You are on page 1of 59

Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam

Mục lục
CHƯƠNG 1..................................................................................................................................................................4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ KÊNH TÍN DỤNG............................................................4
I.1. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ....................................................................................................................4
I.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ.................................................................................................................4
I.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.................................................................................................................5
I.1.3. Cơ chế truyền tải của chính sách tiền tệ qua các kênh.............................................................................6
I.2. Cơ sở lý luận về kênh tín dụng........................................................................................................................11
I.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng............................................................................................................11
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH
TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM .......................................................................................................................................17
2.1. Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua.........................................................17
2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ..............................................................................................................17
I.2.2. Việc sử dụng các công cụ của CSTT......................................................................................................18
I.2.3. Hiệu quả CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua.....................................................................................22
2.3. Thực trạng cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng....................................................................................23
I.2.4. Tác động truyền tải qua kênh tín dụng ngân hàng..................................................................................23
I.2.5. Đánh giá chung về CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.................................................36
CHƯƠNG 3................................................................................................................................................................39
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA
KÊNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM...........................................................................................................................39
I.3. Định hướng phát triển kinh tế xã hội...............................................................................................................39
I.4. Hoàn thiện và nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước...............................40
I.4.2. Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước ...........................................42
I.5. Giải pháp tăng hiệu quả truyền tải tác động CSTT qua kênh tín dụng............................................................44
I.5.1. Giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định............................................................................................44
I.5.2. Phát triển thị trường tín dụng..................................................................................................................45
I.5.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng................................................................................................50
I.6. Kiến nghị.........................................................................................................................................................56
I.6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan ban ngành liên quan...............................................................56
I.6.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước..................................................................................................56
I.6.3. Kiến nghị với các NHTM.........................................................................................................................57

1
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Danh mục các chữ viết tắt
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
DTBB Dự trữ bắt buộc
CSTT Chính sách tiền tệ
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
Fed Cục Dự trữ liên bang Mỹ
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
Swap Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ
TCTD Tổ chức tín dụng
VND Đồng Việt Nam
USD Đồng đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại quốc tế
ICOR Hiệu quả sử dụng tổng hợp của vốn đầu tư phát triển
TTTT Thị trường tiền tệ
NVTTM Nghiệp vụ thị trường mở

2
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu khoa học
Chính sách tiền tệ (CSTT) là tổng thể các biện pháp mà Ngân hàng trung ương thực
hiện thông qua việc sử dụng các công cụ CSTT tác động đến mục tiêu hoạt động làm
thay đổi cung tiền, lãi suất, qua đó tác động đến mục cuối cùng của CSTT là lạm phát,
tăng trưởng kinh tế và công ăn viêc làm cao. Vấn đề mà tất cả các NHTW trên thế giới
quan tâm để đảm bảo thực thi CSTT đạt mục tiêu mong muốn, đó là cách thức CSTT tác
động đến nền kinh tế, hay kênh truyền tải CSTT như thế nào là nhanh nhất, hiệu quả
nhất. Hiện nay giữa các nhà kinh tế còn có những quan điểm rất khác nhau về vấn đề này
nhất là tầm quan trọng của từng kênh truyền tải, bởi trong những điều kiện hay mức độ
phát triển của thị trường tài chính khác nhau, thì tác động của CSTT tới nền kinh tế qua
các kênh cũng không giống nhau. Ở các nước đang phát triển và chuyển đổi, cơ chế
truyền tải CSTT có phần không ổn định do hệ thống tài chính của các nước này còn kém
phát triển và cấu trúc hệ thống tài chính đang trong quá trình thay đổi, Việt Nam cũng
không ngoại lệ trong các nước phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, thị trường tài chính còn phát triển ở trình độ thấp. Thị
trường tiền tệ chưa tạo được tiền đề cho sự phát triển năng động và hiệu quả, việc sử
dụng các công cụ tiền tệ còn hạn chế. Thị trường vốn thì chưa phải là kênh phân bổ vốn
đa dạng và có hiệu quả của nền kinh tế. Thị trường cổ phiếu và trái phiếu đều quá nhỏ
bé, khối lượng hàng hóa không đủ để tạo môt thị trường vốn sôi động và hấp dẫn.
Trong bối cảnh đó, thị trường tín dụng giữ một vai trò đăc biệt quan trọng. Vốn đầu
tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng cung ứng. Hệ thống TCTD trong đó TCTD nhà nước là chủ lực
chính cung ứng vốn. Thị trường tín dụng có ý nghĩa quyết định với huy động và phân bổ
nguồn vốn nhàn rỗi một cách tiết kiệm và có hiệu quả. Thị trường tín dụng phải phát
triển lành mạnh là nhân tốt cần thiết đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.
CSTT có thể tác động tới nền kinh tế qua nhiều kênh như lãi suất, giá tài sản và
kênh tín dụng. Nhưng rõ ràng trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển như
nước ta thì kênh tín dụng thực sự trở thành kênh truyền dẫn tác động CSTT quan trọng
và phổ biến.
Vậy thực trạng truyền dẫn tác động CSTT qua kênh tín dụng hiện nay như thế nào
và vấn đề đặt ra là làm thế nào để tăng hiệu quả kênh truyền dẫn này, xuất phát từ đó,
nhóm em xin chọn đề tài “ Hiệu quả cơ chế truyền tải tác động chính sách tiền tệ qua
kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về sự truyền dẫn tác động CSTT qua kênh tín
dụng từ đó thấy được vai trò của kênh tín dụng ở Việt Nam.
Phân tích thực trạng của kênh này để thấy được những vấn đề còn tồn tại từ đó tìm
ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kênh tín dụng.

3
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sự truyền tải ảnh hưởng CSTT qua kênh tín dụng ngân hàng ở
Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở sự truyền tải tác động CSTT qua hoạt động tín
dụng ngân hàng từ năm 1997 tới nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp triết học duy vật biện chứng và lãi suất thường được dùng
trong nghiên cứu khoa học, đề tài kết hợp phân tích định lượng, phương pháp thống kê,
phân tích, so sánh, tổng hợp.
5. Đóng góp của đề tài
− Hệ thống lại những vấn đề cơ bản về CSTT và kênh tín dụng.
− Phân tích thực trạng hiệu quả truyền tải tác động CSTT qua kênh tín dụng.
− Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền tải tác động CSTT kênh tín dụng Việt Nam.
6. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài chia làm
3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ và kênh tín dụng
Chương 2. Thực trạng hiệu quả cơ chế truyền tải tác động CSTT qua kênh tín dụng ở VN
trong thời gian qua
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền tải tác động chính sách tiền tệ qua kênh
tín dụng

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ KÊNH TÍN DỤNG

I.1. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ


I.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ
Khái niệm CSTT: Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng
trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ, biện pháp của mình nhằm đạt
các mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế.
Tuỳ điều kiện các nước, CSTT có thể được xác lập theo hai hướng: CSTT mở rộng
(tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng
lạm phát tăng - CSTT chống thất nghiệp) hoặc CSTT thắt chặt (giảm cung tiền, tăng lãi
suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất
nghiệp tăng - CSTT ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí CSTT: Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì CSTT là
một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu
thông tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác
như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.

4
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Đối với Ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách CSTT là
hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho CSTT quốc gia được
thực hiện có hiệu quả hơn.
I.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
I.1.2.1. Mục tiêu cuối cùng
− Ổn định giá trị đồng tiền:
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của
nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng
tiền (chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng
tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát = 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để
có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
− Tăng trưởng kinh tế :
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt
việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối
với Chính phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một
cách hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu: Có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, không tách
rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với
nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì
NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác.
− Đảm bảo công ăn việc làm:
Công ăn việc làm cao là một mục tiêu có giá trị bởi vì nếu thất nghiệp cao sẽ gây
cho các gia đình khốn khổ về mặt tài chính, mất đi lòng tự trọng cá nhân và làm tăng tội
ác. Đồng thời khi thất nghiệp cao thì nguồn tài nguyên sẽ không được khai thác từ đó
làm giảm tổng sản phẩm xã hội.
Vì lẽ đó CSTT phải quan tâm tới khả năng tạo công ăn việc làm giảm áp lực thất
nghiêp cho xã hội. Do đó đảm bảo công ăn việc làm là một mục tiêu mà NHTW phải
theo đuổi khi hoạch định CSTT.
Tuy nhiên mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với không có thất
nghiệp vì trong xã hội luôn tồn tại một bộ phận thất nghiệp tự nhiên. Bộ phận này có lợi
cho nền kinh tế, họ gồm những người tự nguyện quyết định tới khối công việc để tìm
một công việc khác họ ưa thích.
− Mối quan hệ giữa các mục tiêu:
Mặc dù các mục tiêu đưa ra là nhất trí với nhau song không phải lúc nào cũng vậy.
Mục tiêu công ăn việc làm và ổn định giá cả mâu thuẫn với nhau trong thời hạn ngắn.

5
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Thứ nhất: việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thất thường kéo theo CSTT mở rộng và
sự tăng giá. Còn nếu giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện CSTT thắt chặt,
lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu dẫn đến giảm tổng cầu của nền
kinh tế, thất nghiệp vì thế có xu hướng tăng lên.
Thứ hai: mục tiêu ổn định giá cả và công ăn việc làm mâu thuẫn với nhau còn thể
hiện thông qua phản ứng của NHTW với các cú shock cung nhằm đảm bảo mức cầu tiền
thực tế, kết quả là giá cả tăng lên.
Thứ ba: mâu thuẫn này còn thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh tỷ giá. Với
việc hạ giá đồng bảo tệ, các ngành xuất khẩu có khả năng mở rộng dẫn tỷ lệ thất nghiệp
giảm kèm theo sự tăng lên của mức giá chung. Do đó việc duy trì một mức tỷ giá ổn định
và thích hợp sẽ làm giảm công ăn việc làm.
Tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm không mâu thuẫn với nhau cả trong
ngắn hạn và dài hạn, công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại.
Vậy trong ngắn hạn, NHTW không thể đạt được tất cả mục tiêu trên. Hầu hết
NHTW các nước coi sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của CSTT. Tuy
nhiên, trong ngắn hạn đôi khi họ phải tạm thời từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình
trạng thất nghiệp cao đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú shock cung đối với sản
lượng. Có thể nói NHTW theo đuổi một mục tiêu dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn.
I.1.2.2. Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian là các chỉ tiêu được lựa chọn để đạt được mục tiêu cuối cùng.
Nó thường là khối lượng tiền cung ứng (M1, M2, M3), lãi suất thị trường.
Mục tiêu trung gian phải thỏa mãn các tiêu chuẩn sau:
− Có thể đo lường nhanh chóng và chính xác: vì các chỉ tiêu này chỉ có ích khi nó
phản ánh CSTT nhanh hơn mục tiêu cuối cùng. NHTW dựa vào các dấu hiệu này để điều
chỉnh hưởng tác động khi cần thiết.
− Có thể kiểm soát được: NHTW chỉ có thể điều chỉnh mục tiêu trung gian cho phù
hợp với định hướng CSTT khi NHTW có khả năng kiểm soát mục tiêu trung gian. Ví dụ
như sự trông đợi của các nhà kinh doanh sẽ quyết định tới tổng đầu tư nhưng nếu chọn
chỉ tiêu này làm mục tiêu trung gian thì ảnh hưởng của NHTW tới nó là rất ít. Do đó nếu
lựa chọn chỉ tiêu mà NHTW không kiểm soát được thì sẽ ảnh hưởng tới định hướng và
hiệu quả CSTT và lãng phí mọi cố gắng.
− Có mối quan hệ với mục tiêu cuối cùng: khả năng có thể đo lường chính xác và khả
năng kiểm soát của NHTW sẽ trở lên vô nghĩa nếu chỉ tiêu lựa chọn không quan hệ chặt
chữ với mục tiêu cuối cùng.
I.1.3. Cơ chế truyền tải của chính sách tiền tệ qua các kênh.
Nếu như cơ chế kiểm soát các điều kiện mang tính chủ quan khi chịu sự chi phối
của NHTW thông qua việc lựa chọn hệ thống các mục tiêu trung gian và công cụ CSTT
thì cơ chế truyền dẫn tác động của CSTT lại mang tính khách quan. Cơ chế truyền dẫn

6
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
CSTT được xây dựng dựa trên cách tiếp cận các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ thông
qua hệ thống các “kênh truyền dẫn” bao gồm kênh lãi suất, kênh giá tài sản, kênh tín
dụng. Từ đó mà đạt được mục tiêu giá cả sản lượng.
Sơ đồ 1. Các kênh truyền tải của chính sách tiền tệ

Cung øng tiÒn tÖ

I.1.3.1. Tác động qua kênh lãi suất.


TiÒn göi ng©n hµng L· i suÊt TÝn dông ng©n hµng
Chúng ta sẽ xét ảnh hưởng qua
sơ đồ 2. Th­ ¬ng m¹ i Tû gi¸ Gi¸ cæphiÕu

− Đối với tiêu dùng và đầu tư: Gi¸ trÞdoanh nghiÖp


khi khối cung tiền tăng lên làm cho
mức lãi suất giảm xuống, khuyến
khích các chủ thể trong nền kinh tế
chi tiêu, đầu tư nhiều hơn. Về phía TÝn dông,
cá nhân hộ gia đình được lợi do chi Tµi s¶n, thu nhËp ®Çu t­ ,
gi¸ c¶
phí vốn vay để mua hàng hóa giảm Tµi s¶n riªng s¶n l­ î ng
xuống, do đó sẽ gia tăng chi tiêu bao
gồm cả chi tiêu tiêu dùng và chi tiêu
vào hàng hóa lâu bền. Hơn nữa, lãi
suất tiết kiệm giảm xuống không
hấp dẫn họ gửi tiết kiệm, tiêu dùng hiện tại của họ sẽ tăng lên. Đối với khu vực doanh
nghiệp, lãi suất vay vốn giảm xuống khiến cho chi phí vay vốn ngân hàng giảm, các dự
án đầu tư, kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư sử dụng vốn đi vay ngân hàng
tăng lên. Ngoài ra, với mức lãi suất thấp cũng làm giảm chi phí lưu giữ vốn lưu động (ví
dụ như hàng tồn kho) và do đó các khoản đầu tư dưới dạng vốn lưu động có thể tăng lên.
Khi lãi suất thực tăng lên sẽ có tác động ngược lại làm giảm đầu tư, tiêu dùng. Lưu ý,
nhu cầu đầu tư nhạy cảm với mức lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa. Khi
có một sự gia tăng tiền cung ứng M, mức giá cả dự tính P* và mức lạm phát dự tính ∏*
tăng, kéo theo sự giảm xuống của mức lãi suất ir (Hiệu ứng Fisher: ir = I - ∏*). Có thể
khái quát ảnh hưởng như sau:
M↑→P↑→∏*↑→ ir↓→I ↑→Y ↑.
Sơ đồ 2. Tác động của kênh lãi suất tới tổng cầu và sản lượng

7
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
L · i s uÊt chÝnh thøc

L · i suÊt danh nghÜa trª n thÞtr­ êng


tiÒn tÖ

L · i s uÊt ng©n hµng


T æng cung L · i suÊt cho L · i suÊt huy
vay danh nghÜa ®éng cho vay L · i s uÊt thùc
dµi h¹ n dµi h¹ n

T iÒn mÆt thu nhËp C hi tiª u dï ng C hi ®Çu t­


hiÖn t¹ i vµ hµng l©u bÒn

T iª u dï ng

G i¸ c¶, s¶n l­ î ng T æng cÇu

− Xét tác động dưới ảnh hưởng của thu nhập: Lãi suất thực giảm xuống người gửi
tiền tiết kiệm sẽ bất lợi, nhưng người đi vay thì được lợi sẽ dẫn đến sự phân phối thu
nhập từ người gửi tiền sang người vay tiền. Người đi vay sẽ tăng cường đi vay phục vụ
tiêu dùng, đầu tư vào các danh mục, dự án đầu tư nhằm tăng thu nhập, trong khi người
tiết kiệm chi tiêu bị hạn chế do thu nhập từ lãi tiền gửi giảm. Tuy nhiên, sự giảm chi tiêu
này thấp hơn nhiều so với nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của người đi vay. Do vậy, tổng chi
tiêu sẽ tăng, GDP tăng lên. Xét trên một khía cạnh khác, khi lãi suất tiết kiệm không hấp
dẫn người gửi tiền thì họ sẽ có xu hướng nắm giữ nhiều tài sản tài chính hơn (cổ phiếu,
trái phiếu…), giá của các tài sản tài chính này sẽ tăng khi lãi suất giảm, làm tăng thi nhập
cho họ và do đó chỉ tiêu tiêu dùng của họ có thể tăng lên.
I.1.3.2. Tác động qua kênh giá tài sản.
Cung tiÒn L· i suÊt
Sự thay đổi của mức lãi suất thị trường sẽ ảnh
hưởng đến giá cả thị trường của các tài sản tài chính
(cổ phiếu, trái phiếu) và tài sản thực (bất động sản), do Gi¸ tµi s¶n
CæphiÕu Tr¸i phiÕu BÊt ®éng s¶n
đó mà ảnh hưởng đến quyết định đầu tư, chi tiêu của
các chủ thể kinh tế. Mối quan hệ giữa lãi suất thị
trường và giá cả của thị trường là giá trị của tài sản là Gi¸ trÞdoanh Thùc tr¹ ng N¨ng lùc tµi
nghiÖp
nghịch chiều, khi lãi suất thị trường giả xuống, các chủ tµi chÝnh s¶n rßng

thể sẽ có sự di chuyển vốn sang các kênh đầu tư vào


các tài sản tăng lên, xu hướng đầu tư, tiêu dùng tăng Chñ ®Çu t­
Chñ ®Çu t­ vµ Tiªu dï ng,
hµng l©u bÒn vay ng© n hµng
lên sẽ làm tăng GDP. Và ngược lại khi lãi suất thị
trường tăng sẽ làm giảm GDP.
Một cách tiếp cận khác là xem xét ảnh hưởng của
Tæng cÇu
CSTT đến giá cổ phiếu của công ty, thể hiện ở tỷ lệ
Gi¸ c¶, s¶n l­ î ng
8
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
giữa giá trị thị trường của công ty với giá thay thế tài sản. Khi NHTW giảm cung tiền sẽ
làm cho giá cổ phiếu giảm bớt vì 2 lý do:
− Khi cung tiền tiền giảm làm các cá nhân, hộ gia đình thiếu phương tiện thanh toán,
buộc họ phải giả chi tiêu và các khoản giảm chi tiêu được giảm trước hết là giảm việc mua
cổ phiếu hoặc trái phiếu. Do đó cầu chứng khoán giảm, dẫn tới giá chứng khoán giảm.
− Với sự giảm xuống của cung tiền có tác động làm lãi suất thị trường tăng, lãi suất
tiết kiệm ngân hàng tăng, sẽ hấp dẫn và khuyến khích người dân gửi tiền ngân hàng hơn
là mua chứng khoán, do vậy mà giá chứng khoán giảm xuống. Và ngược lại khi cung
tiền tăng lên sẽ có tác dụng làm cho giá cổ phiếu tăng lên.
Sự tăng lên của giá cổ phiếu của công ty có tác dụng nâng cao giá trị của công ty
trên thị trường, giá trị này của công ty có thể cao hơn giá thay thế tài sản (chỉ số q>1),
điều này kích thích doanh nghiệp đầu tư mới vào nhà xưởng, máy móc trang thiết bị…
bởi giá của chúng rẻ một cách tương đối so với giá cổ phiếu. Và ngược lại, chỉ số q<1,
nhu cầu đầu tư mới của doanh nghiệp sẽ giảm. Có thể khái quát hiệu ứng này như sau:
M↑→P*↑→q↑→I↑→Y↑. l,M l,M1
i 0
I.1.3.3. Thông qua kênh tỷ giá hối đoái.
Sự biến động của lượng tiền cung ứng sẽ làm thay
đổi tỷ giá hối đoái. Áp dụng mô hình Mundell-Fleming
trong nền kinh tế mở, tỷ giá hối đoái linh hoạt, chúng ta sẽ
i0
xem xét tác động của CSTT đến nền kinh tế, thể hiện ở đồ i1
thị 3.
Đồ thị 3. Tác động của cung tiền đến tỷ giá hối
l,S
đoái
Thứ nhất, làm thay đổi giá L· i suÊt
Y0 Y1 Y
cả tương đối của hàng hóa. Nhu cÇu ® èi ví i
tiÒn néi tÖvµ tµi
Trong điều kiện cơ chế tỷ s¶n néi tÖ
giá linh hoạt khi NHTW sử
Tû gi¸ hèi ® o¸i
dụng CSTT mở rộng làm danh nghÜ a

tăng lượng cung tiền đường


C¸n c©n Tû gi¸ hèi ® o¸i Gi¸ trÞtµi s¶n rßng Chi tiªu vµ
LM dịch chuyển sang phải th­ ¬ng m¹ i thùc (TS nî -TS cã) vay m­ î n

(từ LMo đến LM1 ), trong Tæ ng cung


khi đường IS không thay (chi phÝhµng Tæ ng cÇu
nhËp khÈu)
đổi đẩy lãi suất đồng nội tệ
giảm xuống làm cho lãi suất Gi¸ c¶ hµng
ho¸
trong nước thấp hơn lãi suất
nước ngoài, sẽ khuyến Cung tiÒn L· i suÊt Gi¸ c¶ Tû gi¸ hèi
®o¸i thùc
khích luồng vốn chảy ra,
cầu ngoại tệ sẽ tăng sẽ đẩy Gi¸ c¶ Tæng cÇu C¸n c© n
s¶n l­ î ng th­ ¬ng m¹ i
tỷ giá danh nghĩa tăng, do

9
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
đó làm tăng tỷ giá thực. Nhà đầu tư tìm cách chuyển hướng đầu tư từ tài sản nội tệ sang
tài sản ngoại tệ, đồng nội tệ sẽ giảm giá so với đồng ngoại tệ. Sự giảm giá của đồng nội
tệ khiến cho giá của hàng hóa xuất khẩu tính bằng nội tệ cao hơn, nhu cầu xuất khẩu tăng
lên, nhập khẩu giảm và do đó tổng cầu và sản lượng tăng.
M↑→i↓→E↑→ xuất khẩu ↑, nhập khẩu ↓→AD↑→Y↑.
Thứ hai, ảnh hưởng đến giá trị tài sản bằng ngoại tệ trên bảng cân đối tài sản của
các chủ thể kinh tế. Biến động về mặt tỷ giá có thể cải thiện hoặc làm xấu đi tình trạng
tài chính của các chủ thể. Tài sản của các chủ thể là các khoản vay nợ bằng ngoại tệ, khi
tỷ giá thay đổi làm thay đổi giá trị tài sản ròng. Họ sẽ dự đoán chiều hướng biến động
của tỷ giá, từ đó đưa ra quyết định chi tiêu của mình.
Xem xét ở một số quốc gia duy trì tỷ giá cố định, CSTT có thể tác động tới tỷ giá
thực thông qua giá cả trong nước và do vậy dẫn đến có thể tác động tới xuất khẩu ròng
mặc dù với mức độ thấp hơn và chậm hơn. Tùy theo điều kiện và mức độ phát triển của
thị trường, đặc biệt điểm tài chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp trong từng quốc
gia mà CSTT tác động qua kênh tỷ giá là khác nhau.
Sơ đồ 4. Tác động của kênh tỷ giá tới tổng cầu và sản lượng

I.1.3.4. Tác động của kênh tín dụng


Trung gian tài chính trong đó chủ yếu là ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với
tài trợ vốn cho nền kinh tế. Sự mở rộng hay thu hẹp quy mô cho vay của nó quyết định
tới quy mô của tổng cầu, từ đó quyết định tới sự tăng trưởng kinh tế.
Kênh tín dụng là kênh truyền dẫn ảnh hưởng của CSTT tới khả năng cấp tín dụng
của trung gian tài chính. Kênh này truyền dẫn ảnh hưởng của CSTT qua 2 giác độ là hoạt
động tín dụng ngân hàng và sự điều chỉnh bảng tổng kết tài sản.
Ở Việt Nam, thị trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng trở thành mắt xích
trọng yếu trong phát triển kinh tế. Vì vậy tín dụng trở thành kênh quan trọng trong sự
truyền tải CSTT tới nền kinh tế. Trong phần sau sẽ trình bày cụ thể hơn về kênh tín
dụng.
Kết luận, cơ chế truyền dẫn CSTT đến các mục tiêu vĩ mô là một quá trình phức
tạp, hiệu quả của cơ chế truyền dẫn thông qua các kênh không chỉ phụ thuộc vào nhân tố
chủ quan là liều lượng tác động của NHTW mà còn phụ thuộc vào các nhân tố khách
quan như mức độ nhạy cảm lãi suất và đầu tư, khả năng độc lập vào nguồn vốn tín dụng
của doanh nghiệp, sự phát triển của thị trường tài chính… Do đó chúng ta cần phải xem
xét đầy đủ và toàn diện ảnh hưởng của các nhân tố trong quá trình truyền dẫn tác động
qua các kênh đến nền kinh tế, trên cơ sở đó lựa chọn được các mục tiêu hoạt động, mục
tiêu trung gian và các công cụ CSTT thích hợp nhằm đạt được mục tiêu chính sách đã đề
ra của NHTW.

10
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
I.2. Cơ sở lý luận về kênh tín dụng
I.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng
I.2.1.1. Khái niệm
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng, sau một thời gian nhất định thu về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu.
Vậy theo quan điểm này thì tín dụng có 3 đặc trưng chủ yếu là tính chuyển nhượng
tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả có lãi.
Quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời, tính tạm thời của
sự chuyển nhượng đề cập đến thời gian sử dụng lượng giá trị đó, nó chính là kết quả của
sự thỏa thuận của các đối tác tham gia quá trình chuyển nhượng sao cho phù hợp giữa
thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng lượng giá trị đó.
Tính hoàn trả tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên
tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động có tính ngắn
hạn là chủ yếu và sau một thời gian nhất định ngân hàng phải hoàn trả cho những người
gửi tiền. Đồng thời ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí các hoạt động như
khấu hao tài sản cố đ inh, trả lương cho cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng do đó
người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả lãi.
Dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay: người cho vay
tin tưởng người đi vay sử dụng vốn có hiệu quả và sau một thời gian nhất định người đi
vay có khả năng trả được nợ. Cơ sở của sự tín nhiệm này có thể do uy tín của người đi
vay, giá trị tài sản thế chấp hoặc do sự bảo lãnh của người thứ ba. Sự tín nhiệm lẫn nhau
giữa người đi vay và người cho vay là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
I.2.1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng
− Thứ nhất: Hoạt động tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy tái sản xuất xã hội.
TDNN huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các thành phần kinh tế trong xã
hội, từ đó cung ứng vốn kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tín dụng của các doanh nghiệp
và cá nhân để họ có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
− Thứ hai: TDNH là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả cho nền kinh tế .
Các doanh nghiệp sẽ chủ động trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh
vì nó không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Họ có thể tìm kiếm
các cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất xã hội nhờ vào vốn TDNN. Nguồn
vốn TDNH là nguồn vốn tài trợ có hiệu quả nhất vì nó thỏa mãn nghiên cứu về thời hạn
và số lượng đồng thời các hình thức tín dụng đa dạng, sự tiếp cận dễ dàng, chi phí thấp.
Bên cạnh đó các hình thức tín dụng cung ứng luôn kèm theo điều kiện tín dụng để hạn
chế rủi ro vì vậy người đi vay phải quan tâm thực sự tới hiệu quả sử dụng vốn thì mới có
thể quan hệ lâu dài với tổ chức tín dụng.
− Thứ ba: Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách xã hội.

11
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Về bản chất chính sách xã hội được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại từ
ngân sách nhà nước, song lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Phương
thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng thay thế cho phương thức tài trợ không hoàn lại sẽ
duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách.
Ví dụ việc tài trợ vốn cho người nghèo nay được thực hiện phổ biến bằng tín dụng người
nghèo với lãi suất thấp. Rõ ràng hình thức tài trợ này có hiệu quả hơn vì đối tượng chính
sách buộc phải quan tâm tới hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn.
Từ đó dần dần họ có thể tồn tại độc laaoj với nguồn vốn tài trợ, đó chính là mục đích của
phương thức trài trợ bằng con đường tín dụng.
− Thứ tư: Tín dụng là kênh truyền tải trong đó của Nhà nước đến mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Việc đảm bảo mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hòa phụ thuộc một phần vào khối lượng
tín dụng và cơ cấu tín dụng về mặt thời hạn cũng như về mặt đối tượng tín dụng. Vấn đề
này lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất cho vay, điều kiện cho vay, yêu
cầu thế chấp bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng. Vậy thông qua thay đổi và điều
chỉnh các điều kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô hoặc chuyển hướng vận
động của các nguồn vốn tín dụng, từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu của nền kinh tế. Tổng
cầu thay đổi dưới trong đó của chính sách tín dụng sẽ trong đó tới tổng cung và điều kiện
sản xuất khác, điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của
chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô cần thiết.
I.2.1.3. Chất lượng hoạt động tín dụng.
Chất lượng hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố của chủ quan và
khách quan. Những nhân tố khách quan ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng gồm:
− Nhân tố kinh tế
Ngân hàng là chủ thể trung gian trong nền kinh tế vì vậy hoạt động của NHTM
được coi là cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Do đó nền kinh tế ổn
định hay bất ổn định đều ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động tín dụng nói riêng. Một nền kinh tế tăng trưởng ổn đinh, lạm phát vừa phải vừa tạo
điều kiện để hoạt động tín dụng hoạt động có chất lượng cao và ngược lại.
− Nhân tố pháp luật
Hoạt động ngân hàng không chỉ chịu sự giám sát, điều hành của pháp luật mà còn
chịu sự giám sát và điều chỉnh của luật ngân hàng và luật TCTD Pháp luật tạo môi
trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và có hiệu
quả, là cơ sở để giải quyết những tranh chấp xảy ra. Các chủ thể tham gia quan hệ tín
dụng phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm ngặt thì chất lượng hoạt động tín dụng
mới được đảm bảo.
− Môi trường tự nhiên

12
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả của các ngành nông nghiệp,
thủy sản. Khi đó điều kiện tự nhiên không thuận lợi như thiên tai, hạn hán, bệnh dịch thì
các khoản cho vay của ngân hàng sẽ rủi ro rất lớn.
− Nhân tố xã hội
Đạo đức xã hội là yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng. Nếu đạo đức
xã hội không tốt, trình độ dân trí thấp, hiểu sai lệch về hoạt động của ngân hàng thì chất
lượng hoạt động tín dụng sẽ không cao.
− Công việc kinh doanh của khách hàng
Hoạt động kinh doanh của khách hàng luôn chứ đựng những rủi ro, có những rủi ro
kiểm soát được và có những rủi ro không thể dự đoán được dẫn đến lợi nhuận của doanh
nghiệp giảm sút ảnh hưởng đến chất lượng các khoản vay.
Những nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng gồm:
− Chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng
− Công tác tổ chức của ngân hàng.
− Cơ cấu tổ chức được sắp xếp một cách khoa học, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các phòng ban sẽ tạo điều kiện đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, quản lý tốt các
khoản vay, đảm bảo hoạt động tín dụng ngân hàng có hiệu quả.
− Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng gồm các biện pháp nhằm mở rộng hay hạn chế tín dụng để
đảm bảo mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Do đó chính sách tín dụng sẽ quyết định sự
thành công hay thất bại của ngân hàng và chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc xây
dựng chính sách tín dụng có đúng đắn hay không.
− Kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những sai phạm phát sinh
trong quá trình thu hồi một khoản tín dụng và từ đó có biện pháp khắc phụ kịp thời.
Vậy CSTT tác động tới mục tiêu kinh tế vĩ mô qua kênh tín dụng như thế nào? Tiếp
theo chúng ta sẽ tìm hiểu về cơ chế truyền dẫn trong đó CSTT qua kênh tín dụng.
I.2.1.4. Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng
Theo quan điểm của Bernanke (1953) và Blinder (1988), tác động của CSTT thông
qua tín dụng được thể hiện qua 2 kênh cho vay và bằng cân đối kế toán.
Tác động của CSTT thông qua 2 con đường: hoạt động tín dụng của ngân hàng và
quá trình điều chỉnh bảng tổng kết tài sản của khách hàng.
− Thứ nhất, ảnh hưởng qua hoạt động tín dụng của ngân hàng.
NHTW thực thi CSTT nới lỏng hay thắt chặt sẽ làm thay đổi mức cung tiền tệ sẽ
dẫn tới sự thay đổi về khối lượng tín dụng cung ứng của hệ thống ngân hàng, truyền ảnh
hưởng đến tổng cầu nền kinh tế. Điều này thể hiện thông qua tác động về mặt lượng và
mặt giá (lãi suất).
13
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Sơ đồ 5. Tác động của kênh tín dụng tới tổng cầu và sản lượng
L· i suÊt Cung tiÒn TiÒn göi ng©n hµng

Gi¸ cæphiÕu H¹ n møc tÝn dông

Lùa chän ng­ î c vµ rñi TÝn dông


ro ®¹ o ®øc ng©n hµng

Gi¸ c¶ s¶n
l­ î ng § Çu t­

Về mặt giá, sự thay đổi về mặt lãi suất của NHTW sẽ ảnh hưởng đến lãi suất thị
trường, truyền dẫn tác động thay đổi lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương
mại. Theo quan điểm Stiglitz và Weiss (1981), lãi suất giảm xuống có thể tác động thuận
chiều làm giảm lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng, nhưng đồng thời cũng có thể tác động
nghịch chiều làm gia tăng khả năng thành công dự án, tức là giảm thiểu rủi ro của các dự
án (rủi ro thấp thường đi kèm với sinh lợi nhỏ và ngược lại). Ta có công thức:
Lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng = Lãi suất cho vay * Xác suất thành công của dự án.
(Giả định chi phí hoạt động của ngân hàng bằng không)
Thường thì, các ngân hàng sẽ ấn định mức lãi suất cho vay đem lại lợi nhuận kỳ
vọng cho ngân hàng là cao nhất. Tuy nhiên, trong điều kiện thông tin không cân xứng thì
việc tăng lãi suất cho vay chỉ thu hút được các dự án có độ rủi ro cao, do đó làm giảm lợi
nhuận kỳ vọng. Nếu NHTW quy định trần lãi suất cho vay thì các ngân hàng lại sử dụng
các công cụ phi lãi suất (như hạn mức tín dụng) để lựa chọn khách hàng và làm cho kênh
truyền dẫn này hiệu quả hơn. Và ngược lại, nếu lãi suất giảm do CSTT mở rộng của
NHTW sẽ làm cho lượng tín dụng NHTM cấp cho nền kinh tế tăng làm tăng đầu tư và
tăng tổng cầu.
Về mặt lượng, công cụ hạn mức tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng
tiền cung ứng do đó đến đầu tư của xã hội. Khi NHTW thực thi CSTT nới lỏng làm tăng
lượng tiền gửi ngân hàng. Để giải quyết vấn đề mất cân đối giữa cung cầu tín dụng, ngân
hàng thương mại ngoài việc giảm lãi suất còn áp dụng mở rộng hạn mức tín dụng thông
qua việc giảm các điều kiện vay vốn, điều kiện thẩm định tín dụng. Lượng tín dụng cấp
cho nền kinh tế do đó tăng lên làm tăng đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
M↑ → tiền gửi NH↑→ cho vay ↑→ I ↑→Y↑
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường
vốn trực tiếp như việc phát hành các giấy tờ có giá trên thị trường tài chính để thu hút
vốn như các doanh nghiệp lớn, do vậy mà tiếp cận vốn ngân hàng là hết sức cần thiết đối
với họ.

14
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Ngoài ra, sự thay đổi lãi suất còn có ảnh hưởng đến giá trị tài sản trên bảng cân đối
tài sản của ngân hàng thương mại. Khi lãi suất giảm xuống do NHTW thực thi CSTT nới
lỏng sẽ lên giá trị thị trường tài sản dưới dạng chứng khoán, bất động sản trên bảng cân
đối của ngân hàng thương mại tăng lên, khả năng cho vay của ngân hàng theo đó cũng
tăng lên sẽ tác động tăng sản lượng và tổng cầu nền kinh tế.
− Thứ hai, quá trình điều chỉnh bảng cân đối tài sản của khách hàng
Bernanke (1953) và Blinder (1988) đã phân tích ảnh hưởng của kênh tín dụng ngân
hàng đến tổng cầu kinh tế thông qua tình trạng cân đối kế toán hay giá trị tài sản ròng
của khách hàng. CSTT của NHTW được thực thi sẽ làm thay đổi giá trị tài sản ròng trên
bảng cân đối cảu doanh nghiệp, điều này kéo theo sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo
đức và ảnh hưởng đến quyết định của ngân hàng về lượng tín dụng cung ứng. Có thể
khái quát sự ảnh hưởng CSTT đến biến động tài sản ròng của doanh nghiệp theo 4
hướng:
Khi NHTW sử dụng CSTT nới lỏng, lãi suất giảm xuống làm tăng giá cổ phiếu của
doanh nghiệp, giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp do đó tăng lên, hạn chế rủi ro lãi suất
cho doanh nghiệp và giảm rủi ro cho ngân hàng, rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch
của ngân hàng giảm xuống. Hoạt động cho vay của ngân hàng được mở rộng sản lượng
và tổng cầu sẽ tăng lên.
M↑→P*↑→Giá trị tài sản ròng ↑→ Lựa chọn đối nghịch↓ và rủi ro đạo đức↓→ Cho
vay↑→ I↑→ Y↑
Ảnh hưởng đến giá trị thị trường tài sản được dùng làm tài sản thế chấp cho các
khoản vay. Lãi suất giảm do CSTT mở rộng sẽ làm tăng giá trị thị trường của tài sản thế
chấp, giảm rủi ro lãi suất cho doanh nghiệp, tình trạng tài chính của doanh nghiệp được
cải thiện, các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng dễ dàng hơn và do
đó lượng tín dụng gia tăng sẽ làm tăng tổng cầu.
Ảnh hưởng qua mức giá cả chung của nền kinh tế CSTT mở rộng làm cho mức giá
cả chung nền kinh tế tăng lên (không dự tính trước được), làm giảm gánh nặng nợ nần
của doanh nghiệp tài sản, giá trị tài sản ròng trên bẳng cân đối tài sản do đó mà tăng lên,
rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch của ngân hàng giảm xuống, khả năng mở rộng tín
dụng gia tăng dẫn đến tăng sản lượng, tổng cầu.
M↑→P↑→ Giá trị tài sản ròng ↑→Lựa chọn đối nghịch ↓→ Cho vay↑→I ↑→Y ↑.
Tình trạng đồng tiền của doanh nghiệp. Các dòng tiền vào (các khoản thu vào) là
nguồn trả nợ chủ yếu cho ngân hàng. CSTT mở rộng, lãi suất giảm xuống làm tăng tính
thanh khoản cho bảng tổng kết tài sản của doanh nghiệp, luồng tiền vào dễ dàng hơn.
Mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp tăng lên, khả năng trả nợ tăng lên. Ngân hàng có thể
mở rộng cho vay, do đó tăng đầu tư và sản lượng. M↑→↓Dòng tiền vào lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức cho vay I Y.
Kênh tín dụng cũng tác động tới tiêu dùng của hộ gia đình với cơ chế chuyển tải
tương tự như trường hợp các doanh nghiệp. Lãi suất thị trường giảm xuống cũng có tác
15
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
dụng làm tăng giá trị tài sản trên bảng cân đối của các hộ gia đình, vì thế khả năng cho
vay của ngân hàng đối với hộ gia đình tăng lên, tổng cầu tăng lên nhờ hệ quả tất yếu của
sự tăng tiêu dùng.
Tuy nhiên, hiệu quả tác động của kênh tín dụng phụ thuộc vào các điều kiện sau:
− Nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp.
Ảnh hưởng của lãi suất đến nhu cầu đầu tư doanh nghiệp trong điều kiện thông tin
bất cân xứng là kém hiệu quả nếu thị trường tài chính phát triển, các doanh nghiệp có thể
tiếp cận nhiều nguồn vốn khác nhau trên thị trường một cách dễ dàng (phát hành trái
phiếu, cổ phiếu, tín dụng thương mại…) hoặc tỷ trọng vốn tín dụng ngân hàng trng tổng
nhu cầu của doanh nghiệp ít. Như đã nói ở trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tỏ ra phản
ứng với biến động lãi suất qua kênh tín dụng mạnh hơn, vì khả năng tiếp cận vốn trên
thị trường tài chính trực tiếp bị hạn chế.
− Sự phát triển của thị trường các công cụ tài chính phái sinh.
Khi lãi suất thay đổi sẽ làm gia tăng giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp, làm giảm
hoặc tăng giá trị tài sản ròng của doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến khả năng thu hẹp
hoặc mở rộng cho vay của NHTM. Tuy nhiên, nếu một thị trường công cụ phái sinh phát
triển (công cụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn…) có thể giúp
doanh nghiệp trang bị bảo hiểm rủi ro cho chính mình, chống đỡ rủi ro lãi suất, khi đó sự
thay đổi lãi suất do tác động của CSTT thông qua kênh tín dụng với thông tin không cân
xứng tỏ ra kém hiệu quả.

16
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Chương 2

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, kênh tín dụng có tác động mạnh trong cơ chế
truyền tải CSTT nếu như trên thị trường tài chính các doanh nghiệp lệ thuộc chủ yếu vào
tín dụng ngân hàng. Quyền lực của ngân hàng trung ương trong việc tác động tới tín
dụng của khu vực ngân hàng thông qua các công cụ CSTT là lớn.
Trong điều kiện thị trường tài chính chưa phát triển như ở nước ta thì tín dụng trở
thành kênh quan trọng trong truyền tải tác động CSTT tới nền kinh tế. Trước khi xem xét
thực trạng truyền dẫn tác động CSTT qua kênh tín dụng, chúng ta sẽ nhìn lại tình hình
thực hiện CSTT trong thời gian qua.
2.1. Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua.
2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
− Mục tiêu cuối cùng của CSTT
Trong thời gian qua NHNN Việt Nam theo đuổi chính sách đa mục tiêu trong đó
các mục tiêu không mâu thuẫn với nhau mà theo quan điểm “ổn định để tăng trưởng” và
“Tăng trưởng trong ổn định”.
Theo điều 2, chương 1, Luật NHNN Việt Nam (tháng 12/1997) CSTT và mục tiêu
cuối cùng của CSTT của Việt Nam được nêu như sau: “CSTT quốc gia là một bộ phận
của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế
lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và
nâng cao đời sống của nhân dân”.
− Mục tiêu trung gian
NHNN Việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh
toán (M2) làm mục tiêu trung gian M2 bao gồm:
+ Lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống Ngân hàng
+ Tiền gửi không kỳ hạn tại các Ngân hàng
+ Tiền gửi có kỳ hạn tiền gửi tiết kiệm ở Ngân hàng
+ Kỳ phiếu do các Ngân hàng phát hành
Nhưng bên cạnh việc sử dụng M2 làm mục tiêu trung gian thì NHNN Việt Nam
cũng sử dụng dư nợ tín dụng làm chỉ tiêu bổ sung.
− Mục tiêu hoạt động
Chỉ tiêu hoạt động của CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua là tổng lượng tiền
cung ứng MB, cụ thể là dự trữ của các NHTM.

17
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
I.2.2. Việc sử dụng các công cụ của CSTT
I.2.2.1. Hạn mức tín dụng
Công cụ hạn mức tín dụng (HMTD) được NHNN Việt Nam sử dụng nhằm khống
chế trực tiếp mức dư nợ tín dụng từ đó kiểm soát tổng lượng tiền trong thời kỳ lạm phát
chưa ổn định và các công cụ gián tiếp chưa được sử dụng. Việc áp dụng công cụ này đã
đạt kết quả nhất định, khống chế được mức tăng dư nợ tín dụng từ 5% (năm 1993) xuống
còn 27,5% (năm 1994). Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã
mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán vì
lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần; mặt khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày
càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Do đó
từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để
điều hành chính sách tiền tệ, mà chỉ sử dụng công cụ này khi cần phải hạn chế sự gia
tăng tín dụng nhanh chóng.
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định, thị trường vốn
phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
I.2.2.2. Tái cấp vốn
Thực hiện công cụ tái cấp vốn, từ năm 1994 đến nay đang từng bước hoàn thiện cơ chế
cho vay các NHTM trên cơ sở bù đắp thiếu hụt thanh toán, đáp ứng nhu cầu thiếu vốn
cho các NHTM để cho vay nền kinh tế; tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm
soát của NHNN, không cung ứng tràn lan như những năm trước đây, qua đó mà NHNN
có thể kiểm soát được lạm phát; việc cho vay thanh toán bù trừ đã hỗ trợ hệ thống thanh
toán giữa các TCTD. Nhưng xét trên giác độ là công cụ CSTT để điều tiết dự trữ của hệ
thống NHTM thì hiệu lực của công cụ tái cấp vốn có những thời điểm còn rất hạn chế do
các NHTM không phụ thuộc vào nguồn vốn của NHNN trong quá trình hoạt động vì họ
luôn có số dự trữ vượt mức cao ở NHNN. Tình trạng thừa vốn kéo dài của các NHTM
cho đến nửa đầu năm 2000 đã làm triệt tiêu tác động của công cụ tái cấp vốn đến MB
qua cả khối lượng và giá. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn không gây hiệu ứng với lãi suất
thị trường và không có tác dụng kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ, sự thay đổi giảm
lãi suất tái cấp vốn trong thời gian qua cũng không làm tăng nhu cầu vay vốn của các
NHTM.
I.2.2.3. Công cụ lãi suất
Trong thời gian qua cơ chế điều hành lãi suất đã từng bước thay đổi theo tự do hóa,
chuyển dần từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp.
Năm 1996, NHNN qui định các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và quyết
định chênh lệch giữa lãi suất cho vay huy động vốn. Đến năm 1998, NHNN xóa bỏ
quyết định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi
được tự do hóa. Từ ngày 5/8/2000 cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng động nội
tệ sẽ thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, TCTD ấn định lãi suất cho vay đối

18
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
với khách hàng trên cơ sở lãi suất cơ bản cộng với một biên độ do Thống đốc NHNN qui
định từng thời kỳ.

Từ ngày 1/6/2002 ngân hàng nhà nước quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất ổn
định Đồng VN của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Đây là một sự “cởi trói” cho
các tổ chức tín dụng trong các hoạt động kinh doanh, tạo điều kiện cho các tổ chức tín
dụng chủ động trong hoạt động huy động vốn và cho vay đối với khách hàng. Cơ chế
mới đã tạo ra sự sôi động trong hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các tổ chức tín
dụng. Nếu như với cơ chế lãi suất cơ bản, trong các đầu năm 2002 lãi suất huy động vốn
dừng lại ở mức 0,6%/tháng, lãi suất cho vay bình quân là 0,7%/tháng, thì từ khi áp dụng
cơ chế lãi suất thỏa thuận từ tháng 6 năm 2002 và nhất là trong các tháng 8 và 9 năm 2002
lãi suất huy động vốn cao nhất của các NHTM lên tới 0,7% thậm chí 0,72% / tháng. Mức
lãi suất cao nhất trong vòng gần hai năm qua, không dừng lại ở đó các tháng đầu năm
2003 do nhu cầu vốn vay trên thị trường vẫn cao các ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng vẫn tiếp tục cuộc cạnh tranh huy động vốn thông qua các biện pháp nâng lãi suất
huy động. Thực hiện các hình thức khuyến mại rầm rộ và hấp dẫn. Đã xuất hiện diễn biến
bất thường trên thị trường tiền tệ Việt Nam là lãi suất nội tệ tăng lên quá cao, trong khi lãi
suất ngoại tệ giảm xuống quá thấp.

Đến tháng 8/2008, trước bối cảnh lạm phát và nhập siêu tăng nhẹ đe dọa đến kinh
tế vĩ mô, cùng các giải pháp thắt chặt tiền tệ, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ
8.24%/năm lên 8.75%, 12%-14%, điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn từ 6.5%/năm, lên
7.5%-13%-15%/năm, lãi suất chiếu khấu từ 4.5%/năm lên 6%; 7% - 13%/năm, lãi suất
cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng được điều chỉnh từ 10.8%/năm
lên 15%/năm. NHNN qui định trần lãi suất huy động ở mức 12% từ 16/2/2008. Đến
ngày 19/5/2008, NHNN điều hành lãi suất theo quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam, theo đó lãi suất huy động và cho vay
tối đã sẽ bằng 150% lãi suất cơ bản. Những tháng cuối năm để hạn chế tác động của
khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, NHNN đã điều chỉnh giảm các loại
lãi suất chỉ đạo. QĐ 16 không phải là bước thắt nút trong xu hướng từ do hóa lãi suất mà
đây là một biện pháp tình thế. Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, có sự điều tiết của Nhà nước (có
thể gọi đó là nền kinh tế hỗn hợp). Việc Nhà nước tham gia điều tiết thị trường tiền tệ là
bình thường. Ngoài ra, là qui định hành chính, khi cần thiết, lãi suất cơ bản được ban
hành (hoặc điều chỉnh) tại thời điểm nhất định nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế
vĩ mô... Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn và chứa đựng nguy cơ xấu
(thâm hụt ngân sách, nguy cơ lạm phát…), sự can thiệp của Nhà nước vào hệ thống tài
chính - tiền tệ vẫn thực sự cần thiết và không thể thay thế.

Hiện nay, có những ý kiến đòi loại bỏ lãi suất cơ bản trong hoạt động tài chính -
tiền tệ phải chăng còn nóng vội, chưa hiểu hết những khó khăn của kinh tế Việt Nam vì

19
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
sau khủng hoảng kinh tế, còn rất nhiều tiềm ẩn rất nhiều khó khăn, tăng trưởng không
bền vững và nguy cơ lạm phát có thể tái diễn. Vì vậy, việc loại bỏ lãi suất cơ bản ngay
lúc này có thể là một biện pháp khá nóng vội, không nên loại bỏ.
I.2.2.4. Công cụ dự trữ bắt buộc
Trong suốt thời gian qua, cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc của NHNN Việt Nam có
nhiều bổ sung, sửa đổi theo hướng vừa đảm bảo việc quản lý của NHNN, vừa tạo sự
thông thoáng cho hoạt động của các ngân hàng, vừa phù hợp với yêu cầu kiểm soát tổng
phương tiện thanh toán.
Cho tới năm 1998, quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tượng áp dụng
được mở rộng thêm (quỹ TDND, NH hợp tác); số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB trước đây: 70%
gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn thanh toán; việc trả lãi tiền
DTBB do Chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999-2002 tỉ lệ DTBB được điều
chỉnh nhiều lần theo xu hướng giảm nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thích đầu tư, tiêu dùng.
Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở rộng tín dụng, giảm
chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn của các NHTM do lãi suất
giảm.
Giai đoạn 2003-2010, công cụ DTTBB đã được điều chỉnh linh hoạt, thận trọng
nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát và góp phận tăng trưởng kinh tế, tùy thuộc
vào từng giai đoạn để có từng bước tăng giảm hợp lý.
Đặc biệt năm 2008, do sự biến động mạnh của nền kinh tế, tiền tệ thế giới trong
nước, công cụ DTBB được sử dụng như một trong các biện pháp hữu hiệu để kiềm chế
lạm phát năm 2008. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008 NHNN điều
chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn. Đồng thời mở rộng diện phải DTBB
đói với loại tiền gửi kỳ hạn từ 24 tháng trở lên (trước đây chỉ bao gồm tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 24 tháng) nhằm nâng cao khả năng điều tiết công cụ DTBB.
Những tháng cuối năm nhằm hỗ trợ các TCTD tăng cường cung ứng vốn cho nền kinh tế
ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN lại điều chỉnh giảm DTBB. Riêng năm 2008, NHNN
đã có tới 3 lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm điều chỉnh linh hoạt thực hiện mục
tiêu chính sách tiền tệ ổn định lạm phát, nhờ tác động này với độ trễ nên năm 2009, lạm
phát đã được kiềm chế ở mức 1 con số là 6.9%
Năm 2009, thực hiện giảm dự trữ bắt buộc, nhằm hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ
chức tín dụng, tạo đều kiện để các tổ chức mở rộng huy động vốn và tín dụng cho nền
kinh tế. Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ giúp các ngân hàng giảm chi phí đầu vào và
cấp tín dụng với giá rẻ hơn cho cá nhân và doanh nghiệp.
Năm 2010 NHNN đã có một quyết định khá táo bạo là giảm tỷ lệ dự trữ ngoại tệ
bắt buộc của các tổ chức tín dụng (TCTD) từ 7% xuống 4%. Quyết đinh này ban hành
vào thời điểm cung cầu ngoại tệ đã giảm nhiệt do một số động thái kịp thời như kết hối

20
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
các tập đoàn, tổng công ty lớn và tỷ giá điều chỉnh mới đã bắt đầu ngấm. Cùng với khả
năng phát hành thành công trái phiếu 1 tỷ USD khá cao thì việc giảm DTBB là một động
thái mạnh mẽ, quyết liệt đã khơi thông một nguồn vốn không nhỏ cho thị trường. Trong
bối cảnh kinh tế thế giới xác định đã qua đáy khủng hoảng thì doanh nghiệp rất khát vốn
để mở rộng sản xuất đón đầu tăng trưởng trở lại.
Có thể nói, NHNN đã đưa ra các chính sách về dự trữ bắt buộc khá phù hợp và kịp
thời. Trách nhiệm còn lại thuộc về các TCTD và các doanh nghiệp. Hy vọng, trong năm
kỷ niệm đại lễ nghìn năm Thăng Long, con rồng nhỏ Việt Nam sẽ sớm vươn mình cất
cánh mạnh mẽ.
I.2.2.5. Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) bắt đầu được sử dụng ngày 12/7/2002 và sau
hơn 8 năm hoạt động đã đạt được những thành công nhất đinh:
− Số lượng các thành viên tham gia vào thị trường tăng lên. Khi mới đi vào hoạt động,
số thành viên tham gia mới là 4 thì tới nay đã có 22 TCTD được công nhận là thành viên
tham gia NVTTM.
Tần suất và khối lượng trúng thầu tăng dần qua các năm. Khi thị trường mở mới đi
vào hoạt động thì khoảng cách này là 10 ngày/phiên. Từ tháng 1/2001 tới tháng 2/2002
là 1 tuần một phiên và từ tháng 5/2002 trở tăng lên 2 phiên mỗi tuần, . Từ tháng 11/2004,
NHNN đã tăng định kỳ giao dịch lên 3 phiên/ tuần và đến nay mỗi ngày có từ 2 đến 3
phiên giao dịch, đến ngày 21/12/2009 cho tới nay là 2 phiên/ngày
− Trong tháng 2/2010, do khó khăn thanh khoản hệ thống ngân hàng, thị trường biết
đến lượng vốn mỗi ngày Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ qua thị trường mở có từ 12.000 –
15.000 tỷ đồng; nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường 2 phiên/ngày, chứng tỏ công
cụ tiền tệ được sử dụng linh hoạt, có thể kiểm soát được tình hình vốn khả dụng của các
NHTM.
NHNN khẳng định: Sẽ tiếp tục triển khai các nghiệp vụ TTTT một cách hiệu quả,
linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đảm bảo nhu cầu thanh khoản cho các TCTD và an
toàn hệ thống. Trên cơ sở đó, Ban Điều hành Thị trường mở sẽ xem xét sử dụng các
phương thức đấu thầu khối lượng, lãi suất với các kỳ hạn phù hợp, đồng thời tăng cường
tính hiệu quả của thị trường liên ngân hàng. NHNN sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy chế,
quy trình nghiệp vụ TTTT, phối hợp với Trung tâm lưu ký Chứng khoán trong việc lưu
ký Giấy tờ có giá để các hoạt động TTTT diễn ra thuận lợi nhất, hỗ trợ tối đa cho các
TCTD.
I.2.2.6. Tỷ giá hối đoái.
Luật NHNN năm 1997 coi tỷ giá hối đoái là công cụ CSTT. Tỷ giá hối đoái của
đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều
tiết của nhà nước, NHNN xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam. Thời
gian qua với sự chỉ đạo sát sao của Thường trực Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của
các Bộ, Ngành, NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt, thực hiện được các mục tiêu của
21
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
chính sách tỷ giá, đảm bảo thanh khoản ngoại tệ của hệ thống ngân hàng, góp phần thúc
đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
Can thiệp thị trường ngoại hối với mức tỷ giá mua vào và bán ra được điều chỉnh
linh hoạt, kịp thời bán ngoại tệ để can thiệp, hạ nhiệt thị trường khi thị trường dư cầu và
mua ngoại tệ vào ở mức hợp lý, nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế nhập siêu trong thời
điểm dư cung ngoại tệ.CSTT và chính sách tỷ giá được điều hành, phối hợp đồng bộ. Lãi
suất VND tăng trong lãi suất USD giảm đã tạo sự hấp dẫn cho tiền đồng, góp phần ổn
định tỷ giá.
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường biến động phức tạp, có
những thời điểm biến động đột biến, NHNN kịp thời bám sát diễn biến trên thị trường,
thường xuyên theo dõi cập nhật thông tin và đánh giá các dòng vốn vào, ra để có chính
sách điều hành tỷ giá thích hợp.

I.2.3. Hiệu quả CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua.
Từ năm 1997, việc điều hành CSTT của NHNN thu được một số thành công nhất định.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%/năm) Tỷ lệ lạm phát (%/năm)


Năm
Mục tiêu Thực hiện Mục tiêu Thực hiện
1997 9 - 10 8.8 <10 3.6
1998 8.5 - 9 5.8 7 -8 9.2
1999 5–6 4.8 <10 0.1
2000 5.5 – 6 6.8 6 -0.6
2001 7.5 – 8 6.89 <5 0.8
2002 7 – 7.5 7.08 <5 4.0
2003 7.5 7.34 <5 3.0
2004 7.8 7.79 <5 9.5
2005 8-9 8.43 <6.5 8.4
2006 8-9 8.01 6-7 6.6
2007 8.2-8.5 8.24 <8.5 12.6
2008 8.5-9 6.21 <9 20.0
2009 <8 5.2 <10 8.6
2010 (dự kiến) 6.5 - 10 -
Nguồn: Cục thống kê.
− Từ năm 1997, NHNN thực hiện CSTT nới lỏng góp phần thực hiện chương trình
kích cầu của chính phủ, khôi phục tăng trưởng kinh tế và khắc phục tình trạng thiểu phát.
Giai đoạn 2002-2007 với những chuyển biến mạnh mẽ trong hoạt động kinh tế ngân
hàng, CSTT góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Tốc độc tăng trưởng kinh tế năm
2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 là 7,08%, 7,34%,7.79%, 8.43%, 8.01%, 8.24% ),
lạm phát đã tăng lên đảm bảo chỉ tiêu đề ra (lạm phát năm 2002, 2003, 2004, 2005, 2006
là 4%, 3%, 3%, 6.5%, 6.6%)
− Việc điều hành CSTT đã thực hiện theo hướng chuyển từ sử dụng các công cụ trực
tiếp sang các công cụ gián tiếp. Chấm dứt việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng từ

22
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
năm 1998, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động từ tháng 7/2000, công cụ tỷ giá
được sử dụng linh hoạt… Các công cụ được phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ.
− CSTT đã góp phần kiềm chế tình trạng đôla hóa, đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng
thường xuyên và đột biến của TCTD.
Song không phải lúc nào hiệu quả CSTT cũng đạt như mong muốn và việc điều hành CSTT
cũng đạt như mong muốn và việc điều hành CSTT trong thời gian qua vẫn còn một số hạn chế
nhất đinh:
− Trong giai đoạn 1999-2001, mặc dù lượng tiền cung ứng tăng lên nhiều song hiệu
quả CSTT không đạt được như mong muốn (Trong khi tốc độ tăng M2 trong các năm
1999, 2000, 2001 lần lượt là 39,3%, 39%, 28.3% thì tốc độ tăng GDP tương ứng chỉ là
4.8%, 6.8%, 6.8%).
− Trong năm 2007, mục tiêu lạm phát là dưới 10% nhưng thực tế lạm phát đã đạt tới
hai con số là 12.6%
− Việc dự báo cung cầu vốn khả dụng để xác định liều lượng và chiều hướng tác
động CSTT chưa chính xác. Hoạt động nghiệp vụ thị trường mở thiếu chủ động, số
lượng giao dịch thực tế chênh lệch xa so với số lượng giao dịch mục tiêu.
− Can thiệp của NHNN chủ yếu là thụ động khắc phục những mất cân đối của thị
trường nên nhiều khi không theo đuổi được mục tiêu hoạt động của mình.
2.3. Thực trạng cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng.
I.2.4. Tác động truyền tải qua kênh tín dụng ngân hàng.
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của hội nhập quốc tế, các chủ thể kinh doanh
phải đương đầu với nhiều thách thức mới. Trong hoàn cảnh như vậy TDNH trở thành
mắt xích trọng yếu của hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó do thị trường vốn còn non yếu
chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế nên kênh tính dụng ngân hàng trở
thành kênh truyền dẫn trong đó CSTT quan trọng và phổ biến. Kênh tín dụng ảnh hưởng
làm tăng tiền gửi từ đó ảnh hưởng tới khối lượng cho vay của các ngân hàng và cuối
cùng trong đó tới những mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Trong những năm gần đây, CSTT thực hiện theo hướng mở rộng để thực hiện
chương trình kích cầu của Chính phủ. Khi thực hiện CSTT nới lỏng, lượng tiền gửi vào
ngân hàng sẽ tăng lên từ đó ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay, kích thích đầu tư, tín
dụng và kết quả là kinh tế tăng trưởng. Song không phải lúc nào CSTT cũng đạt được
như mong muốn, có khi tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với lượng tiền cung
ứng tăng thêm. Vì sự truyền dẫn ảnh hưởng từ sự tăng M2 tới tăng trưởng kinh tế là một
quá trình phụ thuộc.
Bảng 2: Diễn biến tốc độ tăng M2, huy động vốn, dư nợ cho vay, GDP, lạm phát.
Năm Tốc độ Tốc độ Tốc độ Tăng Tốc độ Chỉ số
tăng M2 tăng tiền tăng trưởng tăng lạm phát
gửi ngân trưởng tín vốn đầu trưởng
hàng dụng tư toàn GDP

23
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
XH
1997 26.1 34.3 22.6 68.8 3.6
1998 23.9 30.5 16.4 0.48
5.8 9.2
1999 39.3 34 19.2 84.8 0.1
2000 39 43.2 38.1 14.6
6.8 -0.6
2001 28.3 24.5 21.1 12.8
6.89 0.8
2002 26.4 29.22 22.2 17.4
7.08 4.0
2003 20.5 22.7 28.41 19.5
7.34 3.0
2004 29.8 30.39 41.65 21.6
7.79 9.5
2005 29.65 26.86 31.1 17.9
8.43 8.4
2006 33.6 36.53 25.4 17.9
8.01 6.6
2007 46.12 45.84 53.89 31.4
8.24 12.6
2008 20 23.33 23.38 14.8
6.21 19.9
2009 28.67 28.6 37.53 155.2 6.8
2010(dự
25 25 6.5 10
kiến)
Nguồn: Báo cáo thường niên NHNN Việt Nam các năm và thông tin NHNN cung cấp
Nhìn vào bảng ta thấy:
− Giai đoạn 1997-2000: Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, để khôi
phục đà phát triển kinh tế NHNN đã thực hiện CSTT mở rộng (đặc biệt là năm 1999 tốc
độ tăng M2 cao tới 39.3%) nhằm thực hiện chương trình kích cầu của chính phủ tới hàng
loạt các tín hiệu thông báo chiều hướng duy trì điều kiện thuận lợi của NHNN là giảm lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi nội tệ cũng giảm
(1999-2003) song hiệu quả CSTT không đạt được như mong muốn. Trong giai đoạn
1999-2000, khi lượng tiền cung ứng tăng ở mức độ cao (năm 1999: 39,3%, năm 2000:
39%) thì tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp (năm 1999: 4,8%, năm 2000: 6,8), mức lạm
phát cũng rất thấp, đây là giai đoạn thiểu phát của nền kinh tế.
− Giai đoạn 2001-2007, trong khi GDP tăng tương ứng 7,5%/năm thì cung tiền được
mở rộng đạt mức bình quân rất cao với mức 26,7% năm. Chính điều này là yếu tố gây
nên mức lạm phát cao chưa kể độ trễ và lũy tích của việc tăng cung tiền đối với nền kinh
tế trong các năm kế tiếp, đây là giai đoạn bùng phát lạm phát trên 20% ở năm 2008. Đặc
biệt vào năm 2006 là năm trước khi bùng nổ lạm phát, tốc độ mở rộng cung tiền đạt tới
đỉnh điểm 33,6% và cùng với các yếu tố khác đã góp phần làm tăng lạm phát trong năm
kế tiếp. Kết quả là lạm phát dường như ngoài tầm kiểm soát trong những tháng cuối năm
2007 và đầu năm 2008 và gây nên những ảnh hưởng tới quá trình tăng trưởng bền vững
của nền kinh tế.
− Sự gia tăng của lạm phát có liên quan đến tăng trưởng cung tiền và tín dụng trong
những năm gần đây. Tăng trưởng cung tiền M2 luôn lần lượt duy trì ở mức khoảng 30%
kể từ năm 2004, đặc biệt tăng vọt lên khoảng 50% vào năm 2007. Cung tiền chính là một
trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho lạm phát ở Việt Nam trở nên “vượt trội”
so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn như vào thời điểm tháng 6/2007, lượng tiền

24
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới 21,1% so với đầu năm
như các con số tương ứng của Trung Quốc và Thái Lan lần lượt chỉ là 10% và 1,4%.
− Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6/2007, GDP của Việt
Nam tăng 22%, nhưng mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng
lên đến 110%. Trong khi đó, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ
tăng 50%.
Việc điều hành cung tiền ở Việt Nam nhiều năm qua, các cơ quan chức năng luôn
thể hiện sự chậm trễ, thiếu nhất quán. Ví như tại những tháng đầu năm 2008, khi lạm
phát tăng liên tiếp và tăng mạnh thì các nhà hoạch định chính sách tiền tệ lại loay hoay
giữa việc hút tiền về thông qua bán trái phiếu và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, với việc bơm
tiền ra trước đòi hỏi đáp ứng thanh khoản của các ngân hàng thương mại và mua vào
ngoại tệ nhằm duy trì tỷ giá. Những hành động này một mặt khiến cho các doanh nghiệp
và các cá nhân trong nền kinh tế gặp khó khăn trong công tác dự báo và lập kế hoạch sản
xuất kinh doanh, mặt khác đẩy kỳ vọng lạm phát lên cao.
Tổng phương tiện thanh toán và dự nợ tín dụng đang ở mức cao bắt nguồn từ việc
nới lỏng chính sách tiền tệ mà nhất là việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất. Mức tăng cao
này ảnh hưởng không thuận lợi tới việc kiểm soát lạm phát và ổn định lãi suất thị trường
trong năm 2009 và sẽ còn kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động chính sách tiền
tệ. Khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng theo đánh giá của Ngân hàng Nhà
nước vẫn được đảm bảo và đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán của nền kinh tế. Đến hết
tháng 10/2009, vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng tăng 31,09%, tổng
tài sản tăng 26,49% so với cuối năm 2008. Chênh lệch thu - chi tăng 53,09% so với cuối
năm 2008 và dư nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 2,2% tổng dư nợ cho vay, tăng nhẹ so
với tỉ lệ nợ xấu năm 2008 là 2,17%.
Nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2010 là ổn định kinh tế vĩ mô, nâng mức tăng
trưởng của nền kinh tế lên 6,5% và đảm bảo an sinh xã hội là ba mục tiêu chính trong
năm 2010. Trong đó có trách nhiệm lớn và ở chừng mực nào đó có yếu tố quyết định của
ngành ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước theo đó phải làm tốt vai trò của ngân hàng Trung
ương, vừa tham mưu vừa điều hành chính sách tiền tệ và các ngân hàng thương mại cũng
phải tham gia nhằm đạt các mục tiêu này.
Kế hoạch hành động trong năm 2010 theo Ngân hàng Nhà nước thông báo là: giảm
mức tăng tổng phương tiện thanh toán và dự nợ tín dụng đối với nền kinh tế xuống còn
25% so với cuối năm 2009; định hướng điều hành lãi suất và tỉ giá ở mức hợp lý, phù
hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, đảm bảo ổn định hoạt động và an toàn hệ thống; Ngân
hàng Nhà nước cũng sẽ áp dụng biện pháp điều hành cung ứng tiền chặt chẽ và thận
trọng. Các mức lãi suất cơ bản, tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu cũng được điều chỉnh
linh hoạt để kiểm soát mặt bằng lãi suất thị trường ở mức hợp lý và thực dương, tạo điều
kiện cho việc huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng.

25
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Tỉ giá liên ngân hàng cũng sẽ được điều chỉnh phù hợp với tín hiệu thị trường theo
hướng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu và hỗ trợ tăng trưởng bền vững.
Tác động của M2 tới biến số kinh tế vĩ mô qua kênh tín dụng là một quá trình được
diễn ra như sau:
I.2.4.1. Tác động của lượng tiền cung ứng tới tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng.
− Khi tăng M2 thì tiền gửi vào ngân hàng tăng lên.
Đồ thị 1: Mối quan hệ tăng mức cung tiền
M2 và tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng

50
40
30
%

20
10
0
97

98

99

00

01

02

03

04

05

06

07

08

09

10
19

19

19

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20
năm

M2 Tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng

Nhìn vào đồ thị ta thấy M2 và tiền gửi ngân hàng tăng cùng chiều hướng và gần
như hoàn toàn trùng khớp với nhau.
Từ năm 1997 khi ngân hàng thực hiện CSTT mở rộng thì vốn tiền gửi cũng tăng
lên hàng năm, năm 2000 tốc độ tăng là 43.2%. Năm 2000 có tốc độ vốn tiền gửi tăng cao
như vậy là do lãi suất tiền gửi thực sự hấp dẫn người gửi tiền, công tác huy động vốn của
TCTD thực hiện tốt.
Sang năm 2001, tốc độ tăng vốn tiền gửi giảm mạnh chỉ có 24.5%. Vì năm 2001 thị
trường bất động sản sôi động, việc đầu tư vào bất động sản đem lại lợi tức cao hơn lợi
tức từ tiền gửi ngân hàng. Hoặc việc đầu tư vào cổ phiếu (với lợi tức từ 10-15%) cũng
hấp dẫn hơn gửi tiền vào ngân hàng (lãi suất cao nhất với VND là 8%/năm, với USD là
3.5%/năm).
Năm 2002, tốc độ vốn tiền gửi tăng lên 29.22% là do lãi suất huy động vốn của
ngân hàng đã tăng lên. Sang năm 2003 với hàng loạt các biện pháp của NHNN trong
việc điều chỉnh lãi suất thì tới cuối năm (tháng 8/2003) lãi suất hoạt động đã giảm xuống
nên tốc độ tăng vốn tiền gửi thấp đi (chỉ còn 22.7%). Năm 2004, không như các năm
trước, lượng vốn đầu tư vào bất động sản đã giảm đáng kể, trong khi hoạt động sản xuất
kinh doanh vẫn chưa sôi động, do vậy dân tạm gửi tiền vào NH để hưởng lãi. Xu hướng
phổ biến là gửi ngắn hạn. Do tiền gửi ngân hàng tăng mạnh nên hầu hết NH đều trong
tình trạng thừa vốn. Lượng tiền gửi ngân hàng tăng mạnh nhất là vào năm 2007 do trong
xã hội lượng cung tiền rất lớn, hoạt động NH đổi mới mạnh mẽ tạo lòng tin cho khách
hàng, cho người gửi tiền, dịch vụ phát triển đa dạng. Đồng thời cũng cho thấy, người dân
ngày càng có thói quen gửi tiền vào NH vừa hưởng lãi, vừa an toàn.

26
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Nguyên nhân vốn huy động của các tổ chức kinh tế tăng nhanh do nhiều DN thực
hiện IPO, số vốn thu về lớn nhưng chưa sử dụng đến, tạm thời gửi NH. Một số DN bán
cổ phần cho cổ đông chiến lược, phát hành cổ phần tăng vốn... quỹ thặng dư vốn và số
vốn điều lệ tăng thêm chưa đầu tư được cũng tạm thời để trong tài khoản tiền gửi tại
NHTM.
Nhiều DN trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu tiền sử dụng đất, tiền bán căn
hộ, tiền bán nhà xây thô... của khách hàng, chưa sử dụng đến cũng tạm thời gửi NH. Quỹ
đầu tư chứng khoán, vốn của các nhà kinh doanh chứng khoán, vốn chuẩn bị thành lập
mới NHTM cổ phần, công ty tài chính cổ phần, công ty chứng khoán... chưa đi vào hoạt
động tạm thời để trên tài khoản tại NH được lựa chọn. Trong số đó có cả vốn phát hành
trái phiếu chưa giải ngân được cũng để trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Năm 2008 , tốc độ tăng tiền gửi giảm xuống chỉ còn 23.33% do các nguyên nhân:
Một là, do thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, các ngân hàng thương mại bị khống chế
hạn mức tín nên các doanh nghiệp, đông đảo khách hàng khác rất khó vay được vốn
ngân hàng. Bởi vậy các doanh nghiệp giảm tiền gửi của mình để chuyển sang sử dụng
cho đầu tư. Một số doanh nghiệp cho đối tác kinh doanh của mình vay. Các tập đoàn
cũng sử dụng vốn tiền gửi của mình để cho các đơn vị thành viên, công ty con vay,...
Bên cạnh đó, người dân, doanh nghiệp tư nhân,... cũng giảm tiền gửi của mình để cho
người thân trong gia đình, bạn bè, đầu mối bạn hàng vay kinh doanh, đầu tư, thanh
toán,... Hai là thị trường chứng khoán sụt giảm, giá cổ phiếu trên thị trường OTC xuống
quá thấp, hàng loạt nhà đầu tư thua lỗ, thụt vốn. Bởi vậy tiền của các nhà đầu tư gửi tại
ngân hàng thương mại cũng sụt giảm theo. Ba là một lượng đáng kể tiền của người dân
được đầu tư vào vàng.
Năm 2009, Những đợt tăng lãi suất huy động VND liên tiếp giữa các ngân hàng
thương mại khiến tổng số dư tiền gửi của khách hàng tăng lên, đồng thời với thị trường
chứng khoán, bất động sản kết hợp với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã
gây một tâm lý bất an cho khách hàng. Việc gửi tiền vào ngân hàng là một lựa chọn an
toàn và phù hợp nhất.
I.2.4.2. Tác động của tiền gửi ngân hàng đến tăng trưởng tín dụng.
Vốn tiền gửi là vốn cơ bản để gửi ngân hàng thực hiện cho vay. Do đó tỷ lệ vay nền
kinh tế trên vốn tiền gửi cao chứng tỏ hiệu suất sử dụng VTG cao.

27
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Đồ thị 1: Mối quan hệ tăng tiền gửi ngân hàng và tăng
trưởng tín dụng

60
%
40

20

0
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng


Tốc độ tăng trưởng tín dụng

Nguồn báo cáo thường niên NHNN các năm 1997-2009


Từ năm 1997-1999, trong khi tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng cao (1997: 34.3%,
1998: 30.5%, 1999:34%) thì tốc độ tăng dư nợ cho vay nền kinh tế thấp (1997: 22.6%,
1998:16.4%, 1999: 19.2%). Vậy rõ ràng trong giai đoạn này các ngân hàng bị ứ đọng
vốn. Nguyên nhân ở đây do nền kinh tế hấp thụ vốn kém, hậu quả của cuộc khủng hoảng
tài chính năm 1997. Riêng năm 1999, tốc độ tăng VTG rất cao (34%) thì tăng trưởng tín
dụng chỉ tăng có 19.2%. Chính vì vậy mà tốc độ tăng GDP rất thấp 4.8%. Vậy hiệu suất
sử dụng vốn tiền gửi của ngân hàng đã ảnh hưởng tới hiệu quả truyền dẫn trong đó
CSTT qua kênh tín dụng.
Từ năm 2000 trở đi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và tốc độ tăng tiền gửi ngân hàng
chênh lệch không đáng kể, hiệu suất sử dụng tiền gửi ngân hàng của ngân hàng tăng lên.
Nhưng lại xảy ra hiện tượng thiếu vốn VND để cho vay trong khi lại thừa vốn ngoại tệ.
Nguyên nhân là do lãi suất VND giảm thấp khiến dân chúng chuyển từ tiền gửi bằng
VND sang gửi tiền bằng USD thậm chí họ đi vay VND để mua USD.
Năm 2004 tốc độ tín dụng tăng lên 41.65% là do nhu cầu vốn cho nền kinh tế tiếp
tục trong trong khi thị trường chứng khoán Việt Nam chưa phát triển, cho vay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… tăng lên; lãi suất huy động
tương đối ổn định kích thích đầu tư.
Và đỉnh điểm, tốc độ tăng trưởng tín dụng tăng cao nhất là 2007, tăng lên đến
53.89% so với năm 2006 chỉ 25.4%. Tăng trưởng tín dụng cao nguyên nhân là do những
năm trước, luồng vốn tín dụng chủ yếu đổ vào các ngành quan trọng trong sự tăng
trưởng kinh tế như hạ tầng, công nghiệp, thương mại-dịch vụ, xuất khẩu…đến năm 2007
đã có sự chuyển dịch đáng kể vốn sang các lĩnh vực khác như: đầu tư kinh doanh CK,
BĐS, vàng và cho vay tiêu dùng. Những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nguyên nhân của
sự chuyển dịch luồng vốn tín dụng thì có nhiều, nhưng nguyên nhân chính vẫn là do

28
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
TTCK phát triển mạnh tạo điều kiện cho các DN huy động vốn, nhất là vốn trung-dài
hạn qua phát hành CP và trái phiếu, giảm vay vốn NH. Vì vậy, trước sức ép về lợi nhuận
và cạnh tranh buộc các NH phải mở rộng cho vay.
Năm 2008, tăng trưởng tín dụng là 23.38%, thấp hơn so với mức tăng 53.89% của
năm 2007. Nguyên nhân là do: Thứ nhất: tín dụng năm 2007 tăng quá nóng, căng thẳng
vốn khả dụng và thanh khoản, hoạt động của các ngân hàng thương mại bắt đầu xuất
hiện hiện tượng khan hiếm tiền VND. nên ngân hàng hạn chế cho vay. Thứ hai: rào cản
lãi suất cao, mức lãi suất lên đến 24% - 25% đối với VND trở thành một thách thức lớn
đối với khả năng sinh lời của các doanh nghiệp vay vốn, cũng như hạn chế khả năng tiếp
cận. Thứ ba, khó khăn từ thị trường chứng khoán và bất động sản dẫn tới sự thận trọng
và hạn chế cho vay của các ngân hàng thương mại. Thứ tư: Nhằm mục tiêu kiềm chế lạm
phát, Ngân hàng Nhà nước “chốt” mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm ở mức 30%
không cho tăng trưởng tín dụng quá nóng như năm 2007.
Năm 2009, tốc độ tăng trưởng tín dụng là 37.73%. Con số trên đã vượt mục tiêu
tăng trưởng tín dụng 30% đề ra cho cả năm. Ngân hàng Nhà nước lý giải: “Do tác động
của các giải pháp kích thích kinh tế, nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp, hộ sản xuất
tăng cao, kéo theo tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng ở mức cao.”NHNN cho
rằng, huy động vốn của các tổ chức tín dụng đã gặp nhiều khó khăn trong năm qua, ảnh
hưởng đến khả năng cân đối vốn của các tổ chức tín dụng. Lãi suất huy động tăng cao
trong khi trần lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản làm chênh lệch giữa lãi
suất huy động và cho vay bị thu hẹp, gây khó khăn cho việc trích lập dự phòng rủi ro và
ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Việc nới lỏng chính sách
tiền tệ, nhất là thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất khiến cho tổng phương tiện thanh toán và
dư nợ tín dụng đang ở mức cao, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiểm soát lạm
phát, ổn định lãi suất thị trường trong năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ
của tác động chính sách tiền tệ.
Năm 2010 dư nợ tín dụng 5 tháng đầu năm tăng mạnh và ước đạt 10.52%. Theo
Ngân hàng Nhà nước (NHNN), so với tháng trước, dư nợ tín dụng trong tháng 6 ước
tăng khoảng 3,06%, mức cao nhất kể từ đầu năm. Đây là tín hiệu chứng tỏ các NH bắt
đầu mở rộng tín dụng để đạt mức tăng trưởng theo chỉ tiêu cả năm 25%.
Báo cáo của NHNN cũng cho thấy, không chỉ tín dụng tăng mạnh, tổng nguồn vốn
huy động của toàn hệ thống ngân hàng 6 tháng đầu năm ước tăng 10,82%, tổng phương
tiện thanh toán ước tăng 9,6%.
Đối với những diễn biến lãi suất trên thị trường thời gian qua, NHNN khẳng định,
từ cuối tháng 5, mặt bằng lãi suất huy động kỳ hạn trên 3 tháng tăng chủ yếu do sức ép
tăng huy động vốn để cho vay. Việc giảm lãi suất thị trường đang gặp khó khăn do lãi
suất huy động chưa được giảm thời gian trước và chênh lệch lãi suất của các NH thương
mại không cao (khoảng 2,5%), nên lãi suất cho vay chưa có điều kiện để giảm xuống
mức lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ.

29
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
NHNN Việt Nam sử dụng M2 làm mục tiêu trung gian nhưng cũng sử dụng dư nợ
tín dụng làm chỉ tiêu bổ sung. Về mặt lý thuyết khi M2 tăng thì dư nợ tín dụng tăng
song NHNN Việt Nam kiểm soát cả hai chỉ tiêu trên.
Một vấn đề liên quan đến ảnh hưởng của MS tới tốc độ tăng trưởng tín dụng là sự
phát triển của thị trường tín dụng. Thực trạng thị trường tín dụng ở nước ta trong thời
gian qua vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập là: Thị trường tín dụng chưa quán xuyến
được toàn bộ nhu cầu vốn qua kênh tín dụng ngân hàng với nền kinh tế dẫn đến tồn tại
hình thức cho vay nặng lãi, cơ cấu vốn chưa phù hợp, ranh giới giữa thị trường tín dụng
thương mại và tín dụng ưu đãi chưa rõ ràng gây ảnh hưởng tới sự lành mạnh của thị
trường, khuôn khổ pháp lý chưa thực sự rõ ràng cơ chế chính sách chưa hoàn thiện.

I.2.4.3. Đánh giá tác động của tín dụng đến đầu tư
Khi lượng tiền cung ứng tăng lên, tiền gửi vào ngân hàng tăng từ đó ngân hàng mở
rộng hoạt động cho vay, kích thích đầu tư, tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đồ thị 2: Mối quan hệ tốc độ tăng


trưởng tín dụng và đầu tư

60
50
40
30
%

20
10
0
1997
1998

2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
1999

năm

Tốc độ tăng trưởng tín dụng Tăng trưởng đầu tư toàn XH

Nhìn vào đồ thị ta thấy tốc độ tăng vốn đầu tư tăng tương ứng với tốc độ tăng
trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 1997-2002, tốc độ tăng trưởng đầu tư toàn xã hội còn
thấp, do ở giai đoạn này các doanh nghiệp Việt Nam phụ thuộc phổ biến vào vốn vay
ngân hàng để đầu tư phát triển. Lúc này ở Việt Nam chưa thị trường chứng khoán còn rất
sơ khai, việc phát hành trái phiếu của các DN Việt Nam trong giai đoạn này hầu như
chưa có, việc tiếp cận vốn nước ngoài của các doanh nghiệp cũng khó khăn. Theo báo
cáo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2000 có khoảng 7% doanh nghiệp tiếp cận được
nguồn vốn vay nước ngoài, khoảng 50% doanh nghiệp tư nhân tiếp cận nguồn vốn vay
khác không phải ngân hàng để đầu tư. Mặt khác, một lý do làm cho doanh nghiệp phụ

30
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
thuộc nhiều hơn vào vốn vay ngân hàng là ở Việt Nam lúc đó chưa có hệ thống định
mức tín dụng hiệu quả. Thông tin tài chính doanh nghiệp khá hạn chế và chuẩn mực kế
toán của Việt Nam chưa hoàn thiện, do vậy các Ngân hàng thường dựa vào các chỉ tiêu
định tính để xem xét cấp tín dụng. Tình trạng này là điều kiện “hiệu ứng khóa chặt” và
mối quan hệ lâu dài với ngân hàng là một lợi thế cho các doanh nghiệp để được vay vốn.
Ngoài ra, một đặc điểm nữa của các doanh nghiệp Việt Nam là vốn tự có rất nhỏ bé, nhất
là các doanh nghiệp nhà nước số vốn chủ sở hữu chiếm khoảng 25% trong tổng nguồn
vốn hoạt động.
Tình hình trên cho thấy, tín dụng ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

Giai đoạn 2003-2010, ngoài nguồn vốn huy động từ tín dụng có thêm nhiều nguồn
vốn mới như nguồn vốn đầu tư nước ngoài FDI, FII (xem bảng cán cân vốn của Việt
Nam năm 2005-2008). Giai đoạn này tốc độ vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao.

Đặc biệt tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2007 là tăng cao nhất, đây là năm đầu
tiên nước ta trở thành thành viên WTO, mở ra nhiều thời cơ và cơ hội mới, dòng vốn đầu
tư nước ngoài tăng mạnh. Năm 2007, cả nước đã thu hút được 20,3 tỷ USD vốn đầu tư
đăng ký, tăng 69,3% so với năm trước, vượt 53,2% kế hoạch dự kiến cả năm (13 tỷ
USD). Con số này đã vượt qua kỷ lục 12 tỷ USD của năm 2006 để trở thành kỷ lục lớn
nhất từ trước đến nay. Nguồn vốn này gây một thách thức giải ngân vốn đầu tư nước
ngoài cho năm 2008.

31
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Đó mới chỉ là tốc độ tăng vốn đầu tư, để xem xét được hiệu quả hoạt động đầu tư
thì phải xem xét tới hệ số ICOR

Nguồn: Tổng cục thống kê.


Hệ số ICOR là tỷ lệ đầu tư phát triển toàn xã hội so với tốc độ phát triển GDP. Hệ
số thấp và giảm thể hiện hiệu quả cao và tăng, hệ số cao và tăng thể hiện hiệu quả đầu tư
thấp và giảm. Gần đây, hiệu quả vốn đầu tư thấp hệ số ICOR tương đối cao. Vậy rõ ràng
hiệu quả đầu tư còn thấp là do môi trường đầu tư không thuận lợi, chất lượng tín dụng
kém.
Ngay từ năm 2007, khi hệ số ICOR của Việt Nam dừng ở mức 5-6, đã có những
cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt
Nam. Nền kinh tế nước ta là tăng trưởng kém chất lượng. Hệ số ICOR của nước ta trong
các năm 2001-2007 là 5,2 nghĩa là cần 5,2 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP,
cao gấp rưỡi đến gấp hai nhiều nước xung quanh trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Các
nước làm giỏi, ICOR của họ thời kỳ đầu công nghiệp hóa là trên dưới
Tăng trưởng GDP và ICOR một số quốc gia Đông Á

Đến 2008, chỉ số ICOR Việt Nam lại vượt ngưỡng, lên mức 6,66. Và năm 2009,
một lần nữa, chỉ số ICOR ở mốc mới. Theo tính toán của Ủy ban Tài chính và Ngân sách
của Quốc hội, hệ số ICOR năm 2009 của Việt Nam đã lên tới 8, mức cao nhất từ trước
tới nay. So với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng 17,5%. Những nỗ lực của
chúng ta trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như
mong muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn. Điều này đồng nghĩa với việc trong
cuộc "so găng" với các đối thủ trong khu vực, với thể trạng kinh tế yếu như hiện nay, nếu

32
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
các nước chỉ cần một lần có thể nhấc được mục tiêu, thì Việt Nam phải tốn sức gấp đôi,
thậm chí gấp ba.
Để đảm bảo hiệu quả đầu tư, có hai yếu tố cân nhắc: đầu tư đúng đối tượng, và môi
trường kinh doanh liên tục được cải thiện (tính cạnh tranh) để tiền rót vào được sử dụng
hiệu quả. Đáng tiếc, soi vào thực tế Việt Nam, cả hai yếu tố đó đều có vấn đề. Việt Nam
thực hiện chính sách kích cầu, nhưng thực chất lại dùng kích cung để thông qua đó hy
vọng đẩy cầu lên. Cầu có thật thì cung mới có thật. Trong bối cảnh khủng hoảng, các DN
co cụm, kích cung chỉ có thể mang lại hiệu quả giới hạn. Rút cuộc, bỏ ra lượng vốn lớn,
nhưng chúng ta không tăng được sự linh hoạt của thị trường, kéo theo đó là hiệu quả đầu
tư giảm đi.
Đặc biệt, đối tượng thụ hưởng chính của các chính sách kích cầu của Chính phủ là
khối các Doanh nghiệp nhà nước, khu vực vốn được nhiều ưu đãi và gây nhiều quan ngại
cho các kinh tế gia Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, vốn
đầu tư của Nhà nước chiếm khoảng gần nửa tổng vốn đầu tư toàn xã hội (41 - 46%)
trong giai đoạn 2006 - 2010. Hiệu quả vốn đầu tư của khu vực nhà nước không cao mà
các biểu hiện là đầu tư dàn trải, thất thoát, lãng phí, sử dụng vốn kém hiệu quả, chậm
tiến độ thi công, nợ đọng vốn xây dựng cơ bản, các doanh nghiệp nhà nước lớn đầu tư
vào các ngành không thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính đã trở thành một nguy cơ
ngày càng lớn.Như vậy làm cho hệ số ICOR tăng cao.
Với những bất cập như vậy, cần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, chống thất thoát và
chống tham nhũng trong các dự án cần: Tránh đầu tư dàn trải, tình trạng nôn nóng, đầu
tư kiểu phong trào, đầu tư chủ quan duy ý trí để tạp sự hấp dẫn thực sự cho nền kinh tế
Việt Nam.
Hiệu quả CSTT phụ thuộc vào mức độ của mục tiêu cuối cùng. Sự truyền dẫn trong
đó từ dư nợ cho vay nền kinh tế tới tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào chất lượng
hoạt động tín dụng. Vì nếu dư nợ cho vay nền kinh tế tăng cao song chất lượng khoản
vay không cao thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế sẽ không đạt được như mong muốn.
Có thể nói rằng nguồn vốn cho vay của NHTM Việt Nam đã góp phần quan trọng
vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Các hộ gia đình nhờ có vốn ngân hàng mà câng
cao đời sống, các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới dây chuyền
công nghệ từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, đời sống xã hội được nâng lên.
I.2.4.4. Đánh giá tác động của tăng trưởng tín dụng đến GDP và CPI.
Đồ thị 2: Mối quan hệ tăng mức cung tiền M2, tín dụng và GDP

33
Đồ thị 2: Mối quan hệ tăng mức cung tiền
M2, tín dụng và GDP

60chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Cơ chế truyền tải
50
40
30

%
20
10
0
-10

97

98

99

00

01

02

03

04

05

06

07

08

09

10
19

19

20

20

20

20

20

20

20

20

20

20
19

20
năm

M2 Tốc độ tăng trưởng tín dụng GDP CPI

Xét mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với chỉ số giá tiêu dùng và tăng trưởng
GDP giai đoạn nghiên cứu là tương đối phức tạp, vì trong giai đoạn này nền kinh tế chịu
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Do vậy, nếu xem xét diễn biến của tín dụng, cung tiền, GDP
và CPI thấy rằng, xét về xu hướng dài hạn thì giai đoạn 1999-2001 Việt Nam đã trải qua
một giai đoạn lạm phát rất thấp, thậm chí cả giảm phát (1999: 0,1%; 2000:-0,6%; 2001:
0,8%) trong khi chính sách tiền tệ lại liên tục nới lỏng trong giai đoạn này, cụ thể lãi suất
cho vay giảm từ mức 14,4%/năm (1998) xuống còn 9%/năm (2001). Nguyên nhân chủ
yếu là do giá lương thực, thực phẩm và nhiều nông sản khác giảm mạnh trên thị trường
thế giới như thóc, gạo, cà phê, cao su… thể hiện bởi chỉ số giá xuất khẩu lương thực,
thực phẩm của Việt Nam liên tục giảm mạnh: 1999: -6%; 2000: -9,6%; 2001: -14,2%.
Hiện tượng này xẩy ra không riêng gì đối với Việt Nam mà cả thế giới. Do đó có thể kết
luận lạm phát lúc này chủ yếu xuất phát từ phía cung nên không còn là chỉ báo tốt cho
việc điều hành chính sách tiền tệ và đương nhiên sẽ liên quan đến việc hoạch định các
chính sách kinh tế vĩ mô khác. Tăng trưởng kinh tế giai đoạn này là khá thấp do chưa
huy động nhiều nguồn vốn từ bên ngoài, các chính sách tiền tệ chưa hoàn thiện nên chưa
phát huy được sức mạnh của mình.
Từ năm 2002-2006 tốc độ tăng trưởng tín dụng tương đối ổn định tăng nhẹ trong
các năm 2002-2003, và giảm từ năm 2004-2005, và năm 2006 vẫn có xu hướng giảm.
M2 ổn định hơn và có xu hướng giảm, tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Tuy nhiên lạm
phát trong giai đoạn này lại có xu hướng tăng mạnh, nhất là trong năm 2004-2005, và
vẫn tiếp tục ở mức cao trong năm 2006. Nếu như tín dụng có tác động trễ 12-14 tháng
đến CPI thì chỉ có thể giải thích được diễn biến tín dụng năm 2003 tăng hơn năm 2002
khoảng 4% nên đẩy CPI năm 2004 tăng hơn 2003, song chênh lệch mức tăng giữa tín
dụng và CPI năm 2004 chịu trong đó nhiều bởi các cú sốc bên cung hơn là chịu trong đó
của yếu tố tiền tệ. Kết quả nghiên cứu của IMF về các nhân tố tác động đến lạm phát của
Việt Nam giai đoạn 2000-2006, đã đưa ra kết luận lạm phát của Việt Nam chiụ nhiều yếu
tố trong đó, trong đó những yếu tố chính là lạm phát quá khứ, chênh lệch giữa sản lượng
tiềm năng và sản lượng thực tế, tỷ giá hiện tại thực (cứ giảm 1% điểm tỷ giá thực hiệu
lực thì lạm phát tăng 0,12%) và tiền rộng tăng 1% thì lạm phát tăng 0.1%.

34
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Năm 2007, lạm phát đã vượt lên 2 con số đạt 12,6% Tăng trưởng kinh tế liên tục và
ở mức cao ở các năm trước luôn trên 7% đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải
tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản
phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh. Cung tiền ở Việt
Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó buộc
Ngân hàng Nhà nước phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền
đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm nay có thể còn bắt nguồn từ
mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền của Việt Nam đã ngày một dãn
rộng trong vòng 3 năm qua.

So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc
năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng - Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng
số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ
nguồn Economist Intelligent Unit.)

Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm
2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi
ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng
29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền
của Thái Lan là hầu như không đáng kể.
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền
lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam
cao hơn hẳn những nước khác.
Năm 2008, tăng trưởng kinh tế giảm, tốc độ tăng trưởng tín dụng giản xuống do
chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá xăng dầu, hàng hóa tiêu
dùng tăng vọt, lạm phát tăng cao lên đến 19,9%, . Lạm phát tăng cao như vậy còn do
nguyên nhân: năm 2007 trước đó, khi lượng USD vào nhiều theo kênh FII (đầu tư gián

35
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
tiếp - PV) thì các ngân hàng đã phải đưa một lượng tiền mặt ra để đối ứng, giữ vững tỷ
giá. Động thái đó lại làm mất giá đồng tiền nội tệ. Sau này, Ngân hàng Nhà nước đã có
một loạt động thái thu tiền về bằng tăng dự trữ bắt buộc, bán trái phiếu... nhưng cũng
không thể thu ngay về được. Lượng tiền trong lưu thông còn rất lớn gây áp lực lạm phát.
Năm 2009, với hệ quả của chính sách tiền tệ thắt chặt năm 2008 nên lạm phát đã
giảm xuống một con số, chỉ đạt 6,8% đó là một thành công của Việt Nam trong năm này.
Thành công đó càng đặc biệt hơn khi đi đôi với tốc độ tăng trưởng kinh tế 5,2% và thất
nghiệp không tới mức nguy hiểm như dự đoán những tháng đầu năm trong bối cảnh
khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực tới nền kinh tế nước ta, đặc biệt hoạt
động xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chủ trương phát triển thị trường trong
nước.
Tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế trong cả năm 2009 đạt tới hơn 37,73%
được nhìn nhận như một mức tăng cần thiết làm bàn đạp cho kết quả tăng trưởng của nền
kinh tế cho năm 2010, dự kiến là 10% (cao hơn 6.8% năm 2009)
I.2.5. Đánh giá chung về CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.
− Những kết quả đạt được:
Thứ nhất tín dụng là kênh chủ yếu trong việc truyền dẫn ảnh hưởng CSTT tới nền
kinh tế góp phần thực hiện mục tiêu CSTT.
Thứ hai, dư nợ tín dụng tăng trưởng qua các năm góp phần góp phần quan trọng
vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Các hộ gia đình nhờ có vốn ngân hàng mà câng
cao đời sống, các doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới dây chuyền
công nghệ từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, đời sống xã hội được nâng lên.
− Những hạn chế:
Tác động truyền dẫn qua kênh tín dụng đôi khi không được như mong muốn. Năm
1999 trong khi M2 tăng mạnh (39,3%) thì dư nợ tín dụng tăng thấp (19,2%) nên trong
năm đó tăng trưởng kinh tế chỉ là 4,8%. Tiếp theo đó tác động từ dư nợ tín dụng tới đầu
tư còn hạn chế trong giai đoạn 1997-2002.
Tác động của dư nợ tín dụng đến lạm phát một số năm đã không phát huy hiệu quả.
Cụ thể vào năm 2008, tốc độ tăng trưởng tín dụng giảm nhưng do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng thế giới, giá xăng dầu, lương thực tăng nóng nên không thể giảm được áp
lực lạm phát, lạm phát đã tăng đột biến lên hai con số. Tác động truyền dẫn CSTT qua
kênh tín dụng còn hạn chế là do một số nguyên nhân:
+ Nguyên nhân về việc xác định mục tiêu CSTT:
Nguyên nhân đầu tiên của những hạn chế trong việc truyền tải tác động cảu CSTT
là trong thực tế điều hành, NHNN chưa xác định rõ mục tiêu hàng đầu. Việc thực hiện
CSTT đa mục tiêu, nhất là việc đồng thời theo đuổi cả mục tiêu kiểm soát và tăng trưởng
kinh tế trong nhiều năm khiến cho kết quả điều hành có những hạn chế nhất định. Đặc
biệt, các mục tiêu điều hành CSTT chưa lượng hóa cụ thể.

36
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động cũng chưa được xác định rõ. Có nhiều
thời kỳ, NHNN đã theo đuổi nhiều mục tiêu trung gian tăng trưởng M2, tăng trưởng tín
dụng, tỷ giá, lãi suất. Đồng thời, mục tiêu hoạt động chưa xác định cụ thể là điều tiết
khối lượng hay điều tiết lãi suất. Thực tế cho thấy NHNN đã điều hành theo hướng điều
tiết khối lượng tiền thông qua việc kiểm soát tiền cơ bản. Điều này là phù hợp với thị
trường chưa thực sự phát triển, song NHNN cũng chưa kiểm soát được toàn bộ tiền cơ
bản (MB). Thêm vào đó, NHNN trực thuộc Chính phủ, hoạt động tiền tệ ngân hàng
trong một số thời điểm còn có sự can thiệp của chính phủ cũng có ảnh hưởng nhất định
đến hiệu quả điều hành CSTT.
Trong khi đó, về lý luận cũng như thực tiễn kinh nghiệm các nước đã cho thấy
trong điều hành cần có sự thống nhất quan điểm về mục tiêu chính sách và sự ưu tiên về
mục tiêu hay đánh đổi trong từng thời kỳ. Nhất là đối với mục tiêu cuối cùng, NHNN
cần xác định được mục tiêu hành đầu của CSTT và định lượng rõ ràng mục tiêu đó để có
cơ sở điều hành nhất quán. Đối với mục tiêu trung gian, nếu chọn là tỷ giá thit cần loại
bỏ mục tiêu kiểm soát toàn bộ lãi suất trong nước và cung tiền. Ngược lại nếu chọn lãi
suất hay cung tiền thì không nên coi tỷ giá là tiêu điểm của CSTT. Đối với mục tiêu hoạt
động của CSTT cần xác định rõ là điều tiết khối lượng hay điều tiết lãi suất.
+ Nguyên nhân về điều kiện kinh tế và thị trưởng tiền tệ:
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tiền tệ hóa, do vậy nhu cầu thanh toán của
nền kinh tế vượt quá hơn nhiều so với mức tăng trưởng GDP danh nghĩa, vòng quay tiền
tệ không ổn định làm cho việc dự báo tiền tệ còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, thực
trạng đô la hóa nền kinh tế cũng ảnh hưởg không ít đến hiệu quả điều hành CSTT. Ngoài
ra, thị trường tiền tệ, thị trường vốn chua phát triển, hoạt động của các NHTM chưa thực
sự theo các nguyên tắc thị trường, các công cụ tài chính còn hạn hẹp khiến cho một số
kênh truyền tải tác động CSTT còn chưa hiệu quả nhất là các kênh lãi suất, giá tài sản…
+ Bất cập của hệ thống thống kê, thông tin:
Hệ thống thống kê số liệu kinh tế vĩ mô, cũng như tiền tệ còn nhiều hạn chế, có ảnh
hưởng nhất định đến việc điều hành CSTT.
Thống kê về GDP lạm phát chưa hoàn chỉnh, chất lượng chưa đồng nhất: một số số
liệu về kinh tế vĩ mô như đầu tư, CPI còn có sự khác biệt giữa các nguồn khác nhau hay
giữa các năm có sự khác nhau. Hay bản thân số liệu về CPI qua các năm cũng chưa thực
sự phản ánh đúng mức độ lạm phát do cơ cấu hàng hóa tính CPI cũng như phương pháp
tính còn một số bất cập.
Về thống kê tiền tệ: Mặc dù trong điều hành một số mục tiêu như tăng trưởng tổng
phương tiện thanh toán (M2), hay tăng trưởng tín dụng có thêt tạm coi là mục tiêu trung
gian. Tuy nhiên, theo hệ thống thống kê tiền tệ của NHNN, M2 cũng chưa bao hàm toàn
bộ phương tiện thanh toán của nền kinh tế. Tín dụng dóng vai trò quan trọng trong
truyền tải tác động CSTT, song tác động tiền tệ qua kênh tín dụng vẫn còn hạn chế do
một số kênh đáp ứng vốn cho nền kinh tế còn nằm ngoài tầm kiểm soát của NHNN. Do

37
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
hệ thống thống kê đang trong quá trình đổi mới, hạm vi thống kê đã được từng bước mở
rộng từ 12 ngân hàng lên 24 ngân hàng,36 ngân hàng, 72 ngân hàng và hiện nay là 81
ngân hàng. Thực trạng hệ thống thông tin, số liệu nêu trên đã làm cho việc phân tích so
sánh dựa trên các số liệu lịch sử còn chưa thực sự chính xác.
Với thực trạng trên, việc điều hành CSTT dựa trên cơ sở định lượng còn có một số
khó khăn. Trên thực tế, nhiều quyết sách CSTT còn chủ yếu dựa trên cơ sở phân tích
định tính, có tính chất giải quyết sự vụ.
+ Hạn chế về năng lực phân tích dự báo, năng lực điều hành CSTT:
Một trong những khó khăn của việc điều hành CSTT đó chính là do còn có hạn chế
về năng lực phân tích dự báo, về kiến thức kinh tế vĩ mô, kinh tế lượng, cũng như năng
lực nghiên cứu, hoạch định chính sách của đội ngũ cán bộ NHNN, năng lực điều hành,
phối hợp điều hành giữa các đơn vị NHNN. Các hạn chế trên làm hạn chế tính chủ động,
hiệu quả của việc điều hành CSTT.
+ Sự phối hợp chưa thực sự chặt chẽ giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô:
Trước hết cần đề cập đến sự hạn chế trong trao đổi thông tin giữa các Bộ, ngành
quản lý kinh tế vĩ mô như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ thương mại… với
NHNN có ảnh hưởng nhất định đến tính chất nhất quán giữa CSTT và các chính sách
kinh tế vĩ mô, qua đó giảm hiệu quả điều hành CSTT. Tiếp đến, sự phối hợp qua lại chưa
thực sự chặt chẽ giữa hoạch định, điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô do
chưa có cơ chế phối hợp giữa các Bộ ngành, chưa xây dựng được chương trình tài chính
quốc gia theo định kỳ làm cho việc điều hành CSTT cũng như các chính sách kinh tế vĩ
mô đều rất khó khăn.
Từ những kết luận trên, vấn đề đặt ra là: Xem xét những nhân tố tác động đến cơ
chế truyền tải đến CSTT trong điều kiện hội nhập để có thêm cơ sở kết luận CSTT nên
tập trung tác động qua khâu nào là hiệu quả nhất. Về mặt xu hướng khả năng kênh lãi
suất sẽ có tác động mạnh nhất trong các kênh tác động của CSTT. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu đầy đủ mức độ tác động của CSTT đến nền kinh tế qua các kênh vẫn là rất
cần thiết để hỗ trợ tích cực cho kênh tác động chính;
Cần tập trung các giải pháp để hoàn thiện khâu đầu trong cơ chế tác động của
CSTT, đó là khâu từ NHNN đến thị trường tài chính.

38
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM

I.3. Định hướng phát triển kinh tế xã hội


CSTT là một bộ phận của chính sách kinh tế tài chính nhà nước góp phần thực hiện
chiến lược phân tích kinh tế - xã hội. Do đó điều hành CSTT không thể không xem xét
tới định hướng phân tích kinh tế - xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã đề ra Chiến lược phân tích kinh tế xã hội của
Việt Nam từ năm 2006-2010 theo hướng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội đạt tốc độ
tăng trưởng cao, vững chắc. Tạo bước chuyển biến về sản xuất hàng hóa về cả số lượng,
chất lượng và hiệu quả tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Nâng cao
năng lực khoa học, công nghệ, giáo dục và đào tạo; phát huy nhân tố con người, giải
quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, cơ bản không còn hộ đói, giảm một nửa số
hộ nghèo, tăng gấp đôi số hộ khá, giàu. Tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, tạo các
tiền đề để phân tích trong những năm tiếp theo. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, xây dựng
biên giới hòa bình, hữu nghị, giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm quốc
phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững chắc. Để đạt được viễn cảng
trên, các mục tiêu kinh tế cụ thể được đặt ra như sau:
− Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) giai đoạn 2006 -2010 đạt 7,5-8%/năm và phấn
đấu đạt trên 8%/năm. Tổng sản phẩm trong nước năm 2010 theo giá so sánh tăng ít nhát
gấp 2,1 lần năm 2000.
− GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt từ 1050 -1100 USD.
− Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đến năm 2010 Nông nghiệp – thủy hải sản
chiếm 15-16%, công nghiệp xây dựng chiếm 43-44%, các ngành dịch vụ chiếm 40-41 %.
− Tổng kim nghạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
− Năm 2010 tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21-22%, vốn đầu tư toàn xã hội
đạt khoảng 40% GDP.
Nghị quyết Đại hội Đảng X công bố ra những chính sách giải pháp nhằm đạt được
những mục tiêu kinh tế đã đề ra. Trong đó nhấn mạnh sự thực hiện nhất quán các chính
sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh và phát triển mạnh mẽ
các loại hình doanh nghiệp, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, phát triển đồng bộ
các loại hình thị trường và tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Với chiến lược phát triển nêu trên cùng với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế có
tác động mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế và hoạt động tiền tệ ngân hàng cũng có

39
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
những thay đổi phù hợp đáp ứng yêu cầu phân tích của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà
nước, trên cơ sở mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế xã hội (2001 -2010), và các yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng như thực trạng hệ thống ngân hàng đã xây dựng Chiến
lược phân tích tổng thẻ ngành ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020, theo
hướng phát triển hệ thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam, ổn định an toàn và hiệu quả bền
vững vừa chủ động hội nhập quốc tế, vừa hỗ trợ đầu tư cho các ngành kinh tế khác tham
gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
I.4. Hoàn thiện và nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng
nhà nước.
I.4.1.1. Định hướng và mục tiêu của hệ thống ngân hàng Việt Nam
Việt Nam đã là thành viên của WTO, điều đó đưa đến nhiều cơ hội, nhưng cũng
không ít thách thức. Thách thức lớn nhất trong lĩnh vực ngân hàng khi hội nhập kinh tế
quốc tế, đó là xuất phát điểm về trình độ phân tích thị trường của ngành ngân hàng Việt
Nam còn thấp, tiềm lực về vốn nhỏ, năng lực tài chính yếu, chất lượng tài sản có thấp,
công nghệ ngân hàng còn lạc hậu, các cạnh tranh kém, thiếu kinh nghiệm hoạt động
trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt. Thêm vào đó các ngân
hàng thương mại Việt Nam chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế về hệ số
an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ nợ quá hạn, xếp loại nợ, trích lập dự phòng. Sự cạnh tranh
quyết liệt của các ngân hàng nước ngoài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các ngân hàng Việt
Nam. Trong khi đó, Việt Nam chưa có chính sách thống nhất để quản lý có hiệu quả hoạt
động cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Bản thân các ngân hàng thương mại trong
nước các sản phẩm dịch vụ mới còn hạn chế, công nghệ chưa được coi là công cụ hàng
đầu để nâng cao sức cạnh tranh. Do đó, các ngân hàng Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất lớn
để thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ là giữ vững thị trường hoạt động trong nước và mở
rộng thị trường nước ngoài.
Đối với NHNN, việc hội nhập WTO sẽ làm tăng rủi ro thị trường do các tác động
từ bên ngoài, hạn chế khả năng tận dụng chênh lệch tỷ giá, lãi suất giữa thị trường trong
nước và quốc tế. Hệ thống ngân hàng trong nước cũng phải đối mặt lớn hơn với rủi ro
khủng hoảng, các cú sốc kinh tế tài chính, khu vực, sự lan truyền của khủng hoảng. Sự
kém phân tích của thị trường vốn có thể làm cho hệ thống ngân hàng phải chịu mức thiệt
hại lớn hơn do rủi ro gây ra. Rủi ro gia tăng trong khi đó năng lực điều hành vĩ mô của
NHNN và khả năng chống đỡ rủi ro của các NHTM còn nhiều hạn chế. Năng lực điều
hành tiền tệ của NHNN, đặc biệt là kiểm soát tỷ giá và lãi suất trong điều kiện tự do hóa
còn nhiều hạn chế. Hội nhập quốc tế làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ nếu
như tỷ giá không được tự do hóa trong điều kiện tài khoản vốn được nới lỏng. Mặt khác
năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN còn yếu, đặc biệt là khả năng giám
sát rủi ro và giám sát đối với một số nghiệp vụ và sản phẩm ngân hàng mới được đưa
vào thị trường.
Để tận dụng cơ hội, vượt qua những thách thức, biến thách thức thành cơ hội
NHNN đã xây dựng chiến lược phân tích tổng thể ngành ngân hàng, nhằm phát triển hệ
40
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
thống tiền tệ - ngân hàng Việt Nam ổn định, an toàn và hiệu quả bền vững vừa chủ động
hội nhập quốc tế, vừa hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế khác tham gia có hiệu quả
vào quá trình hội nhập WTO.
Mục tiêu chiến lược đến năm 2010 là:
− Mục tiêu chiến lược phân tích NHNN:
Xây dựng NHNN thành NHTW hiện đại với cơ cấu tổ chức bộ máy tinh gọn,
chuyên nhiệp. NHNN có đủ nguồn lực, năng lực về xây dựng và thực hiện CSTT theo
nguyên tắc thị trường, thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động
NHTW để hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện có hiệu quả các chức
năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; Nâng cao trách
nhiệm chiến lược, hoạch định và thực thi CSTT. Chức năng nghĩa vụ của NHNN tập
trung chủ yếu vào ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ
thống, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng truong và phát triển kinh tế xã hội. Chính
sách tiền tệ phải trở thành công cụ đắc lực để điều chỉnh và kiểm soát kinh tế vĩ mô
nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược phân tích kinh tế và đảm bảo sự an
toàn, lành mạnh của hệ thống thị trường tài chính.
− Mục tiêu chiến lược phân tích các TCTD:
Cải cách và phát triển hệ thống TCTD Việt Nam theo hướng hiện đại, đa năng, đạt
trình độ trung bình tiên tiến trong khu vực với cấu trúc đa dạng về sở hữu, loại hình
TCTD thuộc các thành phần kinh tế có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh
và có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực. Phát triển hệ thống TCTD
Việt Nam hoạt động an toàn hiệu quả vững mạnh dựa trên cơ sở công nghệ và trình độ
quản lý tiên tiến, áp dụng thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng thương
mại. Hình thành thị trường tín dụng cạnh tranh lành mạnh; bình đẳng giữa các loại hình
TCTD, tạo cơ hội cho mọi tổ chức; cá nhân có nhu cầu và khả năng làm ăn hợp pháp và
có đủ điều kiện trả nợ ngân hàng đều được tiếp cận với tín dụng một cách thuận lợi; ngăn
chặn và hạn chế mọi tiêu cực trong hoạt động tín dụng.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng; Phân biệt chức năng của NHNN
và NHTMNN, chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh
tiền tệ của NHTM; Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của NHTM trong kinh
doanh; Giúp đỡ và thúc đẩy các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ
nghĩa vụ, có khả năng cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Bảo đảm
quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam
kết của nước ta với quốc tế; Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp Nhà
nước; Sắp xếp lại các ngân hàng cổ phần, xử lý các ngân hàng yếu kém; Đưa hoạt động
của quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và bảo đảm an toàn.
Tầm nhìn đến 2020
Với việc thực hiện các định hướng chất lượng phát triển ngành ngân hàng 2001 –
2010 và thực hiện các cam kết đa phương, song phương trong hội nhập kinh tế quốc tế,

41
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
triển vọng đến năm 2020, hệ thống tiền tệ ngân hàng Việt Nam sẽ phát triển ổn định, an
toàn và hiệu quả bền vững hỗ trợ cho phát triển kinh tế đất nước. Khu vực tài chính tất
yếu được mở cửa với những bước đi thích hợp với điều kiện thực tế Việt Nam và phù
hợp với xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa tài chính. Theo đó, NHNN thực sự hoạt động
theo chức năng của NHTW hiện đại dựa trên các nguyên tắc thị trường, chuẩn mực quốc
tế, đạt trình độ tiên tiến của NHTW trong khu vực. Năng lực tài chính, sức cạnh tranh
của hệ thống các TCTD được tăng cường mạnh mẽ, quy mô và chất lượng hoạt động
ngân hàng được nâng cao. Các quy định pháp luật, chính sách về tiền tệ, ngân hàng được
hình thành đồng bộ, tạo mục tiêu hoạt động ngân hàng minh bạch, công bằng, an toàn và
hiệu quả.
I.4.2. Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước
− Nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của NHNN.
+ Thực hiện chính sách thu hút cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách, các chuyên
gia về tài chính- ngân hàng có năng lực và trình độ chuyên môn cao; Năng cao hiệu
quả, chất lượng đào tạo đối với các khóa học, chương trình đào tạo dành cho các cán
bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách;
+ Cơ cấu lại tổ chức một số Vụ, Cục liên quan để tăng cường sự thống nhất phối hợp
giữa các đơn vị NHNN trong điều hành CSTT.
+ Hạn chế sự bảo hộ, can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nhằm tạo
lấp môi trường kinh doanh bình đẳng, nâng cao các cạnh tranh của các TCTD trong
điều kiện hội nhập.
+ Các TCTD có biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn phù hợp với
thông lệ quá trình, hoàn thiện hệ thống thông tin thanh toán nhằm thực hiện quản lý
vốn tập trung, điều chuyển vốn linh hoạt trong nội bộ hệ thống ngân hàng, cũng như
giữa các ngân hàng, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực quản lý
kinh doanh, năng lực tài chính và sức cạnh tranh.
− Tăng cường tính minh bạch, tự chịu trách nhiệm của NHNN
+ Xây dựng quy định về trách nhiệm của NHNN trong điều hành CSTT, đảm bảo công
khai, minh bạch các thông tin về điều hành CSTT (quy định về trách nhiệm của
Thống đốc NHNN, hình thức báo cáo giải trình của NHNN về điều hành CSTT…)
+ Quy định về hình thức, cơ chế công bố thông tin về lạm phát để tăng cường sự hiểu
biết của công chúng về lạm phát, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm của
NHNN trong điều hành CSTT.
− Hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ
Để đảm bảo cơ chế truyền tải CSTT nói chung và qua kênh tín dụng nói riêng được
thông suốt, hoàn thiện các công cụ CSTT là rất quan trọng, vì đây chính là khâu đầu của
cơ chế truyền tải. Nâng cao năng lực điều hành các công cụ CSTT, trước hết NHNN cần
có tín hiệu tín hiệu rõ ràng trong điều hành các công cụ CSTT để các thành viên thị

42
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
trường có thể chủ động trong quản lý thanh khoản của mình cần đánh giá và xem xét lại
cơ chế điều hành của từng công cụ CSTT và đề ra phương án cái tiến, đồng thời nghiên
cứu đưa thêm công cụ mới vào hoạt động, sau đây nhóm em xin đưa ra các kiến nghị về
việc hoàn thiện các công cụ CSTT theo hướng sau:
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Hiện nay việc điều hành nghĩa vụ thị trường mở chưa xác định được mục tiêu điều
hành rõ ràng, mức độ can thiệp thị trường này còn mang tính cảm tính chưa dựa vào mức
độ dư thừa, thiếu hụt của thị trường . Với thực tế hiện nay, nghiệp vụ thị trường mở còn
theo đuổi nhiều mục tiêu hoạt động cả lãi suất thị trường và điều tiết vốn khả dụng, có
những lúc hướng vào vốn khả dụng, có những lúc hướng vào lãi suất thị trường nên hiệu
quả điều hành chưa đạt được mục tiêu mong muốn. Vì vậy, để phát huy hiệu quả của
nghiệp vụ này trong điều hành, NHNN cần có quyết định rõ ràng cách thức điều hành,
căn cứ vào mức dư thừa vốn khả dụng hằng ngày để bơm hút tiền cho phù hợp, cần xác
định rõ mục tiêu điều hành là ổn định lãi suất thị trường hay điều tiết giá cả, không nên
thay đổi giữa 2 mục tiêu này trong khoảng thời gian ngắn, tuy nhiên, hiện nay thị trường
tiền tệ có sự phân tách, vốn chưa luân chuyển thông suốt, nên NHNN cần qui định rõ
trong một tuần hoặc một thnasg NHNN luôn cố định một phiên chào mua, bất kể khi đó
vốn khả dụng thừa hay thiếu. Lãi suất hình thành trong các giao dịch nghiệp vụ thị
trường mở cần có mối quan hệ chặt chẽ với các loại lãi suất khác do NHNN công bố, nên
nằm trong giới hạn lãi suất trần và lãi suất sàn do NHNN công bố. Để làm được như vậy,
trước tiên cần hạn chế tối đa các hoạt động cho vay mang tính chỉ định, mở rộng khả
năng tiếp cận kênh này của NHNN đối với tất cả các TCTD.
+ Công cụ dự trữ bắt buộc:
Cần được hoàn thiện theo hướng nâng cao khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN
và tạo điều kiện cho các TCTD sử dụng vốn linh hoạt, hiệu quả, tức là cần mở rộng
lượng tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được điều chỉnh linh hoạt,
phối hợp đồng bộ với việc điều chỉnh các công cụ khác của CSTT và mở rộng hơn lượng
vốn huy động phải dự trữ bắt buộc.
+ Công cụ tái cấp vốn (bao gồm các nghiệp vụ tái cấp vốn, nghiệp vụ chiết khấu,
nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ tiền gửi):
Hoàn thiện công cụ này, cũng là bước đầu hình thành hệ thống lãi suất chủ đạo của
NHNN, tạo cơ sở để thực hiện điều hành tiền tệ theo mô hình giá cả khi các điều kiện
khác đã chín muồi.
Trước hết công cụ này cần được xác định rõ mục tiêu điều hành là cung ứng
phương tiện thanh toán ngắn hạn, qua đó tạo hành lang dao động cho lãi suất ngắn hạn
trên thị trường tiền tệ, hạn chế tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định với kỳ hạn dài, tạo tín
hiệu cho thị trường. Khi thị trường mở chưa có điều kiện phát triển thì tái cấp vốn cần
được chú trọng trong trường hợp các NH có nhu cầu bù đắp thiết hụt thanh khản ngoài

43
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
dự kiến. Đối với công cụ tái cấp vốn, nghiệp vụ chiết khấu cần được coi là kênh cung
ứng vốn thường xuyên ổn định với giá rẻ cho các NH.
+ Công cụ tỷ giá:
Trong bối cảnh hội nhập, tự do hóa các giao dịch vốn, cơ chế điều hành tỷ giá đi
liền với khuôn khổ CSTT phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ổn định tiền
tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Nếu thực hiện khuôn khổ CSTT kiểm soát lãi suất hoặc
khuôn khổ CSTT lạm phát mục tiêu thì không thể thực hiện CSTT nếu tỷ giá hoặc cơ
chế tỷ giá không linh hoạt. Thực tế cho thấy tỷ giá có vai trò rất quan trọng đối với ổn
định tiền tệ của Việt Nam trong thời gian qua cũng như hiện nay, chính sách tỷ giá có
trong đó đáng kể đến lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ, nó có vai trò tương đối quyết
định đối với những nhà đầu tư trong việc lựa chọn vay hoặc gửi tiền bằng ngoại tệ hay
bằng VND, Do vậy đối với CSTT, cần:
(i) Nghiên cứu cơ chế điều hành tỷ giá mới với một số nội dung dự kiến là: Mở
rộng biên độ tỷ giá với cả 2 chiều và tăng tính linh hoạt của tỷ giá, điều này về khuyến
khích các thành viên tham gia thị trường phát triển công cụ tự bảo hiểm và quản lý rủi ro
tỷ giá
(ii) Cải tiến công tác dự báo luồng ngoại tệ vào ra để thực hiện việc cảnh báo sớm
tình trạng mất cân đối tạm thời về ngoại tệ nhằm sử dụng tốt hơn. Dự trữ ngoại hối trong
việc bình ổn tỷ giá và đảm bảo cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng theo cam kết
của Chính phủ. Đây là giải pháp quan trọng khi thực hiện tự do hóa với các giao dịch
vốn.
I.5. Giải pháp tăng hiệu quả truyền tải tác động CSTT qua kênh tín dụng
I.5.1. Giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.
− Giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế gắn liền với nâng cao đời
sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân nhằm đảm bảo công bằng xã hội và an
ninh quốc phòng.
− Kiểm soát lạm phát ở mức hơp lý.
− Thâm hụt ngân sách phải trong vòng kiểm soát được.
− Tăng cường phát huy nội lực, kiểm soát nợ nước ngoài một cách hợp lý.
− Phối hợp chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất để hạn chế tình trạng đô la hóa,
đẩy tỷ giá lên cao.
− Xây dựng và điều chỉnh đồng bộ chính sách tài chính và CSTT nhằm bổ sung, hỗ
trợ lẫn nhau thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô.
− Khuyến khích đầu tư bằng cách cải thiện môi trường đầu tư để tạo sự hấp dẫn cho
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
− Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.

44
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
I.5.2. Phát triển thị trường tín dụng.
Để nâng cao hiệu quả truyền dẫn trong đó CSTT qua kênh tín dụng thì không thể
không kể tới các giải pháp phân tích thị trường tín dụng. Với thực trạng thị trường tín
dụng ở nước ta, để củng cố và phân tích lành mạnh thị trường tín dụng thì phải tiến hành
những biện pháp sau:
Thứ nhất: Khuyến khích các thành phần tham gia vào thị trường tín dụng, đa
dạng hóa các công cụ tín dụng.
− Tạo điều kiện cho TCTD trong và ngoài nước tham gia thị trường bằng cách giảm
thiểu quy định hạn chế hoạt động dịch vụ tín dụng nội tệ và ngoại tệ.
− Tạo điều kiện cho TCTD mở rộng hoạt động đầu tư, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
vay vốn, hoạt động môi giới, hoạt động cho thuê tài chính.
− Đổi mới thủ tục tín dụng tạo cơ hội bình đẳng cho mọi doanh nghiệp.
− Đa dạng hóa phương thức tài trợ tín dụng trong sản xuất và tín dụng như góp vốn
đầu tư, cho thuê tài chính, mua trả góp.
Để đảm bảo thị trường tín dụng ổn định và phân tích phải tiến hành lành mạnh thì
bên cạnh các biện pháp trên phải tiến hành hoàn thiện các cơ chế, chính sách về quan hệ
tín dụng giữa các bên tham gia, điều chỉnh hoạt động tín dụng trong khuôn khổ pháp lý
rõ ràng, môi trường thông tin công khai và minh bạch.
Thứ hai: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động ngân hàng và thực thi
chính sách tiền tệ
− Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ưu đãi hạn chế trong đó tiêu cực của nó tới
sự bình đẳng và khả năng điều tiết của thị trường tín dụng với quan hệ tín dụng.
− Tăng cường công tac giám sát hoạt động tín dụng ưu đãi thực hiện minh bạch thông
tin tín dụng ưu đãi, sắp xếp, phân bổ hệ thống mạng lưới TCTD hợp lý tạo sự lành mạnh
trong kinh doanh.
Thứ ba: Nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả quản lý và điều hành tích cực
phòng chống rủi ro.
− Thực hiện tăng vốn điều lệ cho NHTM như cấp bổ sung hoặc phát hành trái phiếu,
cổ phiếu. Song việc tăng vốn điều lệ cần phải thực hiện với cả NHTM nhà nước và các
NHTM cổ phần. Phát hành cổ phiếu dưới dạng cổ phần không tham gia quản lý để tăng
vốn điều lệ là biện pháp có nhiều tính khả thi. Đối với NHTM cổ phần tăng quy mô và
chuyên môn hóa hoạt động, có chính sách thúc đẩy sát nhập.
− Thúc đẩy nhanh chóng quá trình cơ cấu lại NHTM, xử lý nợ tồn đọng, ngăn chặn
nợ xấu phát sinh. Tăng cường quản lý các khoản trích lập dự phòng rủi ro của TCTD tạo
điều kiện hình thành quỹ dự phòng một cách tập trung và kịp thời. Cần thiết thành lập cơ
quan quản lý nợ độc lập để nâng cao hiệu quả quản lý nợ, thúc đẩy xử lý nợ xấu.

45
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
− Thiết lập và hoàn thiện theo thông lệ quốc tế về hệ số an toàn vốn, thực hiện theo
tiêu chuẩn mức kế toán quốc tế ở tất cả các ngân hàng.
− Thực hiện các biện pháp hỗ trợ an toàn tín dụng như tăng cường chất lượng tín
dụng của trung tâm thông tin tín dụng, đánh giá tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây
dựng hệ thống cảnh báo sớm.
− Đối với quản trị trong TCTD, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý điều hành, kiểm
tra và việc ban hành quyết định cho vay. Phải có cơ chế quản lý chặt chẽ quá trình vận
động của một nhóm vay từ khi phát sinh nguyện vọng tới khi hoàn trả nợ gốc và lãi.
Đồng thời ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực từ phía cán bộ tín dụng.
− Tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm soát nội bộ ở TCTD. Kiểm soát và
thẩm định lại trước khi quyết định cho vay là cần thiết thành lập bộ phận.
Thứ tư: Đổi mới cơ chế quản lý TDNH của NHNN nâng cao hiệu quả điều
hành chính sách tín dụng.
− Cơ chế tín dụng:
NHNN cần rà soát lại các quy định về chế độ và thể lệ tín dụng hiện hành. Ban
hành hệ thống văn bản mang tính chất khung pháp lý tổng hợp quy định về loại hình hoạt
động tín dụng chứ không nên quy định quá chi tiết để hạn chế sự can thiệp sâu không
phù hợp cới cơ chế thị trường. Với cơ chế huy động vốn, nhà nước cần đảm bảo quyền
lợi người gửi tiền qua phương thức bảo hiểm tiền gửi. Với cơ chế cho vay, NHNN cũng
chỉ nên xây dựng thể lệ tín dụng chung với những quy định về những điều lệ không được
thực hiện. Thể lệ sẽ là khung pháp lý cho các loại hình các phương thức cấp tín dụng.
Thể lệ tín dụng nên khuyến khích TCTD phát triển nhiều sản phẩm mới như chiết khấu
thương phiếu, hợp vốn đồng tài trợ,c ho thuê tài chính…
Xác định rõ quy trình kiểm tra, kiểm soát, trách nhiệm dân sự và xử lý vi phạm hợp
đồng tín dụng theo pháp luật.
Cơ chế tín dụng ưu đãi và tín dụng chính sách phải dựa trên cơ sở kế hoạch hóa và
quản lý chặt chẽ như đối với tín dụng ngân hàng. Thực hiện cho vay theo phương pháp
tập trung, dứt điểm, hiệu quả và đảm bảo cho vay theo thứ tự ưu tiên về mức độ hiệu quả
và nhu cầu cấp thiết của dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cho vay trên cơ sở lựa chọn đối
tượng chính sách. Xã hội thực sự cần hỗ trợ bằng tín dụng chính sách.
− Chính sách tín dụng:
+ Đổi mới chính sách cung ứng tín dụng phù hợp với mục tiêu CSTT và chính sách tài
chính quốc gia.
+ Hoạch định chính sách tín dụng vĩ mô phù hợp với yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh
tế, cơ cấu phân bổ nguồn lực, cơ cấu thị trường…
+ Chính sách tín dụng của NHNN là cơ sở, định hướng cho TCTD xác định mục tiêu,
cơ cấu huy động vốn và đầu tư tín dụng cho nền kinh tế.

46
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
+ Với hoạt động điều hành CSTD, cần tiến tới tách bạch chức năng cơ quan chủ quản
với chức năng giám sát, kiểm tra đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng và an
toàn hệ thống.
+ Tiếp tục ban hành văn bản quy định nhằm đảm bảo an toàn hệ thống như bảo hiểm
tiền gửi, tài sản bảo đảm…
− Xác định các tiêu chí an toàn phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
Thứ năm: Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra và thiết lập chuẩn mực an
toàn với thị trường tín dụng.
Một hệ thống các quy định quản lý, giám sát thận trọng các hoạt động các ngân
hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hệ thống tài chính nói chung và thị
trường tín dụng nói riêng. Tính chất của cơ chế giám sát ngân hàng sẽ phụ thuộc vào đặc
điểm của từng quốc gia thông qua rất nhiều yếu tố, bao gồm trình độ phân tích kinh tế,
đặc điểm và khuôn khổ pháp lý, cấu trúc và cơ cấu tổ chức của hệ thống tài chính, và
mức độ vận dụng các qui luật thị trường để hỗ trợ cho hoạt động quản lý rủi ro của các
NHTM.
Hiện nay hệ thống giám sát hoạt động tín dụng của NHNN vẫn dựa trên sự tuân thủ
các luật lệ đã đặt ra tức là xem xét TCTD chấp hành đúng pháp luật, quy trình về chế độ
báo cáo hay không. Thực tế việc này không đáp ứng được yêu cầu kiếm soát sự gia tăng
tín dụng một cách thiếu an toàn ở nhiều TCTD. Sự thiếu an toàn và chất lượng tín dụng
thấp đang là điều kiện đáng lo ngại hiện nay của nhiều TCTD. Nguyên nhân của nó là do
sự yếu kém về khả năng kinh doanh tín dụng của một số TCTD và đồng thời do hệ thống
giám sát và các quy định về an toàn của NHNN còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Do đó cần phải tăng cường chất lượng hoạt động giám sát, đảm bảo an toàn nâng
cao chất lượng tín dụng. Cụ thể là thực hiện các biện pháp:
− Phải xây dựng một môi trường pháp lý hiệu quả, có hiệu lực đảm bảo cho các
NHTM cạnh tranh bình đẳng và thực hiện tái cơ cấu các NHTM Nhà nước và NHTMCP.
− NHNN với tư cách là một cơ quan quản lý các hoạt động tiền tệ, tín dụng cần đảm
bảo quản lý khu vực ngân hàng tránh không để các ngân hàng chấp nhận nhiều rủi ro đến
mức thành rủi ro hệ thống. Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng sẽ ngày càng gia tăng
khi khả năng tạo cạnh tranh được cải thiện, khi các các luồng vốn qua biên giới gia tăng
và các ngân hàng có thêm vốn mới để bổ trợ tăng hoạt động cho vay. Vì vậy cần phải có
những biện pháp mạnh mẽ trong công tác giám sát hoạt động của các TCTD phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế, cơ cấu của hệ thống tài chính của Việt Nam và mức độ vận
dụng các quy luật thị trường để hỗ trợ cho hoạt động quản lý rủi ro trong các Ngân hàng.
− Quan tâm xây dựng bộ máy thanh tra của NHNN việc kiểm soát nội bộ của tổ
TCTD phải có chất lượng, tăng cường quản lý nhà nước, kiểm soát hoạt động tiền tệ tín
dụng của TCTD để hỗ trợ hoạt động kinh doanh đúng hướng an toàn và hiệu quả.

47
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
− NHNN gắn chặt cho vay tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu với kết quả giảm
nợ quá hạn. TCTD xuống dưới 5% (tổng dư nợ) để tăng hiệu quả sử dụng vốn, hạn chế
nợ quá hạn và củng cố chất lượng tín dụng.
− Đồng thời không cho phép mở rộng bộ máy tổ chức và qui mô hoạt động khi không
đủ điều kiện về năng lực. Với TCTD có những vi phạm nghiêm trọng hoặc chậm trễ
trong việc khắc phục sai phạm đã được thanh tra NHNN phát hiện thì tiến hành hạn chế
hoặc đình chỉ tạm thời nghiệp vụ đó.
− Kết hợp chặt chẽ giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của NHNN với TCTD. Nâng
cao trình độ và khả năng thanh tra của đội ngũ cán bộ thanh tra, áp dụng công nghệ tin
học trong thiết lập hệ thống thông tin tín dụng.
Thứ sáu, Phát triển thị trường vốn phải giải quyết nhu cầu vốn trung, dài hạn
của nền kinh tế từ đó giảm áp lực với thị trường tín dụng.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò trung gian trong huy động và cho vay, các thị
trường cổ phiếu, trái phiếu có thể chuyển vốn một cách hữu hiệu từ các nhà đầu tư đến
các doanh nghiệp thông qua phát hành và kinh doanh chứng khoán. Đồng thời thị trường
tiền tệ chỉ có thể định giá được hữu hiệu nếu thị trường vốn vận hành tốt và thuận lợi cho
các chứng khoán không chứa đựng rủi ro. Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán
phát triển sẽ như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn.
Thời gian qua nhu cầu vốn trung dài hạn là rất lớn và thị trường vốn chưa giải
quyết được. Do đó cần:
− Phát triển định chế tài chính tín dụng phi ngân hàng để tập hợp nguồn vốn đầu tư
toàn xã hội. Đồng thời xây dựng ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư và
chức năng chính là tham gia thị trường vốn trung dài hạn.
− Phát triển thị trường trái phiếu bằng cách mở rộng cho nhiều thành viên tham gia
đấu thầu, khuyến khích công ty lớn làm ăn có hiệu quả phát hành và niêm yết trái phiếu.
− Để thúc đẩy TTCK tiếp tục phát triển nhanh, lành mạnh, bền vững, BTC, mà trực
tiếp là UBCKNN cần thực hiện tốt hơn nữa sự phối hợp điều hành thị trường chứng
khoán. Phối hợp trong việc đưa ra các quy định về quản lý ngoại hối và hoạt động đầu tư
gián tiếp của các nhà đầu tư phải đảm bảo phù hợp với tiến trình tự do hóa thị trường tài
chính và hạn chế những ảnh hưởng bất lợi đến việc thực hiện CSTT cũng như đến sự
phát triển TTCK; phối hợp trong việc đưa ra các quy định đảm bảo các thành viên thị
trường tài chính thuận lợi trong việc phát hành các chứng khoán, cũng như nâng cao tính
thanh khoản cho các chứng khoán.
− Tăng cường khả năng kiểm soát vốn đầu tư nhà nước và trong nước vào thị trường
chứng khoán. Việc kiểm soát dòng vốn của NHNN sẽ hiệu quả hơn, cũng như đảm bảo
tính an toàn cho hoạt động của TTCK, tránh xảy ra rủi ro trong thanh toán khi khối
lượng giao dịch chiết khấu gia tăng vượt khả năng xử lý của một ngân hàng chỉ định
thanh toán (Ngân hàng đầu tư & Phát triển Việt Nam), nếu có sự tập trung hóa dòng vón

48
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
của thị trường chứng khoán vào NHNN. Để thực hiện sự tập trung này, giữa NHNN và
UBCK cần thiết thúc đẩy nhanh hơn việc thiết lập hệ thống kết nối thanh toán bù trừ
giữa các công ty chứng khoán tại NHNN. Bên cạnh đó để thúc đẩy tốc độ luân chuyển
chứng khoán cần thực hiện kết nối giữa hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia với
hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán, tạo mối liên kết trực tiếp giữa Sở
Giao dịch NHNN và Trung tâm lưu ký Chứng khoán.
− Hoạt động thanh tra, giám sát thị trường tài chính của các cơ quan quản lý cần phải
được tăng cường cả về lực lượng cán bộ và thẩm quyền quyết định, cũng như các chi phí
cho hoạt động thanh tra giám sát này. Đồng thời cũng cần khẩn trương hoàn chỉnh hệ
thống thông tin thống kê về hoạt động của thị trường vốn, làm cơ sở cho việc xây dựng
các cơ chế chính sách quản lý, giám sát các hoạt động của thị trường tài chính, nhằm
phân tích thị trường tài chính ổn định bền vững, tận dụng hiệu quả nhất nguồn vốn đầu
tư gián tiếp
Thứ bảy, Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm hỗ trợ cho công tác phân tích
dự báo theo mô hình kinh tế lượng
Hiện nay vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn rất nhiều bất cập hạn chế, các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô chưa đồng nhất giữa các năm
Bảng so sánh các số liệu tiền tệ được công bố ở các cơ quan khác nhau
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (%)
IFS 24.4 25.6 178.3 34.2 23.2 25.5 32.4
SA 16.4 55.2 38.1 21.4 22.2 29.4
ADB 17.6 20.8 21.3 10.5 73.3 23.2 25.5
Tốc độ tăng M2 (%)
IFS 26.6 31.2 37 82.2 37.5 30.6 14.7
SA 26 56.6 39 22.5 17.6 24.9
ADB 26.1 25.6 30.3 56.2 17.6 24.9 23.1
Bảng trên thể hiện chất lượng thống kê tiền tệ của Việt Nam rất khó giúp cho các
nhà kinh tế đưa ra kết luận chính xác. Hiện nay tổng cục Thống kê đang trong quá trình
hoàn thiện việc phân bổ các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô phù hợp với thông lệ quốc tế. Nhiều
chỉ tiêu hiện chưa có để phục vụ cho việc điều hành CSTT, chẳng hạn chưa có chỉ số về
lạm phát cơ bản, chỉ số giá loại bỏ tác động của thuế. Các số liệu về hoạt động khu vực
Chính phủ, tình trạng công ăn việc làm, mức độ cập nhật chậm… Do vậy để có con số
dữ liệu phân tích xác định cơ chế truyền tải CSTT, việc hoàn thiện hệ thống thông tin thị
trường kết nối giữa các bộ, ngành, Tổng cục thống kê phải trở thành kho dữ liệu Quốc
gia và các Bộ, Ngàng được kết nói với kho dữ liệu này. Riêng NHNN với Bộ Tài chính
cần tạo dựng mối quan hệ thường xuyên và mật thiết hơn trong việc trao đỏi thông tin,
tạo sự phối hợp đồng nhất giữa điều hành CSTT với điều hành chính sách tài khóa.
Đối với hệ thống thông tin nội bộ của ngành NH, đã hình thành kho dữ liệu của
Ngân hàng Nhà nước từ năm 2005. Tuy nhiên, hệ thống công nghệ tin hoc phục vụ cho
49
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
công tác thống kê còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới trong công
tác thống kê. Thêm vào đó, hiện nay, NHNN mới áp dụng một phương pháp thống kê
duy nhất là yêu cầu báo cáo, thiếu phương pháp thống kê khảo sát. Mặt khác, mẫu thống
kê cũng chưa đồng nhất giữa các năm nên cũng còn hạn chế trong việc cung cấp thông
tin đầy đủ cho việc phân tích và dự báo cũng như xác định cơ chế truyền tải. Vì vậy, cần
tiếp tục hoàn thiện hệ thống thống kê của ngành ngân hàng, đặc biệt là cần đẩy nhanh áp
dụng công nghệ thông tin vào hệ thống ngân hàng. Cụ thể là:
− Phải phân tích, rà soát lại các chỉ tiêu thống kê hiệu lực, loại bỏ các chỉ tiêu không
cần thiết, bổ sung những chỉ tiêu phù hợp với những tình hình mới phát sinh.
− Cần tổ chức lại bộ máy thống kê hiện nay. Hiện nay, thực hiện thống kê của NHNN
chỉ có một phòng hơn 15 người thuộc vụ CSTT , với lực lượng như vậy không thể đáp
ứng được yêu cầu về mặt chính xác, kịp thời và đầy đủ thông tin thóng kê, chưa có đủ
lực lượng để tiến hành khảo sát và phân tích, dự báo thống kê. Do vậy, cần hình thành
một Vụ thống kê dự báo trong NHNN, như vậy mới bảo đảm thực hiện được nhiệm vụ
của công tác thống kê.
I.5.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Qua kênh tín dụng, hiệu quả truyền dẫn trong đó CSTT tới mục tiêu kinh tế vĩ mô phụ
thuộc vào chất lượng tín dụng. Vậy nhóm giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động tín
dụng là rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả kênh tín dụng.
I.5.3.1. Đa dạng hoá các hình thức cho vay
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, các hình thức tín dụng ngày càng được
mở rộng và phát triển. Các NHTM hiện nay mở rộng các hình thức cho vay phổ biến như
cho vay vốn cố định, vốn lưu động, cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng thì cần phát triển
cho vay trả góp, cho vay đồng tài trợ, cho thuê tài chính, tín dụng thế chấp và tín chấp.
I.5.3.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng vay vốn.
Khách hàng là người sử dụng và chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay, là người
quyết định hiệu quả khoản vay. Do đó trong các yếu tôt góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng thì yếu tố khách hàng là quan trọng.
Thẩm định khách hàng là xem xét, phân tích dữ liệu thu thập trong hồ sơ tín dụng
của đơn vị vay vốn nhằm xác định giới hạn an toàn trong quan hệ tín dụng giữa ngân
hàng và khách hàng của quá trình cho vay và theo dõi xử lý nợ vay.
Thẩm định khách hàng để thấy được khả năng tài chính hiện tại và tương lai, khả
năng hoàn trả khoản vay của khách hàng. Vậy thẩm định khách hàng là cơ sở để đưa ra
quyết định kinh doanh. Khi thẩm định khách hàng vay vốn ngân hàng phải:
− Tìm hiểu kỹ tư cách pháp nhân
− Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn thông qua báo cáo kết
quả kinh doanh. Trong đó mối quan tâm của ngân hàng là chỉ tiêu doanh thu, song khi

50
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
xem xét chỉ tiêu này cần tìm hiểu kỹ xem doanh thu tăng vì đâu để tránh trường hợp
doanh thu tăng nhưng không phản ánh đúng bản chất dẫn đến khó khăn trong việc trả nợ.
− Phân tích tình hình tài chính, xem xét thừa vốn hay thiếu vốn, việc sử dụng vốn
như thế nào… để từ đó ra quyết định đúng đắn với những khoản cho vay của ngân hàng.
− Khi thẩm định, cán bộ không chỉ dựa vào thông tin do khách hàng cung cấp mà còn
phải thu thập thông tin từ tổ chức, cá nhân có liên quan tới khách hàng từ trung tâm
thông tin tín dụng… để có thể đánh giá đúng về khách hàng và đưa ra quyết định cho
vay một cách chính xác.
Khách hàng là yếu tố quyết định sự thành bại của ngân hàng. Chính vì vậy mà
việc thẩm định khách hàng trước khi quyết định cho vay là vô cùng quan trọng. Ngân
hàng không nên vì mục đích thu hút nhiều khách hàng mà giảm bớt các điều kiện để cấp
tín dụng cho khách hàng, việc cấp tín dụng của ngân hàng luôn phải đảm bảo an toàn và
hiệu quả.
I.5.3.3. Xây dựng hệ thống thông tin tín dụng
Thông tin tín dụng là cơ sở để ngân hàng thẩm định khách hàng trước khi cho
vay. Do đó thông tin tín dụng có vai trò quan trong trong quản lý chất lượng tín dụng,
mọi TCTD khi cho vay đều cần có thông tin đầy đủ về khách hàng.
Hai bước cơ bản trong quá trình thẩm định là thu thập thông tin và xử lý thông
tin.
− Với quá trình thu thập thông tin:
Có nhiều nguồn để thu thập thông tin như thông qua phỏng vấn trực tiếp, hồ sơ tín
dụng, thông tin từ doanh nghiệp, cá nhân có quan hệ kinh tế với người vay… song mức
độ tin cậy của mỗi loại thông tin là khác nhau. Do đó ngân hàng phải lựa chọn thông tin
có độ chính xác cao và phải so sánh giữa các nguồn thông tin. Khi thu thập thông tin cần
phải chú ý:
+ Phân loại thông tin tài chính và phi tài chính để từ đó tìm thấy nguồn phù hợp.
Thông tin tài chính có thể lấy từ báo cáo kế toán, báo cáo từ công ty lập báo cáo tài
chính. Thông tin phi tài chính có thể lấy từ báo chí, dữ liệu được công bố, báo cáo
của nhà tư vấn…
+ Trực tiếp cử cán bộ có trình độ nghiệp vụ và hiểu biết về ngành kinh doanh xuống cơ
sở để kiểm tra thực tế.
+ Thông tin đại chúng là nguồn thông tin khách quan nhất để ngân hàng có thể đưa ra
đánh giá khách quan.
Việc thu thập thông tin một cách chính xác và đầy đủ sẽ đảm bảo an toàn cho các
khoản vay, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
− Phân tích thông tin tín dụng:

51
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Sau khi tiến hành thu thập thông tin NHTM thẩm định một cách kỹ lưỡng hơn về
khách hàng của mình. Trong phân tích các NHTM thường đưa ra một số tiêu chuẩn, ví
dụ như tiêu chuần 5P (Porpose-mục đích; Payment-trả nợ; Protection-bảo vệ; Policy-
chính xác; Pricing-giá) hoặc tiêu chuẩn 5C (Capacity-năng lực hoạt động; Capital-vốn;
Charater-uy tín; Condition-điều kiện; Collateral- vật thế chấp). Song dù sử dụng tiêu
chuẩn nào thì quá trình phân tích cũng tập trung xem xét về năng lực pháp lý, năng lực
sản xuất kinh doanh, uy tín của khách hàng.
Phân tích thông tin tín dụng giúp ngân hàng lựa chọn khách hàng một cách tốt nhất.
Ngân hàng sẽ hạn chế được rủi ro, thu hồi vốn vay đầy đủ từ đó góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả tín dụng. Những khách hàng được đánh giá là có uy tín tốt, hiệu quả
kinh doanh cao… sẽ được ngân hàng lựa chọn. Trong cơ chế hiện nay khi sự cạnh tranh
giữa các ngân hàng trở lên gay gắt thì ngân hàng không thể chờ khách hàng đến với
mình mà phải chủ động tìm hiểu khách hàng để biết được khách hàng nào làm ăn có hiệu
quả từ đó tìm cách tiếp cận.
Để lựa chọn khách hàng một cách chính xác các NHTM nên phân tích và xếp loại
doanh nghiệp theo quy mô, hiệu quả sản xuất kinh doanh và theo khả năng thanh toán.
Theo quy mô có 2 loại doanh nghiệp là doanh nghiệp có quy mô lớn và doanh nghiệp có
quy mô nhỏ. Theo hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp được chia làm 2 loại là
kinh doanh thua lỗ và kinh doanh có lãi. Theo khả năng thanh toán doanh nghiệp được
chia làm 3 loại là doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt, trung bình và kém.
I.5.3.4. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng
Các khoản tín dụng phải đảm bảo hiệu quả kinh tế, thu hồi vốn và lãi đúng hạn.
Do đó tănng cường kiểm tra thanh tra là điều cần thiết để đảm bảo chất lượng khoản vay,
giúp ngân hàng tránh được những rủi ro do hoạt động tín dụng mang lại.
Vậy các ngân hàng phải đề ra các tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng khoản vay.
Trên cơ sở đó bộ phận kiểm tra giám sát tiến hành đánh giá khoản vay, xếp hạng khoản
vay một cách đều đặn từ đó có biện pháp xử lý kịp thời những khoản vay bị xếp hạng
thấp. Bên cạnh đó, các NHTM nên thành lập bộ phậnkiểm tra giám sát tín dụng với mục
đích lựa chọn phương án khả thi, có hiệu quả kinh tế cao, khả năng thu hồi nợ lớn nhằm
hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Đồng thời công tác kiểm soát nội bộ cũng cần được tăng
cường nhằm thanh lọc bộ phận cán bộ tín dụng thoái hoá biến chất gây thất thoát tài sản
của ngân hàng.
I.5.3.5. Chú trọng công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy để nâng cao
chất lượng hoạt động tín dụng thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro phải được quan
tâm.
Các NHTM có thể áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế rủi ro:
− Xác định phương thức cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay phù hợp với từng
đối tượng khách hàng, từng thời kỳ khác nhau.

52
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
− Phân tích khả năng trả nợ của khách hàng, tư cách đạo đức của người cho vay.
− Khi cho vay, ngân hàng nên yêu cầu tài sản thế chấp của khách hàng. Nếu có rủi ro
không trả được nợ thì ngân hàng có thể thu hồi vốn bằng cách phát mại tài sản. Song đây
không phải là một biện pháp hiệu quả cao vì thế nếu cứ yêu cầu khách hàng có đủ tài sản
thế chấp thì đối với khách hàng là doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất có quy mô tài sản
nhỏ sẽ không vay được. Như vậy khách hàng thì thiếu vốn còn ngân hàng thì ứ đọng
vốn, kênh tín dụng ngân hàng có thể bị tắc nghẽn. Do đó ngân hàng phải phân tích khả
năng trả nợ của khách hàng, tư cách đạo đức của người vay để xem xét cho vay. Phân
tích khả năng trả nợ của khách hàng là xem xét cho vay. Phân tích khả năng trả nợ của
khách hàng là xem xét các nguồn thu trong tương lai của khách hàng khi chuẩn bị đến
hạn thanh toán hợp đồng vì các nguồn thu là nguồn trả nợ chính của khách hàng.
− Kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay bắt đầu từ khi phát tiền vay cho tới khi khoản
vay được hoàn trả nhằm đôn đốc khách hàng thực hiện theo đúng thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng. Kiểm tra mục đích sử dụng tiền vay trên thực tế có đúng với hợp đồng tín
dụng không. Kiểm tra tiến độ thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách
hàng. Công tác kiểm tra này giúp cán bộ tín dụng phát hiện ra những vướng mắc trong
quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ đó có biện pháp xử lý kịp thời.
− Đôn đốc việc thu hồi nợ gốc và lãi phù hợp với thực trạng khoản vay:
+ Với khách hàng có vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc có nguy cơ thua lỗ, phá sản
trong kinh doanh thì ngân hàng phải tìm mọi cách để thu hồi nợ.
+ Với nợ quá hạn, ngân hàng phải thường xuyên đôn đốc nhắc nhở, yêu cầu khách
hàng ký nhận nợ và hẹn thời gian trả nợ cụ thể. Đồng thời tiến hành rà soát, phân loại
nợ quá hạn theo nguyên nhân từ đó đưa ra biện pháp xử lý kịp thời.
+ Với khoản nợ khó đòi, sau khi đã nhắc nhở nhiều lần bằng văn bản mà khách hàng
không trả nợ thì ngân hàng phải kết hợp với cơ quan chức năng đề nghị hỗ trợ trong
việc thu hồi nợ.
− Lập quỹ dự phòng rủi ro, tạo sự yên tâm với những rủi ro có thể xảy ra:
+ Thực hiện nghiêm túc việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro cho phù hợp với hoạt động
kinh doanh của ngân hàng.
+ Ngân hàng có thể tham gia bảo hiểm tín dụng (một hình thức mang lại nhiều lợi ích
cho ngân hàng) vì khi rủi ro xảy ra tổ chức bảo hiểm tín dụng sẽ có nhiệm vụ bồi
thường cho ngân hàng, bên cạnh đó tổ chức bảo hiểm tín dụng có thể phối hợp với
các cơ quan chức năng để có biện pháp đề phòng và ngăn chặn những tổn thất lớn
xảy ra.
− Chủ động giải quyết nợ có vấn đề:
Trong công tác thu nợ ngân hàng cần chú ý những dấu hiệu về khoản vay có vấn đề
từ đó tìm ra biện pháp ngăn chặn kịp thời những rủi ro có thể xảy ra chứ không nên để
nó phát sinh rồi mới giải quyết. Khi phát hiện những dấu hiệu có thể dẫn đến tới sự đổ
53
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
vỡ hay phá sản của khách hàng ngân hàng phải có những biện pháp ngăn chặn kịp thời
như mời chuyên gia về tư vấn cho doanh nghiệp hoặc ngân hàng có thể kết cấu lại những
khoản nợ (kéo dài kỳ hạn, rút bớt mức chi trả hàng tháng). Bên cạnh đó ngân hàng cũng
có thể nhận thêm tài sản đảm bảo, bảo lãnh.
Để xử lý nợ có vấn đề ngân hàng có thể sử dụng hai biện pháp là khai thác và thanh
lý. Khai thác là biện pháp ngân hàng tìm cách thoả thuận với khách hàng mà không cần
dùng tới các công cụ pháp lý sao cho khách hàng hoàn trả một phần hoặc toàn bộ khoản
vay. Thanh lý là biện pháp mà ngân hàng thực hiện tất cả các biện pháp pháp lý để ép
buộc người vay tuân thủ các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Tuỳ vào đối tượng
khách hàng khác nhau mà ngân hàng có thể áp dụng các hình thức xử lý khác nhau. Đối
với khách hàng có dấu hiệu dối trá, lừa đảo… thì ngân hàng nên áp dụng biện pháp thanh
lý. Còn đối với khách hàng thành thật và có mong muốn trả nợ thì ngân hàng nên áp
dụng biện pháp khai thác.
Các ngân hàng nên thành lập bộ phận xử lý nợ có vấn đề trực thuộc phòng tín dụng
để thu thập thông tin một cách cập nhật. Bộ phận này gồm những người có chuyên môn
nghiệp vụ cao, hiểu biết pháp luật, có kinh nghiệm.
I.5.3.6. Đào tạo cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao.
Nhân tố con người là nhân tố quyết định mọi hoạt động kinh tế xã hội. Hoạt động
tín dụng ngân hàng là hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro từ phía khách hàng hoặc có
thể từ phía cán bộ tín dụng. Do đó đội ngũ cán bộ tín dụng ngân hàng ngoài trình độ
chuyên môn giỏi, sự năng động sáng tạo thì một phẩm chất không thể thiếu với cán bộ
là phải có đạo đức nghề nghiệp. Có như vậy hoạt động kinh doanh ngân hàng mới có thể
diễn ra hiệu quả, hạn chế rủi ro. Đối với hoạt động ngân hàng, toàn bộ quyết định cho
vay, tiến trình cho vay và thu hồi nợ chỉ có thể do con người đảm nhiệm do đó chất
lượng khoản vay phụ thuộc chủ yếu vào trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của
cán bộ tín dụng.
Do hoạt động ngân hàng luôn phải phù hợp với sự biến đổi tình hình kinh tế xã
hội đồng thời do sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của ngành ngân hàng không chỉ trong
nước mà còn với ngân hàng nước ngoài nên các cán bộ tín dụng luôn phải tự học hỏi,
trau dồi kiến thức. Các NHTM phải định hướng, tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng. Cán bộ
tín dụng phải được thường xuyên tiếp thu những vấn đề mới của nền kinh tế hiện đại
đồng thời được đào tạo kỹ năng cơ bản như kỹ năng phân tích đánh giá, kỹ năng điều
tra… Đồng thời các ngân hàng nên có chế độ thưởng phạt nghiêm minh để cán bộ tín
dụng làm việc với tinh thần và trách nhiệm cao. Những cán bộ có thành tích xuất sắc,
hoàn thành nhiệm vụ tốt thì cần có chế độ khen thưởng thích hợp nhằm kích thích tính
sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Những cán bộ vi phạm quy chế thì cần phải xử lý
nghiêm khắc đặc biệt là những cán bộ có hành vi tham ô, lợi dụng chức quyền làm ảnh
hưởng tới lợi ích của ngân hàng.

54
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng số liệu và năng lực phân tích dự báo
sẽ tạo cơ sở để xác định và lựa chọn hệ thống mục tiêu cũng như cơ chế truyền tải chính
sách thị trường một cách rõ ràng.
Với thực trạng công tác phân tích và dự báo hiện nay còn quá đơn giản, chủ yếu
theo cảm tính thiếu sự phân tích định lượng nên khó có thể xác định được các mục tiêu
của CSTT một cách chính xác và có được cơ chế truyền tải hiệu quả. Hiên nay NHNN
đang thực hiện nhiều giải pháp, như đào tạo cán bộ có thể áp dụng mô hình kinh tế
lượng, tuy nhiên mức độ còn rất hạn chế. Do vây, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
giải pháp nhằm nhanh chóng xây dựng được mô hình phân tích, dự báo tiền tệ, lạm phát.
Đào tạo đội ngũ cán bộ thống kê từ cấp cơ sở, để đảm bảo đầu vào số liệu phản ánh
đúng bản chất các giao dịch kinh tế, chất lượng thống kê được năng lực đào tạo khả năng
phân tích, mổ sẻ số liệu thống kê, qua đó hình thành một đội ngũ cán bố thống kê thực
hiện nhiệm vụ khảo sát thống kê, tính toán dãy số liệu. Có như vậy, chất lượng thống kê
mới đảm bảo cho hoạch định chính sách chính xác và minh bạch hóa hệ thống thông tin.
I.5.3.7. Đổi mới quy trình quản lý tín dụng.
Quy trình quản lý tín dụng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
hoạt động tín dụng. Việc cán bộ tín dụng đảm nhận toàn bộ quy trình tín dụng không
tránh khỏi những vướng mắc trong thực thi nghiệp vụ và kết quả đôi khi không mang
tính khách quan. Do đó các NHTM nên thành lập các bộ phận chuyên môn hoá trong
quản lý tín dụng đồng thời phải có sự kết hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận. Trong ngân
hàng nên thành lập ra các bộ phận sau:
− Bộ phận tiếp thị: Chuyên nghiên cứu về thị trường, tìm ra phương hướng kinh
doanh phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
− Bộ phận pháp chế: Xem xét tính pháp lý của hồ sơ tín dụng ngoài ra bộ phận này
có nhiệm vụ tiếp cận với cơ quan pháp lý để giải quyết nợ qua thanh lý tài sản khi khách
hàng có hành vi chiếm đoạt khoản vay.
− Bộ phận phân tích kinh tế: Phân tích xem xét, đánh giá khả năng chi trả của khách
hàng qua các báo cáo tài chính, phương án sản xuất kinh doanh, thông tin bên ngoài về
khách hàng.
− Bộ phận tín dụng: Xem xét tính pháp lý của thủ tục vay và thiết lập hợp đồng tín
dụng, phối hợp với kế toán và ngân quỹ để giải ngân đúng quy định.
− Bộ phận kiểm tra, giám sát: Xem xét hợp đồng tín dụng có được thực hiện đúng
không để từ đó phát hiện ra những sai phạm và có biện pháp xử lý kịp thời nhằm hạn chế
những rủi ro có thể xảy ra.
Tuy nhiên nếu không phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận với nhau sẽ gây lãng
phí thời gian trong việc cấp tín dụng cho khách hàng và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh của khách hàng.

55
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
Ngoài ra các NHTM cần đầu tư vào trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và hiện
đại hoá công nghệ ngân hàng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hoạt động ngân hàng
để khách hàng có thể hiểu rõ về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cung cấp từ đó thu
hút được nhiều khách hàng hơn. Đồng thời các ngân hàng cũng phải chú trọng vào công
tác marketting nhằm thu hút những khách hàng có chất lượng tốt.
I.6. Kiến nghị
Để thực hiện một cách có hiệu quả biện pháp nâng cao hiệu quả truyền dẫn tác
động chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng thì phải có môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,
môi trường pháp lý vững chắc. Do đó để nâng cao hiệu quả kênh tín dụng thì không chỉ
cần sự nỗ lực của ngành ngân hàng mà nó còn đòi hỏi sự phối hợp, giúp đỡ của các cơ
quan ban ngành có liên quan.
I.6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan ban ngành liên quan
− Nhà nước cần hoàn thiện và ban hành nghị định về luật doanh nghiệp, luật đất
đai…
− Tạo hành lang pháp lý cho các NHTM có quyền tự chủ trong tổ chức bán tài sản
cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ quá hạn.
− Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp khuyến khích các doanh nghiệp có
quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả như lĩnh vực bưu chính viễn thông, dầu khí…
− Phát triển thị trường trái phiếu, thương phiếu.
− Tạo điều kiện thu hút tổ chức quốc tế về tài trợ vốn, hợp tác kinh doanh, đào tạo
nâng cao trình độ cho chủ doanh nghiệp.
I.6.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
− Đổi mới cơ chế chính sách tín dụng.
Cơ chế nên đưa ra khung pháp lý tổng hợp chứ không nên quy định quá chi tiết để
hạn chế sự can thiệp sâu không phù hợp với cơ chế thị trường. Chính sách tín dụng phải
phù hợp với yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu phân bổ nguồn lực và cơ cấu thị
trường.
− Tách bạch chức năng cơ quan chủ quản với chức năng kiểm tra giám sát.
− Tăng cường quản lý kiểm tra và thiết lập chuẩn mực an toàn nhằm phát hiện và xử
lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm xảy ra.
− Hệ thống văn bản về hoạt động ngân hàng ban hành phải đồng bộ, tránh chồng
chéo gây khó khăn cho NHTM.
− Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của NHTM.
− Phối hợp với các ngân hàng, TCTD, Chính phủ để đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại
hệ thống ngân hàng.

56
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
I.6.3. Kiến nghị với các NHTM
− Nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả quản lý điều hành.
− Nâng cao trình độ chuyên môn, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho cán bộ tín dụng.
− Coi trọng công tác thu thập thông tin về khách hàng.

57
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam

KẾT LUẬN

Chính sách tiền tệ là chính sách vĩ mô vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Tác
động CSTT có thể được truyền tải tới nền kinh tế thông qua các kênh như lãi suất, giá tài
sản, tín dụng. Nhưng ở Việt Nam trong điều kiện thị trường tài chính phát triển ở trình độ
thấp thì tín dụng thực sự trở thành kênh truyền dẫn quan trọng.
Do một số nguyên nhân nhất định mà việc truyền tải tác động CSTT tới nền kinh
tế qua kênh tín dụng bị hạn chế như chất lượng tín dụng còn thấp, khả năng hấp thụ vốn
của nền kinh tế không cao, cơ chế chính sách còn một số bất cập… Vì vậy để có thể thực
thi CSTT góp phần thực hiện định hướng phát triển kinh tế xã hội thì phải khắc phục
những nguyên nhân trên. Hay nói cách khác là phải sử dụng hệ thống các biện pháp để
duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, nâng cao chất lượng tín dụng.
Muốn vậy phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Chính phủ, NHNN, TCTD, doanh
nghiệp và tổ chức kinh tế.
Với một số nội dung đã đề cập, bài nghiên cứu xin đóng góp một phần nhỏ bé vào
việc nâng cao hiệu quả kênh tín dụng ở Việt Nam. Đề tài đã hệ thống lại những vấn đề
cơ bản về CSTT và kênh tín dụng và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả kênh tín dụng.
Do thời gian và khả năng còn hạn chế, bài nghiên cứu không tránh khỏi những sai
sót và chưa hoàn thiện. Chúng em mong nhận được sự đóng góp của thầy cô giáo và các
bạn.
Cuối cùng chúng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Tô Ngọc
Hưng và các thầy cô giáo trong khoa đã tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành bài
nghiên cứu này.
Tài liệu tham khảo
− TS Ngô Hướng và Tô Kim Ngọc: Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng (Nhà xuất bản
thống kê Hà Nội năm 2008).
− Frederic Smishkin: Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính (Nhà xuất bản khoa
học và kỹ thuật năm 2008).
− Báo cáo thường niên NHNN (1997-2008).
− Tạp chí ngân hàng 2007-2008-2009-2010
− Thời báo ngân hàng 2007-2008-2009-2010
− Thời báo kinh tế 2008-2009-2010
− Thị trường tài chính tiền tệ 2009-2010
− Trang web www.gso.gov.vn

58
Cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng và giải pháp cho Việt Nam
− Trang web http://vneconomy.vn/

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1..................................................................................................................................................................4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ KÊNH TÍN DỤNG............................................................4
I.1. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ....................................................................................................................4
I.1.1. Khái niệm về chính sách tiền tệ.................................................................................................................4
I.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.................................................................................................................5
I.1.3. Cơ chế truyền tải của chính sách tiền tệ qua các kênh.............................................................................6
I.2. Cơ sở lý luận về kênh tín dụng........................................................................................................................11
I.2.1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng............................................................................................................11
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA KÊNH
TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM .......................................................................................................................................17
2.1. Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong thời gian qua.........................................................17
2.1.1. Mục tiêu của chính sách tiền tệ..............................................................................................................17
I.2.2. Việc sử dụng các công cụ của CSTT......................................................................................................18
I.2.3. Hiệu quả CSTT ở Việt Nam trong thời gian qua.....................................................................................22
2.3. Thực trạng cơ chế truyền tải CSTT qua kênh tín dụng....................................................................................23
I.2.4. Tác động truyền tải qua kênh tín dụng ngân hàng..................................................................................23
I.2.5. Đánh giá chung về CSTT qua kênh tín dụng ở Việt Nam thời gian qua.................................................36
CHƯƠNG 3................................................................................................................................................................39
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠ CHẾ TRUYỀN TẢI TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUA
KÊNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM...........................................................................................................................39
I.3. Định hướng phát triển kinh tế xã hội...............................................................................................................39
I.4. Hoàn thiện và nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước...............................40
I.4.2. Nâng cao năng lực điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước ...........................................42
I.5. Giải pháp tăng hiệu quả truyền tải tác động CSTT qua kênh tín dụng............................................................44
I.5.1. Giữ vững môi trường kinh tế vĩ mô ổn định............................................................................................44
I.5.2. Phát triển thị trường tín dụng..................................................................................................................45
I.5.3. Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng................................................................................................50
I.6. Kiến nghị.........................................................................................................................................................56
I.6.1. Kiến nghị với Nhà nước và các cơ quan ban ngành liên quan...............................................................56
I.6.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước..................................................................................................56
I.6.3. Kiến nghị với các NHTM.........................................................................................................................57

59

You might also like