấy đồng thời hút chân
không để cho vật sấy đạt đến trạng thái thăng hoa của nước, nước thoát ra khỏi vật sấy
nhờ quá trình thăng hoa.
- Phương pháp sấy tầng sôi: nguồn nhiệt từ không khí nóng nhờ quạt thổi vào buồng
sấy đủ mạnh và làm sôi lớp hạt, sau một thời gian nhất định hạt khô và được tháo ra
ngoài.
- Phương pháp sấy phun: được dùng để sấy các sản phẩm lỏng.
Mỗi phương pháp sấy đều thực hiện trên nhiều kiểu thiết bị khác nhau. Ví dụ sấy đối lưu thực
hiên trên hai thiết bị chính:
Thiết bị sấy tĩnh – sấy mẻ: gồm các thiết bị sấy giường phẳng vỉ ngang, thiết bị sấy buồng, thiết
bị sấy kiểu lưới đứng.
Máy sấy DAIKA DK5-GS và DK5-DL do hãng Advanced Dryer Systems của Mỹ nghiên cứu và
chế tạo. Nhờ sử dụng không khí sấy đã được ngưng tụ hơi ẩm, nên tạo được không khí sấy khô
nhưng nhiệt độ khá thấp (45-55oC), do đó đảm bảo hạt sấy có chất lượng cao. Máy sấy rất có hiệu
quả trong điều kiện trời mưa hay ẩm ướt. Tuy nhiên, hiện nay giá máy còn cao nên nông dân khó
chấp nhận. Máy đã đạt giải khuyến khích trong cuộc thi tuyển máy sấy lúa cho ĐBSCL năm 1998.
Về cấu tạo, máy bao gồm 3 bộ phận chính là buồng sấy, động cơ và bơm nhiệt. Cách vận hành: đổ
hạt đầy bồn sấy, khởi động máy nổ, sau khoảng 2-3 giờ thì tháo hạt để kiểm tra độ ẩm, nếu đạt độ ẩm
yêu cầu thì dừng máy, tháo hạt; nếu chưa đạt thì tiếp tục sấy, để hạt nhanh khô và có độ đồng đều
cao có thể tiến hành đảo hạt bằng cách tháo hạt (ở dưới) rồi lại đổ (lên trên) vào máy.
Đặc tính kỹ thuật:
- Kích thước (D-R-C): 1.2x1.2x2.0 m
- Năng suất: 1250kg/mẻ
- Thời gian sấy: 5-6 giờ/mẻ (từ 28% xuống 18% ẩm)
- Công suất: 6.5 ngựa (động cơ xăng); 6-10 ngựa (động cơ diezen)
- Quạt li tâm: 4000m3/giờ; 25mm cột nước.
- Vốn đầu tư: 45-48 triệu đồng/máy.
Ngoài mẫu máy trên còn một số kiểu với năng suất lớn hơn (2-2.5 tấn/mẻ) như DK8-GS, DK8-DL,
DK8-EL.
Thiết bị sấy động : gồm sấy hầm, sấy băng tải, sấy kiểu tháp, sấy tầng sôi, sấy thùng quay…
Một trong các máy sấy thuận tiện phù hợp với quy mô hộ gia đình là loại mấy sấy SH1-200 do
Viện công nghệ sau thu hoạch nghiên cứu, thiết kế đã được phát triển và sử dụng như một công cụ
không thể thiếu của nhà nông để sấy hạt và hoa quả mang lại phù hợp.
Đặc tính chung: Gọn, nhẹ, đơn giản, phù hợp với mọi đối tượng, làm khô nông sản tại chỗ, đặt biệt
thích hợp cho vùng sâu vùng xa, miền núi, tiêu hao ít điện, nhiên liệu dùng phong phú.
Cấu tạo gồm hai phần chính: Buồng sấy được thiết kế theo hình lưới đứng hình trụ (đường kính
760mm, cao 1000mm), thóc được chứa trong hình vành khuyên. Khí nóng được chứa trong hình trụ
trong
(đường kính 340mm, cao 800mm) đồng tâm với hình trụ ngoài. Phí trên hình trụ trong có một chóp
hình đậy kín để khí nóng không thoát vô công ở đây. Giá đỡ toàn bộ phía dưới là một hình nón cụt
có 3 cửa tháo liệu chia điều theo chu vi, mặt ngoài có 3 chân đỡ tiếp xúc với mặt đất. Có thể sử dụng
cót thay thế lưới hình trụ ngoài bằng cách gia cường 6 cọc tre đều được; Cấp nhiệt: gồm 3 bộ phận:
hệ thống tuy–e, quạt, bếp than tổ ong.
Tuy-e (đường kính 100 mm) một đầu nối với quạt (90w, 150-200 m3/h) đầu còn lại nối với cửa vào
của buồng sấy phía dưới giá đỡ. Khói lò từ bếp than (kiểu than tổ ong) được dẫn bằng đường ống nối
với tuy-e dạng tiếp tuyến ngay tại điểm gần vùng áp suất nhỏ để tăng khả năng hút. Chụp hút khói lò
từ bếp than có thể điều chỉnh độ cao để phù hợp với kích thước bếp và nhiệt độ cần dùng. Toàn bộ hệ
thống được gắn chặt vào giá đỡ buồng sấy và một chân phụ.
Nguyên tắc làm việc:
Máy sấy SH1-200 là loại mấy sấy tĩnh, sấy theo mẻ, mỗi mẻ 180-220kg thóc. Máy dựa trên nguyên
lý đối lưu, dòng không khí nóng được ống hút 4, hút từ lò 2, nhờ quạt 1, đẩy hỗn hợp khí nóng đi
theo ống dẫn gió vào buồng cấp nhiệt lồng dưới trong 10 (lõi trong của tuy–e được quạt thổi không
khí mát vào để tạo áp suất hút khói lò, từ bếp than hòa trộn vừa đủ tới nhiệt độ mong muốn rồi đưa
vào buồng sấy). Nhờ cấu tạo bằng lưới không khí nóng được đi qua lớp sấy ở buồng 9 dễ dàng. Dòng
không khí nóng làm nóng vật liệu sấy và chuyển ẩm đó ra ngoài không khí qua lưới 9. Như vậy quá
trình sấy được thực hiện cho đến khi đạt độ ẩm cần thiết.
Trong quá trình sấy cần chú ý đến các vấn đề sau:
- Không nên sấy trực tiếp hạt bằng khói lò đốt. Khói lò đốt sẽ dễ làm hạt quá lửa và nhiễm mùi
khói lò. Chúng sẽ làm giảm giá trị cảm quan của hạt sau sấy và tích lũy độc tố trên hạt lúa.
- Không sấy hạt ở nhiệt độ quá cao (100oC), vì chất lượng hạt sẽ thay đổi mạnh (mất sức sống,
giảm tỉ lệ nảy mầm, giá trị dinh dưỡng giảm,…).
Nhiệt độ sấy thường dao động trong khoảng 40-
80oC.
- Nâng dần nhiệt độ từ từ khi sấy để tránh sự nứt vỏ,
sự hồ hóa…trên bề mặt hạt.
III.5. Phân loại và làm sạch hạt
Loại các hạt lép, tạp chất nhẹ và tạo sự đồng nhất tối đa
cho khối hạt: dùng quạt điện, sàng và lựa bỏ các tạp chất
còn lẫn trong lúa.
IV. Bảo quản lúa
IV.1. Nguyên tắc bảo quản lúa:
- Kích thích hoạt động của các VSV và enzyme đặc
biệt.
- Loại bỏ các VSV và các chất gây nhiễm bẩn.
- Ức chế hoạt động của các enzym và VSV gây hư hỏng.
- Tiêu diệt các VSV và làm mất hoạt tính của các enzyme.
IV.2. Một số phương pháp bảo quản lúa phổ biến
- Bảo quản ở trạng thái khô: dựa trên độ ẩm cân bằng, ẩm an toàn.
+ Phơi nắng
+ Sấy bằng không khí nóng
+ Sấy bằng không khí khô
+ Dùng hóa chất hút nước như H2SO4 hay CaCl2.
Phương pháp này có ưu điểm là bảo quản hạt lâu dài. Tuy nhiên cần lưu ý phương pháp sấy khô
trước khi bảo quản vì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sau này của hạt như khả năng xay xát hạt, tính
chất công nghệ, giá trị dinh dưỡng, cảm quan và khả năng nảy mầm của lúa.
- Bảo quản ở trạng thái thoáng gió tích cực:
Bảo quản thoáng là phương pháp bảo quản bằng cách để khối nông sản tiếp xúc với môi trường
ko khí xung quanh dễ dàng nhằm điều
chỉnh nhiệt độ, độ ẩm trong kho và khối
nông sản một cách kịp thời thích ứng với
môi trường bảo quản. Do đó giữ được thuỷ
phần và nhiệt độ của khối nông sảm ở trạng
thái an toàn.
Bảo quản thoáng dùng 2 kiểu thông gió:
tự nhiên, tích cực.
- Bảo quản kín là đình chỉ sự trao đổi ko khí giữa nông sản với môi trường bên ngoài giữ cho
khối nông sản luôn ở trạng thái an toàn. Bảo quản kín còn có nghĩa là bảo quản trong điều kiện thiếu
oxy, để hạn chế quá trình hô hấp của nông sản, khống chế sự phát sinh, phát triển phá hoại của vi
sinh vật và côn trùng.
Lúa sau khi được phân loại và làm sạch sẽ được đem sử dụng hay cất giữ để bảo quản. Lúa được
bảo quản ở 2 dạng:
Bảo quản lúa đổ rời
Độ ẩm dưới 14%, làm sạch để tạp chất dưới 2%. Lúa tươi mới thu hoạch độ ẩm 22÷ 25% phải
chờ làm khô đến độ ẩm trên. Vệ sinh và sát trùng kho trước khi nhập vào 7 ngày. Xử lý bảo quản
bằng các chế phẩm sinh học trên mặt, trường hợp nhiễm côn trùng nặng thì dùng các biện pháp hóa
học theo khuyến cáo
của các nhà chuyên
môn. Cho lúa trực
tiếp vào kho và dụng
cụ chứa. Kho và
dụng cụ kê lót phải
được vệ sinh khử
trùng, xung quanh
tường kho phải kê gỗ
tránh tiếp xúc vào
tường. Khi đưa lúa
vào kho tránh giẫm đạp, tránh bị nén chặt, ẩm nhiệt
khó thoát ra ngoài dễ gây hiện tượng tự bốc nóng,
men mốc. Cần có thông gió và cào đảo. Cào đảo lớp
mặt thành làn sóng hoặc thành luống cao 40÷ 50cm,
đổi chiều và định kỳ 15÷ 30 ngày/lần. Khi lúa bị bốc
nóng mạnh cần cào đảo theo cách đào giếng sâu
1÷ 1.5m ở những chỗ bốc nóng. Biện pháp này chi phí
thấp nhưng lúa hay hút ẩm, nóng cục bộ, nhiễm sinh
vật hại, tốn công cào đảo, vận chuyển và chất lượng
không đảm bảo.
Bảo quản lúa trong bao:
Đây là phương pháp bảo quản phổ biến nhất. Lúa
đạt yêu cầu bảo quản phải có độ ẩm dưới 14%, tạp
chất dưới 2%. Lúa trước khi đóng bao cần xử lý chống
mốc và côn trùng (đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm). Kho chứa lúa phải được dọn vệ sinh và khử
trùng trước 7 ngày. Sàn kho chứa lúa phải được kê lót bằng bục gỗ hoặc lớp trấu sạch khô 20cm. Lúa
được xếp thành từng lô từ 15÷ 18 lớp bao, độ cao không quá 4m. Lớp bao trên cùng cách trần kho tối
thiểu 1m. Lô cách lô ít nhất 1m và cách trường 0.5m. Giữa các lô có rãnh thông gió theo khoảng
cách năm hàng bao ngang từ dưới lên và cứ năm lớp bao thì đặt 1 rãnh thông gió và chạy dài theo
các lô hàng ra giếng thông gió. Phương pháp này đơn giản nhưng có nhược điểm là lúa chịu ảnh
hưởng của không khí nóng ẩm cục bộ dễ nhiễm vi sinh vật và côn trùng.
Để đảm bảo chất lượng hạt trong kho, ngoài việc đảm bảo các yêu cầu về kỹ thuật thì cần tuân
thủ các quy tắc vận hành kho. Các quy tắc được lập ra từ khâu chuẩn bị kho cho đến khâu xuất hết
hạt và được gọi là “quy phạm về bảo quản thóc”. Tại Việt Nam, các quy phạm này có thể tìm thấy
trong các bộ tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) về bảo quản thóc gạo và đậu đỗ. Ngoài ra, trong mỗi
ngành lại sẽ có các bộ tiêu chuẩn ngành riêng để đảm bảo yêu cầu của ngành. Ví dụ, Bộ trưởng Bộ
tài chính đã ra quyết định số 34/2004/QĐ-BTC ngày 14/4/2004, trong đó có quy phạm về bảo quản
thóc dự trữ quốc gia và bảo quản gạo dự trữ quốc gia. Riêng trong trường hợp bảo quản nhỏ tại hộ
gia đình, các cơ quan khuyến nông đã đưa ra các khuyến cáo để đảm bảo chất lượng hạt:
Trước khi nhập hạt
- Quét dọn sạch kho cả trong lẫn ngoài.
- Tất cả các hư hỏng của kho cần được sửa chữa cẩn thận.
- Phun thuốc sát trùng toàn kho kể cả pallet, bao bì nhập kho… Phải phun thuốc sát trùng ít nhất 5÷ 7
ngày tùy loại kho trước khi nhập kho để thuốc đủ thời gian tiêu diệt vi sinh vật, côn trùng và bay hơi
bớt.
- Kê các pallet hay lót các tấm chống ẩm đúng vị trí.
- Chuẩn bị sẵn mọi giấy tờ sổ sách, các dụng cụ lấy mẫu và các dụng cụ nhập kho.
Nhập hạt vào kho
- Nhập hàng đúng chủng loại, đúng chất lượng. ghi chú thời gian xuất nhập rõ ràng.
- Hạt sắp xếp trong kho theo từng lô hàng có kích thước nhỏ hơn 200 tấn. Không được để lẫn loại các
giống hạt khác nhau.
- Không nên chất quá cao. Chiều cao của đống hạt được quyết định dựa trên từng loại hạt, kích cỡ,
độ ẩm và dạng bảo quản. Ví dụ bảo quản hạt nguyên thì chiều cao nhỏ hơn 3.5cm.
- Đối với hạt đổ rời, nếu là nhập kho bằng máy, xác định chính xác vị trí của ống hạt ra. Nếu nhập
hạt thủ công, người đổ hạt phải đi trên cầu đổ hạt và đổ hạt đúng vị trí quy định, nhặt hết dây buộc,
rơm rác còn lẫn trong hạt. Đặt ống thông hơi đúng vị trí. Mặt đống cần được trang phẳng, có thể
đánh luống. Cẩn thận tránh té vào đống hạt trong quá trình nhập hạt có thể gây nguy hiểm chết
người.
- Nếu hạt đóng bao phải được xếp trên các pallet cũng thành từng lô có khối lượng hạt nhỏ hơn 200
tấn. khoảng cách giữa các lô là 1m và khoảng cách giữa một lô và bức tường là 0.5m. Chiều cao một
lô tương đương từ 15 đến tối đa 20 lớp bao và giật thành ba cấp, cấp ở trên xếp lùi vào so với cấp ở
dưới là 0.3m. trong mỗi lớp các bao được xếp theo kiểu chồng ba hoặc chồng năm và cài khóa vào
nhau, đảm bảo cho khối hạt không bị nghiêng, đổ trong quá trình lưu kho, gọn đẹp về hình thức.
- Phải tạo giếng và rãnh thông gió giúp giải nhiệt cho đống hạt. Mỗi lô từ 100÷ 150 tấn để một
giếng, từ 150÷ 200 tấn để 2 giếng. Kích thước giếng 1m x 1m. Giếng được tạo từ bề mặt lớp kê lót
đỉnh lô. Các rãnh thông gió được tạo theo cả hai hướng, một rãnh dọc và một hoặc hai rãnh ngang
(tùy thuộc số lượng giếng). Rãnh được tạo ở cả ba cấp giật hoặc hai cấp từ dưới lên, rãnh nối
kthoong với giếng thông gió, bề rộng của rãnh là 0.3m và cao tối thiểu 0.3m.
Sau khi nhập hạt vào kho
Thủ kho cần điền hoàn chỉnh các giấy tờ nhập kho, thu dọn vệ sinh, quét dọn sạch sẽ hạt rơi vãi,
nhặt sạch rác bẩn, lắp đặt các dụng cụ chống chim chuột, treo rèm chống côn trùng và nếu cần thì
phun thuốc phòng và diệt vi sinh vật. Kiểm tra ống, kênh thông gió đảm bảo thông thoáng, sạch sẽ.
Kiểm tra, xử
Hoàn chỉnh quá trình chín sau lý chất lượng
thu hoạch thóc
Xuất kho
Thu hái, tuốt
Chuẩn bị kho
Chuẩn bị thóc
Sát trùng kho
không, bao bì,
palet, cót (lưới).
Lấy mẫu trên phương tiện kiểm tra Kiểm tra thóc khi nhập kho Thực hiện kê lót
chất lượng
Lấy mẫu kiểm nghiệm bằng dụng cụ Kiểm tra thóc sang bao tại cửa
kỹ thuật kho theo mẫu đã phân tích
Xuất kho
V. Bảo quản gạo
V.1. Một số thiết bị liên quan:
V.1.1. Máy bóc vỏ trấu: nhiệm vụ của máy bóc vỏ trấu là tách vỏ trấu ra khỏi
hạt gạo với độ tổn thương thấp nhất (bóc lớp cám, làm rạn nứt hoặc vỡ hạt). Tuy
nhiên, trong thực tế để bóc vỏ, hiện dùng các phương pháp ma sát, vì vậy một lượng
nhỏ hạt bị nứt vỡ là không tránh khỏi.
Hiện có hai loại máy bóc vỏ trấu sử dụng phổ biến trên thế giới, kể cả ở Việt Nam
là máy bóc vỏ kiểu đĩa và máy bóc vỏ kiểu ru lô cao su.
Máy bóc vỏ kiểu đĩa:
Máy bóc vỏ kiểu đĩa là máy do các nước châu Âu
sản xuất trước tiên. Đến nay, mẫu máy này đã phổ biến
trên thế giới.
Máy bóc vỏ kiểu đĩa gồm 2 đĩa bằng thép, mỗi đĩa
được phủ một lớp chất mài mòn trên một bề mặt( bột đá
trộn chất kết dính), đĩa trên cố định lắp cứng vào khung
máy, đĩa dưới quay. Đĩa dưới quay có thể điều chỉnh
theo phương thẳng đứng để điều chỉnh khe hở giữa 2
đĩa.
Khối lúa đưa vào máy qua phễu 6, điều chỉnh lượng cung cấp bằng ống ren 5 (thay
đổi khoảng cách giữa đầu ống và mặt trên đĩa). Dưới tác dụng của lực ly tâm, lúa di
chuyển và bị ép vào giữa lớp vỏ áo 2 đĩa. Dưới áp lực và sự ma sát, phần lớn hạt lúa
được bóc vỏ. Toàn bộ hỗn hợp sau khi qua máy gồm lúa đã bóc vỏ (gạo lức, vỏ trấu,
lúa chưa bóc vỏ, mảnh gạo vỡ) thu tại cửa 10.
Việc điều chỉnh này là cần thiết, tùy thuộc vào kích thước hạt, giống lúa và tình trạng
mài mòn lớp đá trên đĩa.
Việc điều chỉnh là quan trọng, cần kiểm tra thường xuyên để không xảy ra tình trạng
vỡ hạt quá nhiều hoặc hiệu suất bóc vỏ không cao (lượng lúa chưa bóc vỏ còn nhiều).
Việc điều chỉnh theo phương thẳng đứng cửa đĩa quay dưới.
Bề rộng lớp mài mòn từ 1/6 đến 1/7 đường kính đĩa. Vận tốc tiếp tuyến ( tương ứng
đường kính đĩa) khoảng 14m/s.
Khi sử dụng, lớp vỏ áo mòn không đều trên bề mặt vỏ áo, làm tăng áp lực lên hạt
lúa giữa 2 đĩa
làm tăng độ vỡ
hạt. Vì vậy, cần
thường xuyên
kiểm tra và phục
hồi bề mặt cho
lớp vỏ áo.
Cần chú ý kiểm
tra tình trạng kỹ
thuật của máy ,
bôi trơn định kỳ các vị trí theo quy định của nhà sản xuất ( ổ lăn, ổ trượt).
Máy bóc vỏ kiểu ru lô cao su:
Máy bóc vỏ kiểu ru lô cao
su do Nhật Bản sản xuất
Gạo
Tách kiềm
Rửa sạch
Nghiền mịn
Gạn lọc
Lắng gạn
Tinh
bột
sạch
Gạo
Nước Ngâm
Nước Xay
Khuấy
Lắng gạn
Chia bột
Phơi khô
Bao
gói
Nấu chín
Để nguội
Lên men
Chưng cất
Rượu
gạo
Gạo
Ngâm
Nước Xay
Lọc
Tráng
Làm khô
Cắt
Phơi
Thàn
h
phẩm
Giải thích qui trình:
- Nguyên liệu: tinh bột gạo có có chứa amylose và amylosepectin. Cả hai thành phần này đều có
khả năng hồ hóa ở nhiệt độ 60 – 90oC và
tạo màng tốt khi hồ hóa. Khi đã hồ hóa và
tạo màng. Màng tinh bột có thể phơi khô
và bảo quản được lâu. Tính chất tạo màng
của tinh bột được ứng dụng trong sản xuất
bánh phở. Màng tinh bột gạo khô có khả
năng hút nước và phục hồi lại cấu trúc sau
khi ngâm vào nước nóng 50-60oC. Trong
đó thành phần amylose sẽ là thành phần
chính tạo cấu trúc màng còn
amylosepectin sẽ làm tăng tính dai của
màng. Ngoài ra bánh phở ngon là phải có hương thơm thoang thoảng của gạo, vì vậy chọn lựa
nguyên liệu gạo thích hợp sẽ giúp làm được bánh phở ngon.
- Ngâm: Mục đích quá trình ngâm là giúp hạt gạo mềm dễ xay mịn. Trong khi ngâm, nước sẽ
ngấm vào hạt gạo (hydrat hóa) làm mềm hạt gạo làm
quá trình xay diễn ra thuận lợi hơn. Thời gian ngâm 1-
2 giờ ở nhiệt độ thường. Nếu thời ngâm qua ngắn gạo
sẽ chưa nở tốt, nhưng nếu ngâm quá lâu sẽ làm gạo bị
lên men chua.
- Xay: Quá trình xay sẽ giải phóng các hạt tinh
bột trong gạo, làm mịn và chuyển khối gạo thành khối
đồng nhất. Điều này sẽ giúp quá trình tráng được dễ
dàng và bề mặt của bánh phở được mịn. Tỉ lệ
nước:gạo trong lúc xay là 1:1.
- Lọc hoặc bồng: Bột gạo thu được sau khi xay sẽ
được đem để thu hồi tinh bột và loại bỏ tạp chất. Việc
lọc còn giúp làm giảm lượng nước có trong dịch tinh bột tạo thuận lợi cho việc tráng bánh sau này.
Do các hạt tinh bột thường có xu hướng kết tụ với nhau làm nghẹt và kéo dài thời gian lọc, nên trên
thực tế sản xuất với số lượng lớn, người ta lắng
và gạn tách nước thay vì lọc.
- Khuấy: sau khi lọc, bột được pha với nước
theo tỉ lệ nhất định. Để tăng thêm tính dai và giữ
lâu cho bánh phở, người ta thường bổ sung bột
khoai mì, bột năng (cung cấp thêm amylopectin
tăng độ dai ) hoặc muối (tăng khả năng giử
nước). Ngoài ra còn có một số phụ gia khác như
lá cây bông bụp hay các chất tạo dai trong thực
phẩm cũng được dùng để tăng tính dai của bánh
phở. Việc áp dụng các chất tạo dai phải tuân
theo quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm.
Việc pha thêm nước vào bột là một quá trình
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
bánh phở. Khi quá trình hồ hóa xảy ra, tinh bột sẽ hút nước để trương nở và hình thành cấu trúc
mạng, nếu cho nước quá ít, tinh bột không đủ nước để trương nở sẽ làm bánh phở bị cứng, khi phơi
khô các hạt tinh bột mất nước không đều nhau sẽ làm bánh phở bị nứt, gãy. Nếu cho nước quá nhiều
khi hồ hóa, các hạt tinh bột nở quá lớn, phá vở lớp màng sẽ làm bánh bị bở, không dai, không thể cắt
sợi.
- Tráng: Đây là
quá trình hình thành
cấu trúc màng của
tinh bột gạo. Bột
sau được hòa với
nước ở tỉ lệ nhất
định sẽ được tráng
lên mặt vải. Mặt vải
này đặt trên một nồi
nước sôi để cung
cấp nhiệt cho tinh bột hồ hóa. Sau đó đậy nấp trong khoảng 2 phút rồi dùng thanh tre mỏng lấy lớp
bánh lên.
Ở nhiệt độ 70-90oC các phân tử tinh bột sẽ trương nở, dàn phẳng ra, sắp xếp và tương tác trực
tiếp với nhau bằng liên kết hydro hoặc gián tiếp qua phân tử nước hình thành nên cấu trúc màng.
Ngoài ra các mạch tinh bột cũng có thể liên kết với protein có trong gạo và bột khoai mì giúp tăng
cường độ bền chắc của cấu trúc màng. Lớp tráng khoảng 2mm nếu quá dày bánh phở sẽ khó phơi
khô và dễ đứt gãy do các lớp tinh bột giãn nở không đều. Tráng bánh quá mỏng sẽ không cho ra bánh
phở dai và giữ được cấu trúc tốt khi nấu phở.
- Phơi bánh phở: Quá trình làm khô sẽ làm ráo
và cố định hình dáng bánh, giúp tạo sự thuận tiện cho
quá trình cắt. Bánh phở sẽ được phơi trên vĩ khoảng 3
giờ.
- Cắt sợi: Các bánh phở được đem cắt thành sợi
bằng máy cắt.
- Phơi khô: Sợi phở sau khi cắt sẽ được phơi
khô. Việc phơi khô nhằm sẽ giảm lượng nước trong
bột, ức chế sự phát triển của vi sinh vật, giúp kéo dài
thời gian bảo quản và kinh tế hơn trong quá trình vận
chuyển.
Gạo nếp
Nước Ngâm
Rút nước
Hấp
Cán tròn
Phơi lần 1
Áo đường
Phơi lần 2
Thàn
h
phẩm