You are on page 1of 79

Mai Xuân Hoàn 2011

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào
khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ
phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các
quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tƣ bản sử dụng những thành
tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển.
Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để
phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế nhƣ vậy, quan hệ quốc tế dƣờng nhƣ đã chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hƣớng đa
dạng hoá, đa phƣơng hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc
lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế,
đƣợc ƣu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng và ASEAN là khu vực
phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tƣơng đối ổn định, đang trở
thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nƣớc bắt đầu từ năm
1986, Việt Nam đã thu đƣợc nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đƣờng
lối đổi mới của Đảng, đƣờng lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và
Nhà nƣớc Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lƣợc "diễn biến hoà
bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam
bảo vệ vững chắc tổ quốc và đƣa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nƣớc và thế giới trong những năm (1980 -

1 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nƣớc Việt
Nam phải đƣa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự
nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đƣờng lối đổi

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

mới đất nƣớc và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính
sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp
dẫn đã tranh thủ đƣợc các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt
Nam.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế
giới mới đầy biến động đã đáp ứng đƣợc những yêu cầu xây dựng và phát triển
đất nƣớc. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời
đại. Nên đã thu đƣợc những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp
phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế,
đƣa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh
đạo của Đảng, khẳng định tƣ duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm
trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xƣớng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
từ năm 1986 đến nay, đổi mới tƣ duy đối ngoại, đƣờng lối đối ngoại đổi mới
đƣợc công bố tại diễn đàn Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX đã khẳng định
sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định và thực hiện đƣờng lối
đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986 - 2004 thể
hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và đƣợc nâng lên
tầm cao mới vì vậy tôi chọn đề tài "Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2004)" nhằm làm rõ những quyết sách
đúng đắn sáng tạo của Đảng sau gần 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cập nhật những vấn đề lý luận đặt ra hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2004) trở
thành chủ đề hấp dẫn nhiều giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Tuy nhiên cho

2 đến nay những công trình chuyên khảo, luận văn về vấn đề này hầu nhƣ chƣa
có.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Hiện tại có một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà
nƣớc, Bộ ngoại giao, Cục đối ngoại, Bộ quốc phòng, Viện quan hệ quốc tế đề
cập đến vấn đề này gồm những bài sau đây:
“Nền ngoại giao đổi mới” của Thủ tƣớng Võ Văn Kiệt trả lời phỏng vấn
báo quan hệ quốc tế đầu xuân 1994.
"Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nƣớc Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam" và "Việt Nam trên đƣờng triển khai chính sách đối
ngoại theo định hƣớng mới" của Nguyễn Mạnh Cầm Uỷ viên Bộ chính trị, Bộ
trƣởng Bộ ngoại giao, trƣởng ban chỉ đạo Nhà nƣớc về biển Đông và các Hải
đảo.
"Tiến tới xây dựng lý luận ngoại giao Việt Nam" của Đinh Nho Liêm
nhân kỷ niệm 48 năm ngày thành lập nƣớc Việt Nam.
"Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VIII" của Vũ Khoan thứ trƣởng Bộ
ngoại giao đăng trong tạp chí quốc tế.
“Cục diện thế giới, vận nƣớc” của thứ trƣởng Bộ ngoại giao Trần Quang
Cơ, đăng trong tạp chí quan hệ quốc tế 1 - 1992 và "Thế giới sau chiến tranh
lạnh", "quan hệ Việt Nam và các nƣớc Châu Á - Thái Bình Dƣơng" tham luận
tại Hội nghị về những thách thức đối với công cuộc tái thiết của Việt Nam và
các vấn đề trong nƣớc và quốc tế do trung tâm Đông - Tây tổ chức tại Mỹ từ
ngày 21 - 22/1992.
"Hãy nhìn quan hệ Việt Mỹ" của thứ trƣởng ngoại giao Lê Mai phát biểu
trƣớc hội đồng đối ngoại Mỹ tại NewYord 7/9/1990.
"Dân tộc, thời đại, thời cơ và thách thức" của Trần Quang Cơ trả lời Tạp
chí thông tin lý luận 1/1991.
Những bài trong hội thảo khoa học 50 năm ngoại giao Việt Nam 8/1925
nhƣ "kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong thời kỳ đổi mới"

3 của Vũ Xuân Vinh cục trƣởng cục đối ngoại Bộ Quốc phòng.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

"suy nghĩ về chính sách của ta với các nƣớc ASEAN và đối với Mỹ " của
Trịnh Xuân Lãng đại sự vụ trƣởng - Trƣởng phái đoàn Việt Nam tại Liên Hợp
Quốc.
"Sáng tạo ngoại giao trong thời đại Hồ Chí Minh" của Nguyễn Song
Tùng phó ban đối ngoại Trung ƣơng.
"Ngoại giao nhân dân trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
và hiện nay" của Nguyễn Quang Tạo, chủ tịch liên hiệp các Hội hữu nghị Việt
Nam với các nƣớc
Nhìn chung các bài nói, các bài viết nêu lên trên đã trình bày những nét cơ
bản, đặc trƣng sự biến động trong nƣớc và quốc tế. Những trở ngại trong quan
hệ quốc tế hiện tại, quan hệ Việt Nam với một số nƣớc trong cộng đồng thế giới,
đặc biệt là chính sách đối ngoại của Việt Nam đã có tác dụng trong tiến trình
thúc đẩy ổn định hòa bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển với cộng đồng
quốc tế và trình bày rõ vấn đề đối ngoại, hòa bình, hữu nghị của Việt Nam với
các nƣớc trên thế giới.
Ngoài những bài viết của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng - Nhà
nƣớc là bài viết của các nhà nghiên cứu trên một số tạp chí và một số đề tài khoa
học có sự nghiên cứu phối hợp của các cơ quan nhƣ:
"Chính sách của Mỹ và Trung Quốc đối với Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" của Viện Quan hệ Quốc tế và Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin
và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh 1995 - 1996.
"Chiến lƣợc của Mỹ đối với Việt Nam và quan hệ Việt Mỹ" từ 1975 đến
nay của Hồ Xuân Đệ Bộ Ngoại giao nói tại Viện Lịch sử Đảng Học viện Chính
trị Quốc Gia Hồ Chí Minh 1/1997.
"Phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế trong giai đoạn hiện nay" của
Viện Quốc tế và Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh

4 6/1993.
"Tình hình Campuchia và triển vọng cả Đông Nam Á" của Thu Nga đăng
trong Tạp chí Cộng sản 11/1999.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

"Lịch sử thế giới và việc chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nƣớc" của
Nguyễn Quốc Hùng nghiên cứu lịch sử Đảng 5/1991.
"Chính sách đa dạng hóa" của Nguyễn Ngọc Trƣờng đăng trong tuần báo
quốc tế 19/5/1994.
"Thử nhìn lại chặng đƣờng ngoại giao Việt Nam từ 1975" của Thu Nga
5/1994 v.v…
Nhìn chung các tác giả, các tổng quan của đề tài đã từ nhiều cách tiếp cận
khác, đã chỉ rõ những chuyển biến của tình hình thế giới. Chính sách đối ngoại
của các quốc gia trƣớc những biến động có tính bƣớc ngoặt lịch sử, đồng thời
chỉ rõ những đặc trƣng tính chất toàn cầu đã và đang tác động đến tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc Việt Nam.
Tuy nhiên, nghiên cứu chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi
mới (1986 - 2004), một cách có hệ thống cả về đƣờng lối và kết quả thực hiện
một cách toàn diện thì chƣa có công trình nào đề cập trực tiếp đến thời điểm
này.
3. Cơ sở tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tƣ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu để hoàn thành khóa luận tác
giả dựa trên các nguồn tƣ liệu chính sau đây:
- Một số sách kinh điển của chủ nghĩa Mác-lênin và Tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và một số sách lý luận của các nhà lãnh đạo Đảng - Nhà nƣớc Việt Nam.
- Văn kiện, Nghị quyết của các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, đặc
biệt chú trọng khai thác các văn kiện nghị quyết của Trung Ƣơng và Bộ Chính
trị giữa 4 nhiệm kỳ Đại hội VI - VII - VIII - IX (nhất là Nghị quyết lần thứ 8
Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VI 27/3/1990, Tổng
Bí thƣ Nguyễn Văn Linh đã ký) với một số sách, bài nói, bài viết phối hợp
nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

5 - Một số văn bản pháp luật nhƣ: Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam
1987; Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nƣớc ngoài tại Việt Nam 1988; Hiến
pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

- Kế thừa những tƣ liệu đƣợc công bố qua các công trình của một số tác
giả đã công bố. Ngoài ra chú ý khai thác từ nguồn tƣ liệu của thông tấn xã Việt
Nam … Viết về ngoại giao Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội một số
nƣớc Đông Nam Á, các nƣớc láng giềng, âm mƣu của Mỹ đối với Đông Dƣơng
quan hệ Việt - Mỹ đặc biệt là tình hình các nƣớc xã hội chủ nghĩa từ sau khi sự
kiện Liên Xô sụp đổ.
* Phương pháp nghiên cứu
Theo phƣơng pháp luận sử học, đồng thời dựa vào phƣơng pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và kết
hợp chặt chẽ các phƣơng pháp lịch sử với so sánh, thống kê nhằm làm nổi bật
những thắng lợi trong đƣờng lối chính sách đối ngoại của Đảng gần 20 năm qua.
4. Mục đích và nhiệm vụ của khoá luận
- Khoá luận có mục đích:
Thông qua quá trình xác định chính sách đối ngoại theo đƣờng lối đổi mới
toàn diện đất nƣớc của Đảng cộng sản Việt Nam, khẳng định sự nhạy cảm chính
trị, kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đã kịp thời đổi mới chính sách
đối ngoại phù hợp với chính sách đối nội và xu thế thời đại để hội nhập với cộng
đồng quốc tế vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển.
- Từ mục đích đó khoá luận có nhiệm vụ:
+ Trình bày những cơ sở dẫn đến sự xác định chính sách đối ngoại theo
đƣờng lối đổi mới
+ Trình bày các giai đoạn phát triển của đƣờng lối đối ngoại đổi mới, cái
mới, cái sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại đổi mới.
+ Thông qua việc phân tích những thành tựu, tồn tại khẳng định chủ
trƣơng "độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phƣơng hoá" quan hệ quốc tế là quyết
sách đúng đắn, nhạy bén của Đảng, từ đó bƣớc đầu nêu lên những kinh nghiệm

6 thực hiện chính sách đối ngoại từ năm 1986 - 2004.


5. Giới hạn nghiên cứu của đề tài

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Chính sách đối ngoại của Đảng là một đề tài rộng khoá luận đề cập tới
những vấn đề sau.
- Thời gian và không gian khoá luận đề cập là từ năm (1986 - 2004) ở
Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng lãnh đạo và tiến hành đổi mới toàn diện nhằm
đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của đất nƣớc và đáp ứng xu thế thời đại.
- Nội dung: Thông qua những phân tích biến chuyển của tình hình trong
nƣớc, thế giới, khái quát có hệ thống sự chuyển biến, sự phát triển chính sách
đối ngoại của Đảng - Nhà nƣớc tiến hành xây dựng kết hợp bảo vệ chủ quyền
quốc gia và giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội trong thời kỳ mới.
6. Đóng góp của khoá luận
- Trình bày hệ thống cơ sở hình thành và nội dung đƣờng lối chính sách
đối ngoại của Đảng thời kỳ đổi mới.
- Khẳng định vai trò, tác dụng của chính sách đối ngoại với công cuộc đổi
mới trên toàn diện đời sống, kinh tế chính trị, văn hoá xã hội và quan hệ đa dạng
hoá, đa phƣơng hoá của nƣớc ta với các nƣớc trong khu vực và thế giới.
- Một số bài học kinh nghiệm chung nhất hoạch định đƣờng lối chính sách
đối ngoại của Đảng, góp thêm tiếng nói với việc nghiên cứu điều chỉnh trong
hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng.
7. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo khoá luận
gồm ba chƣơng:
Chương I: Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế là đòi hỏi khách quan của đất nước và xu thế chung của thế giới
Chương II: Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo mở rộng các
quan hệ đối ngoại
Chương III: Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc

7 tế trong thời gian tới

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

CHƢƠNG I
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ
XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. NỀN TẢNG CỦA VIỆC MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ
CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUÔC TẾ
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của
chính sách đối ngoại
Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ rõ chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đƣờng lối chính trị và chính sách của
mọi quốc gia, dân tộc. Mục tiêu của học thuyết là “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải
phóng con ngƣời. Sự nghiệp của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế. Giai
cấp công nhân sẽ không tự giải phóng mình nếu không giải phóng toàn xã hội.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đấu tranh chính trị Lênin dạy
rằng đƣờng lối đối ngoại của các nƣớc xã hội chủ nghĩa phải nhằm "thiết lập
những quan hệ giúp cho tất cả các dân tộc bị áp bức có thể gạt bỏ đƣợc các đế
quốc chủ nghĩa"(1) và tập hợp đƣợc những điều kiện thuận lợi nhất cho "việc
phát triển và củng cố cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa"(2).
Quan điểm của các nhà kinh điển chỉ ra rằng một quốc gia, một dân tộc
thì tất yếu phải thực hiện chính sách đối ngoại để tập hợp bạn bè quốc tế, tranh
thủ những điều kiện thuận lợi và sự giúp đỡ của các nƣớc nhằm xây dựng thực
lực của đất nƣớc, giành thắng lợi cho cách mạng và góp phần giải quyết những
vấn đề quốc tế chung.
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về quốc tế, về
chiến lƣợc, sách lƣợc của cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Hệ

8 thống quan điểm đó đƣợc thể hiện ở những nội dung. Mục tiêu đối ngoại, tập

(1)
V.I.Lênin. Toà n tập.NXB ST, Hà Nội 1969, Tập 3 trang 589
(2)
V.I.Lênin Toà n tập, NBX Sự thật, Hà Nội 1963, tập 11 trang 507

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

hợp và mở rộng lực lƣợng, các phƣơng châm đối ngoại, phƣơng pháp và nghệ
thuật đấu tranh ngoại giao nhằm giành thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, mục tiêu đối ngoại: là nhằm đảm bảo lợi ích của quốc gia, dân
tộc, bao gồm các quyền dân tộc cơ bản nhƣ: độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nƣớc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Đièu
đó đƣợc khẳng định trong tuyên ngôn độc lập của Nhà nƣớc Việt Nam mới:
"Nƣớc Việt Nam có quyền đƣợc hƣởng tự do độc lập, toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lƣợng, tính mạng và của cái để giữ vững quyền
tự do và độc lập ấy"(1). Thông qua Tuyên ngôn độc lập chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam trong quan
hệ chính trị quốc tế. Bởi vì, chỉ những quốc gia độc lập, tự do mới có quyền
quyết định đƣờng lối đối ngoại của dân tộc mình.
Đấu tranh cho hoà bình và cùng tồn tại cho hoà bình là một nội dung quan
trọng trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại. Ngƣời nhấn mạnh nguyện vọng
của dân tộc Việt Nam là mong muốn một nền hoà bình công lý.
Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình, trong đó phải là hoà bình
thực sự, trong độc lập tự do, chứ không phải là thứ hoà bình giả hiệu.
Trong khi ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu đối ngoại của dân tộc, Hồ
Chí Minh rất tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia dân tộc khác. Phát
biểu nhân dịp Quốc khánh lần thứ 10 của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà,
ngày 2/9/1955 Hồ Chí Minh tuyên bố rõ ràng: "Trong quan hệ đối với các nƣớc
khác, chính sách của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà là rõ ràng và trong sáng
đó là một chính sách hoà bình và quan hệ tốt… tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và
chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào công việc nội bộ,
bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hoà bình" (2)
Giữ vững mục tiêu và nguyên tắc, đồng thời sẵn sàng thực hiện chính

9 sách đối ngoại mở rộng là nét độc đáo trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Ngay từ

(1)
Hồ Chí Minh toà n tập NBX CTQG Hà Nội, 1995, tập 9, trang 9
(2)
Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập 8, trang 58

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

năm 1946, trong lời kêu gọi Liên Hợp Quốc, Ngƣời đã nêu rõ chính sách đối
ngoại của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà: Đối với các nƣớc dân chủ, Việt
Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực, dành sự
tiếp nhận thuận lợi, cho đầu tƣ của các nhà tƣ bản, nhà kỹ thuật nƣớc ngoài
trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình, sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và
đƣờng xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế, chấp nhận tham gia
mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dƣới sự lãnh đạo của Liên Hợp Quốc, sẵn
sàng ký kết với các lực lƣợng hải quan, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp
quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ƣớc liên quan.
Thứ hai, về mở rộng và tập hợp lực lƣợng. Xác định đối ngoại là một mặt
trận, Hồ Chí Minh chủ trƣơng mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc, tranh thủ
mọi lực lƣợng và hình thức đấu tranh nhằm đạt hiệu quả cao nhất về đối ngoại.
Ngƣời cho rằng, thắng lợi ngoại giao tuỳ thuộc vào sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân, sức mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự và văn hoá của đất
nƣớc. Với bên ngoài, Hồ Chí Minh chủ trƣơng mở rộng các lực lƣợng theo
phƣơng châm "thêm bầu bạn, bớt kẻ thù", tránh đối đầu "không gây thù oán" với
bất cứ nƣớc nào; khai thác những điểm tƣơng đồng và mọi khả năng có thể nhắp
tập hợp lực lƣợng, hình thành mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam một cách rộng
rãi và sâu sắc nhất.
Hồ Chí Minh là ngƣời Việt Nam đầu tiên nhận thức đƣợc tầm quan trọng
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới. Trong tác phẩm Đƣờng cách mệnh (năm 1927), chủ tịc Hồ Chí Minh (khi
đó với tên gọi Nguyễn Ái Quốc) đã xác định: "Cách mệnh An Nam, cũng là một
bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng
(1)
chí của dân An Nam" . Đây chính là cơ sở để xác lập tình hữu nghị, đoàn kết,
hợp tác với nhân dân các nƣớc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

10 tạo nên thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.

(1)
Hồ Chí Minh, Toà n tập, NXB CTQG Hà Nội 1995, tập 2, trang 301

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Để thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, tập hợp các lực
lƣợng đoàn kết với Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm cho nhân
dân thế giới hiểu rõ về Việt Nam, về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
ta, muốn tăng cƣờng đoàn kết phải thông qua đấu tranh, vì đoàn kết mà phải đấu
tranh.
Thứ ba, về phƣơng châm đối ngoại và phƣơng pháp đấu tranh ngoại giao.
Nhấn mạnh quan điểm độc lập tự chủ, tự lực, tự cƣờng, Ngƣời nói: "Độc lập
nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc cảu chúng tôi, không có sự can
(1)
thiệp ở ngoài vào" . Điều đó có nghĩa là dân tộc Việt Nam phải tự mình vạch
ra đƣờng lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia và
phù hợp với chuẩn mực quốc tế, thích ứng với xu thế của thời đại. Tuy nhiên,
Ngƣời cũng nhấn mạnh rằng không thể hạn chế những hoạt động đó trong
khuôn khổ dân tộc thuần tuý, bởi những hoạt động đó "có muôn ngàn sợi dây
liên hệ" với cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ.
Trong chỉ đạo, thực tiễn, Hồ Chí Minh thƣờng xuyên căn dặn cán bộ phải
giữ vững lập trƣờng, vững vàng, khôn khéo, chủ động, tích cực, tự lực cánh
sinh; trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế, Hồ Chí Minh coi yếu tố quốc tế có ý
nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng nhƣng yếu tố độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cƣờng luôn giữ vai trò quyết định mọi thắng lợi.
Ngƣời viết: "sự giúp đỡ của các nƣớc bạn là quan trọng, nhƣng không
đƣợc ỷ lại… Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì không xứng đáng đƣợc độc lập(2)
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ ngoại giao phải nắm vững phƣơng châm
kiên trì về nguyên tắc, giữ vững chiến lƣợc, nhƣng mềm dẻo, linh hoạt về sách
lƣợc. Ngƣời nói: "Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất,

11
(1)
Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội 1995, tập 5, trang 552
(2)
Hồ Chí Minh toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập 7, trang 319

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhƣng sách lƣợc của ta
thì linh hoạt" (3)
Đối ngoại là một mặt trận quan trọng, có ý nghĩa chiến lƣợc. Trong hoạt
động đối ngoại phải luôn thể hiện chiến đấu cao và tinh thần "kiên quyết không
ngừng thế tiến công", nhƣng phải biết chọn thời cơ để giành thắng lợi từng
bƣớc, giành thắng lợi từng bộ phận. Để tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp của đất
nƣớc, hoạt động đối ngoại phải phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động ngoại giao
chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hoá…
Là một nhà ngoại giao lỗi lạc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời sau
những bài học vô cùng quý giá về phong cách của một ngƣời làm công tác đối
ngoại. Những tƣ tƣởng này là kim chỉ nam dẫn đƣờng cho việc hoạch định và
thực thi chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc chính sách đối ngoại mới của
Việt Nam sẽ không thể thành công nếu không biết kế tục và phát huy những giá
trị vƣợt thời gian của những quan điểm này.
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
Ngoại giao truyền thống Việt Nam là nền ngoại giao truyền thống có bản
sắc. Đó là những đặc trƣng ổn định và bền vững, có nguồn gốc xuất sứ từ bản
sắc dân tộc và văn hoá dân tộc Việt Nam, đồng thời là kết quả của hoạt động
giao lƣu quốc tế của Đại Việt với các nƣớc láng giềng, của quá trình đấu tranh
bảo vệ chủ quyền dân tộc và phục vụ công cuộc xây dựng đất nƣớc, phát triển
quốc gia - dân tộc.
Đặc trƣng ngoại giao truyền thống Việt Nam có thể gói gọn: hoà hiếu,
nhu viễn, “trong đế ngoài vƣơng”.
Trƣớc tiên, nhân dân Việt Nam luôn có ý thức bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Nền ngoại giao nhu viễn xem trọng việc giữ ging
hoà khí, khiêm nhƣờng với các nƣớc lớn, hữu nghị với các nƣớc lân bang, phấn

12 đấu cho sự thái hoà.

(3)
Hồ Chí Minh, toà n tập, NXB CTQG Hà Nội, 1995, tập, trang 319

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Yêu chuộng hoà bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi
kiên trì lập trƣờng nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, chống lại ngoại giao xâm lƣợc của đối phƣơng, Đại Việt kiên trì
đƣờng lối hoà bình trong quan hệ ngoại giao với các nƣớc láng giềng.
Khi quân Tống tiến công Đại Việt bị chặn đánh quyết liệt trên phòng
tuyến sông Cầu, quân lƣơng khó khăn, binh sĩ không chịu đƣợc lạm chƣớng…
Biết quân địch ở thế tiến thoái lƣỡng nan, Lý Thƣờng Kiệt dùng “ biện sĩ bàn
hoà”, nêu ra những đề nghị hoà bình hấp dẫn đối với tƣờng giặc Quách Quỳ, tạo
điều kiện cho quân Tống rút về nƣớc. Liền đó, Vua Lý cử sứ thần sang triều
cống và mở giao hiếu giữa hai nƣớc.
Thời nhà Trần, sau khi đánh bại cuộc xâm lƣợc lần thứ nhất của Nguyên
Mông năm 1258, vua Trần cử sứ thần sang hoà giải với Nguyên Mông, chịu
xƣng thần, hai năm cống một lần. Cuộc đấu tranh ngoại giao diễn ra quyết liệt,
khi nhu khi cƣơng, mặt khác biết vận dụng đối trọng trong quan hệ giữa Mông
Cổ và Nam Tống, đã kéo dài thời gian hoà hoã đƣợc 27 năm.
Vua Nguyên sau thất bại của cuộc xâm lƣợc Đại Việt lần thứ ba năm 1288
vẫn có ý phục thù. Trong 30 năm sau chiến tranh, hầu nhƣ hai năm một lần, Đại
Việt cử sứ thần sang Yên Kinh thăm viếng, triều cống, xây dựng quan hệ bang
giao thân thiện. Tƣ tƣởng hoà bình đƣợc thể hiện rõ nét trong bài thơ “Đi sứ
phƣơng Bắc, ngủ đêm ở trạm Khâu Ôn” của Nguyễn Trung Ngạn làm khi đi sứ
sang Nguyên Mông:
“Kéo hết sông Thiên Hà xuống rửa sạch giáp binh
Triều đình không có ý đeo đuổi việc chinh chiến ở miền Tây”
Hoà hiếu là tƣ tƣởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt. Nhà sử học Phan
Huy Chú đúc kết lịch sử bang giao của đất nƣớc đã nhấn mạnh: “Trong việc trị
nƣớc, hoà hiếu với láng giềng là việc lớn”. Tinh thần ấy đã đƣợc Nguyễn Trãi

13 nêu bật trong “Phú núi Chí Linh”, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
quân Minh:
“Nghĩ đến kế lâu dài của đất nước

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Thả cho về mười vạn tù binh


Nối hai nước tình hoà hiếu
Tắt muôn đời lửa chiến tranh;
Đất nước vạn toàn là thượng sách
Cốt sao cho dân được an ninh”
Làm thơ khi đi sứ hoặc tiếp sứ là một nét đẹp của ngoại giao Đại Việt.
Nhiều bài thơ mà các sứ thần làm trong hành trình đƣờng xa vạn dặm lên phía
Bắc thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hoá, tình hữu nghị và thiện cảm
đối với đất nƣớc và nhân dân Trung Hoa.
Cùng với các thắng lợi trên mặt trận quân sự, việc thực hiện nhất quán tƣ
tƣởng hoà hiếu với các nƣớc láng giềng đã góp phần quan trọng vào việc làm
cho Việt Nam vƣợt qua đƣợc các cuộc xâm lăng thƣờng xuyên từ phía Bắc và từ
phía Nam, bảo tồn và phát triển cƣơng vực, lãnh thổ quốc gia.
Ngoại giao Việt Nam thấm nhuần tinh thần nhân đạo và chủ nghĩa nhân
văn. Tuy là nạn nhân của các cuộc chiến tranh xâm lƣợc tàn khốc, ngƣời Việt
Nam vẫn giàu lòng nhân ái, khoan dung đối với những kẻ địch đã bị đánh bại.
Điều đó có cội nguồn từ lý tƣởng nhân nghĩa của dân tộc, biết đứng trên nghĩa
lớn khi buộc phải đƣơng đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo.
Đồng thời, nó cũng xuất phát với tầm nhìn sâu xa trong quan hệ bang giao
với các nƣớc láng giềng có chung biên giới, xem trọng sự hoà mục, đƣợc Trần
Hƣng Đạo nêu trong lời Di Chúc: “Hoà mục có công hiệu lớn cho cuộc trị an.
Hoà ở trong nƣớc thì ít dụng binh; hoà ở ngoài biên thì không sợ có báo động”;
“Hoà mục là một đạo rất hay cho việc trị nƣớc, hành binh, không bao giờ đổi
đƣợc”. Trong “Binh thƣ yếu lƣợc”, Hƣng Đạo Vƣơng tuy nói về việc dùng binh
mà còn hàm ý về thái hoà: Bặc thánh võ trị đời, đánh ở chỗ không có thành,
công ở chỗ không có luỹ, chiến ở chỗ không có trận. Nhẹ nhàng nhƣ mƣa rơi ở

14 trên không, dựng nên cuộc đời vô sự.


Phan Huy Chú nhận xét trong “Lịch triều hiến chƣơng loại trí ”: Nƣớc
Việt ta có cả cõi đất phía Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nuôi dân dựng

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

nƣớc có quy mô riêng, nhƣng ở trong thì xƣng đế ở ngoài thì xƣng vƣơng.
“Trong đế ngoài vƣơng” là một đặc trƣng nổi bật của ngoại giao truyền thống
Việt Nam. đó là sự nhún nhƣờng để giữ độc lập. Khi bị xâm lƣợc thì kiên quyết
kháng chiến với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, nhƣng hết sức chú ý vấn đề
thể diện nƣớc lớn và giữ gìn hoà hiếu.
Ngoại giao Đại Việt cũng luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc. Phẩm
chất tiêu biểu của sứ thần là trí dũng song toàn, giữ gìn quốc thể. Ngƣời đi sứ
luôn thấu triệt phƣơng châm “đi sƣ bốn phƣơng, không làm nhục mệnh vua”.
Mạc Đĩnh Chi thời trần đi sứ sang nhà Nguyên. Khi sứ thần nƣớc Nam vào yết
kiến, vua Nguyên ra vế đối: “Nhật hoả, vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thỏ”
(nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vừng trăng). Ra vế đối
này, vua Nguyên tự xem mình là mặt trời, coi nƣớc Nam nhƣ mặt trăng. Ý nói
nƣớc Nam sẽ bị nhà Nguyên thôn tính. Mạc Đĩnh Chi đối lại: “Nguyệt cung,
tinh đạn, hoang hôn xa mặc kim ô” (nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối
bắn rơi mặt trời ). Nhƣ vậy, mặt trăng có thể thắng mặt trời.
Đỗ Khắc Trung vào trại giặc thực hiện kế hoà hoãn giữa lúc thế giặc
đang hăng vẫn không bị uy lực áp chế, sắc mặt tự nhiên, ứng đối bình tĩnh.
Nguyễn Trãi năm lần vào thành Đông Quan, giữa đại quân của địch thực hiện
ngoại giao tâm công, tìm kiếm giải pháp hoà bình cho cả đôi bên, làm cho
“thành giặc các nơi, không đổ máu mà mở cửa dâng hoài” (Phú núi Chí Linh).
Nguyễn Biểu đi sứ, chủ soái giặc bày cỗ đầu ngƣời để uy hiếp, vẫn ứng phó tự
tin, bị giặc tìm cách giết hại vẫn giữ tròn khí tiết…
II. ĐÒI HỎI BỨC THIẾT CỦA TÌNH HÌNH TRONG NƢỚC VÀ XU THẾ
CỦA THẾ GIỚI
1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
Với cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, cuộc kháng

15 chiến chống Mỹ cứu nƣớc đã giành đƣợc thắng lợi hoàn toàn và trọn vẹn. Đất
nƣớc ta hoàn toàn độc lập thống nhất và bƣớc vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập tự do và định hƣớng đi lên xã hội chủ nghĩa.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Trong quá trình đi lên xã hội chủ nghĩa chúng ta có những thuận lợi là: có
Đảng lãnh đạo, một Đảng đƣợc tôi luyện, thử thách trƣởng thành trong quá trình
đấu tranh cách mạng; có Nhà nƣớc của nhân dân và khối liên minh công nông.
Sau ngày thống nhất đất nƣớc, uy tín của Việt Nam đƣợc nâng cao trên trƣờng
quốc tế. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để giao lƣu hợp tác quốc tế, thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Nhân dân Việt Nam có truyền thống đoàn
kết trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, cũng nhƣ trong lao động sản xuất. Đồng thời
Việt Nam có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh bảo vệ tổ quốc, cũng nhƣ
trong lao động sản xuất. Đồng thời Việt Nam còn có kinh nghiệm từ quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội hơn 20 năm ở miền Bắc.
Tuy nhiên, sau chiến tranh, Việt Nam còn vô vàn khó khăn, chiến tranh đã
tàn phá hầu hết các công trình thủy lợi, trƣờng học, bệnh viện, cơ sở hạ tầng.
Hòa bình chƣa đƣợc bao lâu, đất nƣớc phải đối phó với cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc, trong khi đó các thế lực thù địch tiến hành
cuộc chiến phá hoại nhiều mặt; đứng đầu là Mỹ đẩy mạnh hoạt động bao vây
cấm vận ngăn cản sự phát triển hòng làm giảm uy tín Việt Nam.
Về xây dựng đất nƣớc: mô hình kinh tế đƣợc xây dựng trong thời chiến
không còn phù hợp với tình hình mới, nay bộc lộ những yếu kém. Nền kinh tế
tăng trƣởng thấp đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn; trật tự, kỷ cƣơng phép
nƣớc lỏng lẻo, tệ nạn quan liêu, tiêu cực xã hội và tham nhũng ngày một tăng.
Sản xuất bị đình đốn, lƣu thông phân phối rối ren, những sai lầm trong việc giải
quyết giá lƣơng tiền đã dẫn đến lạm phát phi mã ở mức 774,72% năm 1986.
Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội. Niềm tin của quần chúng nhân
dân vào Đảng, Nhà nƣớc và chế độ bị giảm sút, uy tín Việt Nam trên trƣờng
quốc tế bị giảm nhiều.
Trƣớc bối cảnh thế giới và trong nƣớc nhƣ vậy Việt Nam phải tìm ra giải

16 pháp phù hợp để thoát ra cuộc khủng khoảng. Để tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lƣợc là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ tổ quốc. Đại hội đại

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

biểu toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986 của Đảng đã họp nghiêm khắc kiểm
điểm về những sai lầm khuyết điểm và tìm nguyên nhân, biện pháp khắc phục.
Với tƣ duy nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, nghiêm khắc trƣớc
những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của mình; Trong Văn kiện
Đại hội ghi rõ: “những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội,
bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tƣ tƣởng, tổ chức và công tác
cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân"(1)
Trên cơ sở tƣ duy đổi mới Đảng ta lựa chọn con đƣờng đổi mới sâu sắc,
toàn diện, triệt để và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Trƣớc hết về kinh tế Đảng chủ trƣơng nhằm xây dựng một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trƣờng, có sự quản lý của Nhà nƣớc.
Để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới của đất nƣớc, chính sách đối ngoại của Việt
Nam cũng phải có những điều chỉnh trong chiến lƣợc và sách lƣợc.
Một chính sách đúng đắn là sự khởi nguồn tốt đẹp cho sự phát triển đất
nƣớc. Vì vậy để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan khoa học, sáng tạo cao nhất
trong việc hoạch định các chính sách. Đặc biệt là chính sách đối ngoại phải dựa
trên quan điểm lịch sử cụ thể, vừa kế thừa truyền thống ngoại giao cha ông, vừa
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong thời đại mới. Kết hợp
nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế cao cả của
giai cấp công nhân, để phục vụ hữu hiệu nhất sự phát triển nƣớc mình, tức là
công tác đối ngoại phải phục vụ chính sách đối nội.
2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình thế giới và khu vực diễn
biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, có những đột biến lớn làm thay đổi cục diện
kinh tế, chính trị thế giới, đặt ra cho các nƣớc, các dân tộc nhiều vấn đề mới bao
gồm những cơ hội, điều kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách

17 thức không nhỏ.

(1)
Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam, trang 27.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Chiến tranh lạnh kết thúc, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát
triển mạnh mẽ, tác động toàn diện đến tình hình chính trị và kinh tế thế giới.
Tình hình chính trị thế giới có những biến động to lớn. Kể từ đầu thập kỷ
90, thế giới bƣớc vào thời kỳ quá độ, từ trật tự thế giới cũ sang hình thành một
trật tự thế giới mới. Sự sụp đổ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và
Liên Xô (1991), sự tan ra của Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm cho cục diện thế
giới có sự thay đổi căn bản. Trật tự thế giới hai cực tồn tại trong suốt nửa thế kỷ
từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 chấm dứt. Lực lƣợng trên thế giới thay đổi
từ chỗ tƣơng đối cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội chuyển sang
hƣớng có lợi cho Mỹ và các nƣớc tƣ bản phát triển, bất lợ cho phong trào cách
mạng tiến bộ trên thế giới.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng tác động không nhỏ đến cán cân so sánh
lực lƣợng của thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh, trở thành một thách thức mới
đối với Mỹ là một nƣớc lớn với số dân trên 1 tỷ ngƣời. Trung Quốc đã đạt
những thành tựu to lớn trong kinh tế bằng cải cách kinh tế và chính sách mở
cửa. Trung Quốc nuôi hy vọng sẽ vƣợt Mỹ, Nhật Bản về quy mô kinh tế, trở
thành "anh cả" trong nền kinh tế thế giới và thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ của Trung
Quốc.
Tình hình kinh tế quốc tế diễn ra những biến động lớn với những xu
hƣớng cơ bản sau.
Ƣu tiên phát triển kinh tế trở thành một trong những xu hƣớng chung của
mọi quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, các nƣớc trên thế giới
chịu sự chi phối của cuộc đối đầu Đông-Tây với cuộc chạy đua vũ trang quyết
liệt giữa 2 siêu cƣờng Liên Xô và Mỹ. Tuy không phủ nhận vai trò của kinh tế,
song về cơ bản, sức mạnh chính trị và quân sự trong thời kỳ này trở thành nhân
tố chủ yếu đảm bảo vị trí siêu cƣờng của một quốc gia. Chiến tranh lạnh kết thúc

18 xu thế hoà hoãn trong quan hệ quốc tế trở thành xu thế chủ đạo, cuộc chạy đua
về kinh tế giữa các nƣớc trên thế giới đang thay thế cho cuộc chạy đua vũ trang.
Tất cả các nƣớc trên thế giới đều điều chỉnh đƣờng lối, tập trung sức phát triển

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

kinh tế - xã hội, cố gắng ổn định chính trị, củng cố sức mạnh quốc gia, đồng thời
mở rộng đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ, tăng cƣờng hợp tác quốc tế nhằm
phục vụ sự phát triển đất nƣớc.
Kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi
quốc gia, đảm bảo vai trò, vị trí của quốc gia đó trong đời sống quốc tế nƣớc Mỹ
- cƣờng quốc kinh tế số một thế giới nhƣng năm sau chiến tranh lạnh cũng buộc
phải giảm bớt những cam kết với bên ngoài để tập trung sức mạnh thực hiện
mục tiêu chấn hƣng kinh tế ở trong nƣớc.
Xu hƣớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ và trở thành phổ biến. Điểm nổi bật của nền kinh tế thế giới những
năm gần đây là xu hƣớng liên kết kinh tế khu vực. Xu hƣớng này nảy sinh từ
cuộc chạy đua và cạnh tranh kinh tế gay gắt mang tính toàn cầu cũng nhƣ từ sự
tập hợp lực lƣợng trong quá trình hình thành trật tự thế giới thời kỳ sau chiến
tranh lạnh. Các nƣớc láng giềng đẩy mạnh hợp tác và liên kết khu vực, nhất là
trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học -công nghệ
đang diễn ra mạnh mẽ và cùng với nó là xu hƣớng toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới mà lợi thế thuộc về các nƣớc công nghiệp phát triển, các trung tâm kinh tế
tƣ bản chủ nghĩa. Các nƣớc vừa và nhỏ có nhu cầu hợp lực với nhau để đối phó
có hiệu quả trƣớc các chính sách bảo vệ mậu dịch, chính sách can thiệp hoặc gây
sức ép về kinh tế các trung tâm kinh tế thế giới. Đây chính là động lực quan
trọng thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết, nhất thể hoá nền kinh tế khu vực.
Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế do sự sụp đổ của các nƣớc xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu nhất là ở Liên Xô, bị khủng hoảng sâu sắc về lý luận,
đƣờng lối, tổ chức và phƣơng thức hoạt động, ở khu vực tƣ bản chủ nghĩa, các
Đảng cộng sản và công nhân đang phải đấu tranh trong những hoàn cảnh hết sức
khó khăn. Chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tƣ sản ra sức tấn công vào Đảng, nhất

19 là trên lĩnh vực tƣ tƣởng. Một số Đảng khủng hoảng về tƣ tƣởng, đƣờng lối tan
rã về tổ chức dần dần mất chính quyền.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, đặc biệt là Đông Nam Á, từ cuối
thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 là một khu vực phát triển năng động, nơi tập trung các
nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Các nƣớc công nghiệp mới (NIC) và
ASEAN đã luôn giữ đƣợc tỷ lệ tăng trƣởng 6 - 8%. Đặc biệt nền kinh tế Trung
Quốc phát triển nhanh nhất thế giới, với tỷ lệ tăng trƣởng lên tới 9,5% trong suốt
thời kỳ từ 1978 đến 1996. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trƣởng cao
hàng đầu trên thế giới; một số quốc gia và vùng lãnh thổ vƣơn lên trở thành
những "con rồng", "con hổ mới" về kinh tế . Đa số các nƣớc trong khu vực đều
có nguyện vọng cùng tồn tài hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển, đều đặt ƣu
tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và thực hiện chính sách kinh tế và đối ngoại
nhằm phục vụ mục tiêu bao trùm này.
Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ các nƣớc trong khu vực đối với công
nghiệp hóa và hiện đại hóa, chính sách mở cửa, hội nhập và hợp tác khu vực là
nét nổi bật của các nền kinh tế ở khu vực, từ những nền kinh tế phát triển đến
những nƣớc ASEAN trong đó có Việt Nam. Những cơ chế hợp tác khu vực
trong lĩnh vực kinh tế, tài chính còn khiêm tốn, nhƣng ngày càng có vai trò tích
cực thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nƣớc và góp phần cho sự phát triển kinh tế
năng động trong khu vực. Sự phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu của các chƣơng
trình hợp tác nhƣ tổ chức hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC),
khu vực thƣơng mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
(SAARC), Diễn đàn hợp tác Đông Á - Mỹ La Tinh (FELAC).
Hầu hết các quốc gia trong khu vực đều muốn mở rộng thị trƣờng, phối
hợp các nguồn nhân lực, tài lực, kết cấu hạ tầng và nguồn tài nguyên sẵn có để
hợp tác cùng phát triển.
Tuy vậy, vào cuối năm 90 của thế kỷ XX, các nƣớc Đông Á lâm vào
khủng hoàng tài chính tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm

20 trọng, gây nhiều bất lợi cho các nƣớc trong khu vực. Môi trƣờng hòa bình, ổn
định, phát triển của khu vực chƣa thật vững chắc, vẫn còn tiềm ẩn một số nhân
tố có thể gây mất ổn định. Nội bộ một số nƣớc và giữa các nƣớc với nhau, còn

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

tồn tại mâu thuẫn, xung đột về chính trị, sắc tộc, tôn giáo, kinh tế, xã hội, biên
giới trên đất liền, hải đảo và trên biển.
Đặc biệt là cuộc tranh chấp liên quan đến nhiều nƣớc ở biển Đông..
Những diễn biến quan hệ giữa các nƣớc lớn có liên quan đến khu vực và sự dính
líu, can thiệp dƣới những hình thức mà có thể gây nên không ít phức tạp cho các
quốc gia và quan hệ giữa các nƣớc trong khu vực với nhau.
Nhìn chung bối cảnh thế giới sau chiến tranh lạnh là các quốc gia trên thế
giới bên cạnh việc tập trung ƣu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở trong
nƣớc, đang đẩy mạnh đấu tranh để phát triển. Do đó, xu thế hòa bình ổn định
hợp tác để cùng phát triển, giải quyết mọi tranh chấp bất đồng thông qua đàm
phán, thƣơng lƣợng chính trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời sống quan hệ
quốc tế đƣơng đại.
Xu thế bình thƣờng hóa, đa dạng hóa và đa phƣơng hóa quan hệ đối ngoại
trở thành một đòi hỏi khách quan, bức bách của tất cả các nƣớc do tính tùy thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất đƣợc quốc tế hóa và sự mất đi của
trật tự thế giới cũ.
Tóm lại, Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế là đòi
hỏi khách quan của tình hình thế giới và trong nƣớc. Đây không chỉ là truyền
thống của dân tộc, đòi hỏi Đảng phải phát huy tinh thần mới.

CHƢƠNG II
QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG

21 CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

I. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC THỜI KỲ


(1986 - 1995)
1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
Nƣớc ta ở chặng đƣờng trƣớc mắt trong chặng đƣờng đầu tiên của thời kỳ
quá độ mà nội dung cơ bản là: coi nông nghiệp là là mặt trận hàng đầu, đƣa
nông nghiệp từng bƣớc lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển hàng
tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng.
Trên cơ sở đó xuất phát từ tình hình quốc tế, Đảng ta đã đề ra mục tiêu
của chính sách đối ngoại là: "Trong thời gian tới công tác đối ngoại phải ra sức
tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn
và nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc góp phần bảo đảm
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ lịch sử do Đại hội lần này đề ra"(1).
Nổi bật trong quan hệ đối ngoại trong giai đoạn này là quan hệ Việt Nam
-Trung Quốc đang chịu ảnh hƣởng của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc
(17/2/1979). Quan hệ Việt Nam - Liên Xô đƣợc coi hòn đá tảng trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam. Việt Nam đã coi việc: "Đoàn kết và hợp tác toàn
diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nƣớc ta"(2)
Quan hệ Việt Nam- Lào - Campuchia đƣợc đánh giá cao, đƣợc coi là:
"Một quy luật phát triển giữa ba nƣớc, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận
mệnh của ba dân tộc"(3)
Đối với các nƣớc khác trong cộng đồng XHCN đƣợc coi trọng hợp tác và
phát triển, nhất là các nƣớc trong Hội đồng tƣơng trợ kinh tế. Chúng ta ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân các nƣớc Á, Phi, Mỹ La Tinh, hợp tác với các nƣớc
thành viên trong phong trào các nƣớc không liên kết, quan tâm tới phong trào
các nƣớc không liên kết, quan tâm tới phong trào đấu tranh của nhân dân các

22
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu trên toà n quốc lần thứ V. Tập I. Nxb Sự Thật, Hà
Nội, 1982, trang 143
(2 )
Sđđ, trang 114
(3)
Sđđ, trang 146

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

nƣớc tƣ bản chủ nghĩa với các nƣớc trong ASEAN: "Nhân dân Việt Nam chủ
trƣơng thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với các nƣớc ASEAN, luôn luôn
sẵn sàng phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa
bình và ổn định"(1). Nhƣng quan hệ đó đang bị Mỹ và Trung Quốc ngáng trở.
Tựu trung lại lúc này Việt Nam muốn: "Thiết lập và mở rộng quan hệ bình
thƣờng về một nhà nƣớc, về kinh tế, văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tất cả các
nƣớc không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền, bình đẳng và cùng có lợi"(2).
Thời kỳ từ khi thống nhất đất nƣớc đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xƣớng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đƣợc coi là một trong những thời kỳ
khó khăn nhất trong lịch sử hơn 50 năm qua.
Trƣớc hết là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, khó khăn.
Hậu quả hơn 30 năm chiến tranh tàn phá nặng nề, 3 năm bị thiên tai bão lụt
nghiêm trọng (từ 1976 đến 1978) do Mỹ tăng cƣờng xiết chặt cấm vận, do
những sai lầm nghiêm trọng kéo dài trên 10 năm về lãnh đạo kinh tế của Đảng
và Nhà nƣớc (chủ quan, nóng vội duy ý chí, giản đơn, cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp), do cuộc chiến tranh biên giới phía Nam của Pônpốt và chiến tranh biên
giới phía Bắc của Trung Quốc chống Việt Nam và do Việt Nam sử dụng quyền
tự vệ đánh trả Pônpốt, đóng quân ở campuchia trong 10 năm.
Trên thế giới xu thế đối đầu chuyển dần sang xu thế đối thoại với việc
Liên Xô và Mỹ chuyển từ chạy đua vũ trang sang chạy đua về kinh tế. Các nƣớc
Đông Nam Á từng bƣớc đi vào xu hƣớng hòa bình, độc lập và trung lập. Các
nƣớc trên thế giới ra sức cải tổ nền kinh tế để đƣa cuộc cách mạng công nghiệp
mới làm động lực cho việc phát triển kinh tế. Châu Á -Thái Bình Dƣơng đang
trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới.
Ngoại giao Việt Nam đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới từng phần (1979 -

23 1986) đã đạt đƣợc một số thành tựu sau:

(1)
ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ V. Nxb Sự thật Hà Nội, 1982, trang 153.
(2)
Sđđ, trang 154 - 155

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Đã tiếp tục kế thừa bài học truyền thống của ngoại giao Đại Việt nhƣ kiên
quyết giữ vững độc lập trong mọi tình huống, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết; giữ
vững nguyên tắc nhƣng có sách lƣợc thích hợp; kết hợp quân sự với ngoại
giao… đƣợc nâng lên tầm cao mới phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh. Là một
bộ phận quan trọng trong trƣờng phái ngoại giao Việt Nam hiện đại, ngoại giao
Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện giữ vững độc lập chủ quyền trong mọi tình
huống thấm nhuần tinh thần độc lập tự chủ; gắn dân tộc với quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để có thể lấy
yếu thắng mạnh, lấy ít thắng nhiều, lấy nhỏ thắng lớn phát huy truyền thống hòa
hiếu của dân tộc, luôn nắm vững và giƣơng cao ngọn cờ hòa bình, thực hiện
chính sách đối ngoại, hòa bình, hữu nghị, quan hệ tốt đẹp với các nƣớc trong
cộng đồng quốc tế "không thù oán với ai" đặt Việt Nam trong toàn cục thế giới".
"Biết mình biết ngƣời", kiên trì nguyên tắc chiến lƣợc với vận dụng linh hoạt
sách lƣợc "dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ngoại giao Việt Nam đã góp phần bảo vệ
đƣợc thành quả cách mạng vừa giành đƣợc sau 30 năm kháng chiến gian khổ,
giữ vững an ninh và ổn định chính trị.
Tuy nhiên, ngoại giao còn có hạn chế là chƣa gắn chặt chẽ ngoại giao về
chính trị với ngoại giao về kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại. Việt Nam lúc
này chƣa thay đổi tƣ duy, chƣa nắm bắt đƣợc kịp thời các biến động trong cục
diện quốc tế, thiếu sót trong việc nghiên cứu và dự báo chiến lƣợc.
Tƣ duy chiến tranh lạnh vẫn bao trùm trong chính sách đối ngoại nên ta
đã để mất thời cơ, từ thuận lợi chuyển sang khó khăn, bị bao vây, cô lập về
chính trị, cấm vận về kinh tế chúng ta còn ít bạn bè. Một số nƣớc xa lánh ta. Đây
là thời kỳ mà ngoại giao phải lo chống đỡ, góp phần phá thế cô lập và bao vây.
Mặt khác, việc xử lý quan hệ với các nƣớc lớn lúc này vẫn theo quan
niệm cũ. Quan hệ "nhất biên đảo" ngả hẳn về Liên Xô, căng thẳng với Trung

24 Quốc. “Đầu năm 1979 bọn phản động Trung Quốc đã ngang nhiên phát động
chiến tranh quy mô lớn, đƣa 60.000 quân tiến công toàn tuyến biên giới phía
Bắc nƣớc ta. Tiến hành cuộc chiến tranh tội ác này, tập đoàn phản động trong

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

giới cầm quyền Trung Quốc đã tự vạch mặt là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của
nhân dân ta, đồng thời là thế lực, phản động quốc tế rất hung ác đang uy hiếp
độc lập dân tộc, hòa bình và ổn định ở Đông Dƣơng và Đông Nam Á”(1)
Trƣớc tình hình nhƣ vậy, chính sách đối ngoại với Trung Quốc đƣợc
khẳng định: "Đặc biệt công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động,
tích cực trong cuộc đấu tranh nhằm làm thất bại chính sách của bọn bành trƣớng
và bá quyền nƣớc lớn Trung Quốc câu kết với thế lực hiếu chiến Mỹ, mƣu toan
làm suy yếu và thôn tính nƣớc ta"(2)
Những thành tựu đạt đƣợc trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lƣợc,
sự tăng cƣờng quan hệ đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào,
Campuchia với các nƣớc anh em khác trong cộng đồng các nƣớc xã hội chủ
nghĩa, việc phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc độc lập dân tộc,
các lực lƣợng tiến bộ và hoà bình đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nƣớc ta
những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Đó là những thành tựu và hạn chế về đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta
trƣớc khi bƣớc vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nƣớc từ Đại hội đại biểu toàn
quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (15-12-1986) với sự chuyển đổi chính
sách đối ngoại theo đƣờng lối đổi mới.
2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
Cách mạng Việt Nam luôn phát triển trong sự gắn bó với bối cảnh chung
của cách mạng thế giới và khu vực. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam không
tách rời sự giúp đỡ to lớn của cách mạng thế giới đồng thời nó cũng đóng vai trò
quan trọng trong cục diện cách mạng khu vực và thế giới.
Xuất phát từ nhận thức trên. Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) chỉ ra
"nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại của Đảng, nhà nƣớc là ra sức kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông

25 Dƣơng, Đông Nam Á và thế giới, tăng cƣờng hợp tác toàn diện với Liên Xô và

(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam, văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ V, tập I, Nxb Sự thật Hà Nội 1982
trang 27.
(2)
Sđđ trang 143

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

các nƣớc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi
xây dựng, bảo vệ tổ quốc, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" (1)
Việc xác định nhiệm vụ đối ngoại là "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới" là việc quyết định rất đúng đắn, là nhận thức
mới của Đại hội VI là quyết định đúng đắn của Đảng, Nhà nƣớc đã quán triệt
sâu sắc các bài học rút ra từ thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc đặc biệt từ
1975 trở lại đây.
Trong chính sách đối ngoại, Đảng chủ trƣơng "kiên trì thực hiện chính
sách đối ngoại hòa bình… ủng hộ chính sách cùng tồn tại… giữa các nƣớc có
chế độ chính trị xã hội khác nhau"(2). Đây là quan điểm học thuyết Mác -Lênin
về vai trò sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, nó thể hiện ý chí cách
mạng không ngừng phấn đấu cho mục tiêu mới của chủ nghĩa xã hội đồng thời
nó phù hợp với lịch sử của các dân tộc, các quốc gia và nguyện vọng bức thiết
của nhân dân thế giới ngày nay. Chỉ có cùng tồn tại hòa bình, chung sống thực
sự mới tạo ra bầu không khí ổn định hữu nghị và hợp tác, là điều kiện tiên quyết
bảo đảm sự phát triển của mỗi dân tộc và nhân loại.
Hòa bình ở khu vực và hòa bình thế giới có quan hệ gắn kết với nhau. thế
giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và ngƣợc lại. Do vậy giữ vững
hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới luôn là phƣơng châm trong chiến lƣợc,
đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc.
Nhiệm vụ phƣơng châm chính sách đối ngoại của Đảng là tranh thủ tối đa
những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện các mục tiêu tổng quát của cách
mạng nƣớc ta. Trƣớc hết là giải quyết những vấn đề cấp bách: ổn định tình hình
kinh tế - xã hội và tạo ra những tiền đề cần thiết cho những chặng đƣờng tiếp
theo, đồng thời Đảng chỉ rõ phƣơng hƣớng, giải pháp đối với từng đối tác cụ thể

26 cho phù hợp với sự thay đổi của nó trong xu thế phát triển chung của thế giới.

(1)
Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987,
trang 99.
(2)
Đảng Cộng sản Việt Na;: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 105.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

* Đối với các nước xã hội chủ nghĩa và Liên Xô:


Việt Nam "tiếp tục tăng cƣờng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc
thành viên, hội đồng tƣơng trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các nƣớc xã hội
chủ nghĩa khác".(1) Việt Nam và các nƣớc xã hội chủ nghĩa hợp tác từ hình thức
là viện trợ kinh tế kỹ thuật tiến tới hợp tác toàn diện, trên mọi lĩnh vực kinh tế -
xã hội an ninh quốc phòng. Việt Nam đã tham gia các nƣớc ký nhiều hiệp định
song phƣơng, đa phƣơng. Việt Nam tiếp tục mở rộng hoạt động đối ngoại là
không ngoài mục đíc làm cho Việt Nam đứng vững trên đối chân của mình mà
tiến lên.
Từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, nhiều nƣớc xã hội chủ nghĩa tiến hành
cải tổ, cải cách đổi mới. Mở đầu là Trung Quốc 12/1978, Liên xô 4/1986.
Hunggari và Tiệp Khắc 1987…Công cuộc cải tổ ở Liên Xô, cùng với cƣơng lĩnh
hòa bình, quan hệ Mỹ - Xô - Trung hợp tác làm cho xu thế thế giới chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Tình hình ấy đã tác động lớn tới các chính sách quan hệ
của Việt Nam.
Trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, Liên Xô là đối tác quan trọng
nhất, điều đó có ý nghĩa là quan hệ của Việt Nam đối với Liên Xô thủy chung.
Quan điểm đó luôn nhất quán trong chính sách đối ngoại của Đảng Nhà nƣớc
trong suốt hơn 50 năm qua. Liên Xô luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
xã hội chủ nghĩa và trong cục diện thế giới, ảnh hƣởng của Liên Xô trên trƣờng
quốc tế là một nhân tố có ý nghĩa quyết định sâu sắc.
Sự giúp đỡ của Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa đối với Việt Nam rất
lớn lao. Chỉ tính đến năm 1986 “(sau hơn 30 năm Liên - Việt ký các hiệp định
kinh tế, thƣơng mại) trao đổi hàng hoá giữa hai nƣớc tăng lên 100 lần, hơn 200

27 dự án trong các ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam đƣợc Liên Xô giúp.
Liên Xô đã đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ cán bộ lớn (130.000 ngƣời trong

(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam; Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật 1987, trang 101.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

đó có khoảng 20.000 chuyên gia có trình độ đại học, 2000 có trình độ phó tiến
sĩ, 70 có trình độ tiến sĩ) gồm nhiều lĩnh vực khoa học, ngành nghề khác
nhau”(2).

* Đối với phong trào giải phóng dân tộc:


Thái độ nhất quán của Đảng, Nhà nƣớc là luôn ủng hộ phong trào giải
phóng dân tộc. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, sau ngày giải phóng miền Nam
đã đi thăm và cảm ơn các dân tộc đã giúp đỡ Việt Nam trong công cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Nhiều hiệp định, thông cáo chung đƣợc Việt Nam và
các nƣớc ký kết. Điều đó chứng tỏ rằng quan hệ của Việt Nam đối với phong
trào giải phóng dân tộc luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc quan tâm, là một trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam nhằm xoá bỏ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, nêu cao
tinh thần quốc tế vô sản.
Việt Nam tham gia trong các tổ chức quốc tế có tác động tích cực làm biến
chuyển các quan hệ quốc tế là mục đích hoà hợp các dân tộc vì một nền hoà
bình, ổn định, hợp tác, phát triển thịnh vƣợng.
* Đối với Liên Hiệp Quốc:
Tổ chức này đóng vai trò quan trọng về hoà giải các vấn đề chính trị xã
hội, trên thế giới theo phƣơng hƣớng hợp tác và đối thoại giải quyết bằng con
đƣờng thƣơng lƣợng hoà bình đƣợc nhiều nƣớc trên thế giới ủng hộ trong đó có
Việt Nam, Liên Hợp Quốc sẽ trở thành diễn đàn chính trị cho tất cả các nƣớc
trong cộng đồng quốc tế.
* Đối với phong trào không liên kết:
Sức sống mạnh mẽ của nó có từ lịch sử ra đời và phát triển là bắt nguồn từ
mục tiêu của thời đại, xu thế phát triển của nhân loại vì hoà bình độc lập dân tộc,
bình đẳng và phát triển. Những đóng góp của phong trào, nó khẳng định ý thức

28 của các dân tộc tự vƣơn lên làm chủ vận mệnh của mình, bình đẳng trong đời
sống quốc tế.

(2)
Hợp tác Liên Xô - Việt Nam năm 2000. Tạp Chí Giáo dục lý luận 7/1986

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Đảng xác định phong trào không liên kết "có vai trò không thể thiếu đƣợc
trên thế giới…" Việt Nam "không ngừng đóng góp vào việc tăng cƣờng đoàn
kết phong trào theo phƣơng châm thống nhất trong đa dạng tích cực phấn đấu
thực hiện các mục tiêu của phong trào… vì lợi ích chính đáng của mỗi thành
viên và của phong trào"(1).
Đảng và Nhà nƣớc ta đã không ngừng trình bày các quan điểm chính trị của
Việt Nam trong các khoá họp thƣờng kỳ, đồng thời tích cực đấu tranh cho
những xu hƣớng tiến bộ, đƣa ra những giải pháp cải thiện lành mạnh quan hệ
giữa Việt Nam với phong trào và tổ chức quốc tế khác vì lợi ích của các thành
viên trong phong trào.
* Đối với các nước Tư bản chủ nghĩa (Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Nhật,
Ôxtraylia) và các nƣớc phƣơng Tây khác, Đảng, nhà nƣớc ta chủ trƣơng mở
rộng quan hệ trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
Chính sách đối ngoại do đại hội VI đề ra là phù hợp với xu thế chuyển biến
của tình hình trong nƣớc và thế giới. Chính sách đó thể hiện "tính mềm dẻo"
trong sách lƣợc giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Chính sách đó đƣợc
hình thành từ trong đƣờng lối độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng. Nó có tác dụng
mở rộng quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nƣớc khác trên thế giới. Nó tạo
điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đổi mới trên việc lựa cho đối tác kinh tế cho
phù hợp với thực tại trong nƣớc và xu thế phát triển kinh tế - xã hội thế giới đặc
biệt là góp phần quan trọng giữ vững chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
* Đối với Trung Quốc:
Đảng, Nhà nƣớc ta xác định "Sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ
lúc nào, cấp nào, nơi nào… nhằm bình thƣờng hoá quan hệ giữa hai nƣớc, vì lợi
ích của nhân dân hai nƣớc, vì hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" (1)
Đảng ta chủ trƣơng chấm dứt tuyên truyền chống Trung Quốc, sửa lại lời

29 nói đầu Hiến Pháp và Điều lệ Đảng, không coi Trung Quốc là kẻ thù.

(1)
Trần Quang Cơ: “Vai trò không thể thiếu được trên thế giới ngà y nay”. Bà i phát biểu của thứ trưởng tại
Hội nghị ngoại trưởng các nước không liên kết.
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 107

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Quan hệ Việt - Trung đã đƣợc đại hội VI xác định rõ hơn hai kỳ đại hội
trƣớc. Sự thay đổi đó là phù hợp không chỉ đối với nguyện vọng chung của khu
vực, thế giới mà của cả nhân dân Việt - Trung. Nó góp phần nâng cao truyền
thống giúp đỡ nhau giải phóng dân tộc và xây dựng đất nƣớc.
* Đối với Mỹ: Đảng, Nhà nƣớc ta chủ trƣơng "bàn với Mỹ giải quyết các
vấn đề do chiến tranh để lại luôn sẵn sàng quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á "(2). Thực tế cùng với lệnh cấm vận của Mỹ, Mỹ liên kết
với các thế lực chống chủ nghĩa xã hội trong, ngoài khu vực ngăn cản sự hoà
hợp của Việt - Lào - Campuchia với các nƣớc trong khu vực, tạo cho Việt Nam,
nhiều khó khăn trong khu vực và thế giới.
Chính sách đó thể hiện thiện chí của Việt Nam trong quan hệ Mỹ - Việt và
quan hệ Việt Nam với các nƣớc trong khu vực vì lợi ích hoà bình ổn định phát
triển chung của nhân loại.
* Đối với các nước ASEAN:
Đảng chủ trƣơng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc Đông
Nam Á, bày tỏ mong muốn sẵn sàng cùng các nƣớc trong khu vực thƣơng lƣợng
để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, Thiết lập quan hệ cùng tồn tại hoà
bình, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác
* Đối với các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau: Đảng duy trì
chính sách quan hệ "cùng tồn tại hoà bình" thiết lập hệ thống an ninh toàn diện
(cả về chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự) kiên quyết loại trừ xâm lƣợc, khủng bố
Nhà nƣớc, và khí hạt nhân… bất cứ hình thức nào.
Việt Nam ủng hộ tuyên bố Vlađivôstốc của Nga 28/8/1986 và những giải
pháp quan hệ Trung - Xô hợp tác. Nhƣng vấn đề đó có lợi cho Việt Nam giải
quyết các vấn đề đối với Đông Dƣơng, Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình
Dƣơng, đặc biệt là quan hệ biên giới giữa các nƣớc trong khu vực;

30 Dƣới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VI tình hình kinh tế, xã hội có
chuyển biến quan trọng. Có đƣợc thành quả đó là do Đảng, nhà nƣớc đã kết hợp

(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: văn kiện đại hội đại biểu lần thứ VI, NXB Sự thật 1987, trang 108

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

chặt chẽ chính sách đối nội với chính sách đối ngoại. Điều đó nó phản ánh sự
cần thiết phải đổi mới của Việt Nam. Việt Nam muốn sánh vai với các cƣờng
quốc thì không thể tách rời xu thế chung của thời đại.
Việt Nam thời hậu chiến tranh vừa có hoà bình, vừa có thể xảy ra chiến
tranh, bị bao vậy, cấm vận, làm nhiệm vụ quốc tế trong điều kiện khắc phục hậu
quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lƣợc các nƣớc xã hội chủ nghĩa tiếp tục
khủng hoảng toàn diện chủ nghĩa tƣ bản và các nƣớc đế quốc hợp tác an ninh
kinh tế tiến công chủ nghĩa xã hội trên mọi phƣơng diện…
Để đƣa Việt Nam thoát ra tình trạng đó, Đảng Nhà nƣớc đã chủ động mở
rộng quan hệ hợp tác đối ngoại với các nƣớc trên thế giới. Chỉ trong (1987-
1988) Đảng, nhà nƣớc ta công bố thực hiện hai văn bản luật quan trọng là "Luật
Đầu tƣ nƣớc ngoại tại Việt Nam" và "Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nƣớc
ngoài tại Việt Nam". Hai văn bản này đã làm cho nhiều nhà thƣơng mại quan
tâm hợp tác với Việt Nam.
Luật Đầu tƣ nêu rõ: "Việt Nam hoan nghênh khuyến khích các tổ chức, cá
nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam "chỉ cần" cùng tôn trọng độc lập chủ
quyền bình đẳng, tuân thủ pháp luật Việt Nam và các bên cùng có lợi. Nhà nƣớc
Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đầu tƣ và các quyền lợi khác của cá nhân hoặc
tổ chức nƣớc ngoài, tạo điều kiện thuận lợi và các thủ tục dễ dàng cho các tổ
chức cá nhân đầu tƣ vào Việt Nam" (1)
Với điều 41 điều khoản quy định những hình thức đầu tƣ, biện pháp quyền
lợi của những đối tác đầu tƣ (luật đầu tƣ) và những quy chế pháp lệnh đầu tƣ
thực sự là một bƣớc tiến cả về nhận thức và biện pháp hữu hiệu của Đảng, Nhà
nƣớc trong việc đổi mới chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng.
Từ sau khi công bố hai văn bản này "Việt Nam đón tiếp hơn 2500 đoàn
khách quốc tế vào Việt Nam và đến 10/1989 đã có 96 dự án có tính khả thi đƣợc

31

(1)
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoà i tại Việt Nam.Nxb Pháp lý, Hà Nội 1989,
trang 3-4

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

chính phủ Việt Nam cấp giấy phép với tổng số vốn lên tới 755.272 triệu USD"
(2)

Đất nƣớc trong thế bị bao vây cấm vận, thiếu vốn đầu tƣ, kỹ thuật .. thì đây
là một thành tựu không nhỏ. Song cái đƣợc lớn nhất trong lịch sự phát triển kinh
tế đất nƣớc là mở cửa nền kinh tế, đổi mới giao lƣu kinh tế với nƣớc ngoài. Chỉ
có nhƣ vậy chúng ta mới học đƣợc những phƣơng cách làm kinh tế, sớm đƣa đất
nƣớc vƣợt ra khỏi khủng hoảng suy thoái kinh tế và hội nhập nền kinh tế thế
giới.
Cùng với luật đầu tƣ, pháp lệnh đầu tƣ, Đảng Nhà nƣớc tìm ra giải pháp
chính trị hiệu quả đối với vấn đề Campuchia. Suốt 3 năm 1987-1990 việc kiếm
tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia đã lôi cuốn các nƣớc ASEAN,
Đông Dƣơng, 5 nƣớc thƣờng trực Hội đồng bảo an liên hiệp quốc (Nhật, Ấn Độ,
Ôxtraylia, các Châu và Bắc Mỹ)
Những thành tựu trên chính là sự kết hợp chặt chẽ trong đổi mới chính sách
đối nội, đối ngoại. Nét nổi bật của thời kỳ 1986-1990 phải là vai trò lớn lao của
Đại hội VI, Đảng đã đặt nền cơ sở cho sự đổi mới chính sách đối ngoại của
Đảng, Nhà nƣớc trƣớc những biến chuyển của tình hình thế giới và yêu cầu bức
thiết xây dựng bảo vệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự đổi mới chính sách đối
ngoại đã tạo ra biến chuyển căn bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội và quan hệ
quốc tế của Việt Nam.
Nhìn tổng quát 1986 - 1990 với những quyết sách kịp thời chính xác trong
đổi mới do Đảng lãnh đạo đã thực sự tạo ra bƣớc ngoặt cho sự phát triển của
cách mạng Việt Nam. Những thành tựu từ sự kết hợp đổi mới chính sách đối nội
- đối ngoại đã tạo ra những tiền đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn giúp cho
Đảng, Nhà nƣớc có thêm cơ sở nhận thức con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ngày càng đƣợc xác định rõ hơn. "Chính sách đối ngoại đổi mới đã

32 tạo ra môi trƣờng quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới xây dựng, bảo vệ

(2)
Viện khoa học xã hội Việt Nam và Viện Sử học Việt Nam, Việt Nam 1975 - 1995 thà nh tựu và kinh
nghiệm, trang 171

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Tổ quốc đẩy lùi một bƣớc âm mƣu bao vây cô lập Việt Nam. Tăng thêm bạn,
nâng cao uy tín Việt Nam trên trƣờng quốc tế" (1) Tạo nên hình ảnh Việt Nam
mới của Châu Á - Thái Bình Dƣơng và thế giới. Tuy nhiên, công tác đối ngoại
còn có khuyết điểm và những yếu kém: khi tình hình thế giới và quan hệ quốc tế
thay đổi, có việc chƣa đánh giá đầy đủ và kịp thời để có chủ chƣơng sát đúng;
chƣa tạo ra đƣợc sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa một số
ngành trong một số trƣờng hợp

3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta từ (1991-1995)


Tình hình quốc tế có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nƣớc ta:
Sự sụp đổ của các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh
hƣởng không tốt về chính trị, tƣ tƣởng.Tác động sâu sắc đối với phong trào cách
mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Ở nƣớc ta một số cán bộ, đảng viên và
ngƣời dân hoài nghi đối với chủ nghĩa xã hội, làm giảm lòng tin đối với Đảng và
nhà nƣớc. Một số cán bộ đảng viên tiếp nhận những tƣ tƣởng sai lầm về cải tổ,
cải cách của nƣớc ngoài một cách máy móc, giáo điều; những phần tử cơ hội,
bất mãn đẩy mạnh hoạt động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên
chính trị, đa đảng, đòi dân chủ không giới hạn, gây mất ổn định tình hình, cản
trở công cuộc đổi mới. Chủ nghĩa đế quốc và các lực lƣợng phản động quốc tế
lợi dụng tình hình để chia rẽ ba nƣớc Đông Dƣơng, gây sức ép hơn nữa đối với
nƣớc ta và các nƣớc Đông Dƣơng, hòng giải quyết vấn đề Campuchia có lợi cho
chúng. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng tình hình trên, ráo riết thực hiện âm
mƣu “diễn biễn hoà bình” bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tƣ tƣởng, văn
hoá và quân sự rất thâm độc. Chính quyền Mỹ vẫn thi hành chính sách bao vây,
cấm vận, ngăn cản các nƣớc, các tổ chức kinh tế quan quan hệ kinh tế với Việt
Nam.

33

Đảng Cộng Sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, Hà
(1)

Nội 1991, trang 40-41

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 17 - 22/6/1991) trên cơ sở
đánh giá những nguyên nhân tạo nên những thành tựu - hạn chế của việc thực
hiện nghị quyết Trung ƣơng (6, 7, 8) Đại hội VII chỉ những vấn đề mới nảy sinh.
Đại hội thông qua cƣơng lĩnh phƣơng hƣớng cơ bản về thời kỳ qúa độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và chiến lƣợc ổn định phát triển kinh tế - xã hội (đến
năm 2000) của Việt Nam.
Căn cứ vào mục tiêu chặng đƣờng đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là "vƣợt qua khó khăn thử thách ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tăng
cƣờng ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực - bất công xã hội đƣa nƣớc ta cơ bản ra
khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay" (1)
Đảng xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là: "giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội "(2)
Nhƣ vậy, chính sách đối ngoại của Đảng đã phản ánh tính thống nhất giữa
nhiệm vụ đối nội và nhiệm vụ đối ngoại. Đồng thời phản ánh những bài học
kinh nghiệm của quá trình thực hiện đổi mới theo tinh thần đại hội VI của Đảng
là kiên định, quyết tâm đƣa sự nghiệp đổi mới tới thành công.
Đại hội còn nhấn mạnh yêu cầu nhiệm vụ của chính sách đối ngoại là "cần
nhạy bén nhận thức và dự báo đƣợc những diễn biến phức tạp thay đổi sâu sắc
trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh của lực lƣợng sản xuất và xu thế quốc
tế hóa của nền kinh tế thế giới để có chủ trƣơng đối ngoại phù hợp"(1). So với
Đại hội VI đây là bƣớc phát triển mới của Đảng, về nhận thức chính sách đối
ngoại trƣớc những biến chuyển của tình hình thế giới. Đặc biệt trong xác định
nhiệm vụ chính sách đối ngoại là:"Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc

34
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà
Nội 1991, trang 60
(2)
Sđd, trang 88
(1)
Sách đã dẫn trang 88

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" mà Đại
hội VII đã đề ra. Để thích ứng với sự chuyển biến các quan hệ quốc tế đáp ứng
những yêu cầu của chính sách đối nội Đầu 1991 Đảng xác định: “… Hợp tác
bình đẳng và cũng có lợi với tất cả các nƣớc không phân biệt chế độ chính trị xã
hội khác nhau với nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình"(2).
Thực chất đây là chiến lƣợc chính sách đối ngoại của Đảng, một dấu ấn
quan trọng khẳng định chấm dứt khủng hoảng đƣờng lối phát triển của Việt
Nam.
Trên cơ sở hợp tác bình đẳng cùng có lợi và không phân biệt chế độ chính
trị xã hội, cùng tồn tại hòa bình Đảng, Nhà nƣớc tích cực mở rộng quan hệ hợp
tác với tất cả các nƣớc trên thế giới.
Đối với Liên Xô, Đảng khẳng định "tăng cƣờng đoàn kết và hợp tác toàn
diện", "đổi mới phƣơng thức hợp tác" và "nâng cao hiệu quả" của nó để "đáp
ứng lợi ích mỗi nƣớc"(3). Chính sách này của Đảng, Nhà nƣớc là hợp lý khi tình
hình Liên Xô, thế giới có sự thay đổi. Đồng thời nó vẫn bảo đảm: tính nhất quán
truyền thống thủy chung quan hệ Việt - Xô. Vai trò của Việt - Xô trong quan hệ
và có tác dụng phân hóa các thế lực cản trở công cuộc đổi mới thêm bạn - bớt
thù.. Điều này đƣợc kiểm chứng ngay sau khi Liên Xô tan rã. Vai trò nƣớc Nga
(mới) vẫn có vị trí ảnh hƣởng trong khu vực và trên trƣờng quốc tế.
Đối với Lào - Campuchia Đảng nhấn mạnh: "Đổi mới phƣơng thức hợp tác,
chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và
lợi ích chính của nhau"(1).
Đây không chỉ là bƣớc phát triển mới của quan hệ Việt - Lào, Campuchia
mà nó còn phù hợp với các nguyên tắc quốc tế trong đấu tranh nhằm phát triển
các quan hệ quốc tế, đồng thời nó thúc đẩy tiến trình thỏa thuận giải quyết các
vấn đề về Campuchia phù hợp với lợi ích của nhân dân Campuchia (10/1991

35 (2)
Sđd, trang 88
(3)
Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991,
trang 89
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam- BCHTW: Văn kiện Đại hội, đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật 1991,
trang 89

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Hiệp định chính thức về Campuchia đƣợc công nhận) và các bên có liên quan
trong khu vực Đông Nam Á - Châu Á Thái Bình Dƣơng.
Đối với ASEAN: nhằm tạo môi trƣờng thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia
của Việt Nam vào quá trình hợp tác khu vực, nhất là vào ASEAN, tháng 2-1993,
Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp và trong
chuyến tham chính thức Inđônêxia, Chủ tịch Lê Đức Anh tuyên bố: “Việt Nam
đang xúc tiến những công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên
đầy đủ của ASEAN”.
Xu thế quốc tế hóa trong các khu vực diễn ra nhanh theo xu hƣớng tự
cƣờng quốc gia - khu vực tạo ra những tiền đề mới để chúng ta mở rộng quan hệ
với các nƣớc trƣớc đây chƣa có điều kiện vƣơn tới. Để giữ vững độc lập dân tộc
và kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của dân tộc ta với các dân tộc quốc gia khác trên
thế giới. Đảng, Nhà nƣớc đã không ngừng mở rộng tăng cƣờng quan hệ hợp tác
với các nƣớc trên thế giới để thực sự hội nhập với xu thế thế giới đa dạng, đa
phƣơng trong quan hệ hợp tác. Việt Nam phấn đấu trở thành bạn với tất cả các
nƣớc trong cộng đồng thế giới vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Đây là bƣớc phát triển quan trọng của chính sách đối ngoại của Đảng, nó
đã thu hút sự chú ý quan tâm và hợp tác của các nhà đầutƣ đối với chính sách
đổi mới ở nƣớc ta, tạo ra bƣớc phát triển mới của chính sách đối ngoại trong
những năm tiếp theo.
Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc tƣởng nhƣ không phát triển "bởi
sự đảo lộn đột ngột về thị trƣờng xuất nhập khẩu, về việc thực hiện các chƣơng
trình hợp tác kinh tế và hợp đồng lao động, nguồn vay bị giảm mạnh, ƣu đãi về
giá bị chấm dứt nợ nƣớc ngoài phải trả hàng năm tăng .. Các thế lực thù địch
bao vây kinh tế, thực hiện "diễn biến hòa bình, kích động đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng…”(1). Nhƣng trên thực tế lại là thời

36

Đảng cộng sản Việt Nam - BCHTW: Văn kiện đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật Hà
(1)

Nội, 1991, trang 89.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

kỳ phát triển, xác lập và hoàn chỉnh đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ và đầy
sáng tạo của Đảng và Nhà nƣớc.
Sự phát triển, hoàn chỉnh đƣờng lối đối ngoại đƣợc thể hiện trên luật pháp
của Nhà nƣớc. Tháng 4/1992 Quốc hội đã thông qua Hiến pháp mới của Việt
Nam. Sự ra đời của Hiến pháp mới khẳng định Đảng - Nhà nƣớc ta nhận thức rõ
vị trí, tầm quan trọng của chính sách đối ngoại.
Điều 14 Hiến pháp khẳng định: “Việt Nam thực hiện hòa bình, hữu nghị
hợp tác với tất cả các nƣớc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị xã hội
khác nhau… tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ của nhau, không
can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi”.
Chủ trƣơng này đã làm cho chính sách đối ngoại của Đảng, nhà nƣớc phát
triển cả về nội dung - phƣơng hƣớng chỉ đạo hoạt động đối ngoại, có tính chất
quyết định trong công cuộc đổi mới đất nƣớc; sự phát triển này làm cho "Việt
Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng thế giới" từ một định
hƣớng chiến lƣợc trở thành hiện thực trong chính sách đối ngoại của Đảng - Nhà
nƣớc.
Đa dạng hóa quan hệ đối ngoại tạo cho Việt Nam quan hệ với các nƣớc trên
thế giới không bị ràng buộc về quan niệm chính trị - xã hội. Đa phƣơng hóa là
cơ sở để phát triển quan hệ trong quốc gia và giữa các quốc gia với nhau và với
những tổ chức cá nhân khác mà chúng ta chƣa có điều kiện thiết lập quan hệ.
Đây cũng là cơ sở để nảy sinh phát triển quan hệ đối ngoại nhân dân mà trƣớc
đây ta chƣa có điều kiện mở rộng và phát triển đi sâu vào các lĩnh vực đời sống
xã hội để tăng cƣờng hiểu biết lẫn nhau - tôn trọng nhau- hợp tác và phát triển vì
lợi ích mỗi quốc gia - khu vực.
Chính từ sự kết hợp giữa hoạt động đối ngoại chính thức của Đảng - Nhà
nƣớc và hoạt động đối ngoại nhân dân là một bƣớc phát triển mới về chất của

37 nền ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới “ làm cho Việt Nam có thể làm
bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng quốc tế… Đoàn kết và quan hệ hợp tác
với các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng … vì hòa bình độc lập dân

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(1). Hiến pháp là luật định quan trọng nhất của
quốc gia, việc Đảng - Nhà nƣớc đƣa chính sách đối ngoại thành điều luật của
Hiến pháp thực chất là nâng cao hiệu quả chính sách đối ngoại.
Để đẩy mạnh hơn việc cụ thể hóa các định hƣớng lớn của Đại hội VII đồng
thời tận dụng những cơ hội mới do tình hình quốc tế đƣa lại, nâng cao hơn nữa
những thành tựu đạt đƣợc trong đổi mới. Tháng 6/1992 Hội nghị Ban chấp hành
Trung ƣơng lần thứ 3(khoá VII) xác định: “ mục tiêu, tƣ tƣởng chỉ đạo trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là giữ vững nguyên tắc vì độc
lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh
hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc ta, cũng nhƣ diễn biến
tình hình thế giới và khu vực”.Trên cơ sở đánh giá "công tác đối ngoại có vị trí
ngày càng quan trọng, góp phần quyết định kết hợp sức mạnh dân tộc, với sức
mạnh thời đại, yếu tố dân tộc với yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố
hiện đại đƣa đất nƣớc tiến lên"(2).
Hội nghị đã chủ trƣơng "Đa phƣơng hóa và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại
cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật, cả về Đảng - Nhà nƣớc
và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ"(3)
Hội nghị đề ra bốn phƣơng châm xử lý các mối quan hệ đối ngoại trên các
lĩnh vực và đối với các đối tƣợng là:
Một là, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nƣớc và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Hai là, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cƣờng, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phƣơng hoá các quan hệ đối ngoại.
Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Bốn là, tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các
nƣớc.

38
(1)
Hiến pháp Việt Nam những năm 1946 - 1959, 1980 - 1992, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, trang 11
(2)
Đảng cộng sản Việt Nam:Văn kiện Hội nghị lần thứ III, BCHTW khóa VII, Nxb CTQG Hà Nội 1994, trang
4
(3)
Sđd, trang 6.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Nổi bật trong quan hệ quốc tế là tồn đọng quan hệ Việt - Mỹ và Việt -
Trung. Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nƣớc đã kết hợp chặt chẽ giữa chính sách đối
ngoại chính thức của Đảng - Nhà nƣớc với chính sách đối ngoại nhân dân cộng
với Hiến pháp và luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, với phƣơng châm kiên
trì, vừa hợp tác vừa đấu tranh đã lôi cuốn nhân dân tiến bộ Mỹ - các thƣơng
nhân kinh doanh Mỹ - các nƣớc ASEAN… gây áp lực buộc Mỹ huỷ bỏ cấm vận
kinh tế với Việt Nam (3/2/1994) và bình thƣờng hóa quan hệ Việt - Mỹ
(11/7/1995) song Mỹ không bao giờ từ bỏ âm mƣu đẩy mạnh "diễn biến hòa
bình" ở các nƣớc xã hội chủ nghĩa và thế giới nhằm thiết lập trật tự thế giới do
Mỹ chỉ huy do đó bình thƣờng hóa quan hệ Việt - Mỹ là một thời cơ lớn để ta
đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, khắc phục nguy cơ tụt
hậu, đồng thời ta đứng trƣớc thách thức "Diễn biến hòa bình", nên chúng ta phải
thƣờng xuyên - tích cực thực hiện chống "diễn biến hòa bình". Đi đôi hợp tác
với Mỹ trên các lĩnh vực vì lợi ích chính đáng của nhân dân hai nƣớc, quan hệ
Việt - Mỹ phát triển tốt sẽ tạo điều kiện cho ta mở rộng quan hệ với các nƣớc
khác và các tổ chức quốc tế lớn khác.
Đối với Trung Quốc phƣơng châm, chính sách đối ngoại của Việt Nam là
vừa đoàn kết hữu nghị vừa đấu tranh… nhƣng đúng mức phấn đấu tạo dựng cục
diện cùng tồn tại hòa bình lâu dài.
Để có môi trƣờng quốc tế thuận lợi cho đất nƣớc ta tiến nhanh "mở rộng
các hình thức giao lƣu hợp tác: kinh tế - chính trị - văn hóa - khoa học kỹ thuật -
du lịch giữa hai nƣớc, nhƣng phải làm rõ cho tất cả cán bộ nhân dân ta thấy rõ
bản chất - tham vọng của Trung Quốc. Đồng thời kiên quyết đấu tranh với
những hành động sai trái của Trung Quốc vi phạm chủ quyền lợi ích quốc gia
Việt Nam.
Trƣớc những biến động của tình hình thế giới, khu vực, xu thế hoà bình, ổn

39 định, hợp tác quốc tế, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại là một tất
yếu khách quan. Nhận rõ điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện chính
sách đối ngoại đƣa đất nƣớc thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập. Từ quan hệ chủ

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

yếu về chính trị với các nƣớc xã hội chủ nghĩa anh em và một số nƣớc độc lập
dân tộc trƣớc đây, nƣớc ta đã bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, gia
nhập ASEAN. Mở rộng và phát triển quan hệ với các nƣớc lớn, với nhiều tổ
chức khu vực và quốc tế, các trung tâm kinh tế- chính trị thế giới… Đảng Cộng
sản Việt Nam tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến
bộ trên thế giới. Thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền ở một số nƣớc, mở
rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội… Đến cuối
năm 1995 nƣớc ta đã có quan hệ ngoại giao với 160 nƣớc, có quan hệ buôn bán
với trên 100 nƣớc. Những thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại là một nhân tố quan
trọng góp phần cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên thế giới, tạo môi
trƣờng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
II. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC THỜI KỲ
(1996 - 2004)
1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996 - 2001)
Trên cơ sở phân tích những thuận lợi cũng nhƣ khó khăn thách thức mới do
bối cảnh quốc tế, khu vực và thực tế đất nƣớc, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày 28/06/1996 đến ngày
01/07/1996 đã khẳng định nhiệm vụ đối ngoại "củng cố môi trƣờng hòa bình,
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội". Bên cạnh đó, chúng ta vẫn
tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng, độc lập tự chủ, đa phƣơng hóa,
đa dạng hóa
Trên cơ sở kế thừa những điểm còn phù hợp của các kỳ Đại hội VI, VII, bổ

40 sung phát triển những luận điểm thích ứng với tình hình mới của đất nƣớc và thế
giới. Đảng đã chủ trƣơng mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt song
phƣơng và đa phƣơng với các quốc gia, tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

tắc chỉ đạo là tôn trọng độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, giải
quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hòa bình.
Cụ thể, Đảng chủ trƣơng duy trì và phát triển các chính sách đối ngoại
trong quan hệ các nƣớc láng giềng các nƣớc trong khu vực, các nƣớc bạn bè
truyền thống, phát triển quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, các lực
lƣợng cách mạng, mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các đảng khác.
Đồng thời, tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nƣớc đang phát
triển ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh với phong trào không liên kết. Bên cạnh
đó, Đảng cũng rất coi trọng tới các nƣớc phát triển và các trung tâm kinh tế
chính trị của thế giới, cụ thể là Mỹ, EU, Nhật Bản nhằm mở rộng hợp tác và
tranh thủ những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đây là một bƣớc chuyển mới trong tƣ duy và nhận thức của Đảng ta là cơ
sở để đa phƣơng hóa các mối quan hệ đối ngoại đƣa quan hệ đối ngoại lên một
tầm cao mới, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập.
Nếu nhƣ Đại hội VI, Đảng chủ trƣơng "cùng tồn tại hòa bình giữa các nƣớc
có chế độ chính trị khác nhau", Đại hội VII Đảng mong muốn "Hợp tác bình
đẳng và cùng có lợi với tất cả các nƣớc, không phân biệt chế độ chính trị - xã
hội khác nhau trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình". Thì ở đại hội VIII chủ
trƣơng của Đảng trong vấn đề quan hệ quốc tế đã đi vào chiều sâu bằng lời
tuyên bố "Việt Nam coi trọng quan hệ với các nƣớc phát triển và các trung tâm
kinh tế - chính trị thế giới" trên cơ sở giữ vững các mối quan hệ truyền thống,
láng giềng và khu vực. Nhƣ vậy, Đại hội VIII đã cụ thể hóa đối tƣợng quan hệ
quốc tế, mở rộng quan hệ của ta với các nƣớc lớn, bảo đảm cho sự hợp tác song
phƣơng.
Trong quan hệ quốc tế hiện nay, các nƣớc lớn và các trung tâm quyền lực

41 kinh tế - chính trị trên thế giới ngày càng có ảnh hƣởng tới các quốc gia, khu
vực. Việc coi trọng quan hệ với các nƣớc và các tổ chức này thực sự là một nhu

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

cầu cần thiết và cấp bách, nó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nƣớc.
Đại hội VIII cũng đã đề ra nhiệm vụ mới cho công tác đối ngoại đó là "tăng
cƣờng hoạt động ở liên hiệp quốc, tổ chức các nƣớc nói tiếng Pháp, các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế, tổ chức thƣơng mại quốc tế và các tổ chức quốc tế khác
tích cực đóng góp cho hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề toàn cầu". Nhƣ vậy chính sách đối ngoại tại Đại hội VIII đã khẳng định
hƣớng đi đúng đắn trong quan hệ với các tổ chức quốc tế bằng cách bổ sung và
phát triển luận điểm của đại hội VII đề ra. Đồng thời mở thêm chƣơng trình mới
trong chính sách đối ngoại Việt Nam, xác định quyền và nghĩa vụ của Việt Nam
đối với các vấn đề toàn cầu, từng bƣớc làm tăng vai trò, vị thế Việt Nam trên
diễn đàn quốc tế.
Hoạt động đối ngoại do Đại hội VIII đề ra có những định hƣớng chiến lƣợc
trong công tác chỉ đạo hoạt động đối ngoại trong thời gian tiếp đó. Định hƣớng
này một lần nữa khẳng định và bổ sung tại Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 4 của
Đảng (khóa VIII) ( tháng 12/1997). Tại Hội nghị này Đảng đã nêu quan điểm về
chính sách đối ngoại, mà cụ thể là công tác hội nhập quốc tế. Một mặt tiến hành
khẩn trƣơng, vững chắc việc đàm phán Hiệp định thƣơng mại Việt - Mỹ, gia
nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể, chủ động thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ AFTA. Mặt khác, mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ vốn, công
nghệ và gia nhập thị trƣờng quốc tế nhƣng phải trên cơ sở độc lập tự chủ. Đồng
thời độc lập, tự chủ, tự lực, tự cƣờng là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa
đoàn kết quốc tế nhằm góp phần xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội IX đánh giá: “quan hệ đối ngoại không ngừng đƣợc mở rộng, hội
nhập kinh tế quốc tế đƣợc tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt”. Nƣớc ta

42 đã tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các nƣớc xã hội chủ
nghĩa, các nƣớc láng giềng, các nƣớc bạn bè truyền thống. Việt Nam đã tham
gia tích cực các hoạt động thúc đẩy sự hợp tác cùng có lợi trong hiệp hội các

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

nƣớc ASEAN và diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Tăng
cƣờng quan hệ với các nƣớc phát triển và nhiều nƣớc, nhiều tổ chức khu vực và
quốc tế khác. Lúc này Việt Nam có quan hệ thƣơng mại với hơn 140 nƣớc, quan
hệ đầu tƣ với gần 70 nƣớc và vùng lãnh thổ, thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn đầu
tƣ từ nƣớc ngoài. Chúng ta đã triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nƣớc và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị -xã hội…,đem
lại nhiều thắng lợi trên mặt trận đối ngoại. Thành tựu về đối ngoại đạt đƣợc
trong những năm qua đã tăng cƣờng sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt
của đất nƣớc và cuộc sống của nhân dân, củng cố vẵng chắc độc lập dân tộc và
chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế, uy tín của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế.
Chính sách đối ngoại của Đảng giai đoạn (1996 - 2001) đã đứng vững trên
hai chân đối nội và đối ngoại đồng thời nó cũng khẳng định: Chính sách "đa
phƣơng hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại" của Đảng, Nhà nƣớc phù hợp với
mục tiêu Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, nó
đánh dấu sự hoàn tất của việc đặt nền móng cho mối quan hệ giữa Việt Nam và
các nƣớc trong khu vực Châu Á Thái Bình Dƣơng và trên thế giới; trong bất cứ
hoàn cảnh nào Việt Nam luôn gắn lợi ích của quốc gia với lợi ích của khu vực
và lợi ích của nhân dân lao động trên thế giới phấn đấu vì một nền hòa bình, độc
lập dân tộc và phát triển.
2/ Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2001 - 2004)
Ngày 19/04/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã diễn
ra tại Hà Nội. Đảng đã đề ra chính sách đối ngoại trong thời gian tới trên cơ sở
tiếp tục phát huy tinh thần của các Đại hội VI, VII, VIII. Đó là: "thực hiện nhất
quán đƣờng lối đối ngoại tự chủ, mở rộng đa phƣơng hóa, đa dạng hóa các quan
hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

43 Đại hội IX nêu lên nguyên tắc, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể của
công tác đối ngoại:
* Về nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại:

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Chính sách đối ngoại gắn liền với chính sách đối nội, nhiệm vụ dân tộc và
nhiệm vụ quốc tế. Mục tiêu chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta nhằm
thực hiện mục tiêu chung là xây dựng Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh xã hội
công bằng, dân chủ văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đề ra nguyên tắc trong quan hệ đối ngoại của Đảng Đảng và Nhà nƣớc ta là:
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
Đây là nguyên tắc cơ bản, là quan điểm nhất quán trong quan hệ đối ngoại
của Đảng và Nhà nƣớc ta và phù hợp với quy luật của luật pháp quốc tế. Việt
Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền lựa chọn chế độ
chính trị của các nƣớc trên thế giới không can thiệp, không dùng vũ lực và đe
doạ dùng vũ lực trong quan hệ với các nƣớc khác, kiên quyết chống lại sự can
thiệp, áp đặt, xâm phạm đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nƣớc ta.
Chúng ta phản đối mọi âm mƣu và hành động can thiệp của các lực lƣợng
thù địch vào công việc nội bộ của các nƣớc Cu Ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên. Thực hiện nguyên tắc này chúng ta phải phát huy cao độ tinh thần
độc lập tự chủ, đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh và làm thất bại mọi âm
mƣu và hành động can thiệp bằng "diễn biến hoà bình" của các lực lƣợng thù
địch.
- Bình đẳng và cùng có lợi.
Quyền bình đẳng giữa các quốc gia, dù lớn hay nhỏ đã đƣợc khẳng định
trong Hiến chƣơng Liên Hợp Quốc thực hiện quyền bình đẳng chính là đảm
quyền sống, quyền tự do, mƣu cầu hạnh phúc và phát triển của mỗi dân tộc,
khẳng định tôn trọng quyền bình đẳng thể hiện tƣ thế và vị trí của Việt Nam
trong quan hệ quốc tế.

44 Cùng có lợi là nguyên tắc khách quan, có ý nghĩa toàn diện và lâu dài. Nó
yêu cầu tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, thúc đẩy hợp tác mỗi bên với

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

nƣớc khác theo tinh thần là đối tác tin cậy, lâu dài của nhau, thực hiện đầy đủ
các cam kết, thoả thuận, chống áp đặt, cƣờng quyền.
- Giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, sự bất đồng và tranh
chấp giữa các nƣớc, các khu vực về kinh tế, chính trị, dân tộc, tôn giáo, biên
giới… là khó tránh khỏi. Với tinh thần đổi mới, phƣơng châm xử lý quan hệ quốc
tế của chúng ta là hoà bình, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nƣớc, phát huy
những điểm tƣơng đồng, hạn chế những điểm bất đồng, kiên quyết phản đối dùng
vũ lƣc, giải quyết các tranh chấp bằng thƣơng lƣợng hoà bình.
- Làm thất bại mọi âm mƣu và hành động gây sức ép, áp đặt và cƣờng
quyền.
Đây là nguyện vọng chung, là yêu cầu bức xúc của nhiều nƣớc trên thế
giới và là một nguyên tắc chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc ta.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với các nguyên tắc nêu trên chúng ta
tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nƣớc, bảo vệ các nƣớc nghèo, nhỏ yếu,
chống chủ nghĩa nƣớc lớn và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Kiên quyết làm thất bại
âm mƣu và hành động gây sức ép hoặc áp đặt, đe doạ đến lợi ích của dân tộc.
* Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại
Hiến pháp nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định
nhiệm vụ đối ngoại là: "Thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị mở rộng giao
lƣu và hợp tác với tất cả các nƣớc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị
và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi, tăng cƣờng tình đoàn kết hữu
nghị và quan hệ hợp tác với các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng,
tích cực ủng hộ và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội"(1).

45 Thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối

(1)
Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam, trang 17 -18

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập
và phát triển. Nhiệm vụ chung của công tác đối ngoại hiện nay là:
"Tiếp tục giữ vững môi trƣờng hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đảm bảo độc lập chủ quyền quốc gia, đồng thời góp
phần tích cực vào cuộc đấu tránh chung của nhân dân thế giới, vì hoà bình, độc
lập dân tộc dân củ và tiến bộ xã hội”. (2)
- Tiếp tục giữ vững môi trƣờng hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc
của các quốc gia dân tộc. Cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ,
dân sinh và công bằng xã hội hiện nay có những bƣớc tiến mới. Hợp tác ngày
càng tăng nhƣng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Mặc dù còn mâu thuẫn nhƣng các
nƣớc lớn vẫn phụ thuộc lẫn nhau, kiềm chế nhau, hạn chế đối đầu. Trong vài
thập kỷ tới, ý có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, nhƣng chiến tranh cục bộ
và xung đột, hoạt động can thiệp, khủng bố vẫn xảy ra phức tạp. Nhiệm vụ tiếp
tục giữ gìn môi trƣờng hoà bình, ổn định để phát triển đất nƣớc đổi mới chúng ta
là vô cùng cấp thiết.
Trải qua nhiều năm chiến tranh gian khó, nhân dân ta hiểu rất sâu sắc
chân lý: "không có gì quý hơn độc lập do" của chủ tịch Hồ Chí Minh và giá trị
của hoà bình. Đất nƣớc ổn định, phát triển mấy chục năm qua đã làm cho Việt
Nam giữ vững đƣợc môi trƣờng hoà bình, có điều kiện quốc tế thuận lợi để phát
triển đất nƣớc.
- Đảm bảo độc lập và chủ quyền quốc gia.
Trong quan hệ quốc tế, chủ quyền quốc gia đƣợc đảm bảo bằng luật pháp

46 quốc tế. Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là những giá trị cơ bản và thiêng
liêng mà nhân dân ta đã đấu tranh lâu dài mới giành đƣợc. Những thắng lợi vĩ

(2)
Văn kiện Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội 2001, trang 119-120

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

đại trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và thành tựu của sự nghiệp đổi mới
20 năm qua đã tạo ra thế và lực mới của đất nƣớc, cơ bên trong lẫn bên ngoài,
nâng cao uy tín và vị thế của nƣớc ta trên trƣờng quốc tế. Đây là thuận lợi rất cơ
bản của ta trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia hiện nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và chủ quyền
quốc gia của chúng ta diễn ra trên tất cả các lĩnh vực. Trƣớc hết là bảo vệ sự
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ độc lập tự chủ về đƣờng lối và chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
độc lập tự củ về kinh tế, bản sắc văn boá dân tộc, quyền lợi quốc gia trong quan
hệ quốc tế.
- Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội là nguyện vọng, là
mục tiêu đấu tranh chung của nhân dân thế giới.
Trung thành với nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế, của giai cấp công nhân,
chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm xây dựng và phát triển mối
quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Với thắng lợi của công cuộc đổi mới, với uy tín, vị thế và kinh nghiệm,
Việt Nam đã và đang góp phần quan trọng và cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới, đồng thời cũng có điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát
triển đất nƣớc. Đây vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ quốc tế của chúng ta.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc với thời đại, trong nƣớc và
quốc tế trong điều kiện mới Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức nhƣ ASEAN,
khối các nƣớc sử dụng tiếng Pháp, Diễn đan an ninh khu vực (ARF), Hội nghị
cấp cao Á - Âu (ASEM) chuẩn bị gia nhập WTO.. tích cực hoạt động trên nhiều
lĩnh vực góp phần ủng hộ cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới đòi giải

47 trừ quân bị và vũ khí hạt nhân, chống chạy đua vũ trang, lên án các cuộc xâm
lƣợc, các hoạt động khủng bố… tham gia tích cực vào việc bảo vệ môi trƣờng
chống tội phạm quốc tế.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực Hội nhập kinh tế và khu
vực là một yêu cầu khách quan hiện nay. Xu thế toàn cầu hoá ngày càng tăng đã
tác động mạnh mẽ trên cả mặt tích cực và tiêu cực tới tất cả các nƣớc.
Muốn hội nhập quốc tế, tiếp thu đƣợc những kinh nghiệm quý, vốn, khoa
học và công nghệ mới.. phải có tinh thần chủ động và có thực lực kinh tế đủ
mạnh để có ƣu thế và lợi thế so sánh. Để tăng cƣờng thực lực kinh tế, khả năng
cạnh tranh, tạo ra thế và lực cao hơn cần phát huy nội lực. Phát huy tối đa nội
lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là điều kiện để chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế.
Hiệu quả hợp tác quốc tế cần đạt đƣợc xem xét toàn diện trên các mặt
chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, đề phòng và khắc phục
chỉ theo lợi ích kinh tế đơn thuần, đảm bảo độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ môi trƣờng sinh thái đảm bảo cho sự phát triển bền vững là yêu
cầu và mục tiêu cho sự phát triển bền vững là yêu cầu và mục tiêu chung, xuyên
suốt khi hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia hội nhập kinh tế là chấp nhận sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu và chấp nhận những quy
định chung trong quan hệ quốc tế. Hiện nay sức cạnh tranh của nền kinh tế
chúng ta còn thấp, vấn đề đặt ra cho chúng ta là chủ động và vƣơn lên mạnh mẽ
khi tham gia hội nhập kinh tế thế giới.
Chính phủ, các bộ, ngành và các doanh nghiệp cần xây dựng và thực hiện
kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình hợp lý và chƣơng trình hành động
cụ thể. Phát huy tính chủ động và tiềm năng của mọi cấp, mọi ngành đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, hoàn thiện
hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền
kinh tế là yêu cầu chung phát triển nền kinh tế nƣớc ta trong hợp tác kinh tế

48 quốc tế.
Thực hiện tốt nhiệm vụ chung, chủ yếu của công tác đối ngoại trên nhất
định chúng ta sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, góp phần tạo ra thế và lực mới, cả

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

bên trong lẫn bên ngoài, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện
đại hóa đất nƣớc.
* Nhiệm vụ cụ thể của chính sách đối ngoại:
+ Coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nƣớc xã hội
chủ nghĩa và các nƣớc láng giềng.
Các nƣớc xã hội chủ nghĩa có cùng mục tiêu, lý tƣởng, dựa trên nền tảng
tƣ tƣởng chủ nghĩa Mác - Lênin, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và trƣớc
đây đã có quá trình hợp tác, giúp đỡ nƣớc ta. Coi trọng và phát triển quan hệ với
các nƣớc đã thực hiện chủ nghĩa quốc tế trong sáng, sự kiên định lập trƣờng vô
sản và tỉnh cảm thuỷ chung của nhân dân ta, góp phần củng cố chủ nghĩa xã hội
trên thế giới và phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, coi trọng độc lập, tự chủ
của mỗi Đảng, mỗi nƣớc.
Các nƣớc láng giềng có vai trò rất quan trọng. Coi trọng và phát triển
quan hệ, với các nƣớc láng giềng có ý nghĩa chiến lƣợc đối với sự ổn định và
phát triển của đất nƣớc. Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là luôn coi trọng
và tăng cƣờng phát triển quan hệ với Trung Quốc, Lào và Campuchia - điều có ý
nghĩa quan trọng để duy trì và phát triển môi trƣờng hoà bình, ổn định lâu dài
của nƣớc ta và khu vực.
Các nƣớc Đông Nam Á có vai trò quan trọng. Đây là khu vực phát triển
kinh tế năng động có vị trí quan trọng vì quốc phòng, an ninh, chủ trƣơng của
chúng ta là phát huy vai trò chủ động và đóng góp tích cực vào hoạt động chung
của các nƣớc ASEAN theo hƣớng nâng cao hiệu quả và chất lƣợng hợp tác. Thu
hẹp khoảng cách kinh tế, giữa các nƣớc phấn đầu xây dựng Đông Nam Á, thành
một khu vực hoà bình, ổn định, không có vũ khí hạt nhân và hợp tác cùng phát
triển.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với với các nƣớc bạn bè truyền thống, các

49 nƣớc độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển.
Chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là tiếp tục mở rộng quan hệ với các
nƣớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trƣớc đây và một số nƣớc khác

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

với có quá trình lịch sử hợp tác nƣớc ta. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nƣớc
độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi., Trung Đông và
Mỹ La Tinh, các nƣớc trong phong trào không liên kết.
Quan hệ của Việt Nam với những nƣớc này đã đƣợc thử thách, có quá
trình hiểu biết lẫn nhau, vì vậy, kế thừa và phát triển truyền thống quan hệ tốt
đẹp trƣớc đây lên một bƣớc mới là quan trọng và rất cần thiết. Chúng ta tôn
trọng những nguyên tắc, luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm ủng hộ, giúp đỡ lẫn
nhau cùng phát triển và phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau.
+ Thúc đẩy quan hệ đa dạng hóa với các nƣớc phát triển và các tổ chức
quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phƣơng.
Các nƣớc phát triển tiếp tục có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế,
nhất là trong lĩnh vực kinh tế nhƣ nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, khoa học và
công nghệ , thị trƣờng… Các nƣớc này có vai trò lớn và đang chi phối quá trình
toàn cầu hóa. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu mở rộng hợp tác, tìm kiếm thị
trƣờng. Việt Nam phát triển quan hệ với các nƣớc này, thúc đẩy quan hệ đa
dạng, gồm cả quan hệ chính phủ với các nƣớc và các tổ chức quốc tế là rất cần
thiết để tranh thủ các thế mạnh của họ cho sự phát triển đất nƣớc, tạo môi trƣờng
hòa bình, ổn định lâu dài.
Các diễn đàn và các tổ chức quốc tế có vai trò và tác động rất lớn đối với
nền kinh tế và đời sống chính trị của thế giới và Việt Nam.
Hoạt động trên các diễn đàn và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế
có ý nghĩa thúc đẩy sự hiểu biết và mở rộng sự hợp tác giữa nƣớc ta với các
nƣớc trên thế giới. Chủ trƣơng của ta là đẩy mạnh hoạt động trên các tổ chức và
diễn đàn quốc tế để đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới, nâng cao uy tín và vị trí quốc tế của nƣớc ta, tranh thủ sự đồng tình và dƣ
luận tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

50 + Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thế giới hiện nay
đang đứng trƣớc những vấn đề tòan cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có
thể tự giải quyết đƣợc nhƣ chiến tranh và hòa bình, bảo vệ môi trƣờng, hạn chế

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

bùng nổ dân số, phòng chống ma túy và tội phạm quốc tế, đẩy lùi những bệnh
hiểm nghèo… Nhận thức đúng và tham gia tích cực giải quyết các vấn đề độc
lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia của nƣớc ta.
Chúng ta chủ trƣơng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới bảo vệ
hòa bình, loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và các phƣơng tiện
chiến tranh giết ngƣời hàng loạt, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ
trang, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quyền tự chọn con đƣờng phát triển của mỗi dân tộc. Việc tích cực tham
gia giải quyết những vấn đề toàn cầu thể hiện trách nhiệm của chúng ta trƣớc
nhân loại và tạo điều kiện để nhân dân ta có hành động thiết thực vào sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
+ Củng cố và tăng cƣờng quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng
sản và công nhân, với các Đảng Cộng sản và công nhân với các đảng cánh tả và
các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và
tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay, Đảng ta có quan hệ với gần 200 Đảng cộng sản và công nhân,
Đảng cánh tả và phong trào giải phóng dân tộc và độc lập. Đây là lực lƣợng cách
mạng và tiến bộ, đứng trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực phản động, hiếu chiến. Họ đều có quan hệ tốt và cổ vũ
thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nƣớc ta, bày tỏ tình đoàn kết, sự ủng hộ Việt
Nam trên nhiều vấn đề quốc tế. Chủ trƣơng của ta là luôn ủng hộ, doàn kết hợp
tác, tôn trọng độc lập tự chủ, đƣờng lối vào công việc nội bộ của nhau và không
để ảnh hƣởng đến quan hệ giữa nƣớc ta với quốc gia và chính phủ hiện đnag là
lực lƣợng đối lập của họ.
+ Tiếp tục rở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền các Đảng cầm quyền
hiện nay đều có tiếng nói và có thể mạnh nhất định về chính trị, kinh tế và kinh

51 nghiệm quản lý đất nƣớc. Việc thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền và thể
hiện chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta. Điều đó thúc đẩy thêm quan hệ
mới với các chính phủ nƣớc đó, tạo điều kiện để Đảng và Nhà nƣớc ta trao đổi

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

kinh nghiệm cầm quyền, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ; chủ
trƣơng của ta là tôn trọng độc lập và tự chủ, đƣờng lối và quan điểm của đảng
đó, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau tìm ra tiếng nói chung và có
giải pháp hiệu quả trong việc mở rộng quan hệ hợp tác.
+ Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân.
Ngoại giao nhân dân có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực,
trí tuệ khoa học, vốn đầu tƣ xây dựng đất nƣớc, thúc đẩy giao lƣu, hiểu biết lẫn
nhau giữa Việt Nam và các nƣớc. Thông qua đó nhân dân thế giới hiểu biết ta
hơn và tác động tích cực đến chính phủ ủng hộ, hợp tác với Việt Nam; chúng ta
có thêm mặt trận đấu tranh chống thế thực phản động và thù địch, thúc đẩy hòa
bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Những năm qua ngoại giao nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ ngày càng phát triển và đã góp phần quan trọng và thắng lợi chung của công
cuộc đổi mới. Hiện nay, có gần 3 triệu ngƣời Việt Nam định cƣ ở 80 nƣớc và
lãnh thổ trên thế giới. Việc triển khai thực hiện nghị quyết 36 của Bộ chính trị
khóa IX về công tác đối với ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài đã làm cho các hoạt
động ngoại giao nhân dân càng đẩy mạnh hơn. Chủ trƣơng của ta là mở rộng và
nâng cao hiệu quả hợp tác - hoạt động này nhƣng luôn cảnh giác, ngăn ngừa
những ý đồ lợi dụng các cứu trợ, viện trợ nhân đạo.. Vì mục đích chính trị, làm
ảnh hƣởng đến ổn định và phát triển của đất nƣớc.
Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc, củng cố và tăng
cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác với các nƣớc xã hội chủ nghĩa, các nƣớc láng
giềng, tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc theo phƣơng châm
"láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hƣớng tới tƣơng lai".
Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào.
Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác với Campuchia. Đoàn kết, gắn bó với các

52 nƣớc ASEAN, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở
Đông Nam Á. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cu Ba, cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên. Tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị với các nƣớc bạn bè truyền

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

thống: thúc đẩy, quan hệ hợp tác tác chiến lƣợc với Nga, hợp tác với các nƣớc
trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và các nƣớc Đông Âu, mở rộng
quan hệ với các nƣớc công nghiệp phát triển nhƣ Mỹ, Nhật Bản và Khối EU.
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nƣớc và vùng lãnh thổ, giữ
vững và tăng cƣờng quan hệ hữu nghị truyền thống với các Đảng cộng sản và
công nhân quốc tế, với quan hệ thƣơng mại trên 140 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với
hơn 70 nƣớc. Đến tháng 7/2004 Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.873 dự án đầu
tƣ nƣớc ngoài. Đóng góp của khu vực đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào kinh tế
Việt Nam ngày càng cao.
Trên cơ sở kiên định đƣờng lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng
mở, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại, Nghị quyết Trung ƣơng
chín (khoá IX) đã đánh giá ƣu điểm và hạn chế của 3 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX.
* Về ưu điểm:
- Đã củng cố và tăng cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác và hữu nghị với các
nƣớc xã hội chủ nghĩa, các nƣớc láng giềng có chung biên giới; góp phần tích
cực củng cố sự gắn kết, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc
đẩy hợp tác nội khối và bên ngoài.
Tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc theo
phƣơng châm 16 chữ, tăng cƣờng tin cậy lẫn nhau, tiến hành phân giới, cắm
mốc trên đất liền, thúc đẩy đàm phán nghị định thƣ về nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và
hợp tác toàn diện với Lào, đẩy mạnh quan hệ hợp tác, phối hợp và giúp đỡ lẫn
nhau giữa các ngành, các cấp các địa phƣơng của hai nƣớc. Tăng cƣờng quan hệ
hữu nghị, láng giềng thân thiện với Campuchia, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tăng
cƣờng giao lƣu giữa các địa phƣơng giáp biên giới của hai bên, thúc đẩy đàm

53 phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Thúc đẩy hợp tác trong tam giác
phát triển giữa ba nƣớc Việt Nam- Lào- Campuchia và các chƣơng trình hợp tác
“ tiểu vùng sông Mê Công”. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cuba trong sự nghiệp xây

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

dựng chủ nghĩa xã hội đấu tranh chống bao vây, cấm vận. Duy trì quan hệ hữu
nghị, hợp tác với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên.
Tăng cƣờng quan hệ song phƣơng với các nƣớc thành viên và tổ chức
ASEAN, góp phần tích cực vào việc phục hồi kinh tế, củng cố và tăng cƣờng
liên kết nội bộ và giữ vững nguyên tắc cơ bản của ASEAN; mở rộng quan hệ
với các đối tác khác, nhất là với các nƣớc lớn; đóng góp tích cực vào việc xây
dựng cộng đồng ASEAN theo tầm nhìn 2020; thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định,
hợp tác cùng phát triển ở Đông Nam Á.
- Tiếp tục mở rộng và tăng cƣờng quan hệ hợp tác phát triển ổn định, lâu
dài với nhiều nƣớc khác trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các nƣớc bạn bè
truyền thống: thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lƣợc với Nga, sự hợp tác chiến lƣợc
với các nƣớc SNG và Đông Âu; mở rộng thêm một bƣớc quan hệ hợp tác với
các nƣớc độc lập dân tộc, các nƣớc đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Trung
Đông và Mỹ La Tinh; tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, ổn định lâu
dài với các nƣớc lớn khác: Mỹ, EU, Nhật Bản. Tăng cƣờng quan hệ với các tổ
chức quốc tế.
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu nhƣ xoá đói, giảm
nghèo, phòng chống các bệnh dịch hiểm nghèo (HIV/AIDS, SARD), chống
khủng bố, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trƣờng; ủng hộ và tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh, chay đua vũ
trang, áp đặt và can thiệp, bảo vệ hoà bình, độc lập, chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ
của các nƣớc.
- Quan hệ đối ngoại của Đảng đƣợc mở rộng, hoạt động đối ngoại nhân dân
sống động hơn. Tiếp tục củng cố và tăng cƣờng quan hề đoàn kết và hợp tác với
các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền, các chính đảng, các
phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng và tiến bộ

54 trên thế giới; duy trì và mở rông quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số
nƣớc. Hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục phát triển, tranh thủ đƣợc sự đồng
tình, ủng hộ của các tổ chức nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

chính phủ quốc gia và quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc của ta.
- Xử lý kịp thời và có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ
với các nƣớc, đấu tranh kiên quyết và khôn khéo với những âm mƣu và hành
động của các thế lực bên ngoài xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh của
đất nƣớc.
* Một số hạn chế, yếu kém:
- Công tác nghiên cứu chiến lƣợc, dự báo tình hình còn yếu; chƣa tạo đƣợc
sự thống nhất cao trong nhận thức, nhất là chủ trƣơng trong quan hệ với một số
nƣớc lớn; trong một số trƣờng hợp còn bị động đối phó với tình hình; sự phối
hợp giữa hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chƣa thật nhuần nhuyễn; việc xử lý
mối quan hệ giữa yêu cầu giữ vững ổn định trong nƣớc và mở rộng quan hệ đối
ngoại còn có lúc lúng túng.
- Quan hệ hợp tác vối các nƣớc chƣa sâu và chƣa vững chắc, quan hệ kinh
tế và chính trị nhiều khi chƣa gắn kết với nhau; trong một số trƣờng hợp cụ thể
còn có sơ hở. Việc xây dựng cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại
còn chậm.
Chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc ta, là nhân tố quan
trọng góp phần giữ gìn hoà bình, cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên
thế giới, tạo môi trƣờng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự nghiệp chung của nhân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

55

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

56

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

CHƢƠNG III
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

I. CHỦ TRƢƠNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI TRONG


THỜI GIAN TỚI
Nghị quyết Trung ƣơng 9 (khoá IX) nhấn mạnh chính sách đối ngoại của
Việt Nam trong thời gian tới đứng trƣớc những thời cơ và thách thức mới. Do
vậy, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những chủ trƣơng và nhiệm vụ của
công tác đối ngoại.
* Về chủ trương công tác đối ngoại:
Tiếp tục củng cố và tăng cƣờng quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam
và các nƣớc láng giềng có chung biên giới, các nƣớc xã hội chủ nghĩa và các
nƣớc trong khu vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ
bản của ASEAN, tăng cƣờng gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế tác động phân hoá
từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế.
Tiếp tục thúc đẩy quan hệ với các nƣớc lớn trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, xử lý khôn khéo
trong quan hệ, hết sức tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.
Thúc đẩy quan hệ với các nƣớc đang phát triển, nâng cao vị thế của nƣớc
ta trong phong trào Không liên kết, nhóm 77, tích cực triển khai kết quả Hội
thảo về Châu Phi để mở rộng quan hệ với Châu Phi. Tích cực tham gia các hoạt
động ngoại giao đa phƣơng; tổ chức tốt Hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ
5(ASEM 5), cấp cao APEC. Nâng cao vị thế nƣớc ta trong các tổ chức quốc tế.
Tăng cƣờng quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, công nhân,
duy trì quan hệ với các đảng cầm quyền, các chính đảng khác, các phong trào

57 cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tăng cƣờng công tác đối ngoại nhân dân.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

* Về Nhiệm vụ của công tác đối ngoại:


Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin nghiên cứu, dự báo tình hình khu
vực và thế giới, tăng cƣờng hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối
ngoại.
Hiện nay, khoa học và công nghệ thông tin phát triển bùng nổ nhƣ vũ bão,
tình hình quốc tế diễn biến mau lẹ, quan hệ quốc tế diễn biến rất phức tạp. Bởi
vậy công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực và trên thế
giới có ý nghĩa rất quan trọng. Đẩy mạnh công tác này để khắc phục sự yếu
kém, bị động và phân tán của thông tin đối ngoại của ta hiện nay và nắm bắt
chính xác, chủ động có những chủ trƣơng đối ngoại thích hợp, tránh bị động, bất
ngờ. Qua đó thúc đẩy sự hiểu biết giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới, đấu
tranh trƣớc dƣ luận quốc tế.
Tăng cƣờng văn hóa đối ngoại để thúc đẩy giao lƣu văn hóa Việt Nam và
văn hóa thế giới, củng cố sự hiểu biết, phát triển quan hệ hữu nghị giữa nƣớc ta
với các nƣớc. Qua đó giới thiệu đƣợc giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam với
thế giới và tinh hoa văn hóa thế giới với nhân dân ta.
Tăng cƣờng văn hoá đối ngoại, quan tâm giáo dục lòng tự hào, ý thức giữ
gìn bẳn sắc văn hoá Việt Nam đi đôi chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm hiện
đại, lai căng, mất gốc truyền thống dân tộc.
Thứ hai, bồi dƣỡng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, phẩm chất đạo
đức của đội ngũ làm công tác đối ngoại.
Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhất là kinh tế đối ngoại là những
ngƣời thay mặt cho đất nƣớc trong hoạt động đối ngoại. Họ là ngƣời đại diện
cho văn hoá, trí tuệ, bản lĩnh và tính cách của nhân dân Việt Nam với nhân dân
thế giới, góp phần nâng cao uy tín, vị thế và bảo đảm lợi ích của Việt Nam trong
quan hệ quốc tế nên cần đƣợc đào tạo toàn diện, rèn luyện về chính trị năng lực,

58 đạo đức, phẩm chất… Cần quan tâm bồi dƣỡng cho đội ngũ này vì đƣờng lối,
chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nƣớc, giáo dục ý thức tự hào dân tộc, lòng
trung thành với lợi ích quốc gia, với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bồi dƣỡng

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

năng lực phân tích thực tiễn ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn, ngoại giao, khả
năng tiếp thu kinh nghiệm của nƣớc ngoài vận dụng tốt vào công việc của mình
phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nƣớc.
Thứ ba, phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nƣớc, hoạt động đối ngoại của
Đảng và đối ngoại nhân dân. Phối hợp chặt chẽ các hoạt động đối ngoại trên,
phát huy tối đa sức mạnh nội lực, tạo ra sự phong phú đa dạng và sức mạnh tổng
hợp của nhiều tổ chức trong công tác đối ngoại. Thực hiện chính sách đối ngoại
rộng mở, quan hệ ngoại giao của các cấp bộ Đảng, chính quyền và đoàn thể
nhân dân trong thời kỳ qua ngày càng mở rộng hơn và phát triển hết sức sôi
động. Các hoạt động giao lƣu, hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá… khoa học… đƣợc đẩy mạnh, chủ trƣơng của ta là gắn kết và
phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả các lực lƣợng tham gia hoạt động đối ngoại để
cùng phục vụ đắc lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc.
Thứ tư, hoàn thiện ƣu thế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Các
hoạt động đối ngoại rất phong phú, đa dạng, nhiều quy mô và lực lƣợng tham
gia. Để thực hiện đúng nguyên tắc, nhiệm vụ đối ngoại và đảm bảo sự lãnh đạo
của đảng cần hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất, các cấp, các ngành và mọi
lực lƣợng đối ngoại cần phát huy dân chủ, tính chủ động, tích cực, sáng tạo. Cần
khắc phục những cản trở hoặc chồng chéo giữa các cấp, các ngành, giữa trung
ƣơng và địa phƣơng, các tổ chức kinh tế, xã hội trong mọi hoạt động đối ngoại.
II. CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
Dƣới tác động của toàn cầu hoá, sự phát triển kinh tế tri thức và đòi hỏi của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc, hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực là một yêu cầu khách quan. Đây cũng là một nội dung trong đƣờng lối
kinh tế và đƣờng lối đối ngoại của Đảng, kết hợp nội lực với ngoại lực, bên
trong và bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức manh thời đại để tạo ra sức mạnh

59 tổng hợp của đất nƣớc, tạo ra thực lực đủ mạnh. Từ đó đặt ra các yêu cầu sau
đây:

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

- Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo về độc lập
tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trƣờng.
Quan điểm mới của chúng ta là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu
vực để không bị bất cứ tác động nào lôi cuốn làm ảnh hƣởng đến các nguyên tắc
đối ngoại. Có phát huy nội lực mới tăng cƣờng thực lực kinh tế, khả năng cạnh
tranh, tạo ra thế và lực cao hơn, nâng cao hiệu quả và đảm bảo lợi ích trong quan
hệ hợp tác quốc tế. Hiệu quả hợp tác quốc tế cần đƣợc xem xét theo quan điểm
toàn diện. Hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an
ninh, quốc phòng. Phát huy tối đa nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế
là điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Bảo đảm độc lập tự chủ và định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trƣờng sinh thái là bảo đảm sự phát triển bền vững, là yêu cầu, là mục tiêu
chung, xuyên suốt của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập, luôn
luôn khắc phục những tƣ tƣởng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần.
- Khẩn trƣơng xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với
lộ trình hợp lý và chƣơng trình hành động cụ thể, phát huy tính chu động của các
cấp, các ngành và các doanh nghiệp.
Hội nhập kinh tế là để tranh thủ những ƣu thế và lợi ích kinh tế, vốn, kỹ
thuật, công nghệ mới nhƣng phải chấp nhận sự canh tranh đang diễn ra ngày
càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu, đồng thời phải chấp nhận những luật lệ, quy
định chung về quan hệ quốc tế đang đƣợc áp dụng. Nền kinh tế của chúng ta
hiện nay sức cạnh tranh còn thấp, kém hiệu quả, bao cấp và bảo hộ còn nặng.
Nếu không vƣơn lên mạnh mẽ thì tham gia các tổ chức kinh tế và khu vực chúng
ta sẽ bị thiệt hại ngay cả ở thị trƣờng trong nƣớc.

60 Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhằm đáp ứng yêu cầu chung phát
triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần và phát huy lợi thế sản xuất
của nền kinh tế nƣớc ta trong hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả và năng

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế hội, hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm phát huy tiềm năng của
mỗi đơn vị kinh tế khi tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nghị
quyết Trung ƣơng chín(khoá IX) nhấn mạnh việc: chủ động và khẩn trƣơng hơn
trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nƣớc để thực
hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phƣơng và song phƣơng, nƣớc ta đã ký và
sớm ra nhập tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO), tăng tính cạnh tranh của môi
trƣờng đầu tƣ so với khu vực và thu hút mạnh đầu tƣ nƣớc ngoài.
III. MỘT SỐ BÀI HỌC BƢỚC ĐẦU VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Xuất phát từ các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe
doạ dùng vũ lực trong quan hệ với nhau, bình đẳng và cùng có lợi bảo đảm góp
phần phát triển quan hệ kinh tế nƣớc ta, bảo vệ sản xuất, tài nguyên, môi trƣờng
và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của văn
hóa dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã giành đƣợc nhiều thành tựu trong thời kỳ
đổi mới và cũng để lại nhiều bài học quý giá. Những bài học đó không chỉ mang
lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới của đất nƣớc trong thời
gian qua mà còn chi phối toàn bộ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu đề cập tới nhiều bài học khác nhau nhƣng ở đây chúng
ta chỉ có thể đề cập đến những bài học chung nhất có ý nghĩa chỉ đạo quá trình
hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Thứ nhất là: nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cƣờng, đẩy mạnh
đa dạng hóa, đa phƣơng hóa quan hệ quốc tế là nguyên tắc cơ bản của quá trình
xác định và thực hiện chính sách đối ngoại.
Ở mỗi thời đại có một chính sách đối ngoại riêng phù hợp với chế độ

61 đƣơng thời nhƣng đều phụ thuộc vào yếu tố có tính nguyên tắc là lợi ích dân tộc
gắn liền với độc lập dân tộc. Thực chất của vấn đề này là giải quyết quan hệ giữ
lợi ích dân tộc với đoàn kết quốc tế, nói tới vấn đề này chúng ta không thể

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

không nói đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Những hoạt động ngoại giao của ngƣời
phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống ngoại giao dân tộc và tinh hoa
kim cổ, Đông tây của nhân loại. Với học thuyết Mác - Lênin ngƣời đã định
hƣớng cho đƣờng lối ngoài của Đảng ngay từ khi khai sinh ra Nhà nƣớc Việt
Nam dân chủ cộng hòa và đƣa nền ngoại giao Việt Nam lên những đỉnh cao
mới. Hồ Chí Minh là một ngƣời có định hƣớng chính trị sáng suốt, có tầm nhìn
thời đại. Ngƣời sớm nắm bắt đƣợc mối liên hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc
với độc lập tự chủ ngay khi ngƣời nghiên cứu "bản luận cƣơng của Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa".
Hồ Chí Minh là ngƣời đầu tiên tổ chức xây dựng mối quan hệ kiểu mới
giữa cách mạng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, giữa cách
mạng giải phóng dân tộc với lực lƣợng xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Trong sách lƣợc vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Tuyên truyền
Việt Nam độc lập phải đồng thời thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và giai
cấp vô sản thế giới, nhất là với giai cấp vô sản Pháp. Ngoài chủ trƣơng không
thành lập, Đông Dƣơng độc lập đồng minh hội. Vì cả ba dân tộc giúp đỡ nhau
chống đế quốc, tôn trọng độc lập tự chủ của mỗi nƣớc này với nƣớc khác theo
Ngƣời chỉ có độc lập dân tộc mới có lợi ích dân tộc, lợi ích dân tộc là động lực
để phấn đấu giành và giữ cho đƣợc độc lập dân tộc. Trong tuyên ngôn thành lập
nƣúơc (2/9/1945) Ngƣời tuyên bố: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lƣợng, tính mệnh… của mình để giữ vững tự do - độc lập". Độc
lập tự do, an ninh của Tổ quốc để phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc là
nguyên tắc cơ bản của hoạt động ngoại giao.
Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc trong
công tác ngoại giao, lợi ích dân tộc trên hết đặc biệt là những lúc tình thế đất
nƣớc hiểm nghèo.

62 Chính sách đối ngoại của Việt Nam càng nêu cao lợi ích dân tộc, giai đoạn
(1945 - 1996) vận mệnh đất nƣớc "ngàn cân treo sợi tóc", giặc ngoài thù trong
đều mạnh. Vì lợi ích tối cao của dân tộc nhiệm vụ hàng đầu của chính sách đối

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

ngoại là "phải cứu vãn hòa bình, tranh thủ thời gian củng cố chính quyền, gạt
bớt kẻ thù, chuẩn bị đối phó với kẻ thù chính. Hồ Chí Minh đƣa ra sách lƣợc
ngoại giao thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ lợi ích dân tộc và cũng rất độc lập
tự chủ - tiếp sau hiệp định sơ bộ ký với Pháp 6/3/1946 Đảng chủ trƣơng và thực
hiện đàm phán với Pháp ngay trên đất Pháp… do đó đã giải tỏa đƣợc sự bao vây
và xuyên tạc của kẻ thù về Việt Nam, đồng thời làm cho nhân dân Pháp chú ý và
hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ ta đã tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của Trung -
Xô để đánh thắng Mỹ ngay cả khia hai nƣớc có những mâu thuẫn sâu sắc
(những năm 1968 - 1970) ta làm đƣợc nhƣ vậy là do ta giữ vững độc lập tự chủ
và biết đặt lợi ích cao nhất của dân tộc (đánh thắng Mỹ) lên trên hết, biết cân
bằng lợi ích giữa các quốc gia cùng chia sẻ đánh Mỹ.
Khi cả nƣớc bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-1986) do vấn đề
Campuchia gây ra, nghị quyết (13 Bộ chính trị ngày 20/5/1988). Đại hội VI đề
ra đƣờng lối đổi mới mẫu mực về việc nắm vững nguyên tắc giữ vững độc lập tự
chủ và nguyên tắc giữ vững lợi ích dân tộc. Đó là cái mốc chuyển hƣớng về đối
ngoại; giải quyết vấn đề Campuchia, bình thƣờng hóa quan hệ với Trung Quốc,
cải thiện quan hệ với các nƣớc ASEAN, mở rộng quan hệ với các nƣớc khác.
Nhiệm vụ ƣu tiên là kinh tế đối ngoại, đồng thời giữ vững an ninh chính trị.
Những thắng lợi ngoại giao trong những năm gần đây đều bắt nguồn từ
nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ chính trị 20/5/1988. Nguyên tắc
giữ vững lợi ích dân tộc - giữ vững độc lập tự chủ đòi hỏi chúng ta phải nắm
chắc vận dụng những quan điểm sau:
Lợi ích của dân tộc là cái vĩnh viễn. Nó là cái mà chúng ta phải "đem tất cả
tinh thần, lực lƣợng, tính mệnh… để giữ vững "chúng ta không có kẻ thù vĩnh
viễn - không có đồng minh vĩnh viễn. Đối ngoại phải đƣợc xác định là một mặt

63 trận góp sức giữ vững hòa bình, sống hòa hữu là bạn với các nƣớc, không gây
thù gieo oán với ai, đó là bảo đảm cho lợi ích dân tộc lâu dài.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Trong từng bối cảnh lịch sử mà vận dụng nguyên tắc cho thích hợp. Thời
kỳ dựng nƣớc lợi ích dân tộc là cứu vãn hòa bình. Thời kỳ kháng chiến là tranh
thủ sự ủng hộ quốc tế bảo đảm đánh thắng kẻ thù xâm lƣợc. Thời kỳ xây dựng
và bảo vệ tổ quốc lợi ích hàng đầu của dân tộc là củng cố hòa bình mở rộng
quan hệ hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát triển lợi ích dân tộc.
Có độc lập tự chủ mới gạt đƣợc tác động sức ép của bên ngoài và không bị lợi
dụng trở thành "quân bài chiến lƣợc trong tay ngƣời khác". Độc lập tự chủ
đƣơng nhiên không dung chứa tƣ tƣởng dân tộc hẹp hòi mà phải biết tôn trọng
nhau - bình đẳng cùng nhau tham gia hợp tác chia sẻ trách nhiệm tìm lợi ích
chung.
Ngày nay trƣớc cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội - sự phát triển nhƣ vũ bão của cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế, thì
nguyên tắc lợi ích dân tộc, độc lập tự chủ có ý nghĩa giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt
động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc không chỉ trong hiện tại mà trong
tƣơng lai phát triển đất nƣớc.
+ Thứ hai là: quan hệ với các nƣớc láng giềng và khu vực phải là mối quan
hệ hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc.
Châm ngôn Việt Nam có câu: "Bán anh em xa mua láng giềng gần", các
nƣớc láng giếng gần nhau thƣờng có nhiều vấn đề do lịch sử để lại nhƣ tồn tại về
biên giới - lãnh thổ và những vấn đề liên quan đến lợi ích chung nhƣ nguồn
nƣớc, môi trƣờng sinh thái, tôn giáo, sắc tộc… hay những vấn đề liên quan đến
tâm lý hòa hiếu, hay căng thẳng do lịch sử lâu dài để lại và do tác động ảnh
hƣởng của quan hệ giữa các nƣớc. Song suy tới cùng quan hệ láng giềng căng
thẳng hay hòa bình ổn định là do chính sách đối ngoại của quốc gia có xác định
lợi ích dân tộc.

64 Việt Nam qua các thời kỳ dựng nƣớc, giữ nƣớc, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, vấn đề nổi bật nhất trong đƣờng lối, chủ trƣơng chính sách đối ngoại nhất
quán là quan hệ hữu nghị với các nƣớc láng giềng Trung - Lào - Campuchia và

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Nhờ đó hai cuộc chiến tranh chống Pháp
- Mỹ ta đã nhận đƣợc sự ủng hộ tinh thần - vật chất có hiệu quả nhất của Trung
Quốc và các nƣớc đó.
Việt Nam kiên trì chính sách đoàn kết có nguyên tắc đã hình thành thế trận
liên hoàn ở Đông Dƣơng chống xâm lƣợc Mỹ và gần nhƣ đồng thời cả ba dân
tộc Việt Nam - Lào - Campuchia giành đƣợc độc lập dân tộc. Rất đáng tiếc quan
hệ nhƣ máu thịt của ba nƣớc đã bị chính sách gây chiến của tập đoàn Pônpốt có
sự chi viện của phái dân tộc hợp hòa trong và ngoài khu vực, khiến Việt Nam
phải đƣa lực lƣợng vào Campuchia dẫn tới vấn đề Campuchua kéo dài suốt một
thập kỷ. Khu vực không ổn định Việt Nam trở thành nƣớc đối đầu với khu vực
Đông Nam Á một thời gian.
Từ những quan hệ láng giềng tốt đẹp và trục trặc trên ta rút ra một số vấn
đề sau: quan hệ láng giềng kể cả quan hệ khu vực phải đƣợc xác định là nhiệm
vụ chiến lƣợc, là mối quan tâm hàng đầu về đối ngoại của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân ta. Trên cơ sở cùng tồn tại, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn,
nhất thiết không can thiệp và công việc nội bộ của nhau. Những vấn đề do vị trí
địa - lịch sử, địa - chính trị, tâm lý dân tộc có tính lịch sử luôn tồn tại rất dễ nhạy
cảm với những kích động xấu ta cần phải bình tĩnh, tế nhị trong xử lý không để
làm trở ngại quan hệ hiện tại, không gợi lại những vấn đề lịch sử nặng nề bất lợi
cho quan hệ hòa hiếu, xây dựng những trang sử mới cao đẹp hơn trong quan hệ
với các nƣớc láng giềng.
Do đó muốn quan hệ - láng giếng bền vững tốt đẹp lâu dài không thể chỉ là
quan hệ chính trị hữu nghị mà cần phải phát triển quan hệ nhiều mặt, xong đó
hợp tác kinh tế - thƣơng mại, du lịch… Tạo điều kiện quan hệ láng giềng, khu
vực hòa nhập với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa hiện nay.
+ Thứ ba là: xử lý quan hệ với nƣớc lớn, luôn giữ vững nguyên tắc trong

65 chiến lƣợc mềm dẻo trong sách lƣợc, bằng nhiều biện pháp, hình thức linh hoạt
sáng tạo.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Xuất phát từ Việt Nam có vị trí, lịch sử - chính trị hẫp dẫn đối với những
quốc gia có tƣ tƣởng thực hiện chính sách đối ngoại phát triển lợi ích dân tộc
phi Mác Xít, xuyên suốt lịch sử phát triển của dân tộc ta do ảnh hƣởng của tƣ
tƣởng đó mà Việt Nam luôn phải xử lý quan hệ với một nƣớc lớn và nhiều nƣớc
khác trong cùng một thời gian.
Năm 1945 Việt Nam đã bị các nƣớc lớn áp đặt chia cắt, đầu 1946 Pháp -
tƣởng lại mƣu trạm áp đặt sự thống trị mới. Khi đó ở Việt Nam hiện diện bốn
nƣớc lớn. Trong đó có ba nƣớc có lực lƣợng quân sự rất hùng mạnh Hồ Chí
Minh và Đảng đã nhanh chóng xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với các nƣớc
lớn có quân đội trên đất nƣớc ta.
Từ năm 1950 thế giới bƣớc vào hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối
lập nhau, Việt Nam phá đƣợc thế bao vây cô lập quan hệ với các nƣớc xã hội
chủ nghĩa (Trung - Xô) thì hai nƣớc lớn (Mỹ - Pháp vốn là đồng minh trong
chiến tranh thế giới hai) trở thành thù địch.
Đến hội nghị Giơnevơ các nƣớc lớn cũng bộc lộ rõ ý định áp đặt giải pháp
bất trị cho các nƣớc Đông Dƣơng. Trong đó Việt Nam là trọng điểm hàng đầu.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc (thực dân Pháp, Đế quốc
Mỹ) ta giữ vững độc lập tự chủ kiên trì đoàn kết với Liên Xô - Trung Quốc và
nhân dân tiến bộ Mỹ, Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn Trung Quốc và Liên Xô có yêu
cầu hòa hoãn với Mỹ. Từ đó Việt Nam chịu tác động mạnh của các mối quan hệ
(Mỹ - Xô + Trung - Mỹ + Trung - Xô) giữa các nƣớc lớn.
Trong suốt thập kỷ 80 ta phải xử lý quan hệ với tất cả các nƣớc lớn về giải
pháp cho vấn đề Campuchia. Trƣớc hết trong đó về cơ bản cũng là quan hệ với
tất các nƣớc lớn giải pháp đó do các nƣớc lớn dàn xếp. Ở đây ta xử lý quan hệ
với các nƣớc lớn là phải tính đến yêu cầu lợi ích của các nƣớc lớn và các bên
khác. Đặt cơ sở cho việc bình thƣờng hóa quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, khôi

66 phục quan hệ với các bƣớc lớn khác và các nƣớc trong khu vực, so sánh xử lý
quan hệ với các nƣớc lớn trong các thời kỳ lịch sử, Việt Nam có vị trí đặc biệt
quan trọng trong chiến lƣợc của các nƣớc lớn, chịu sức ép của các nƣớc lớn.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Sự tác động của mối quan hệ căng thẳng hay hòa hoãn giữa các nƣớc lớn,
nhất là các siêu cƣờng thƣờng có tác dụng nhất định đến hòa bình, an ninh
chung và tiến trình phát triển các quan hệ quốc tế mà Việt Nam không là ngoại
lệ. Xử lý quan hệ với Mỹ sau chiến tranh và vấn đề Campuchia có phần chậm,
nên dẫn tới sự đối đầu giữa Việt Nam với các nƣớc lớn và khu vực một thời gian
dài. Đƣơng nhiên đây không phải là lúc quy lỗi cho ai nhƣng chắc chắn việc rút
ra bài học chung là thật cấp thiết cho việc xử lý quan hệ của nƣớc ta với các
nƣớc lớn và phải đặt nó trong hàng đầu chiến lƣợc đối ngoại của Đảng, Nhà
nƣớc.
Ngày nay quan hệ giữa các nƣớc lớn luôn có hợp tác, tranh chấp Việt Nam
cần thi hành chính sách cân bằng lợi ích giữa các nƣớc lớn gắn liền với lợi ích
của ta với các nƣớc, xây dựng quan hệ hòa hiếu hợp tác có nguyên tắc, cần chủ
động trong quan hệ hợp tác cân bằng thực hiện nhiệm vụ xaya dựng và bảo vệ
Tổ quốc chống nguy cơ tụt hậu.
Trên đây là một số bài học chung nhất về họat động đối ngoại, nó góp phần
quyết định không nhỏ mang lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới
trong thời gian qua và chi phối toàn bộ họat động đối ngoại của Đảng, Nhà
nƣớc.
+ Thứ tư là: Đảng phải nắm vững ngọn cờ cách mạng. Đây là bài học cơ
bản, xuyên suốt của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Nhƣng vẫn giữ
nguyên đƣợc giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Thực tiến công cuộc đổi mới thành công cho thấy trƣớc hết phải giữ vững
sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và cả xã hội. Không có sự lãnh
đạo của Đảng thì không thể giữ đƣợc độc lập dân tộc vững chắc, Nhà
nƣớckhông còn là Nhà nƣớc thực sự của nhân dân, do dân, vì dân, không đảm
bảo sự phát triển của xã hội theo đúng định hƣớng xã hội chủ nghĩa và càng

67 không có chủ nghĩa xã hội đích thực, thậm chí các thành quả cách mạng phải đối
bằng bao xƣơng máu mới giành đƣợc cũng bị thủ tiêu (nhƣ Liên Xô và các nƣớc
Đông Âu).

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Vai trò lãnh đạo của Đảng cũng trở nên đặc biệt quan trọng nhất là cách
mạng chuyển giai đoạn. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi
mới của Đảng và nhân dân ta đã phối hợp với một số phần tử bất mãn trong
nƣớc tấn công toàn diện Việt Nam.
Mục tiêu tấn công quan trọng nhất của chúng là (năm 1997) xóa bỏ Đảng
Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Đảng đã kiên quyết bác bỏ những
luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa bộ máy Nhà nƣớc và quân
đội, xuyên tạc lịch sử phủ nhận thành quả cách mạng và sự hy sinh lớn lao của
những ngƣời cộng sản, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lƣợng chính trị duy
nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng chịu tất cả trách nhiệm trên mọi lĩnh
vực của đất nƣớc, về họat động của cả hệ thống chính trị, cả về những thất bại,
tổn thất của cách mạng, vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là bảo vệ giữ vững
ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn cả là phải tiếp tục nâng cao chất
lƣợng đổi mới, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đổi mới lý luận chiến lƣợc, sách
lƣợc đối với tổ chức xây dựng Đảng và họat động thƣờng nhật của Đảng, Đảng
phải thực sự dùng con mắt khoa học vận động và phát triển sáng tạo lý luận cách
mạng lên ngang tầm những chuyển biến to lớn, nhanh chóng của thế giới hiện
đại. Đảng phải cƣơng quyết xem xét, giải quyết những sai lầm, yếu kém của
mình thƣờng xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong điều kiện mở rộng hợp tác, hội nhập với thế giới.

68

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

KẾT LUẬN

Chính sách đối ngoại trong suốt 60 năm đã qua luôn là một bộ phận của
đƣờng lối chính trị của Đảng và góp phần quyết định thắng lợi sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta trong thời kỳ đấu
tranh giải phóng dân tộc và trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa có sự khác
nhau về đối tƣợng phƣơng thức hoạt động và môi trƣờng quốc tế, song nó đều
nhằm vào mục tiêu xây dựng đất nƣớc phải đi đôi với bảo vệ đất nƣớc. Sợi chỉ
đỏ xuyên suốt chính sách đối ngoại của đảng và nhà nƣớc ta là: độc lập, tự chủ,
đoàn kết và hợp tác quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nƣớc nồng
nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp dân tộc và thời đại.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ (1986-2004) là sự kế
thừa từ truyền thống ngoại giao cha ông: "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí
nhân để thay cƣờng bạo" (Nguyễn Trãi). Đó là sự tiếp tục của phƣơng châm"thái
bình nên gắng sức, non nƣớc ấy nghìn thu"(Trần Quang Khải).Truyền thống
ngoại giao đó đã đƣợc chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà ngoại giao kiệt xuất đúc kết
thành chân lý"không có gì quý hơn độc lập tự do" Những tƣ tƣởng lớn trên đây
đã trở thành những nguyên tắc và phƣơng châm ứng xử của chính sách ngoại
giao.
Đổi mới ở nƣớc ta thời kỳ (1986-2004) chính sách đối ngoại đó có những
thay đổi to lớn của tình hình trong nƣớc và thế giới nhƣng vẫn là sự kết hợp giữa
bản sắc dân tộc với đặc điểm của thời đại sinh ra nó, phản ánh đúng đắn lợi ích
dân tộc và hợp với xu thế của quan hệ quốc tế.
Nhằm mục tiêu sớm khắc phục khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục đƣa

69 sự nghiệp cách mạng nƣớc ta đi lên, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã
quyêt định tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống đất nƣớc. Công cuộc đổi mới của

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

nƣớc ta đang đƣợc tiến hành thì Liên Xô và các nƣớc xã hội chủ nghĩa Đông Âu
lâm vào thời kỳ tiền khủng hoảng và bắt đầu đi vào thực hiện cải tổ, cải cách.
Đồng thời, lúc này cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đi liền
với quá trình quốc té hoá đời sống, kinh tế thế giới diễn ra rất mạnh mẽ. Cùng
với việc xác định hai nhiệm vụ chiến lƣợc là bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Đại hội VI đề ra chính sách đối ngoại rộng mở, xác định nhiệm vụ hàng
đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta chủ trƣơng thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị, ủng hộ
chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nƣớc có chế độ chính trị xã hội khác
nhau, loại trừ chiến tranh xâm lƣợc và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.
Đại hội nhấn mạnh phƣơng châm "thêm bạn bớt thù" ra sức phấn đấu tạo dựng
môi trƣờng quốc tế hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để đôit mới đất
nƣớc. Nghị quyết 13 của bộ chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hình mới đã xác định quan điểm trong quan hệ quốc tế của đảng
là ra sức tranh thủ các nƣớc anh em bầu bạn và dƣ luận rộng rãi trên thế giới,
làm thất bại âm mƣu bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị, chủ động chuyển
các cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại
hoà bình.
Trên tinh thần của Nghị quyết đại hội VI và nghị quyết 13 của bộ chính
trị, Đảng ta đã đề ra các biện pháp nhằm phá thế bao vây, cô lập, tạo môi trƣờng
quốc tế thuận lợi cho việc tiến hành đổi mới ở trong nƣớc dƣới sự lãnh đạo của
Đảng.Chúng ta đã rút quân từng phần, rồi rút quân hết khỏi Campuchia thực
hiện đổi mới quan hệ, nâng cao chát lƣợng và hiệu quả hợp tác với Lào và

70 Campuchia, ra sức phấn đấu cho một giải pháp chính trị về Campuchia kiên trì
và bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bƣớcc cải thiện quan hệ với

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

các nƣớc Đông Nam á và với các nƣớc phƣơng Tây. Việc chúng ta rút hết quân
tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
Kiên trì và bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc từng bƣớc cải thiện
quan hệ với các nƣớc Đông Nam Á và với các nƣớc phƣơng Tây. Việc chúng ta
rút hết quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia và những hoạt động tích
cực trên lĩnh vực đối ngoại đã góp phần mở ra hàng loạt diễn đàn với các đối
tƣợng khác, đồng thời thúc đẩy việc bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc,
tạo điều kiện để sau này mở rộng quan hệ đối ngoại phá thế bị bao vây, cô lập.
Đảng chủ trƣơng tiếp tục thƣơng lƣợng với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo
do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn
định ở Đông Nam Á. Quan hệ của nƣớc ta với một số nƣớc Tây Âu, một số
nƣớc Đông Nam Á cũng từng bƣớc đƣợc bình thƣờng hoá.
Đồng thời, ở trong nƣớc, chúng ta đã giành đƣợc những thắng lợi quan
trọng mang tính đột phá trong sự nghiệp đổi mới, nhất là về sản xuất nông
nghiệp, chống lạm phát, về tài chính tiền tệ, cơ chế quản lý…Đại hội lần thứ VII
của Đảng (6/1991) phát triển hơn nữa nghị quyết Đại hội VI, từ chủ chƣơng
"thêm bạn, bớt thù" thành phƣơng châm "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các
nƣớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Nghị quyết Đại hội VII và Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đề ra chính sách đa phƣơng hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nƣớc không phân biệt chế
độ chính trị- xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Sau khi Liên Xô tan rã (12/1991), xuất phát từ tình hình mới, hội nghị lần
thứ III ban chấp hành Trung ƣơng khoá VII (6/1992) đã cụ thể hoá nhiệm vụ đối
ngoại của Đại hội VII, xác định mục tiêu tƣ tƣởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại
của Đảng và nhà nƣớc Việt Nam là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất

71 và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với
vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nƣớc ta.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

Hiệp định Pari (23/10/1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề
Camphuchia đƣợc ký kết tạo ra một tiền đề quan trọng để thúc đẩy quan hệ của
nƣớc ta với các nƣớc. Đảng lãnh đạo tiến hành nhiều hoạt động để thúc đẩy việc
bình thƣờng hoá quan hệ với Trung Quốc. Tháng 11/1991, Việt Nam- Trung
Quốc chính thức bình thƣờng hoá quan hệ. Đối với Mỹ chúng ta bày tỏ thiện chí
trong việc hợp tác giải quyết vấn đề ngƣời Mỹ mất tích, coi đây là vấn đề nhân
đạo. Việc tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, cùng với thái độ thiện chí, hợp
tác xây dựng của Việt Nam buộc Mỹ phải từng bƣớc nới lỏng tiến tới bỏ cấm
vận đi vào bình thƣờng hoá quan hệ với Việt Nam.
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội VII và nghị quyết hội nghị Trung ƣơng
3 (khoá VII), nƣớc ta đặt mục tiêu hàng đầu, là cải thiện và củng cố quan hệ với
các nƣớc láng giềng, các nƣớc ở khu vực, coi trọng quan hệ với các nƣớc lớn,
đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc ở châu lục, chủ động duy trì, phát
triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nƣớc bạn bè truyền thống. Mặt khác
nƣớc ta thúc đẩy bình thƣờng hoá và tăng cƣờng quan hệ với tổ chức quốc tế,
trƣớc hết là các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trƣớc hết là các tổ chức hợp tác
khu vực và thế giới, trở thành thành viên chính thức của ASEAN (7/1995).
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại trong những năm(1991-1996) là một
nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận,
cải thiện và nâng cao vị thế của nƣớc ta trên thế giới, tạo môi trƣờng quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Trong những năm (1996-2004), những nhân tố mới xuất hiện. Xu thế hoà
binh, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi của các dân
tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nƣớc giành ƣu tiên cho phát triển kinh tế,
coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cƣờng sức mạnh
tổng hợp của mỗi quốc gia… Hợp tác ngày càng tăng, những cạnh tranh cũng

72 hết sức gay gắt.


Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định chủ chƣơng mở rộng quan hệ
đối ngoại, tiếp tục thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

phƣơng hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Nhiệm vụ đối ngoại là củng
cố môi trƣờng và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn để đẩy mạnh phát triển
kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Đại hội IX của Đảng
(4/2001) chủ trƣơng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội
nhập khu vực và thế giới, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, làm tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại. Đại hội IX phát triển phƣơng châm của Đại hội VIII thành
"Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc
tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Thực hiện phƣơng châm đó, Đảng và Nhà nƣớc ta đã lãnh đạo điều chỉnh
luật pháp, cải cách các thủ tục hành chính, đào tạo cán bộ, phát huy sức mạnh
nội lực… để tạo môi trƣờng thuận lợi thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
Nhờ có đƣờng lối đúng chính sách cử chỉ hợp lý cùng với lộ trình hội
nhập phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nƣớc nên về cơ bản ta đã thực hiện
đƣợc chủ trƣơng đa dạng hoá thị trƣờng và đa phƣơng hoá quan hệ kinh tế đối
ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, củng cố đƣợc các thị
trƣờng truyền thống, đồng thời tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị
trƣờng mới nên đã đẩy mạnh đƣợc xuất khẩu, tạo đầu ra cho sản xuất, có quan
hệ thƣơng mại với hơn 140 nƣớc, quan hệ đầu tƣ với gần 70 nƣớc và vùng lãnh
thổ, thu hút đƣợc nhiều nguồn vốn đầu tƣ nƣớc ngoài. Đảng ta tiếp tục củng cố
tình đoàn kết hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc
lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới, thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở
một số nƣớc, mở rộng quan hệ với các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị-
xã hội, uỷ ban hoà bình và các hội hữu nghị…
Những thành tựu về kinh tế, chính trị và đối ngoại của Việt Nam trong
những năm đổi mới đã khẳng định vị thế của nƣớc ta đối với khu vực và thế

73 giới. Chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của đƣờng lối đổi mới nói chung và
đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam,

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo và tƣ duy chính trị nhạy cảm, sâu sắc
bản lĩnh lãnh đạo vững vàng của Đảng.

74 TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- V.I Lênin, toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật Hà Nội 1969.

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

2- V.I Lênin, toàn tập, tập 11, Nxb Sự Thật Hà Nội 1963
3- Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2,4,5,6,7,8, Nxb CTQG Hà Nội 1995.
4- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật 1982
5- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật 1987
6- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật 1991
7- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG Hà Nội
1996
8- Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội
2001
9- Văn Kiện Hội nghị lần thứ IX, BCHTW (khoáIX) Nxb CTQG Hà Nội
2004
10- Văn Kiện Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VII) Nxb CTQG Hà
Nội 1994
11- Nghị quyết 13 về đối ngoại(1988) của Bộ chính trị, tƣ liệu lƣu trữ
Ban đối ngoại Trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam
12- Hiến Pháp năm 1992 của nƣớc CHXHCN Việt Nam
13- Hiến Pháp Việt Nam những năm 1946-1959, 1980-1992, Nxb
CTQG Hà Nội 1995
14- Dự thảo Nghị quyết trình Đại hội IX, Nxb CTQG Hà Nội
15- Nguyễn Lƣơng Bích, Lịch sử ngoại giao Việt Nam,Nxb Quân đội
nhân dân 1996.
16- Luật đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam, Nxb Pháp Lý 1989
17- Lƣu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội 1998.
18- Lƣu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội 2004.

75 19- Nguyễn Phúc Luân: Chủ Tịch Hồ Chí Minh- trí tệu lớn của nền
ngoại giao Việt Nam hiện đại. Nxb CTQG Hà Nội 1995

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

20- Nguyễn Dy Niên: Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nxb CTQG
Hà Nội 2002.
21- Học Viện Quan Hệ Quốc Tế - Bộ Ngoại Giao, Hỏi đáp về tình hình
thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta, Nxb CTQG
Hà Nội 1997.
22- Học Viện Quan Hệ Quốc Tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự
nghiệp đổi mới(1975-2002), lƣu hành nội bộ.
23- Phan Doãn Nam, Thế giới 1991, Tạp chí Cộng sản 1/1991.
24- Trần Quang Cơ: Vai trò không thể thiếu đƣợc trên thế giới ngày
nay, bài phát biểu của thứ trƣởng tại Hội nghị ngoại trƣởng các nƣớc
không liên kết, 9/1991
25- Vũ Khoan: Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nƣớc, Tạp
chí Cộng sản, 4/1995.
26- Đinh Xuân lý: Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong
thời kỳ đổi mới, Tạp chí Cộng sản tháng 6/2004
27- Đinh Xuân Lý: Kinh nghiệm hội nhập quốc tế cảu Việt Nam thời
kỳ đổi mới, Tạp chí lý luận chính trị số 9 năm 2004
28- Vũ Quang Vinh: Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng
tƣ tƣởng đó trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng số 11 năm
2001.

76

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

77

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI
NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU
THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối
ngoại
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
II. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nƣớc và xu thế của thế giới
1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nƣớc
2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Chương II: QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
MỞ RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
I. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ(1986 - 1995)
1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc trƣớc đổi mới
2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc từ (1991-1995)
II. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc thời kỳ(1996 - 2004)
1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc từ (1996-2001)
2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc từ (2001 - 2004)
Chương III: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

78 I. Chủ trƣơng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới
II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
III. Một số bài học bƣớc đầu về chính sách đối ngoại

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế
Mai Xuân Hoàn 2011

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

79

Điện tữ viễn thông k32 – Đại Học Khoa Học - Đại Học Huế

You might also like