Professional Documents
Culture Documents
Mục lục:
Chương mở đầu:
I.Đặt vấn đề
II.Mục tiêu luận văn
III.Nội dung luận văn
IV.Phương pháp thực hiện
Chương mở đầu
I.Đặt vấn đề:
Sản phẩm từ chăn nuôi là một trong những loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Thịt
các động vật máu nóng như thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm có chứa nhiều axít amin cần thiết,
các chất béo, chất khoáng, vitamin và một số chất thơm. Thịt là thức ăn dễ chế biến dưới
nhiều dạng món ăn ngon vì vậy nó là loại thức ăn thường gặp hàng ngày trong bữa ăn của
chúng ta. Còn sữa, trứng cung cấp nhiều chất bổ dưỡng và năng lượng cần thiết cho quá trình
hoạt động của cơ thể.
Cũng như các ngành công nghiệp khác, trong những năm gần đây, công nghiệp chăn nuôi
của Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm chăn nuôi đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Khi được Đảng và nhà nước khuyến khích, đầu tư, ngành công nghiệp chăn nuôi ở Việt
Nam có đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp về mặt
kinh tế, những sản phẩm dinh dưỡng cần thiết cho cuộc sống của con người, công nghiệp
chăn nuôi cũng bộc lộ nhiều nhược điểm. Các trại chăn nuôi với mặt bằng hạn hẹp, không
đảm bảo các điều kiện về vệ sinh thú y và nhất là không xử lý chất thải trước khi thải ra môi
trường nên làm cho đất, không khí và hệ thống kênh rạch ở những khu vực xung quanh bị ô
nhiễm nặng. Mùi hôi do bản thân con vật và các chất thải (phân, nước tiểu, thức ăn rơi vãi,
…) bị lên men đã làm ảnh hưởng đến môi trường xung quanh khu vực trại chăn nuôi, ảnh
hưởng đến chất lượng nước ngầm, nguồn nước thiên nhiên (sông, suối). Nhất là một số hộ dân
đã sử dụng nguồn nước thải tưới rau xanh, vì nước thải chăn nuôi có chứa nhiều chất hữu cơ,
virus, vi trùng, trứng giun sán, . . . nên khi con người ăn phải, nhất là khi ăn sống nó ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Ngoài ra, nước thải chăn nuôi có nguy cơ trở thành
nguyên nhân trực tiếp phát sinh dịch bệnh cho đàn gia súc đồng thời lây bệnh sang cho người.
Các chất khí độc do quá trình bị phân huỷ bởi các hợp chất hữu cơ có trong chất thải chăn
nuôi như: Sunphuahydro, Mercaptan Metan, Amoniac…. Con người khi hấp thụ nhiều các
Sunphuahydro, Mercaptan nó sẽ bị oxy hoá nhanh chóng thành sunphat làm ức chế men
Hytochroom - Oxydaza. Chỉ một lượng nhỏ khí hấp thụ được thải ra qua hơi thở, số còn lại
một phần thải qua nước tiểu. Nếu nồng độ cao có thể gây ra tác hại không tốt cho cơ thể con
người và vật nuôi.
Mặc dù nước thải chăn nuôi heo gây ra ô nhiễm môi trường rất lớn, nhưng hầu hết các cơ
sở chăn nuôi lớn nhỏ hiện nay đều chưa có hệ thống xử lý thích hợp và hoạt động có hiệu quả.
Nguyên nhân của việc trên một phần là do ý thức của nhà quản lý chưa coi việc xử lý chất
thải là thật cần thiết. Mặt khác ngành chăn nuôi là một ngành sản xuất không có lợi nhuận
cao, chưa ổn định về cơ sở trang trại, và chưa tìm được công nghệ xử lý chất thải thích hợp.
Chính vì vậy, việc đầu tư, nghiên cứu, lựa chọn và áp dụng những kỹ thuật xử lý chất thải
chăn nuôi phù hợp đặc biệt là nước thải hiện nay trở nên quan trọng và bức thiết.
Thiết kế công nghệ hệ thống xử lý nước thải trung tâm giống vật nuôi Long An trong điều
kiện phù hợp với thực tế của trung tâm, nhằm giảm những tác động của chất thải chăn nuôi
lên môi trường.
Thu thập tài liệu, số liệu, đánh giá tổng quan về công nghệ sản xuất, khả năng gây ô nhiễm
môi trường và xử lý nước thải trong ngành chăn nuôi.
Thu thập tài liệu, số liệu về trung tâm giống vật nuôi Long An.
Lựa chọn thiết kế công nghệ và xây dựng kế hoạch quản lý_vận hành công trình xử lý
nước thải.
Tổng hợp, phân tích những tài liệu, số liệu thu thập được.
I.Nguồn gốc:
Người tiền sử không hề biết trồng trọt và chăn nuôi gia súc, họ chỉ biết dùng những công
cụ thô sơ để săn bắn và hái lượm. Con người chưa biết tích trữ thức ăn hay sản xuất ra thực
phẩm, họ chỉ biết dựa vào thiên nhiên và các con thú mà họ săn bắn được.
Đến thời chiếm hữu nô lệ, trình độ sản xuất của con người khá hơn. Khi thức ăn dư thừa,
con người đã biết đem những thú sa bẫy về nuôi chung quanh khu vực họ sinh sống. Thú
được nuôi với các loại thức ăn mà con người thấy chúng ăn lúc tự do.
Thời phong kiến, lực lượng sản xuất phát triển mạnh, trong nông nghiệp đã có sự phân
công giữa trồng trọt và chăn nuôi. Những hiểu biết về chăn nuôi và công tác giống đã hình
thành có hệ thống. Chăn nuôi nhỏ, hộ gia đình phát triển.
Từ xã hội tư bản đến nay, dân số tăng nhanh kéo theo nhu cầu về lương thực, thực phẩm
ngày càng lớn. Chăn nuôi phát triển mạnh. Việc nghiên cứu, đầu tư phát triển những giống
mới cho sản lượng cao, chất lượng tốt được chú trọng và đẩy mạnh. Chăn nuôi heo bên cạnh
qui mô nhỏ đã phát triển thành nuôi heo công nghiệp với việc ra đời ngày càng nhiều những
trại chăn nuôi qui mô lớn.
Chăn nuôi và trồng trọt là hai ngành chính của Nông nghiệp Việt Nam. Trước thời kỳ đổi
mới về đường lối kinh tế, chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi truyền thống tự cung tự cấp, tự túc
với qui mô nhỏ, hộ gia đình nhằm cung cấp sức kéo, phân bón phục vụ cho trồng trọt. Động
vật, sản phẩm động vật lưu thông trên thị trường trong phạm vi hẹp, số lượng và chất lượng
chưa đựơc quản lý chặt chẽ. Thức ăn chủ yếu tận dụng thức ăn thừa và sản phẩm phụ trong
nông nghiệp như nước gạo, cám, khoai sắn, . . .
Từ khi chuyển dịch nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường,
ngành chăn nuôi không ngừng phát triển về tổng đàn gia súc và chất lượng gia súc. Từ năm
1990 đến nay, đàn lợn có tốc độ phát triển tăng rất nhanh so với trước đó. Vào năm 1980 tổng
đàn lợn cả nước mới có 10,0 triệu con, năm 1990 có 12,26 triệu con (tăng 1,2 lần) thì năm
2000 chúng ta đã có 20,2 triệu con (tăng gấp 1,7 lần so với năm 1990) và tính đến năm 2002
đàn lợn trên cả nước đã lên đến 23,20 triệu con (gấp 1,9 lần so với năm 1990). Bình quân tốc
độ tăng đàn từ năm 1990-2002 là 5,5%. Nhiều trang trại chăn nuôi ra đời với qui mô khác
nhau, tập trung theo thế mạnh của từng vùng. Sử dụng giống vật nuôi có năng suất cao phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng trong cả nước và thế giới. Thức ăn sản xuất theo công
nghiệp đảm bảo dinh dưỡng, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh môi trường, quản lý chăm sóc đàn,
quy trình phòng bệnh, …
lợn (con)
Cả nước 23.169.532 3.262.117 19.804.776 1.653.595
Miền Bắc 14.935.269 2.174.915 12.701.257 929.553
ĐB Sông Hồng 5.396.580 907.536 4.497.812 456.841
Đông Bắc 4.917.873 633.620 4.238.975 275.601
Tây Bắc 1.050.924 159.863 878.992 28.283
Bắc Trung Bộ 3.569.892 473.896 3.085.478 188.828
Miền Nam 8.234.263 1.087.202 7.103.519 724.042
DH Miền Trung 2.028.743 301.682 1.723.548 120.691
Tây Nguyên 951.010 110.995 830.050 51.139
Đông Nam Bộ 2.103.039 276.858 1.811.455 202.921
ĐB Sông Cửu Long 3.151.471 397.667 2.738.466 349.291
Số liệu thống kê 1.10.2001
III.Vai trò_Triển vọng của công nghiệp chăn nuôi ở Việt Nam:
Nhằm đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần thực hiện công
nghiệp hóa và hiện đại hóa trong nông nghiệp, nhà nước ta đã chủ trương “đưa chăn nuôi thực
sự trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp”. Định hướng và mục tiêu phát triển:
“xây dựng vùng chăn nuôi nguyên liệu về thịt, sữa gắn với việc chế biến, nâng tỷ trọng ngành
chăn nuôi trong nông nghiệp lên 28% năm 2005 và trên 30% năm 2010.
Trong năm 2002, giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi đạt mức độ tăng trưởng 9,9%. Tỷ
trọng của ngành chăn nuôi tăng từ mức 17,9% trong toàn ngành nông nghiệp lên mức xấp xỉ
19,5% trong năm 2001. ngành chăn nuôi từng bước đã trở thành một ngành hàng sản xuất
chiếm vị trí rất quan trọng trong nông nghiệp.
Hàng chục nghìn trang trại chăn nuôi bò sữa, bò thịt, gia cầm, lợn nái, lợn thịt đã phát triển
trong những năm gần đây, góp phần chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp và mang lại hiệu
quả tương đối cao. Chất lượng gia súc, gia cầm được nâng cao đã dần dần đáp ứng được nhu
cầu tiêu dùng trong toàn xã hội. Ngành chăn nuôi hiện nay đang có một tiềm năng về thị
trường tiêu thụ rất lớn trong nước và thế giới.
Việc phát triển mạnh ngành chăn nuôi cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
các ngành công nghiệp khác liên quan như công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, công nghiệp
thực phẩm và do vậy góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Là những chất liệu trong thức ăn mà cơ thể gia súc không sử dụng hay không thể tiêu hóa
được và thải ra ngoài cơ thể.
Loại phân thải ra mỗi ngày tùy thuộc vào giống, loài gia súc, độ tuổi, khẩu phần thức ăn và
trọng lượng của gia súc.
Lượng phân thải ra hàng ngày của một số loại gia súc:
Những chất không tiêu hóa được hoặc những chất thoát khỏi sự tiêu hóa của VSV hay các
men tiêu hóa (chất xơ, protein không tiêu hóa được), acid amin thoát khỏi sự hấp thu (được
thải qua nước tiểu: acid uric ở gia cầm, ure ở gia súc). Các khoáng chất cơ thể không sử dụng
được K2O, P2O5, CaO, MgO, . . .
Các mô tróc ra từ niêm mạc của ống tiêu hóa và chất nhờn theo phân ra ngoài.
Các VSV bị nhiễm trong thức ăn, ruột: virus, vi trùng, ấu trùng, trứng giun sán, . . . bị tống
ra ngoài.
Thành phần hóa học của phân một số loại gia súc:
Loại gia súc Thành phần hóa học (% trọng lượng khô)
Chất tan dễ tiêu Nitơ Phospho C/N
Bò sữa 7.98 0.38 0.1 20-25
Bò thịt 9.33 0.70 0.20 20-25
Heo 7.02 0.83 0.47 20-25
Cừu 21.50 1.00 0.30 -
Gà 16.80 1.20 1.20 7-15
Ngựa 14.30 0.86 0.13 18.00
Trâu 10.20 0.31 - -
Nguồn: Ngô Kế Sương_Nguyễn Lân Dũng, 1997.
Nước tiểu của gia súc:
Thành phần của nước tiểu gia súc tùy thuộc vào điều kiện dinh dưỡng và khí hậu.
Nước tiểu gia súc là một loại phân bón giàu đạm và kali, hàm lượng lân ít hoặc không đáng
kể.
Nước tiểu heo nghèo đạm hơn các loại gia súc khác.
Lượng nước tiểu thải ra hàng ngày của một số loại gia súc:
Nước phân chuồng là nước từ các đống phân chảy ra, phần lớn là nước tiểu gia súc hòa lẫn
nhiều chất hòa tan của phân đặc và có chứa thêm một lượng nước rửa chuồng.
Nước phân chuồng rất giàu dinh dưỡng, dễ tiêu và có giá trị lớn về mặt phân bón. Nước
phân chuồng nghèo lân, giàu đạm và kali. Đạm trong nước phân chuồng ở 3 dạng chủ yếu:
urê, axit uric và axit hippuric. Khi để ngỏ một thời gian hay bón vào đất thì bị VSV phân giải:
axit uric và axit hippuric chuyển thành urê và urê chuyển thành amôn cacbonat.
Trong nước thải, hợp chất hữu cơ chiếm 70÷ 80% gồm cenllulose, protit, axit amin, chất
béo, hydrat carbon và các dẫn xuất của chúng. Hầu hết các chất hữu cơ dễ phân hủy, các chất
vô cơ chiếm 20÷ 30% gồm cát, đất, muối, urê, amonium, muối chlorua, SO 4, . . . Quá trình
phân hủy các chất hữu cơ trong điều kiện hiếu khí sẽ cho các sản phẩm CO2, H2O, NO2-, NO3-.
Còn trong quá trình kị khí là CH4, N2, NH3, H2S, . . .
Nhìn chung, nước thải chăn nuôi không chứa các chất độc hại như nước thải của các ngành
công nghiệp khác nhưng chứa nhiều ấu trùng, vi trùng, trứng giun sán:
Điển hình là nhóm vi trùng đường ruột với các genus như E.Coli, Salmonella, Shigella,
Proteus, Arizona. Theo nghiên cứu của A.Kigirov (1982), Nanxena (1978) và Bonde (1967):
vi trùng gây bệnh đóng dấu cho lợn tồn tại trong nước thải 92 ngày, Brucella từ 74÷ 108 ngày,
Salmonella từ 3÷ 6 tháng, Leptospira 3÷ 5 tháng, Virus FMD trong nước thải 2÷ 3 tháng. Các
loại vi trùng có nha bào như Bacillus anthracis tồn tại 10 năm (gần đây có tài liệu đến 20
năm), B.tetani tồn tại có khả năng gây bệnh 3÷ 4 năm.
Trứng giun sán trong nước thải với những loại điển hình là Fasiola hepatica,
Fasiolagigantiac, Fasiolosis buski, Ascasis suum, Oesophagostomum và Trichocephalus
dentatus, . . . có thể phát triển đến giai đoạn gây nhiễm sau 6÷ 28 ngày ở nhiệt độ và khí hậu
nước ta và có thể tồn tại được 2÷ 5 tháng.
Nhiều loại mầm bệnh có khả năng xâm nhập vào mạch nước ngầm như B.anthracis,
Salmonella, E.Coli, . . .
Trong thức ăn gia súc, thành phần chủ yếu là prôtein thô, calcium, phospho, các amino
acid, vitamin, các khoáng lượng, lysin, trytophan, … được cung cấp dưới dạng cám hỗn hợp,
bột cá, bột thịt xương, . . . Trong thức ăn đi vào cơ thể gia súc, một số chất chưa được đồng
hóa, chúng được bài tiết ra ngoài theo phân, nước tiểu cùng cuốn trôi theo nước vệ sinh máng.
Đây là những chất dễ phân hủy sinh học, giàu Nitơ, Phospho và một số thành phần khác.
IV.3.Khả năng gây ô nhiễm môi trường của chất thải chăn nuôi:
Chất thải gia súc được biết đến là mùi hôi, ruồi, muỗi. Tuy nhiên đây chỉ là tác động cục
bộ, ảnh hưởng đến người chăn nuôi và láng giềng. Chất thải gia súc có thể có tác hại trên
phạm vi rộng lớn hơn, thông qua việc gây ô nhiễm đất, nước và không khí, gây ảnh hưởng
đến sức khỏe con người.
Mùi hôi là do sự phân hủy kị khí các chất thải chăn nuôi (chủ yếu là phân và nước tiểu)
phóng thích ra các chất khí NH3, H2S, . . . Trong 3-5 ngày đầu, do VSV chưa kịp phân hủy các
chất thải nên mùi hôi ít sinh ra, sau một thời gian dài tạo thành một mùi rất khó chịu. Chất
H2S có mùi trứng thối đặc trưng, khiến cho người ngửi vào buồn nôn, choáng, nhức đầu. NH 3
kích thích mắt và đường hô hấp trên, gây ngạt ở nồng độ cao và có thể dẫn đến tử vong. Các
bể chứa phân kị khí còn tạo ra CH4 có tác dụng giữ lại năng lượng mặt trời, do đó làm thay
đổi thời tiết toàn cầu. Theo Delgado (1999), 16% lượng CH4 sản xuất hàng năm trên thế giới
từ chăn nuôi.
Ô nhiễm đất:
Chất thải chăn nuôi có thể dùng làm phân bón để tăng độ màu mỡ của đất, tăng năng xuất
cây trồng. Tuy nhiên, khi đưa vào trong đất với nồng độ quá nhiều, nếu cây sử dụng không
hết, sẽ tích tụ lại có thể làm chết cây, ô nhiễm đất, ô nhiễm nước mặt và nước ngầm.
Ví dụ: đất bón nhiều phân gia súc có chứa nhiều nitrogen và phospho, khi có mưa nitrogen
ngấm qua đất vào nước ngầm đưới dạng nitrat. Nitrogen và phospho còn có thể hòa vào nước
chảy tràn trên mặt đất để ra hồ, sông gây nên hịen tượng phú dưỡng hóa làm ô nhiễm nước
mặt.
Ngoài ra, đất bón phân heo trong nhiều năm ở lượng cao có thể bị nhiễm những kim loại
nặng như Cu, Zn vì những chất này thường được trộn vào thức ăn gia súc để kích thích tiêu
hóa và phòng ngừa dịch bệnh. Về lâu dài, các chất này có thể có hại cho cây trồng, vật nuôi
và cả con người.
Trong chất thải chăn nuôi còn có nhiều loại vi trùng, ấu trùng, trứng giun sán. Khi dùng
phân tươi để bón cây, nhất là các loại rau, nguy cơ nhiễm bệnh cho người và gia súc cũng
tăng lên.
Ô nhiễm nước:
Chất thải gia súc có thể dẫn đến hiện tượng phú dưỡng hóa đối với nước mặt, ô nhiễm
NH3, kim loại nặng và các loại kí sinh trùng, vi trùng (như E.Coli, Salmonella,
Cryptospridium, Giardia, Cholera, Streptococus, . . .). Hiện tượng phú dưỡng hóa là sự phát
triển quá mức của tảo do dư Nitơ, Phospho. Do đó, các vi khuẩn phân hủy rong tảo cũng phát
triển, sử dụng oxi trong nước làm cạn kiệt nguồn oxi một cách nhanh chóng và khi chết chúng
tạo ra mùi khó chịu cho nước. Khi quá trình oxi hóa bị ngưng lại, khi đó các vi khuẩn kị khí
có sẵn trong nguồn nước thải sẽ phân hủy kị khí các chất hữu cơ tạo thành CH 4, CO2, H2S, . . .
Cũng chính môi trường này, một số loại sinh vật không tồn tại sự sống như cá, ếch, nhái, . .
.nếu lượng nước này được xả trực tiếp ra mạng lưới thoát nước sẽ gây mùi hôi thối, gây ô
nhiễm nước mặt và ít nhiều làm ảnh hưởng đến mạch nước ngầm.
Chất NH3, sau một quá trình chuyển hóa, tạo NO3- trong nước. NO3- tồn tại trong đất với
một lượng cao có thể ngấm qua đất để vào nước ngầm. Nước có nồng độ NO 3- cao có khả
năng gây tử vong cho trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi.
Đa số dân sống quanh những khu nuôi heo chưa có hệ thống xử lý chất thải, ta thán về mùi
hôi, ruồi và nước sông bị ô nhiễm do nước thải từ khu chăn nuôi chảy trực tiếp ra sông. Nước
sông không còn dùng để tưới tiêu được nữa. Những người sống ven sông này thường bị chứng
ngứa da, ngứa mắt, viêm gan.
V.Tổng quan các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi trên Thế Giới và ở Việt Nam:
Nước thải chăn nuôi chứa hàm lượng chấ hữu cơ rất cao, giàu N, P nên dùng phương pháp
sinh học để xử lý là thích hợp.
Dựa trên khả năng tự làm sạch sinh học trong môi trường đất và hồ nước.
Đây là phương pháp được áp dụng phổ biến ở nhiều nước vì dễ thực hiện, giá thành thấp,
hiệu quả tương đối cao.
Với nguồn nước thải có chứa nhiều hợp chất hữu cơ, ít độc hại như nước thải chăn nuôi có
thể sử dụng cánh đồng tưới sinh học.
Sử dụng cánh đồng tưới nhằm xử lý và làm sạch đồng thời tận dụng các chất dinh dưỡng
có trong nước thải để trồng trọt.
Cơ chế hoạt động của cánh đồng tưới khác cánh đồng lọc là có trồng lúa và hoa màu. Nhờ
cây trồng, hiệu quả xử lý được nâng cao vì cây trồng hấp thu các chất vô cơ có tác dụng thúc
đẩy nhanh tốc độ phân hủy. Bộ rễ còn có tác dụng chuyển oxy xuống tầng đất sâu dưới mặt
đất để oxy hóa các chất hữu cơ thấm xuống.
Khi sử dụng cánh đồng tưới phải chú ý đến độ xốp của đất, chế độ tưới nước và yêu cầu
phân bón của cây trồng.
Đây là những khu đất được quy hoạch để xử lý nước thải. Khi nước thải được lọc qua đất,
các chất keo lơ lửng được giữ lại tạo thành màng VSV. VSV trong màng này sử dụng chất
hữu cơ để tăng sinh khối và biến thành các chất hòa tan hoặc chất hữu cơ đơn giản.
Toàn bộ khu đất phải được chia làm nhiều ô, các ô phải bằng phẳng để bảo đảm phân phối
nước đều. Tải trọng trên cánh đồng tưới tùy htuộc vào độ lớn của vật liệu lọc. Hiệu quả làm
sạch của cánh đồng lọc rất cao, giảm BOD hơn 90%, coliform hơn 95%, nước thải rất trong
sau xử lý.
Được áp dụng rộng rãi hơn cánh đồng lọc và cánh đồng tưới. Nó có nhiều ưu điểm: diện
tích chiếm nhỏ hơn cánh đồng lọc, có thể nuôi trồng thủy sản, cung cấp nước cho trồng trọt,
chi phí thấp, vận hành và bảo trì đơn giản.
Các quá trình diễn ra trong ao sinh học tương tự như quá trình tự rửa sạch ở sông hồ nhưng
tốc độ nhanh hơn và hiệu quả hơn.
Quá trình hoạt động trong các hồ sinh học dựa trên quan hệ cộng sinh của toàn bộ quần thể
sinh vật có trong hồ tạo ra. Trong số các chất hữu cơ đưa vào hồ các chất không tan sẽ bị lắng
xuống đáy hồ còn các chất tan sẽ được hòa loãng trong nước. Dưới đáy hồ sẽ diễn ra quá trình
phân giải yếm khí các hợp chất hữu cơ, sau đó thành NH3, H2S, CH4. Trên vùng yếm khí và
vùng yếm khí tùy tiện và hiếu khí với khu hệ vi sinh rất phong phú gồm các giống
Pseudomonas, Bacillus, Flavobacterium, Achromobacter, . . . chúng phân giải chất hữu cơ
thành nhiều chất trung gian khác nhau và cuối cùng là CO 2, đồng thời tạo ra các tế bào mới,
chúng sử dụng oxy do tảo và các thực vật tạo ra. Các VSV nitrat hóa sẽ oxy hóa N-amonia
thành nitrit rồi nitrat. Một nhóm VSV khác như P.dennitrificans, B.Licheniformis,
Thiobacillus denitrificans lại phản nitrat để tạo thành nitrogen phân tử. Hệ vi khuẩn và nấm,
xạ khuẩn phân hủy các chất hữu cơ thành các chất vô cơ cung cấp cho tảo và các thực vật
thủy sinh như bèo, rong. Ngoài ra, còn các thực vật khác như sen, súng, rau muống. Tảo và
các thực vật này lại cung cấp oxy cho vi khuẩn đồng thời còn là nơi cộng sinh rất tốt cho các
loài VSV. Thực vật trong hồ đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình ổn định nước, chúng
lấy chất dinh dưỡng (chủ yếu là N, P) và các kim loại nặng (Cd, Cu, Hg và Zn) để tiến hành
các quá trình đồng hóa.
Là loại ao cạn từ 0.3-0.5 m, được thiết kế sao cho ánh sáng mặt trời xâm nhập vào lớp
nước nhiều nhất làm phát triển tảo. Điều kiện thông khí phải được đảm bảo từ mặt nước đến
đáy ao. Có hai loại là thông khí tự nhiên và thông khí bằng nhân tạo với hệ thống sục khí nén.
Đây là ao phổ biến nhiều. Trong ao phân ra làm 3 vùng khác nhau:
Vùng hiếu khí: oxy cung cấp bởi không khí, và từ quá trình quang hợp của VSV.
Vùng kị khí (dưới đáy hồ): các VSV yếm khí phát triển rất mạnh và phân hủy rất nhanh
các chất hữu cơ lắng xuống, sinh ra khí CH4.
Vùng trung gian: giao thoa giữa hiếu khí và yếm khí. Sự phát triển của các VSV trong
vùng này không ổn định cả về số lượng, số loài và cả về chiều hướng phản ứng sinh học.
Ao thường sâu từ 1-2m, thích hợp cho sự phát triển của tảo và các VSV tùy nghi.
Ban ngày, khi có ánh sáng mặt trời quá trình xảy ra trong hồ là hiếu khí. Ban đêm và lớp
đáy là kỵ khí.
Là loại ao sâu hơn 1.5m, không cần oxy cho hoạt động của VSV. Ở đây các loài VSV kỵ
khí và tùy nghi dùng oxy từ các hợp chất như nitrat, sulphate để oxy hóa chất hữu cơ tạo
thành CH4 và CO2.
Hồ kị khí thường tạo ra mùi rất khó chịu nên cần phải chọn địa điểm cách xa khu dân cư
1.5-2 km để xây dựng hồ.
Quá trình chuyển hóa vật chất trong bể dựa trên hoạt động sống của các VSV hiếu khí. Các
VSV trong bể aerotank tồn tại ở dạng huyền phù. Các huyền phù VSV có xu hướng lắng đọng
xuống đáy, do đó việc khuấy trộn các dung dịch trong bể là điều cần thiết.
Người ta có thể cung cấp khí cho bể aerotank bằng nhiều cách: thổi khí, nén khí, làm thoáng
cơ học, thổi_nén khí với hệ thống cơ học.
Có nhiều loại bể aerotank khác nhau, tùy theo yêu cầu xử lý, tính kinh tế, diện tích đất sử
dụng mà chọn loại nào cho phù hợp: bể aerotank truyền thống, bể aerotank với sơ đồ nạp
nước thải theo bậc, bể aerotank tải trọng cao, bể aerotank có ngăn tiếp xúc với bùn hoạt tính
đã ổn định, bể aerotank làm thoáng kéo dài, bể aerotank khuấy trộn hoàn chỉnh, . . .
Ưu điểm của bể aerotank: đạt được mức độ xử lý triệt để, thời gian khởi động ngắn, ít tạo
mùi hôi, có tính ổn định cao trong quá trình xử lý.
Đây là loại công nghệ mới đang được sử dụng ở nhiều nước trên thế giới vì hiệu quả xử lý
Nitơ, Phospho rất cao nhờ vào các qui trình hiếu khí, thiếu khí, yếm khí.
Pha làm đầy (fill): đưa nước thải vào bể, có thể vận hành theo 3 chế độ: làm đầy_tĩnh,
làm đầy_khuấy trộn và làm đầy_sục khí.
Pha phản ứng (react): ngừng đưa nước thải vào bể, tiến hành sục khí đều diện tích bể.
Thời gian làm thoáng phụ thuộc vào chất lượng nước thải và yêu cầu mức độ xử lý.
Pha ổn định (settle): các thiết bị sục khí ngừng hoạt động, quá trình lắng diễn ra trong
môi trường tĩnh hoàn toàn. Thời gian lắng thường nhỏ hơn 2h.
Pha tháo nước trong (decant): nước đã lắng trong ở phần trên của bể được tháo ra
nguồn tiếp nhận bằng ống khoan lỗ hoặc máng thu nước trên phao nổi.
Pha chờ (idle): thời gian chờ để nạp mẻ mới. Pha này có thể bỏ qua.
Ưu điểm của bể SBR: hiệu quả khử Nitơ, Phospho cao; tiết kiệm diện tích đất xây dựng vì
không cần xây dựng bể điều hòa, bể lắng I và lắng II; có thể kiểm soát hoạt động và thay đổi
thời gian giữa các pha nhờ bộ điều khiển PLC; pha lắng được thực hiện trong điều kiện tĩnh
hoàn toàn nên hiệu quả lắng tốt.
Nhược điểm: chi phí của hệ thóng cao, người vận hành phải có kỹ năng tốt, đạt được hiệu
quả xử lý cao khi lưu lượng nhỏ hơn 500m3/ngày đêm.
Là loại bể kín, phía trong chứa vật liệu lọc đóng vai trò như giá thể của VSV dính bám.
Nhờ đó, VSV sẽ bám vào và không bị rửa trôi theo dòng chảy.
Vật liệu lọc của bể lọc kị khí là các loại cuội, sỏi, than đá, xỉ, ống nhựa, tấm nhựa hình
dạng khác nhau. Kích thước và chủng loại vật liệu lọc, được xác định dựa vào công suất của
công trình, hiệu quả khử COD, tổn thất áp lực nước cho phép, điều kiện nguyên vật liệu tại
chỗ.
Nước thải có thể được cung cấp từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
Nước thải trước khi vào bể lọc cần được lắng sơ bộ.
Ưu điểm chính: khả năng khử BOD cao, thời gian lọc ngắn, VSV dễ thích nghi với nước
thải, vận hành đơn giản, ít tốn năng lượng, thể tích của hệ thống xử lý nhỏ.
Nhược điểm: thường hay bị tắc nghẽn, giá thành của vật liệu lọc khá cao, hàm lượng cặn lơ
lửng ra khỏi bể lớn, thời gian đưa công trình vào hoạt động dài.
Bể UASB không sử dụng vật liệu dính bám mà sử dụng lớp cặn (có chứa rất nhiều VSV kị
khí) luôn luôn tồn tại lơ lửng trong dung dịch lên men nhờ hệ thống nước thải chảy từ dưới
lên. Sau một thời gian hoạt động, trong hệ thống hình thành 3 lớp; phần bùn đặc ở đáy hệ
thống, một lớp thảm bùn ở giữa hệ thống gồm những hạt bùn kết bông và phần chứa biogas ở
trên cùng. Nước thải được nạp vào từ dưới đáy hệ thống, đi xuyên qua lớp bùn đặc và thảm
bùn rồi đi lên trên và ra ngoài. Khi tiếp xúc với những hạt bùn kết bông ở thảm bùn, vi khuẩn
sẽ xử lý chất hữu cơ và chất rắn sẽ được giữ lại. Khí và các chất rắn lơ lửng được tách ra từ
nước thải được xử lý bởi thiết bị tách gas và chất rắn trong hệ thống. Các hạt bùn sẽ lắng
xuống thảm bùn và định kì được xả ra ngoài.
Ưu điểm của bể UASB: hiệu quả xử lý cao, thời gian lưu nước trong bể ngắn, thu được khí
CH4 phục vụ cho nhu cầu về năng lượng, cấu tạo bể đơn giản, dễ vận hành, năng lượng phục
vụ vận hành bể ít.
Khuyết điểm: khó kiểm soát trạng thái và kích thước hạt bùn, các hạt bùn thường không ổn
định và rất dễ bị phá vỡ khi có sự thay đổi môi trường.
Đây là loại bể rất thích hợp và đang được sử dụng rộng rãi để xử lý nước thải chăn nuôi
heo ở các vùng nông thôn Việt Nam va một số nước trên thế giới vì nó có rất nhiều ưu điểm:
Kích thước bể metan có thể thay đổi tùy trường hợp: có kích thước nhỏ ở hộ gia đình hay
kích thước lơn ở các trại chăn nuôi heo công nghiệp.
Khí mêtan sinh ra được coi là nguồn năng lượng quan trọng: nó có thể thay thế than, kể cả
nhu cầu điện khí hóa ở các vùng nông thôn.
Sử dụng các chất thải và các phụ phẩm trong nông nghiệp (rơm, rạ, . . .).
Phân hủy các chất hữu cơ phức tạp thành các chất đơn giản, ổn định, các hợp chất chứa
Nitơ, phospho, kali là những chất có thể tái sử dụng ngay làm phân bón trong trồng trọt.
Giảm khoảng 90% kí sinh trùng và các VSV gây bệnh cho người, gia súc nhờ thời gian lưu
trữ lâu.
Tuy nhiên bể Biogas vẫn còn một số nhược điểm: tuổi thọ của bể ngắn, hiệu quả xử lý
BOD thấp, phần cặn còn chứa nhiều nước rất khó vận chuyển hay sự ổn định của chất lượng
hỗn hợp khí mêtan.
Bể Methan được thiết kế theo hình trụ hay hình hộp, cũng có loại sử dụng bằng túi nhựa
polyeste (dùng cho hộ gia đình hoặc những trại chăn nuôi quy mô nhỏ).
Khi xây dựng bể có thể chôn sâu dưới lòng đất (ở những vùng có nhiệt độ lạnh) hoặc trên
mặt đất (ở những nơi nhiệt độ cao).
Khi vận hành bể, người ta thường lấy nước trong ra liên tục và bổ sung nước thải mới vào.
Do đó lượng căn cũng sinh ra liên tục, người ta có thể lấy lượng cặn lắng ở đáy bể ra theo chu
kỳ hoặc liên tục.
Trung tâm được thành lập nhằm mục đích duy trì và phát triển đàn heo giống gốc ngoại
nhập, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi heo, đảm bảo cung cấp đủ con
giống tốt cho nhu cầu phát triển sản xuất chăn nuôi heo trong tỉnh. Đồng thời, trung tâm còn
là nơi kiểm tra thích nghi đối với bò sữa nhập ngoại trước khi giao cho hộ nuôi và nhập cung
cấp tinh bò sữa cao sản phục vụ yêu cầu phát triển đàn bò sữa trong tỉnh Long An.
Trong trung tâm cũng có khu nuôi cá sấu, cá thịt nhằm tận thu các phế phẩm chăn nuôi,
các chất thải và trồng cây để tạo hiệu quả kinh tế cao trong xử lý môi trường theo mô hình sản
xuất bền vững.
Nằm trong vùng qui hoạch phát triển chăn nuôi heo của tỉnh.
Giao thông thuận lợi cả đường bộ (quốc lộ 62) lẫn đường thủy (sông Vàm Cỏ Tây).
Có mạng lưới điện quốc gia chạy cặp theo Quốc lộ 62.
Nguồn cung cấp nước: có thể sử dụng nướ mặt (nước sông Vàm Cỏ Tây) và cả nước ngầm
(khoan sâu 300m). Chất lượng nước khá tốt, đảm bảo chất lượng cho chăn nuôi và sinh hoạt.
Nguồn tiếp nhận nước thải phát sinh: là kênh Tắt thuộc sông Vàm Cỏ Tây.
Sông Vàm Cỏ Tây chịu ảnh hưởng chủ yếu của thủy triều biển Đông với chế độ bán nhật
triều không đều: những tháng lũ (10,11) thời gian và mức độ ngập lụt không nhiều. Từ tháng
6,7 hàng năm nước sông thường bị ảnh hưởng phèn, pH từ 4,1÷ 5,0.
Kênh Tắt (chảy qua khu vực trung tâm), là một nhánh thuộc sông Vàm Cỏ Tây, có bề rộng
mặt kênh hơn 100m thuận lợi cho giao thông của những tàu bè nhỏ và vừa.
Hệ sinh thái động vật: không có các loại chim thú quý hiếm. Chỉ có các loại động vật nuôi
(trâu, bò, lợn, gà, . . .) và các động vật thủy sinh sống tự nhiên trên kênh rạch (tôm, cua, cá).
Hệ sinh thái thực vật: không có loài quý hiếm, chủ yếu là những loại đặc trưng cho vùng
Đồng Tháp Mười (lúa, mía, dừa, rau màu, bần, bình bát, dứa gai, mù u, . . .).
Theo các kết quả được trạm Kỹ Thuật Tiêu Chuẩn Đo lường chấ lượng Long An đo đạc:
nồng độ các chất khí ô nhiễm (NO2, SO2, CO) trong không khí tại khu vực trung tâm đều nhỏ
hơn tiêu chuẩn (TCVN 5937-1995) qui định.
Kết quả phân tích cho thấy nước ngầm tại khu vực dự án khá tốt, có thể dùng cấp nước cho
mục đích sinh hoạt nếu được xử lý sơ bộ.
Qua kết quả phân tích của xí nghiệp Công nghệ Môi Trường_Eco, chất lượng nước kênh
Tắt có các thông số (BOD5, COD, SS) vượt quá tiêu chuẩn một ít (TCVN 5942-1995). Điều
này chứng tỏ nguồn nước mặt tại khu vực đã có dấu hiệu ô nhiễm nhẹ.
I.Phân tích thành phần và tính chất nước thải của trung tâm:
Nước thải trung tâm bao gồm: nước mưa chảy tràn, nước thải sinh hoạt và nước thải từ
hoạt động chăn nuôi.
Nước mưa chảy tràn có đường thoát nước tách riêng ra khỏi đường thoát nước thải. Nước
mưa sẽ qua bộ phận chắn rác trước khi đổ thẳng ra kênh Tắt.
Nước thải sinh hoạt: chiếm một lượng rất nhỏ, đã được xử lý sơ bộ bằng bể tự hoại trước
khi đổ ra hệ thống xử lý nước thải tập trung nên khả năng gây ô nhiễm thấp.
Nươc thải tắm heo, bò và nước rửa chuồng: chiếm chủ yếu, là nguồn gây ô nhiễm chính.
Nước thải tắm vật nuôi và nước rửa chuồng chứa nhiều đất, cát và chất hữu cơ (phân, cặn lắng
lẫn trong nước thải), đặc biệt là các hợp chất nitrat, phospho và các loài VSV truyền bệnh.
Nước thải trước khi vào hệ thống xử lý tập trung được lắng sơ bộ bằng hầm chứa 3 ngăn: một
ngăn chứa phân, hai ngăn chứa nước tràn.
Nước thải sau xử lý phải đạt tiêu chuẩn loại A (TCVN 5942-1995) như sau:
pH= 6÷ 6.8
BOD5 = 4 mg/l
COD = 10 mg/l
SS = 20 mg/l
N_NH3 =
Nitrit (NO2-) =
E.Coli = 5.000 MNP/100ml
Đặc điểm nước thải của ngành chăn nuôi nói chung và trung tâm giống vật nuôi Long An
nói riêng là hàm lượng các chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học khá cao, giàu đạm. Nước thải
của trung tâm sau khi qua xử lý sơ bộ có tỷ số BOD5:COD = 0.82 > 0.5 nên công nghệ thích
hợp là công nghệ xử lý bằng phương pháp sinh học. Vì nồng độ BOD và COD trong nước
thải khá lớn, để xử lý một cách triệt để cần phải sử dụng kết hợp phương pháp xử lý sinh học
trong điều kiện kỵ khí với phương pháp sinh học trong điều kiện hiếu khí.
Có rất nhiều công trình xử lý khác nhau như hồ sinh học kị khí, bể biogas, bể lọc kị khí, bể
UASB.
Hồ sinh học kị khí: tuy có nhiều ưu điểm như chi phí xây dựng và chi phí hoạt động thấp,
kỹ thuật đơn giản nhưng quá trình xử lý lại phát sinh mùi hôi rất khó chịu. Trung tâm hai mặt
giáp với đất thổ cư của dân nên sử dụng phương pháp này là không thích hợp.
Bể biogas: được sử dung nhiều ở nông thôn Việt Nam vì chi phí đầu tư thấp, ít tiêu tốn
năng lượng, tạo năng lượng mới, khống chế được mùi hôi. Tuy nhiên hiệu quả xử lý của bể
biogas không cao nên không đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy, bể được sử dụng để xử lý sơ
bộ nước thải nhằm loại bỏ bớt một phần BOD, COD, SS trước khi vào công trình xử lý tiếp
theo.
Bể lọc kị khí: nếu vận hành tốt hiệu quả khử BOD có thể đạt tới 70÷ 90%, thời gian lưu
nước ngắn, vi sinh vật dễ thích nghi với nước thải, ít tốn năng lượng trong quá trình vận hành.
Bên cạnh đó, bể lọc kị khí chỉ áp dụng cho nước thải có hàm lượng cặn lơ lửng không cao vì
bể hay gặp sự cố tắc nghẽn, người vận hành đòi hỏi phải có kỹ thuật tốt. Thực tế đặc tính
nước thải của trung tâm, SS = 320 mg/l nên công trình này có thể được sử dụng.
Bể UASB: được sử dụng phổ biến hơn bể lọc kị khí vì hiệu quả khử chất hữu cơ cao
(60÷ 90), yêu cầu năng lượng vận hành bể ít, tạo nguồn năng lượng mới, lượng bùn sinh ra ít,
khi đã đi vào hoạt động ổn định cho phép vận hành ở các tải trọng hữu cơ cao hơn so các loại
bể khác nên có thể giảm diện tích của công trình.
Với nhiều ưu đểm hơn so với các công trình khác, sử dụng bể UASB là thích hợp nhất đối
với điều kiện của trung tâm.
Cũng có rất nhiều các công trình xử lý khác nhau: hồ hiếu khí, hồ tùy nghi, các loại bể
aerotank, bể lọc sinh học, đĩa lọc sinh học tiếp xúc quay RBC, mương oxy hóa, bể SBR.
Hồ hiếu khí tự nhiên_Hồ tùy nghi: kỹ thuật đơn giản, chi phí xây dựng và vận hành thấp,
hiệu quả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, thời gian lưu nước khá dài nên không khả thi
đối với trung tâm.
Các loại bể aerotank: hiệu quả xử lý triệt để, năng lượng cung cấp lớn, lượng bùn sinh ra
nhiều 0.55÷ 0.65 kg/kgBOD được xử lý, thời gian lưu bùn khoảng 2÷ 10 ngày. So với các
điều kiện đặt ra của trung tâm, công trình này không thích hợp.
Bể lọc sinh học: chỉ đạt hiệu quả khi BOD5 của nước thải dưới 300mg/l. Điều này rất khó
bảo đảm khi hệ thống đi vào hoạt động nên không áp dụng cho trung tâm.
Đĩa lọc sinh học RBC: hiệu quả xử lý cao nhưng vận hành đòi hỏi người có kĩ thuật, hàm
lượng chất lơ lửng ra khỏi bể lớn, cần phải có hệ thống che chắn để bảo vệ hệ thống đĩa nên
công trình này khó áp dụng.
Bể SBR: có hiệu quả xử lý cao, loại bỏ các chất dinh dưỡng rất tốt nhưng người vận hành
đòi hỏi có kỹ thuật cao và giá thành lại cao hơn so với các công trình khác nên không thích
hợp với trung tâm.
Mương oxy hóa: hiệu quả xử lý có thể đạt đến 85÷ 95%; quản lý vận hành không phức tạp;
lượng bùn sinh ra ít hơn so với arotank, nhưng vẫn nhiều hơn so với hồ hiếu khí nhân tạo vì
phải tuần hoàn bùn từ bể lắng II. Công trình này có nhiều ưu điểm so với các công trình khác
nên có thể được sử dụng.
Hồ hiếu khí nhân tạo: xây dựng và vận hành đơn giản, hiệu quả xử lý cao 80÷ 90%; không
dùng bùn hoạt tính hoàn lưu từ bể lắng II nên lượng bùn sinh ra thấp nhất so với các công
trình khác 0.12÷ 0.16 kg/kgBOD được xử lý, thời gian lưu bùn khá dài 10÷ 40 ngày, chi phí
xây dựng thấp. Trong tất cả công trình trên, dựa vào thực tế của trung tâm, công trình này là
thích hợp nhất.
Dựa trên việc phân tích thành phần nước thải, yêu cầu mức độ xử lý, điều kiện kinh tế,
những công trình có thể áp dụng là:
Nước thải đã
qua xử lý sơ bộ
Không khí
Bể điều hòa
Làm phân
Bể UASB bón
Không khí
Hồ làm
thoáng
Làm phân
Hồ hoàn
bón
thiện
Nguồn tiếp
nhận
Phương án 2:
Nước thải đã
qua xử lý sơ
bộ
Song chắn
ố chứa rác
rác
Không khí
Bể điều hòa
Bể lọc kị khí
Không khí
Mương oxy
hóa Bùn tuần
hoàn
Làm phân bón
Bể lắng
Nguồn tiếp
nhận
Nước thải sau khi được xử lý sơ bộ chảy qua song chắn rác vào bể điều hòa. Tại đây, nhờ
máy khuấy sục khí khuấy trộn, nước thải được điều hòa về lưu lượng và nồng độ các chất
như: COD, BOD, SS, pH, . . . đồng thời việc cung cấp khí sẽ nhằm oxy hóa một phần hàm
lượng COD, BOD có trong nước thải, giảm bớt mùi hôi. Ở bể này có lắp đặt thiết bị đo pH
nhằm đảm bảo pH thích hợp cho quá trình xử lý sinh học phía sau.
Từ bể điều hòa, nước thải được bơm vào bể UASB. Tại bể UASB, các chất hữu cơ sẽ bị
phân hủy bởi các VSV kị khí thành các chất đơn giản hơn và khí CO2, CH4, H2S, . . . theo
phản ứng:
Phân hủy các chất hữu cơ phức tạp và các chất béo thành các chất hữu cơ đơn
giản hơn như monosacarit, axit amin hoặc các muối piruvat khác. Đây là
nguồn dinh dưỡng và năng lượng cho vi khuẩn hoạt động.
Các nhóm vi khuẩn kị khí thực hiện quá trình lên men axit, chuyển hóa các
chất hữu cơ đơn giản thành các loại axit hữu cơ thông thường như axit acetic
hoặc glixerin, axetat, . . .
CH 3 CH 2 COOH + 2 H 2 O → CH 3 COOH + CO2 + 3H 2
CH 3 CH 2 CH 2 COOH + 2 H 2 O → 2CH 3 COOH + 2 H 2
Các nhóm vi khuẩn kị khí bắt buộc lên men kiềm (chủ yếu là các loại vi khuẩn
lên men mêtan như Methanosarcina và Methanothrix) đã chuyển hóa axit
acetic và hydro thành CH4 và CO2.
CH 3 COOH → CO2 + CH 4
CH 3 COO + H 2 O → CH 4 + HCO3
HCO3 + 4 H 2 → CH 4 + OH + 2 H 2 O
Phần bùn sẽ được thu gom định kỳ dùng làm phân bón
Sau khi ra khỏi bể UASB, nước thải được dẫn đến hệ thống hồ làm thoáng gồm 3 hồ làm
thoáng cơ học nối tiếp nhau. Tại đây không khí được cung cấp bằng thiết bị sục khí bề mặt.
Năng lượng cung cấp cho các hồ làm thoáng được phân phối giảm dần từ hồ 1 đến hồ 3. Các
VSV hiếu khí sẽ phân hủy các chất hữu cơ còn lại trong nước thải thành các chất vô cơ đơn
giản như CO2, H2O, . . . theo phản ứng sau:
Khi qua hệ thống hồ làm thoáng, nước thải với các quần thể vi sinh vật trôi đến hồ hoàn
thiện, tại đây diễn ra quá trình tự làm sạch. Phần chất hữu cơ còn lại bị phân hủy tiếp tục, bùn
hoạt tính lắng xuống đáy hồ và được thu gom định kỳ dùng làm phân bón. Nước thải sau hồ
hoàn thiện đạt tiêu chuẩn loại A và được chảy trực tiếp ra nguồn tiếp nhận đó là kênh Tắt.
400
Vbeå= = 133.33m3 → chọn thể tích mỗi bể Vbể=134m3
3
Nồng độ COD đầu vào bể S0=3143mg/l
Kiểm tra tải trọng thể tích của bể:
Qv × S0
L=
Vbeå
Trong đó:
Qv: lưu lượng nước thải vào bể mỗi ngày, Q=250m3/ngđ
S0: nồng độ COD đầu vào, S0=3143mg/l
Vbể=134m3
250 × 3143
⇒L= × 10 −3 = 5.86 kgCOD 3 , nằm trong khoảng 1÷ 6 kgCOD/m3.ngđ
134 m .ngñ
Lượng khí sinh ra mỗi ngày:
Chọn tỷ lệ sinh khí mêtan (CH4) là 60%.
Thông thường mỗi mét khối nguyên liệu đã hòa loãng trong bể lên men có thể sản xuất được
0.4÷ 0.5m3 khí một ngày. Chọn tỷ lệ sinh khí là 0.4m3/m3 nguyên liệu.ngày
Lượng khí sinh ra mỗi ngày:
3
Vkhí = 0.4 × V = 0.4 × 300 = 120 m
ngñ
Lượng khí CH4 sinh ra mỗi ngày:
3
VCH4 = 0.6 × Vkhí = 0.6 × 120 = 72 m
ngñ
III.2.1.Song chắn rác:
a.Nhiệm vụ: nhằm loại bỏ các loại rác có kích thước lớn, nhằm bảo vệ các công trình phía
sau, cản các vật lớn đi qua có thể làm tắc nghẽn hệ thống (đường ống, mương dẫn, máy bơm)
làm ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý của các công trình phía sau.
b.Tính toán:
250 3
Lưu lượng trung bình ngày: Qgiôø=
tb
= 10.42 m
24 h
250
Lưu lượng trung bình giây: Qgiaây=
tb
× 1000 = 2.89 l
24 × 3600 s
Trong đó: Kcb là hệ số không điều hòa chung của nước thải, lấy theo TCXD-51-84:
Kch=3.
3
⇒ Qgiôø
max
= 10.42 × 3 = 31.26 m
h
Song chắn rác đặt nghiêng một góc 600 so với mặt đất.
Trong đó:
max 31.26 m3
: lưu lượng giây lớn nhất của dòng thải, Qgiaây=
Qgiaây max
3600 s
b: chiều rộng khe hở giữa các song chắn, b:15÷ 25mm. Chọn b=16mm.
h: chiều sâu mực nước qua song chắn rác thường lấy bằng chiều sâu mực nước trong
mương dẫn. Chọn h=0.1m
vmax: vận tốc chuyển động của nước thải trước song chắn rác ứng với lưu lượng lớn
nhất, vmax: 0.6÷ 1m/s. Chọn vmax=0.7m/s.
ko: hệ số tính đến độ thu hẹp của dòng chảy khi sử dụng công cụ cào rác cơ giới,
ko=1.05
31.26
⇒ n= × 1.05 = 7.75
3600 × 0.016 × 0.1 × 0.7
Bs = s× (n − 1) + b× n
Trong đó:
→ Chọn Bs=0.19m
Kiểm tra lại vận tốc dòng chảy ở phần mở rộng trước song chắn rác ứng với lưu lượng giờ lớn
nhất. Vận tốc này không được nhỏ hơn 0.4m/s
max
Qgiaây 31.26
vktra = = = 0.46 m → thỏa điều kiện.
Bs × h 3600 × 0.19 × 0.1 s
0.016
vmax: vận tốc nước qua song chắn rác, chọn vmax=0.7m/s.
g: gia tốc trọng trường, g=9.81m/s2.
k: hệ số tính đến việc tăng tổn thất áp lực do rác bám, lấy k=3.
⇒ hs = 0.83 ×
( 0.7 ) 2 × 3 = 0.062m
2 × 9.81
L1 =
( Bs − Bk )
2 × tgϕ
Trong đó:
Bs : chiều rộng của song chắn, Bs = 0.19m
a.Nhiệm vụ: nhằm điều hòa, ổn định về lưu lượng và nồng độ các chất; ổn định pH của
nước thải; tránh phát sinh mùi hôi nhờ làm thoáng cung cấp oxy cho nước thải bằng máy
khuấy. Nhờ đó giúp cho các công trình phía sau không bị quá tải, nước thải cấp vào các công
trình xử lý sinh học phía sau được liên tục nên vận hành tốt, đạt được hiệu quả xử lý cao.
b.Tính toán:
Do lưu lượng và tính chất nước thải của trung tâm thay đổi có tính chu kỳ theo thời gian
làm việc trong ngày, nước thải chủ yếu vào đầu giờ buổi sáng, buổi trưa và cuối buổi chiều.
Chọn thời gian lưu nước trong bể điều hòa tñh = 12h
Tính toán lượng không khí cần cung cấp cho bể:
Đối với bể điều hòa dùng hệ thống sục khí, lượng không khí cần 0.01÷ 0.015m3/m3 dung tích
bể trong một phút.
Chọn I=0.01m3/m3 dung tích bể trong 1 phút.
Lượng không khí cần cung cấp cho bể:
3 3
M = I × V = 0.01 × 148 = 1.48 m = 88.8 m
phuùt giôø
III.2.3.Bể UASB:
a.Nhiệm vụ: nhờ vào quá trình hoạt động của các vi sinh vật kị khí nhằm biến đổi các chất
hữu cơ phức tạp thành các chất đơn giản hơn và sinh ra khí sinh học. Việc giảm bớt nồng độ
các chất ô nhiễm hữu cơ ở bể UASB giúp tăng hiệu quả của các công trình xử lý hiếu khí phía
sau (nồng độ COD đầu vào và tải trọng hữu cơ giảm).
b.Tính toán:
Nồng độ N,P có sẵn trong nước trước khi vào bể UASB qua phân tích là: Nt=163mg/l,
Pt=10mg/l. Như vậy trước khi nước thải vào bể UASB, ta không phải thêm các chất dinh
dưỡng N, P trên đường ống.
Nước thải khi ra khỏi bể sẽ có hàm lượng COD nhỏ hơn 500mg/l để vào hồ làm thoáng
nhân tạo.
Trong đó:
H1: chiều cao phần xử lý yếm khí.
H2: chiều cao vùng lắng. Để đảm bảo không gian an toàn cho bùn lắng xuống
phía dưới thì chiều cao vùng lắng phải lớn hơn 1.0m. Chọn H2=1.3m
H3: chiều cao dự trữ, chọn H3=0.5m
⇒ H = 4 .2 + 1 .3 + 0 .5 = 6 m
Vậy kích thước xây dựng của bể là:
Chọn bể hình vuông cạnh: a× a = 3.7 m× 3.7 m
Chiều cao H=6m
Thể tích thực của bể: Vt = a× a× H = 3.7m× 3.7 m× 6m= 82.14m
3
71.5
⇒T = × 24 = 6.86h , nằm trong khoảng 5÷ 10h
250
tg550 =
(H nglaéng+ H3 )
a
2
a× tg550 3.7 × tg550
⇒ Hnglaéng+ H3 = = = 2.64m
2 2
⇒ Hnglaéng= 2.64 − H3 = 2.64 − 0.5 = 2.14m
Chọn khe hở giữa các tấm chắn khí và giữa tấm chắn khí với tấm hướng dòng là như nhau.
Tổng diện tích giữa các khe hở này chiếm 15÷ 20% tổng diện tích bể. Chọn Skhe=0.18Sbể.
taá
m chaé
n2
b1
x2
ng
Hnglaé
r
x1
h1
y1
b1
taá
m chaé
n1
Chiều rộng: b2 = x1 + x2
( )
h1 = rkhe× sin 900 − 550 = 168 × sin 350 = 96mm
x1 = 400mm
x2 =
(H + H3 ) − ( h1 + y1 )
nglaéng
=
2640 − ( 96 + 983)
= 1900mm
0
sin 55 sin 550
b2 = 400 + 1900 = 2300mm
Tính toán tấm hướng dòng:
a2 a1
h1
θ
L
r
ϕ
Khoảng cách từ đỉnh tam giác của tấm hướng dòng đến tấm chắn 1:
rkhe 168
l= = = 205mm
(
cos 90 − 55
0 0
) cos 350
Đối với bể UASB có tải trọng chất bẩn hữu cơ L>4kgCOD/m 3.ngđ thì từ 2m2 diện tích bể
trở lên sẽ được bố trí một vị trí phân phối nước.
Bố trí máng thu nước kết hợp với máng răng cưa đặt ở tâm bể và dọc theo chiều rộng bể.
Máng thu nước được tạo độ dốc để dẫn nước thải về cuối bể rồi theo ống dẫn theo cơ chế tự
chảy, chảy sang hồ làm thoáng.
Máng thu nước tiết diện hình chữ nhật: d x r với d=2r.
Độ dốc máng: i=1/200.
Lưu lượng vào máng: Qmáng= Q = 250m3/ngđ.
Ta có:
Qmaùng= ω × C × R × i
Trong đó:
ω = d× r
λ = d+ 2×r
ω d× r r
R= = =
λ d+ 2×r 2
1 1
C = ×R 6
n
16 Qmaùng× n 250 × 0.014
⇒r 6
= =
2( 0.5)
2
3 ×i
1
2
24 × 3600 × 2 × ( 0.5)
2
3 (
× 1
200
) 1
2
⇒ r = 0.056m= 56mm
chọn kích thước máng: r =60mm
d=120mm
Thanh răng cưa:
Chiều cao răng cưa :60mm
Dài đoạn vát đỉnh răng cưa :40mm
40 60
60
260
150
50 450 450 50
E=
( So − S) × 100 = ( 300 − 7.447 ) × 100 = 97.5%
So 300
Chọn thời gian lưu nước trong mỗi hồ t=2 ngày
Thể tích mỗi hồ:
V = t × Q = 2 × 250 = 500m3
Diện tích mỗi hồ:
V 500
F= = = 250m2
H 2
Kích thước mỗi hồ: a x b = 12.5m x 20m
Nhiệt độ nước trong hồ:
F × f × Ta + Q × Ti
T=
A× f + Q
Trong đó:
F: diện tích mặt hồ, F=250m2
f: hệ số tỷ lệ, phụ thuộc vào cường độ khuấy trộn gió, độ ẩm của không khí, thường
lấy f=0.5
Ta: nhiệt độ không khí trên mặt hồ, Ta=26.50C
Ti: nhiệt độ nước thải, Ti=300C
Q: lưu lượng nước thải, Q=250m3/ngđ
250 × 0.5 × 26.5 + 250 × 30
T= = 28.830 C
250 × 0.5 + 250
Hằng số tốc độ phản ứng theo nhiệt độ:
K T = K 20 × θ ( T −20 ) = 0.5 × (1.08)
( 28.83− 20 )
= 0.99
Hồ bậc I:
Ta có:
S1 1
=
S0 1 + KT × t1
Trong đó:
S1: nồng độ BOD5 ra khỏi hồ
S0: nồng độ BOD5 trong nước thải vào hồ, S0=300mg/l
t1: thời gian lưu nước trong hồ bậc I, t=2 ngày.
KT: hằng số tốc độ phản ứng, KT=0.99
S0 300
S1 = = = 100.67mg/ l
1 + K T × t1 1 + 0.99 × 2
Hiệu quả khử BOD5:
S0 − S1 300 − 100.67
E= × 100% = × 100% = 66.4% (thỏa điều kiện)
S0 300
Lượng bùn hoạt tính sinh ra:
Y ( S0 − S1 )
Px1 = Q ×
1 + K d × t1
Trong đó:
Q=250m3/ngđ
Y=0.65mgVSS/mgBOD5
Kd=0.07 ngày-1
t1=2 ngày
0.65( 300 − 100.67 )
⇒ Px1 = 250 × × 10− 3 = 28.4kg/ ngaøy
1 + 0.07 × 2
Hồ bậc II:
Ta có:
S2 1
=
S1 1 + KT × t2
Trong đó:
S2: nồng độ BOD5 ra khỏi hồ
S1: nồng độ BOD5 trong nước thải vào hồ, S1=100.67mg/l
t2: thời gian lưu nước trong hồ bậc II, t2=2 ngày.
KT: hằng số tốc độ phản ứng, KT=0.99
S1 100.67
S2 = = = 33.78mg/ l
1 + KT × t2 1 + 0.99 × 2
Hiệu quả khử BOD5:
S1 − S2 100.67 − 33.78
E= × 100% = × 100% = 66.4% (thỏa điều kiện)
S1 100.67
Lượng bùn hoạt tính sinh ra:
Y ( S1 − S2 )
Px2 = Q ×
1 + K d × t2
Trong đó:
Q=250m3/ngđ
Y=0.65mgVSS/mgBOD5
Kd=0.07 ngày-1
t2=2 ngày
0.65(100.67 − 33.78)
⇒ Px2 = Px1 + 250 × × 10− 3 = 28.4 + 10.16 = 38.56kg/ ngaøy
1 + 0.07 × 2
Hồ bậc III:
Ta có:
S3 1
=
S2 1 + KT × t3
Trong đó:
S3: nồng độ BOD5 ra khỏi hồ
S2: nồng độ BOD5 trong nước thải vào hồ, S2=33.78mg/l
t3: thời gian lưu nước trong hồ bậc III, t3=2 ngày.
KT: hằng số tốc độ phản ứng, KT=0.99
S2 33.78
S3 = = = 11.34mg/ l
1 + K T × t3 1 + 0.99 × 2
Hiệu quả khử BOD5:
S2 − S3 33.78 − 11.34
E= × 100% = × 100% = 66.4% (thỏa điều kiện)
S2 33.78
Lượng bùn hoạt tính sinh ra:
Y ( S3 − S2 )
Px3 = Px2 + Q ×
1 + K d × t3
Trong đó:
Q=250m3/ngđ
Y=0.65mgVSS/mgBOD5
Kd=0.07 ngày-1
t3=2 ngày
0.65( 33.78 − 11.34)
⇒ Px3 = 38.56 + 250 × ×10 −3 = 38.56 + 3.2 = 41.76kg/ ngaøy
1 + 0.07 × 2
Lượng cặn lơ lửng trong nước khi ra khỏi hồ hiếu khí trong một năm:
Tổng lượng bùn hoạt tính sinh ra trong một năm:
G = Px3 × 365 = 41.76 × 365 = 15242.4kg/ naêm
Hồ bậc II:
Hồ bậc III:
Từ ống chính chia làm 2 ống nhánh. Trên mỗi ống nhánh có 3 vị trí phun nước. Mỗi vị trí
ta bố trí 2 lỗ phun nước nghiêng với nhau 1 góc 900, đường kính mỗi lỗ là dlỗ=10mm.
Vận tốc nước chảy trong ống chính v=0.8÷ 2m/s, chọn v=1m/s.
4×Q 4 × 250
D= = = 0.06m
v× π 1 × π × 24 × 3600
chọn ống nhựa PVC có đường kính Φ 60mm.
Kiểm tra lại vận tốc nước chảy trong ống:
4×Q 4 × 250
v= = = 1.02m/ s→ thỏa điều kiện.
π × ( D) 2
π × ( 0.06) 2 × 24 × 3600
Đường kính ống nhánh:
Vận tốc nước chảy trong ống chính v=1.5÷ 2.5m/s, chọn v=2m/s.
4×Q 4 × 250
D= 2 = 2 = 0.03m
v× π 2 × π × 24 × 3600
chọn ống nhựa PVC có đường kính Φ 34mm.
4×Q 4 × 250
v= 2 = 2 = 1.59m/ s → thỏa điều kiện.
π × ( D) 2 π × ( 0.034 ) 2 × 24 × 3600
Ống dẫn nước thải sang hồ hiếu khí:
Vận tốc nước chảy trong ống v=0.8÷ 2m/s, chọn v=1m/s.
4×Q 4 × 250
D= = = 0.06m
v× π 1 × π × 24 × 3600
chọn ống nhựa PVC có đường kính Φ 60mm.
Kiểm tra lại vận tốc nước chảy trong ống:
4×Q 4 × 250
v= = = 1.02m/ s→ thỏa điều kiện.
π × ( D) 2
π × ( 0.06) 2 × 24 × 3600
Tính toán đường ống thu khí:
Vận tốc khí chạy trong ống v=10÷ 15m/s, chọn v=15m/s.
4 × Vkhí 4 × 212.5
D= = = 0.014m
v× π 15 × π × 24 × 3600
→ chọn ống nhựa PVC có đường kính Φ 21mm.
Kiểm tra lại vận tốc khí chạy trong ống:
4 × Vkhí 4 × 212.5
v= = = 7.83m/ s → không thỏa điều kiện.
π × ( D) 2
π × ( 0.021) 2 × 24 × 3600
Tính ống thu bùn:
Chọn ống thu bùn có đường kính Φ 90mm có đục lỗ, dlỗ=20mm. Ở mỗi vị trí ta đục lỗ 3
mặt, mỗi lỗ cách nhau 20mm, mỗi vị trí cách nhau 400mm.
Bùn được xả định kỳ từ 1÷ 6 tháng nhờ áp lực thủy tĩnh của nước trong bể. Ong thu bùn
được đặt dọc theo chiều dài bể và cách đáy khoảng 1/3 chiều cao bể.
Nước thải sau khi được xử lý sơ bộ chảy qua song chắn rác vào bể điều hòa. Tại đây, nhờ
máy khuấy sục khí khuấy trộn, nước thải được điều hòa về lưu lượng và nồng độ các chất
như: COD, BOD, SS, pH, . . . đồng thời việc cung cấp khí sẽ nhằm oxy hóa một phần hàm
lượng COD, BOD có trong nước thải, giảm bớt mùi hôi. Ở bể này có lắp đặt thiết bị đo pH
nhằm đảm bảo pH thích hợp cho quá trình xử lý sinh học phía sau.
Từ bể điều hòa, nước thải được bơm vào bể UASB. Tại bể UASB, các chất hữu cơ sẽ bị
phân hủy bởi các VSV kị khí thành các chất đơn giản hơn và khí CO2, CH4, H2S, . . . theo
phản ứng:
Phân hủy các chất hữu cơ phức tạp và các chất béo thành các chất hữu cơ đơn
giản hơn như monosacarit, axit amin hoặc các muối piruvat khác. Đây là
nguồn dinh dưỡng và năng lượng cho vi khuẩn hoạt động.
Các nhóm vi khuẩn kị khí thực hiện quá trình lên men axit, chuyển hóa các
chất hữu cơ đơn giản thành các loại axit hữu cơ thông thường như axit acetic
hoặc glixerin, axetat, . . .
CH 3 CH 2 COOH + 2 H 2 O → CH 3 COOH + CO2 + 3H 2
CH 3 CH 2 CH 2 COOH + 2 H 2 O → 2CH 3 COOH + 2 H 2
Các nhóm vi khuẩn kị khí bắt buộc lên men kiềm (chủ yếu là các loại vi khuẩn
lên men mêtan như Methanosarcina và Methanothrix) đã chuyển hóa axit
acetic và hydro thành CH4 và CO2.
CH 3 COOH → CO2 + CH 4
CH 3 COO + H 2 O → CH 4 + HCO3
HCO3 + 4 H 2 → CH 4 + OH + 2 H 2 O
Phần bùn sẽ được thu gom định kỳ dùng làm phân bón.
Nước thải sau khi qua bể UASB tự chảy đến mương oxy hóa, đây là công trình xử lý sinh
học hiếu khí, thiếu khí dựa vào khả năng hoạt động của vi sinh vật, chúng sử dụng các chất
dinh dưỡng có sẵn trong nước thải để tồn tại và hoạt động biến đổi chất. Oxy được cung cấp
bởi các máy làm thoáng bề mặt dạng guồng quay. Sau khi lưu lại một thời gian trong mương,
nồng độ BOD giảm xuống, dòng tràn từ mương oxy hóa được đưa qua bể lắng. Ơ đây, nước
thải cùng quần thể vi sinh vật được tách riêng rẽ: phần nước bên trên được đưa qua hồ hoàn
thiện, quần thể vi sinh lắng xuống đáy bể. Một phần bùn sẽ được bơm hoàn lưu lại mương
oxy hóa, phần còn lại được bơm về bể chứa bùn dùng làm phân bón.
Nước thải thu được từ máng chảy tràn đưa đến hồ hoàn thiện, tại đây phần chất hữu cơ còn
lại bị phân hủy tiếp tục nhờ quá trình tự làm sạch của hồ. Nước thải sau hồ hoàn thiện đạt tiêu
chuẩn loại A và được chảy trực tiếp ra nguồn tiếp nhận đó là kênh Tắt.
Xác định dữ liệu về thành phần nước thải vào mương oxy hóa:
Ta có:
BOD5 đầu ra = BOD5 hòa tan đi ra khỏi mương + BOD5 trong cặn lơ lửng đầu ra.
Lượng BOD20 có trong cặn lơ lửng ra khỏi mương:
0.65 x 20 = 13mg/l
Lượng BOD20 của chất rắn bị phân hủy sinh học ở đầu ra:
1.42 x 13 = 18.46mg/l.
Lượng BOD5 chứa trong cặn lơ lửng ở đầu ra:
0.68 x 18.46 = 12.553mg/l.
Lượng BOD5 hòa tan còn lại trong nước khi ra khỏi mương:
20 – 12.553 = 7.447mg/l.
Hiệu quả làm sạch theo BOD5 hòa tan:
E=
( So − S) × 100 = ( 300 − 7.447 ) × 100 = 97.5%
So 300
Mương oxy hóa xây dựng dạng hình chữ 0 có xục khí bằng thiết bị làm thoáng bề mặt để
xáo trộn bùn hoạt tính và tạo dòng chảy trong mương. Mặt cắt ướt của mương là hình thang
cân và mương được xây dựng bằng bê tông cốt thép.
Chọn chiều sâu của mương h1=1.5m
Kích thước của mương như sau:
Chiều rộng mặt nước : a=4m
Chiều rộng đáy mương : b=2m
Độ sâu lớp nước trong mương : h1=1.5m
Khoảng cách từ mặt nước đến mặt mương: h2=0.25m
Độ sâu xác định của mương: H=h1+h2=1.5+0.25=1.75m
B
a
x x
h2
ϕ
H
h1
F=
( a + b) × h = ( 4 + 2) × 1.5 = 4.5m2
1
2 2
Chiều dài tổng cộng của mương:
V 198
L= = = 44m
F 4.5
Mương oxy hóa có dạng hình chữ O trên mặt bằng sử dụng, ở đoạn uốn cong có bố trí tấm
hướng dòng. Bán kính ở đoạn cong lấy từ ở giữa mương trở vào, chọn R=2m
Chiều dài đoạn uốn cong:
Lc = π × R = π × 2 = 6.3m
⇒ Lt = 44 − 6.3 = 37.7 m
Chọn chiều dài xây dựng của đoạn mương thẳng Lt=38m
Kiểm tra tỷ số:
Tỷ số:
F S 300 −1
= 0 = × 24 = 0.1ngaøy nằm trong khoảng cho phép.
M θ × X 19 × 3500
(đối với mương oxy hóa tỷ số: F/M=0.05÷ 0.3 ngày-1)
Tải trọng thể tích của bể phản ứng:
S0 × Q 300 × 250 × 10−3 kgBOD5
L= = = 0.379 → nằm trong khoảng cho phép
V 198 m3 .ngaøy
(đối với mương oxy hóa yêu cầu L=0.08÷ 0.48 kgBOD5/m3.ngày)
Tính lượng bùn dư thải bỏ mỗi ngày:
Tốc độ sinh trưởng của bùn:
Y 0.06
Yb = = = 0.316
1 + K d × θ c 1 + 0.03 × 30
Lượng bùn hoạt tính sinh ra mỗi ngày do khử BOD5:
Trong đó:
X0: hàm lượng bùn hoạt tính đi vào bể, X0=0mg/l
X 3500
⇒α = = = 0.78
Xt − X 8000 − 3500
Lưu lượng bùn tuần hoàn:
3
Qt = 0.78 × Qv = 0.78 × 250 = 195 m
ngñ
Tính lượng oxy cần thiết:
Lượng oxy cần thiết:
Q × ( S0 − S)
OCo = × 10− 3 − 1.42 Px
f
BOD5
với f = = 0.68
BOD20
IV.2.5.Bể lắng 2:
a.Nhiệm vụ: có nhiệm vụ lắng các bông bùn hoạt tính từ mương oxy hóa đưa qua. Một
phần bùn lắng sẽ được tuần hoàn lại mương oxy hóa, phần bùn dư sẽ được xả ra ngoài. Nước
sau khi lắng tự chảy sang hồ hoàn thiện.
b.Tính toán:
Chọn bể lắng theo nguyên lý lắng trọng lực.
Lưu lượng nước tính toán có kể đến sự tuần hoàn:
Qx = Q × (1 + α )
4× F 4 × 37.1
D= = = 6.87 m→ choïn
: D = 7m
π π
Kiểm tra tải trọng bề mặt:
Qx 445 3
Uo = = = 11.56 m 2
F
π×
( 7) 2
m × ngaøy
, thỏa điều kiện.
4
Chọn chiều cao vùng lắng: h=3m
Thể tích vùng lắng:
π × D2 π × ( 7)
2
V = F × h= × h= × h = 115.45m3
4 4
Thời gian lưu trong bể:
V 115.45
t= = × 24 = 6.23h nằm trong khoảng 6÷ 12h
Qx 445
7 − 1
⇒ hn = ( )
× tg 45 = 3m
0
2
Chọn chiều cao bảo vệ: hbv=0.5m.
Chiều cao tổng cộng của bể lắng:
H= h + hn + hbv = 3 + 3 + 0.5 =6.5m
Tính toán máng thu nước:
Đường kính máng thu nước:
Dm = 0.8D = 0.8 x 7 = 5.6m
Chiều dài máng thu nước:
Lm = π × Dm = π × 5.6 = 17.59m