Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1..................................................................................................3
GIỚI THIỆU CHUNG................................................................................3
1.1 Định tuyến trong chuyển mạch gói truyền thống.......................3
1.2 ATM & IP..................................................................................5
1.3 IP over ATM..............................................................................7
CHƯƠNG 2..................................................................................................9
ĐÁNH ĐỊA CHỈ VÀ ĐỊNH TUYẾN IP....................................................9
2.1 Mô hình chồng giao thức TCP/IP...............................................9
2.2 Đánh địa chỉ IP.........................................................................10
2.3 Định tuyến IP............................................................................12
2.4 Các giao thức định tuyến trong IP............................................14
2.4.1 Định tuyến theo vectơ khoảng cách ..............................16
2.4.2 Định tuyến trạng thái đường...........................................18
2.4.3 RIP (Routing Information Protocol)...............................20
2.4.4 OSPF (Open Shortest Path First)....................................26
2.4.5 BGP (Border Gateway Protocol)....................................33
CHƯƠNG 3................................................................................................39
CHUYỂN MẠCH IP.................................................................................39
3.1 Định nghĩa và các thuật ngữ.....................................................39
3.1.1 Chuyển mạch IP.............................................................39
3.1.2 Đầu vào và đầu ra của chuyển mạch IP..........................41
3.1.3 Đường tắt........................................................................43
3.2 Các mô hình địa chỉ của chuyển mạch IP................................44
3.2.1 Địa chỉ riêng...................................................................44
3.2.2 Ánh xạ địa chỉ IP sang VC.............................................45
3.3 Các mô hình chuyển mạch IP...................................................45
3.3.1 Mô hình xếp chồng.........................................................46
3.3.2 Mô hình đồng cấp...........................................................47
3.4 Các kiểu chuyển mạch IP.........................................................49
Sinh viên
Nguyễn Quang Hiếu
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 Định tuyến trong chuyển mạch gói truyền thống
Để chuyển các gói tin từ mạng này đến mạng khác một cách nhanh
chóng và chính xác, các gói tin cần phải được định tuyến, những thiết bị để
định tuyến các gói tin ban đầu được gọi là Gateway (đóng vai trò là một cổng
giao tiếp từ mạng này tới mạng khác) và và sau đó router ra đời để kết nối
giữa các mạng vật lý khác nhau tạo thành một liên mạng hợp nhất rộng lớn
hơn. Các gói thông tin riêng biệt bao gồm một nhãn mạng đích mà router thực
hiện tương hợp nhãn với một trong nhiều thực thể của bảng mạng đích mà nó
biết trước. Khi tìm thấy một sự tương hợp, router có thể định hướng gói tin tới
giao diện tương ứng và chờ đến khi gói tín khác đến. Quá trình tương quan
đơn giản này được thực hiện đối với mỗi gói riêng biệt đến router. Thậm chí
nếu có một số lượng lớn gói tin có cùng một đích đến chung, thì router sẽ vẫn
xử lý mỗi gói tin theo cách riêng.
Chú ý thế hệ router đầu tiên được giới thiệu trong hình 1.1:
Processor
Share Bus
Trước sự phát triển không ngừng của Internet. Ngày càng có nhiều
người hơn sẽ đăng nhập vào mạng và khi đó bảng định tuyến sẽ lớn hơn, thời
gian tra cứu cũng sẽ lâu hơn. Kết hợp với sự tăng trưởng trong lưu lượng
người dùng, dẫn tới đòi hỏi phải tạo ra những router sử dụng công nghệ cao
hơn. Nhờ vào sự tăng cường tính toán hướng tới của các gói tin đến các giao
diện chuyển tiếp. Một phần hoặc toàn bộ bảng định tuyến có thể được lưu
trong bộ nhớ của bộ chuyển tiếp đầu vào. Điều này cho phép bộ chuyển tiếp
đầu vào thực hiện tính toán hướng đi và định hướng các gói trên đường bus
tương ứng với bộ chuyển tiếp đầu ra mà không cần sự can thiệp của bộ xử lý
trung tâm.
Hiệu năng của mô hình này vẫn sẽ bị giới hạn bởi tốc độ bus và thời
gian yêu cầu để sắp xếp trên một bảng định tuyến lớn trong suốt thời gian tra
cứu. Một công nghệ cải thiện router khác là thay thế bus bằng một switch. Vì
toàn bộ cổng đầu vào và ra được kết nối với nhau bằng một kết cấu chuyển
mạch không nghẽn. Mô hình này được giới thiệu trong hình 1.2.
Processor
Forwarding Forwarding
Cache Cache
Adapter Adapter
Forwarding
Forwarding
Cache
Cache
Adapter
Adapter
Hình 1.2: Kiến trúc của Router có các đường bus dùng switch
Bằng cách cải thiện thiết kế bên trong và hiệu quả hơn sẽ thay thế yêu
cầu xử lý mỗi gói đối với bản thân router điều này sẽ đặc biệt hữu dụng trước
tính chất bùng nổ tự nhiên không đoán trước của lưu lượng IP do các gói tin
được phục vụ theo cơ chế hàng đợi first-in first-out (FIFO) có chi phí cao, độ
lợi về thông lượng nhỏ và hiệu năng thì lại không đạt được độ tin cây cao.
Như thế có thể sẽ gây nên vấn đề bình phương N, rất phiền phức, tức là khi
thiết lập, bảo dưỡng, gỡ bỏ sự liên kết giữa các điểm nút, số việc phải làm
(như số VC, lượng tin điều khiển) đều có cấp số nhân bình phương của N
điểm nút. Khi mà mạng lưới ngày càng rộng lớn, chi phối kiểu đó sẽ làm cho
mạng lưới quá tải.
Thứ hai là phương thức xếp chồng sẽ phân cắt cả mạng lưới IP over
ATM ra làm nhiều mạng logic nhỏ (LIS), các LIS trên thực tế đều là ở trong
một mạng vật lý. Giữa các LIS dùng bộ định tuyến trung gian để liên kết, điều
này sẽ có ảnh hưởng đến việc truyền nhóm gói tin giữa các LIS khác nhau.
Mặt khác, khi lưu lượng rất lớn, những bộ định tuyến này sẽ gây hiện tượng
nghẽn cổ chai đối với băng rộng.
Hai điểm nêu trên đều làm cho IP over ATM chỉ có thể dùng thích hợp
cho mạng tương đối nhỏ, như mạng xí nghiệp,… nhưng không thể đáp ứng
được nhu cầu của mạng đường trục Internet trong tương lai. Trên thực tế, hai
kỹ thuật này đang tồn tại vấn đề yếu kém về khả năng mở rộng thêm.
Thứ ba là trong phương thức chồng xếp, IP over ATM vẫn không có
cách nào đảm bảo QoS thực sự.
Thứ tư, vốn khi thiết kế hai loại kỹ thuật IP và ATM đều làm riêng lẻ,
không xét gì đến kỹ thuật kia, điều này làm cho sự nối thông giữa hai bên phải
dựa vào một loạt giao thức phức tạp, cùng với các bộ phục vụ xử lý các giao
thức này. Cách làm như thế có thể gây ảnh hường không tốt đối với độ tin cậy
của mạng đường trục.
Các kỹ thuật MPOA (Multiprotocol over ATM – đa giao thức trên
ATM) LANE (LAN Emulation – Mô phỏng LAN)… cũng chính là kết quả
nghiên cứu để giải quyết các vấn đề đó, nhưng các giải thuật này đều chỉ giải
quyết được một phần các tồn tại, như vấn đề QoS chẳng hạn. Phương thức mà
các kỹ thuật này dùng vẫn là phương thức chồng xếp, khả năng mở rộng vẫn
không đủ. Hiện nay đã xuất hiện một loại kỹ thuật IP over ATM không dùng
phương thức xếp chồng, mà dùng phương thức chuyển mạch nhãn, áp dụng
phương thức tích hợp. Kỹ thuật này chính là cơ sở của MPLS.
CHƯƠNG 2
ĐÁNH ĐỊA CHỈ VÀ ĐỊNH TUYẾN IP
2.1 Mô hình chồng giao thức TCP/IP
TCP/IP là một bộ giao thức mở được xây dựng cho mạng Internet mà
tiền thân của nó là mạng ARPnet của bộ quốc phòng Mỹ. Do đây là một giao
thức mở, nên nó cho phép bất kỳ một đầu cuối nào sử dụng bộ giao thức này
đều có thể được kết nối vào mạng Internet. Chính điều này đã tạo nên sự bùng
nổ của Internet toàn cầu trong thời gian gần đây. Trong bộ giao thức này, hai
giao thức được sử dụng chủ yếu đó là giao thức truyền tải tin cậy TCP
(Transmission Control Protocol) và IP (Internet Procol). Chúng cùng làm việc
với nhau để cung cấp phương tiện truyền thông liên mạng.
Điểm khác nhau cơ bản của TCP/IP so với OSI đó là tầng liên mạng sử
dụng giao thức không kết nối (connectionless) IP, tạo thành hạt nhân hoạt
động của mạng Internet. Cùng với các giao thức định tuyến như RIP, OSPF,
BGP,… tầng liên mạng IP cho phép kết nối một cách mềm dẻo và linh hoạt
các loại mạng vật lý khác nhau như: Ethernet, Token Ring, X25…
OSI TCP/IP
Application
Application
Presentation
SMTP FTP TELNET DNS
Session
Transport
TCP UDP
Network
ICMP IGMP IP
ARP RARP
Data Link
Data link
Physical
TCP/IP có kiến trúc phân lớp, gồm 4 lớp chức năng sau:
1) Lớp liên kết dữ liệu (DataLink Layer): Định nghĩa các hàm, thủ
tục, phương tiện truyền dẫn đảm bảo sự truyền dẫn an toàn các khung thông
tin trên bất kỳ một phương tiện truyền dẫn nào như Ethernet, ATM, token-
ring, frame-relay,…
2) Lớp giao thức Internet(Internet Protocol): Chuyển tiếp các gói tin
từ nguồn tới đích. Mỗi gói tin chứa địa chỉ đích và IP sử dụng thông tin này để
truyền gói tin tới đích của nó.
Giao thức IP được chạy trên tất cả các máy chủ (Host) cũng như trong
tất cả các thiết bị định tuyến (Router). Lớp IP là lớp kết nối phi hướng nghĩa
là mạng không cần thiết lập bất kỳ một đường dẫn nào đến đích trước khi gói
tin được truyền qua mạng đến đích do vậy, mỗi gói đến đích với mỗi đường
tối ưu khác nhau và IP không đảm bảo thứ tự đến đích của các gói tin. Mạng
Internet hoạt động trên bất kỳ phương tiện truyền tải nào (nhờ có lớp
DataLink) và có thể có rất nhiều ứng dụng trên lớp IP nhưng chỉ có một lớp IP
với giao thức IP duy nhất là điểm hội tụ của TCP/IP cho phép nó hoạt động
một cách linh hoạt và mềm dẻo trên mạng máy tính cực lớn.
Hiện nay có hai phiên bản của IP là IPv4 và IPv6 (IPng). IPv4 là phiên
bản đang sử dụng thống nhất hiện nay nhưng do nhu cầu phát triển của mạng và
công nghệ truyền thông trong tương lai gần sẽ phải sử dụng phiên bản IPv6.
3) Lớp TCP/UDP: Lớp này chạy trên đỉnh của lớp IP và bao gồm hai
giao thức là TCP và UDP. TCP là một kiểu phương thức hướng kết nối cho
phép cung cấp các dịch vụ tin cậy còn UDP sử dụng phương thức hướng
không kết nối cung cấp các dịch vụ kém tin cậy hơn. TCP/UDP chỉ được chạy
trên hệ thống máy chủ và được sử dụng bởi mọi dịch vụ lớp ứng dụng.
4) Lớp ứng dụng (Application Layer): Là giao diện giữa người dùng
và mạng Internet, lớp ứng dụng sử dụng các dịch vụ lớp TCP/IP. Các ứng dụng
rất đa dạng, phong phú và ngày càng nhiều như Telnet, FTP, HTTP, SMTP,…
Có hai cách cấp phát địa chỉ IP phụ thuộc vào cách thức ta kết nối
mạng. Nếu mạng của ta kết nối vào mạng Internet, địa chỉ mạng được xác
nhận bởi NIC (Network Information Center). Nếu mạng của ta không kết nối
với Internet, người quản trị mạng sẽ cấp phát địa chỉ IP cho mạng này.
Về cơ bản, khuôn dạng địa chỉ IP gồm hai phần: Network Number và
Host Number như hình vẽ:
0 16 31
Network number Host number
Trong đó, phần Network Number là địa chỉ mạng còn Host Number là
địa chỉ các máy trạm làm việc trong mạng đó.
Do việc tăng các WW theo hàm mũ trong những năm gần đây vì số
lượng WW mở ra rất nhiều, nên với địa chỉ IP là 32 bít là rất ít do vậy để mở
rộng khả năng đánh điạ chỉ cho mạng IP và vì nhu cầu sử dụng có rất nhiều
quy mô mạng khác nhau, nên người ta chia các điạ chỉ IP thành 5 lớp ký hiệu
là A, B, C, D và E có cấu trúc như sau:
0 7 8 15 16 31
Líp A NetID SubnetID HostID
0 15 16 233 24 31
Líp B NetID SubnetID HostID
0 23 26 27 31
Líp C NetID SubnetID HostID
0 26 31
Líp D NetID HostID
Líp E NetID
Lớp A (/8): Được xác định bằng bít đầu tiên trong byte thứ nhất là 0 và
dùng các bít còn lại của byte này để định danh mạng. Do đó, nó cho phép định
danh tới 126 mạng, với 16 triệu máy trạm trong mỗi mạng.
Lớp B (/16): Được xác định bằng hai bít đầu tiên nhận giá trị 10, và sử
dụng byte thứ nhất và thứ hai cho định danh mạng. Nó cho phép định danh
16.384 mạng với tối đa 65.535 máy trạm trên mỗi mạng.
Lớp C (/24): Được xác định bằng ba bít đầu tiên là 110 và dùng ba
byte đầu để định danh mạng. Nó cho phép định danh tới 2.097.150 mạng với
tối đa 254 máy trạm trong mỗi máy trạm trong mỗi mạng. Do đó, nó được sử
dụng trong các mạng có quy mô nhỏ.
Lớp D: Được xác định bằng bốn bít đầu tiên là 1110, nó được dùng để
gửi các IP datagram tới một nhóm các host trên một mạng. Tất cả các số lớn
hơn 233 trong trường đầu là thuộc nhóm D.
Lớp E: Được xác định bằng năm bít đầu tiên là 11110, được dự phòng
cho tương lai.
Với phương thức đánh địa chỉ IP như trên, số lượng mạng và số máy tối
đa trong mỗi lớp mạng là cố định. Do đó, sẽ nảy sinh vấn đề đó là có các địa
chỉ không được sử dụng trong mạng của một doanh nghiệp, trong khi một
doanh nghiệp khác lại không có địa chỉ mạng để dùng. Do đó để tiết kiệm địa
chỉ mạng, trong nhiều trường hợp một mạng có thể được chia thành nhiều mạng
con (subnet). Khi đó, có thể đưa thêm các vùng subnetid để định danh cho các
mạng con. Vùng subnetid này được lấy từ vùng hostid của các lớp A, B và C.
Trong hoạt động định tuyến, người ta chia làm hai loại là định tuyến
trực tiếp và định tuyến gián tiếp. Định tuyến trực tiếp là định tuyến giữa hai
máy tính nối với nhau vào một mạng vật lý. Định tuyến gián tiếp là định tuyến
giữa hai máy tính ở các mạng vật lý khác nhau nên chúng phải thực hiện
thông qua các Gateway.
Để kiểm tra xem máy đích có nằm trên cùng một mạng vật lý với máy
nguồn không thì người gửi phải tách lấy địa chỉ mạng của máy đích trong
phần tiêu đề của gói dữ liệu và so sánh với phần địa chỉ mạng trong phần địa
chỉ IP của nó. Nếu trùng thì gói tin sẽ được truyền trực tiếp nếu không cần
phải xác định một Gateway để truyền các gói tin này thông qua nó để ra mạng
ngoài thích hợp.
Hoạt động định tuyến bao gồm hai hoạt động cơ bản sau:
- Quản trị cơ sở dữ liệu định tuyến: Bảng định tuyến (bảng thông tin
chọn đường) là nơi lưu thông tin về các đích có thể tới được và cách
thức để tới được đích đó. Khi phần mềm định tuyến IP tại một trạm
hay một cổng truyền nhận được yêu cầu truyền một gói dữ liệu,
trước hết nó phải tìm trong bảng định tuyến, để quyết định xem sẽ
phải gửi Datagram đến đâu. Tuy nhiên, không phải bảng định tuyến
của mỗi trạm hay cổng đều chứa tất cả các thông tin về các tuyến
đường có thể tới được. Một bảng định tuyến bao gồm các cặp (N,G).
Trong đó:
+ N là địa chỉ của IP mạng đích
+ G là địa chỉ cổng tiếp theo dọc theo trên đường truyền đến mạng N
Bảng 2.1 minh hoạ bảng định tuyến của một cổng truyền.
mặc định (default). Khi không tìm thấy các thông tin về địa chỉ đích
cần tìm, các gói dữ liệu được gửi tới cổng truyền mặc định.
- Thuật toán định tuyến: Được mô tả như sau:
+ Giảm trường TTL của gói tin
+ Nếu TTL=0 thì
• Huỷ gói dữ liệu
không đủ, không chính xác sẽ khiến cho các gói không đến được đích của nó
và tồi hơn có thể gây ra loop vòng quanh mạng trong một khoảng thời gian
gây ra lãng phí tài nguyên băng tần và router .
Các giao thức định tuyến được phân thành định tuyến giữa các miền
(interdomain) và trong một miền (intradomain). Một miền được gọi là một hệ
thống tự trị AS (autonomous system), AS là một tập hợp các router được điều
khiển và quản lý bởi một thực thể đơn, nó được xác định bởi một số AS đơn.
Các giao thức trong một miền IGP (interior gateway protocol) được sử dụng
giữa các router trong cùng một AS. Nhiệm vụ của chúng là phải tính toán con
đường rẻ nhất giữa hai máy bất kỳ trong một AS, do đó mang lại hiệu năng tốt
nhất. Các giao thức giữa các miền EGP (exterior gateway protocol) được sử
dụng giữa các router trong các AS khác nhau. Nhiệm vụ của nó phải tính toán
một đường qua các AS khác nhau. Vì các AS được điều khiển bởi các tổ chức
khác nhau nên các tiêu chuẩn để lựa chọn một đường qua một AS phụ thuộc
vào các chính sách như chi phí, bảo an, khả năng khả dụng, hiệu năng, quan
hệ thương mại giữa các AS…chứ không chỉ đơn thuần là hiệu năng như các
giao thức IGP.
Một ví dụ của EGP là BGP và các ví dụ của IGP là OSPF và RIP. Hình
2.3 dưới đây đưa ra một mạng với 3 AS chạy các giao thức IGP trong một AS
và EGP giữa các AS.
R
AS#2
RIP
R R
BGP BGP
R R
AS#1 BGP AS#3
OSPF OSPF
R R R R
- Scalability được chỉ rõ bởi khả năng của giao thức định tuyến để hỗ trợ
một số lượng lớn các router và các mạng trong khi tối thiểu hoá tổng số
lưu lượng điều khiển giữa các router (cập nhật cơ sở dữ liệu định tuyến )
và các tài nguyên router cần thiết để tính toán các bảng định tuyến mới.
- Tránh loop. Khi một giao thức định tuyến tính toán một bảng định tuyến,
nó sẽ cố gắng để tránh các con đường khiến các gói chuyển qua một
router hoặc một mạng nhiều hơn một lần. Nó rất khó để đạt được điều
này trong khoảng thời gian nó truyền bá sự biến đổi về cấu hình đến tất
cả các router trong mạng. Mặc dù vậy, đây là một đặc tính quan trọng
được hỗ trợ bởi một số giao thức như BGP, EIGRP (enhanced interior
gateway routing protocol).
- Hội tụ. Khi cấu hình mạng biến đổi (ví dụ như một link bị down hay một
mạng mới được bổ sung…) các giao thức định tuyến phải phân bố thông
tin này khắp mạng các router để phản ánh thông tin này, xử lý này được
gọi là hội tụ. Các router hội tụ trên cấu hình chính xác càng nhanh thì
các gói sẽ được phân phát thành công đến đích.
- Các chuẩn. Các giao thức định tuyến được phát triển bởi IETF được lưu
trữ trong các RFC. Nó cho phép các nhà đầu tư khác nhau thực hiện giao
thức định tuyến trên nền tảng riêng của họ và thúc đẩy khả năng hợp tác.
- Khả năng mở rộng. Nó định nghĩa khả năng giao thức định tuyến kết
hợp các chức năng mới mà không thay đổi các hoạt động cơ bản của nó
và có khả năng tương thích ngược trở lại các chức năng cũ. Ví dụ như
OSPF với các chức năng mới được bổ sung là multicast, định tuyến QoS
, hỗ trợ đánh địa chỉ lớp liên kết.
- Metric. Đây là các tham số hoặc các giao thức được thông báo cùng với
mạng đích và tham gia vào tính toán bảng định tuyến. Các tham số này
có thể là số các hop, chi phí tuyến, băng tần, trễ…
- Thuật toán định tuyến. Các giao thức định tuyến sử dụng một trong hại
thuật toán định tuyến cơ bản là véc tơ khoảng cách và trạng thái đường.
2.4.1 Định tuyến theo vectơ khoảng cách
Định tuyến véc tơ khoảng cách dựa trên quan niệm rằng một router sẽ
thông báo cho các router lân cận nó về tất cả các mạng nó biết và khoảng cách
đến mỗi mạng này. Một router chạy giao thức định tuyến véc tơ khoảng cách
sẽ thông báo đến các router kế cận được kết nối trực tiếp với nó một hoặc
nhiều hơn các véc tơ khoảng cách. Một véc tơ khoảng cách bao gồm một bộ
(network, cost) với network là mạng đích và cost là một giá trị có liên quan nó
biểu diễn số các router hoặc link trong đường dẫn giữa router thông báo và
mạng đích. Do đó cơ sở dữ liệu định tuyến bao gồm một số các véc tơ khoảng
cách hoặc cost đến tất cả các mạng từ router đó.
Khi một router thu được bản tin cập nhật véc tơ khoảng cách từ router
kế cận nó thì nó bổ sung giá trị cost của chính nó (thường bằng 1) vào giá trị
cost thu được trong bản tin cập nhật. Sau đó router so sánh giá trị cost tính
được này với thông tin thu được trong bản tin cập nhật trước đó. Nếu cost nhỏ
hơn thì router cập nhật cơ sở dữ liệu định tuyến với các cost mới, tính toán
một bảng định tuyến mới,nó bao gồm các router kế cận vừa thông báo thông
tin véc tơ khoảng cách mới như next-hop.
Hình 2.4 dưới đây minh hoạ hoạt động của định tuyến véc tơ khoảng cách:
(net1,1hop) (net1,2hop)
Router C thông báo một véc tơ khoảng cách (net1,1hop) cho mạng đích
net1 được nối trực tiếp với nó. Router B thu được véc tơ khoảng cách này thực
hiện bổ sung cost của nó (1hop) và thông báo nó cho router A (net1,2hop). Nhờ
đó router A biết rằng nó có thể đạt tới net1 với 2 hop và qua router B.
Mặc dù định tuyến véc tơ khoảng cách đơn giản nhưng một số vấn đề
phổ biến có thể xảy ra. Ví dụ liên kết giữa 2 router B và C bị hỏng thì router B
sẽ cố gắng tái định tuyến các gói qua router A vì router A theo một đường nào
đó thông báo cho router B một véc tơ khoảng cách là (net1,4hop). Router B sẽ
thu véc tơ khoảng cách này và gửi ngược lại cho router A véc tơ khoảng cách
(net1,5hop). Đây là sự cố đếm vô hạn có thể làm cho thời gian cần thiết để hội
tụ kéo dài hơn. Giải pháp cho sự cố này được gọi là “trượt ngang” với nguyên
tắc: không bao giờ thông báo khả năng đạt tới một đích cho next-hop của nó.
Như vậy router A sẽ không bao giờ thông báo véc tơ khoảng cách (net1,4) cho
router B vì router B là next-hop của net1.
Định tuyến véc tơ khoảng cách dựa trên thuật toán Bellman Ford được
thực hiện trong một số các giao thức định tuyến như RIP, IGRP (Interior
Gateway Routing Protocol).
2.4.2 Định tuyến trạng thái đường
Định tuyến trạng thái đường làm việc trên quan điểm rằng một router
có thể thông báo với mọi router khác trong mạng trạng thái của các tuyên
được kết nối đến nó, cost của các tuyến đó và xác định bất kỳ router kế cận
nào được kết nối với các tuyến này. Các router chạy một giao thức định tuyến
trạng thái đường sẽ truyền bá các gói trạng thái đường LSP (link state paket)
khắp mạng. Một LSP nói chung chứa một xác định nguồn,xác định kế cận và
cost của tuyến giữa chúng. Các LSP được thu bởi tất cả các router được sử
dụng để tạo nên một cơ sở dữ liệu cấu hình của toàn bộ mạng. Bảng định
tuyến sau đó được tính toán dựa trên nội dung của cơ sỏ dữ liệu cấu hình. Tất
cả các router trong mạng chứa một sơ đồ của cấu hình mạng và từ đó chúng
tính toán đường ngắn nhất (least-cost path) từ nguồn bất kỳ đến đích bất kỳ.
Hình 2.5 chỉ ra hoạt động của định tuyến trạng thái đường
A
Router A
1 1
B C
Router B Router C
4 1 2
D E
2
Router D Router E
toán một cây bắt nguồn từ chính nó và phân nhánh đến tất cả các router khác
dựa trên tiêu chí đường ngắn nhất hay đường có chi phí ít nhất. Với sơ đồ hình
3.10 thì cây được thiết lập ở router A như trong hình vẽ bên phải. Cây này
được sử dụng để tính toán bảng định tuyến, thuật toán để tính cây đường ngắn
nhất là thuật toán Dijkstra.
Các giao thức định tuyến trạng thái đường có một số tiến bộ hơn so với
các giao thức định tuyến véc tơ khoảng cách:
- Hội tụ nhanh hơn. Một số nguyên nhân khiến nó hội tụ nhanh hơn là:
Thứ nhất, các LSP có thể được tràn lụt nhanh chóng khắp mạng và được
sử dụng để xây dựng một cách nhìn chính xác về cấu hình mạng. Thứ hai,
chỉ có thay đổi cấu hình được phản ánh trong LSP mà không phải là toàn
bộ cơ sở dữ liệu định tuyến. Thứ ba, sự cố đếm vô hạn không xảy ra .
- Lưu lượng bổ sung ít hơn. Các giao thức này chỉ phát các LSP phản ánh
sự biến đổi cấu hình chứ không phải phát đi toàn bộ cơ sở định tuyến.
- Khả năng mở rộng. Các giao thức trạng thái đường có thể được mở
rộng để hỗ trợ và truyền bá các tham số mạng khác như địa chỉ, thông
tin cấu hình. Vì một router duy trì cơ sở dữ liệu cấu hình, thông tin mới
là khả dụng khi tính toán một đường đến đích xác định.
- Scalability. Các giao thức trạng thái đường có khả năng scalability tốt hơn
vì các router trong một mạng lại có thể phân thành nhiều nhóm. Trong
vòng một nhóm các router thực hiện trao đổi các bản tin LSP với nhau
và xây dựng một cơ sở dữ liệu cấu hình của nhóm đó. Để trao đổi thông
tin cấu hình giữa các nhóm, một bộ con các router đầu tiên tóm tắt cơ sở
dữ liệu cấu hình nhóm trong một LSP và sau đó phát nó đến các router
xác định trong nhóm kế cận. Điều này làm giảm bộ nhớ và xử lý trong
các router vì cơ sở dữ liệu cấu hình chỉ lớn bằng số router trong một
nhóm và chỉ các router trong nhóm mà ở đó có sự biến đổi về cấu hình
phải tính toán các cây ‘shortcut path’ mới và các bảng định tuyến. Khái
niệm phân cấp này được minh họa trong hình 2.6 dưới đây, nó là một
khái niệm quan trọng được thực hiện trong các giao thức định tuyến trạng
thái đường như OSPF, PNNI.
Summarized group
Logical Router Logical Router
Router Router
Group #1 Router Group #2 Router
Router Router
RIP chạy trên UDP do đó các bản tin của nó được đóng gói trong UDP
datagram và nó chạy trên cổng số 520 (well-known port). Hình 2.7 dưới đây
đưa ra định dạng các bản tin RIP
0 7 8 15 16 31 0 7 8 15 16 31
Command Version (0) Command Version Routing domain
Address Family (0) Address Family Router tag
IP Address IP Address
(0) Subnet mask
(0) Next-hop IP Address
Metric Metric
(lặp lại 20 byte trước) (lặp lại 20 byte trước)
RIP 1 RIP 2
RIP 2 hỗ trợ nhận thực trong khi RIP 1 thì không. Mỗi gói RIP được
nhận thực tại phía thu nên giao diện được cấu hình để hỗ trợ nhận thực. Thông
thường, nhận thực MD5 được thực hiện mặc dù các router có thể có lựa chọn
khác. Gói RIP 2 để nhận thực cũng có định dạng tương tự như trong hình 2.8:
0 7 8 15 16 31
Command Version Routing domain
0xffff Routing tag
Authentication information
Authentication information
Authentication information
Authentication information
(lặp lại 20 byte trước)
Cập nhật RIP hầu như đơn giản nhưng nó gây ra một số vấn đề. Nó có
khả năng gửi lưu lượng qua một đường không hiệu quả hay có thể cập nhật
định tuyến mất quá nhiều thời gian để đạt được hội tụ khi miền định tuyến
không ổn định và chuyển lưu lượng không hiệu quả, có thể không chính xác.
Do đó có thể gây ra loop hay sự cố đếm vô hạn. phần lớn các thực hiện RIP
đều thực hiện các giải pháp để khắc phục sự cố đếm vô hạn. Một thay đổi
quyết định là loại bỏ định thời 30s và khi một router có một cập nhật định
tuyến nó sẽ gửi đi ngay lập tức. Với giải pháp này các cập nhật trung gian
không giải quyết được vấn đề, nhưng nó tăng tốc độ đạt được hội tụ. Một số
giải pháp khác được đưa ra dưới đây.
1. Trượt ngang (split horizon): Với giải pháp này ý tưởng của nó là
không cho phép router gửi thông báo qua giao diện mà nó vừa đến. Nó là
trong hầu hết các tình huống nhưng không hoàn toàn vì nếu mạng vật lý có
cấu hình bị loop thì sự cố đếm vô hạn vẫn tồn tại.
2. Trượt ngang với đảo ngược poison: Đây là một biến thể của trượt
ngang, nó gửi thông báo tới giao diện nó vừa đến với metric bằng 16.
3. Holddown được tăng cường cho giao thức véc tơ khoảng cách khi một
tuyến được thông báo là ‘unreachable’ thì router thông báo sẽ từ chối cập nhật
trong một khoảng thời gian sau khi tuyến được thông báo. Nó làm tăng thời gian
hội tụ nhưng tránh được loop. RIP không sử dụng holddown nhưng các giao thức
vectơ khoảng cách khác như IGRP (Intergateway Routing Protocol) của Cisco
thì có sử dụng. Với IGRP, khi router biết một mạng bị down hoặc một mạng có
khoảng cách lớn hơn so với thông báo thì tuyến đến mạng đó được đặt trong
holddown. Trong thời gian này, tuyến có thể được thông báo những thông báo
đầu vào về tuyến này từ bất kỳ router nào khác router đã thông báo trước đó đều
bị huỷ bỏ.
Người ta có thể không muốn sử dụng trượt ngang trên các link nối tiếp
(non-broadcast ) như X25, frame relay, ATM. Các router có thể được cấu hình
để không cho phép trượt ngang.
không hợp lệ nếu nó không được cập nhật. Tuyến không thể truy nhập mạng
sau đó sẽ vào holddown. Nó có thể vẫn được sử dụng cho chuyển phát gói, giá
trị mặc định của nó là 180s.
3. Holddown là khoảng thời gian mà thông tin trên các tuyến tồi hơn bị
loại bỏ,giá trị này nên bằng 3 lần giá trị update. Khi hết thời gian holddown,
các tuyến được thông báo bởi các nguồn khác được chấp nhận và tuyến đó có
thể truy cập. Giá trị mặc định của nó là 180s.
4. Flush là tổng thời gian một thực thể định tuyến phải duy trì trong
bảng định tuyến trước khi bị loại bỏ. Nó ít nhất phải bằng tổng của invalid và
holddown. Giá trị mặc định của nó là 240s.
5. Sleep time là tổng thời gian cập nhật định tuyến. Nếu một router
chấp nhận cập nhật tức thì, thì tham số này sẽ được cấu hình. Nó nên nhỏ hơn
thời gian update và được sử dụng cho hoạt động ODR của Cisco nhưng không
khả dụng đối với RIP.
Để thiết lập việc điều khiển thông tin định tuyến được truyền bá như
thế nào qua router đến/từ các giao diện. Các router có thể được thiết lập để
cung cấp các bộ lọc RIP sau.
- Tránh cập nhật định tuyến qua một giao diện nhằm tránh các router
khác nhau trên một LAN biết về các tuyến động.
- Điều khiển việc thông báo về các tuyến trong cập nhật định tuyến cho
phép nhà quản lý mạng cấm các tuyến đang được thông báo trong cập
nhật RIP .
- Điều khiển xử lý cập nhật định tuyến, nó không cho phép tuyến
‘discovered’ được xử lý.
- Lọc các nguồn thông tin định tuyến, nó có thể xảy ra trường hợp một
tuyến tốt hơn được tìm thấy qua giao thức định tuyến khác.
Một số giao thức định tuyến xử lý thông tin chính xác hơn các giao
thức khác, nó có thể thiết lập mức ưu tiên cho các nguồn khác nhau đối với
một router. Đặc điểm này cho phép nhà quản lý mạng lựa chọn một giao thức
cho một giao diện.
- Không cho phép sự hợp lệ của địa chỉ IP nguồn. Đối với mục đích
bảo an, một địa chỉ IP nguồn cho một bản tin cập nhật RIP là không
hợp lệ. Nhiệm vụ này thoả mãn yêu cầu lọc trên một giao diện, nó
cũng là một ‘trap door’ cho một miền định tuyến.
- Cấu hình trễ giữa các gói.
- Cho phép/không cho phép trượt ngang.
- Lọc thông tin RIP và quản lý khóa
- VLSM là một công cụ tốt để sử dụng địa chỉ IP.
2.4.4 OSPF (Open Shortest Path First)
OSPF là một giao thức định tuyến trạng thái đường được sử dụng phổ
biến, nó là giao thức định tuyến trong miền (interor) được hỗ trợ bởi hầu hết
các router trên thị trường. Nó có các đặc tính chức năng sau:
- Sử dụng thuật toán định tuyến trạng thái đường Dijkstra.
- Hỗ trợ nhiều đường cùng giá trị cost đến cùng đích.
- Hỗ trợ VLSM.
- Phân cấp hai mức.
- Thông tin trạng thái tuyến chỉ thông báo khi có sự biến đổi về cấu hình.
- Có khả năng mở rộng.
Một ví dụ về mạng OSPF gồm một số vùng như hình 2.9:
External
Router network
AREA 2
Router ABR
ABR
AREA 0
ABR
Router AREA 3
ABR Router
AREA 1
Router
Router
Router
Một mạng OSPF phải có một vùng 0 được định nghĩa như vùng
backbone. Nếu có nhiều vùng được cấu hình, tất cả các vùng khác 0 phải kết
nối đến vùng 0 qua ABR (Area Border Router). Các router trong một vùng
thông báo trạng thái đường LSA (Link State Advertisement) và xây dựng một
sơ đồ các vùng được gọi là cơ sở dữ liệu trạng thái đường. Thông tin được
tóm tắt về các cấu hình và các mạng đặc biệt được chuyển giữa các vùng
thông qua ABR. Do đó các router duy trì thông tin hoàn chỉnh về tất cả các
mạng và các router trong vùng của nó và thông tin đặc biệt về các mạng và
các router ngoài vùng của nó. Để đạt tới mạng trong vùng này, các router cần
phải có đủ thông tin để hướng các gói đến ABR phù hợp.
OSPF thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà phát triển mạng và quản
lý mạng vì một số lý do sau.
- Các mạng lớn hơn bao gồm nhiều hơn các router đang được triển
khai và xây dựng, khả năng scalability lớn hơn RIP và các giao thức
định tuyến véc tơ khoảng cách khác.
- Các chức năng và dịch vụ bổ sung đang và sẽ cần được triển khai trên
các mạng này. Là một giao thức định tuyến trạng thái đường, OSPF
có khả năng mở rộng, tăng cường các chức năng nó cung cấp bằng
cách định nghĩa và bổ sung các trường mới để mang thông tin mới
trong các LSA OSPF.
- Những khó khăn đối với OSPF bắt đầu được khắc phục khi rất nhiều
các kỹ sư mạng triển khai và quản lý các sản phẩm mạng chạy OSPF.
OSPF là một giao thức thích ứng, nó điều chỉnh các vấn đề trong mạng
và cung cấp thời gian hội tụ ngắn để ổn định các bảng định tuyến. Nó được
thiết kế để chống hiện tượng loop. OSPF được bao bọc trong IP datagram và
trường protocol ID của IP đối với OSPF là 89, nó có khả năng định tuyến
TOS và đánh địa chỉ mạng con.
lưu lượng gói thông báo giữa các router được kết nối đến link theo yêu cầu.
Tiếp cận này cho phép kink yêu cầu thụ động (lớp 2 không hoạt động) nhưng
vẫn giữ mối quan hệ với OSPF. Khi link này hoạt động trở lại OSPF sẽ gửi đi
các thông báo trạng thái đường trên link này.
Hoạt động của OSPF biến đổi phụ thuộc vào loại mạng mà nó hoạt
động,dưới đây đưa ra một số hoạt động của OSPF thực hiện với tất cả các loại
mạng. OSPF thực hiện một giao thức ‘hello’, nó là một giao thức bắt tay,và
sau đó thực hiện ‘ping’ với các router kế cận để biết chắc rằng link hoặc
router nào đó đang hoạt động. Sau khi thực hiện ‘hello’ hoàn thành, các router
đồng tầng được xem như ‘merely adjacent’ có nghĩa là các router này đã hoàn
thành một phần đồng bộ chứ chưa phải tất cả. Tiếp theo,các router trao đổi
thông tin mô tả hiểu biết của chúng về miền định tuyến. Thông tin này được
đặt trong các bản tin LSA, nó không phải là thông tin mô tả toàn bộ cơ sở dữ
liệu trạng thái đường nhưng nó chứa đủ thông tin để router thu biết liệu cơ sở
dữ liệu trạng thái đường của nó có đúng với cơ sở dữ liệu của các router đồng
tầng với nó không. Nếu có thì các kế cận được xác định là ‘fully adjacent’.
Các router này sau đó thực hiện trao đổi các LSA chứa cập nhật trạng thái
đường và thực sự trở thành các kế cân đầy đủ.
Các hello được phát theo định kỳ để giữ cho các router đồng tầng hiểu
biết lẫn nhau. Các LSA được tạo ra phải được gửi đến các router đồng tầng
với nó 30s một lần nhằm đồng bộ các cơ sở dữ liệu trạng thái đường.
Router A Router B
Hello
Hello
Merely Merely
adjacent adjacent
Database Description
Database Description
Fully Fully
adjacent adjacent
Link state
Link state
Các công ty với các hệ thống lớn có thể hoạt động với nhiều
mạng,nhiều router và host. Để quản lý một mảng rộng các phần tử thông tin
này thì phải sử dụng rất nhiều LSA. OSPF thực hiện phân chia các AS thành
các phần nhỏ hơn gọi là vùng, nhờ đó làm giảm tổng số lưu lượng định tuyến
được gửi qua AS vì các vùng được cách ly với nhau. Nó làm giảm số thông tin
router phải duy trì đầy đủ về AS. Do đó thông tin được phát giữa các router để
duy trì các bảng định tuyến OSPF giảm .
OSPF sử dụng multicast để hạn chế xử lý gói LSA tại các node không
cần thiết kiểm tra các gói định tuyến tương ứng đối với mạng broadcast. Còn
đối với các mạng non-broadcast thì OSPF sử dụng lọc gói để giảm số các gói
định tuyến được trao đổi giữa các router trong vùng. Vùng ‘stub’ là vùng mà
thông tin định tuyến trên các tuyến ngoài không được gửi đi. Thay vào đó,
ABR tạo ra một tuyến mặc định đến các đích ngoài vùng và các tuyến trong
vùng ‘stub’ sử dụng tuyến này.
Các nhà quản lý mạng có thể thiết lập ABR để tránh không cho nó gửi
thông báo tuyến tóm tắt vào trong vùng ‘stub’. Các thông báo tuyến tóm tắt
này được thiết kế như LSA loại. OSPF yêu cầu tất cả các mạng được kết nối
bằng một vùng backbone, nó được xem như một bộ các node liên tục và kết
nối các link để thông tin qua backbone với nhau. Các vùng nối đến backbone
phải là các vùng ‘stub’, do đó OSPF hỗ trợ sử dụng các tuyến ảo để các gói
định tuyến có thể được gửi từ vùng này sang vùng khác không phải qua
backbone. Các tuyến ảo chạy giữa các router và cho phép các gói LSA tóm tắt
được xuyên hầm qua các vùng. Trong khi thông tin định tuyến được gửi
xuyên hầm thì lưu lượng người dùng vẫn chọn được đường vật lý tốt nhất.
Các tuyến ảo có thể được sử dụng để duy trì kết nối giữa các vùng nếu
backbone có thể được chia ra, nó được kết nối logic với các tuyến ảo. Các
mạng ngoài kết nôi với các AS OSPF không phải là thành viên của AS này.
Các router AS OSPF phát hiện ra các mạng này qua giao thức EGP và sau đó
thông báo các mạng trong AS với các LSA ngoài.
Mỗi tuyến đầu ra tại mỗi router có một giá trị được gán biểu diễn một
metric (kết hợp của một vài tham số TOS). Giá trị này có thể được thiết lập
bởi các nhà quản lý mạng. Về mặt kỹ thuật, có thể thiết lập các link-cost một
cách động dựa trên độ dài hàng đợi,trễ gây ra bởi các router và các tiêu chuẩn
hiệu năng khác. Mặc dù vậy, các metric động rất khó quản lý, chúng không
được sử dụng trong các mạng phi kết nối. Các mạng hướng kết nối có thể sử
dụng các metric động hiệu quả vì băng tần được thiết lập do mỗi kết nối và
OSPF có thể sử dụng cho các thông báo. Một khi một kết nối được thiết lập,
nó dựa trên một tuyến tĩnh. Người sử dụng khác có thể yêu cầu kết nối, trong
thời gian đó OSPF có thể tìm thấy một tuyến tốt hơn vì vậy người sử dụng thứ
2 có thể có một đường khác.
Các cost có thể được kết hợp với các mạng thuộc các AS khác nhau,
chúng khả dụng nhờ giao thức EGP. Cost càng thấp càng tốt,có nghĩa là các
giao diện thông báo một cost thấp có nhiều khả năng được sử dụng để chuyển
tiếp lưu lượng. Nhưng tổng số tất cả các link-cost giữa 2 host bất kỳ quyết
định lưu lượng được định tuyến thế nào qua mạng. AS không nhất thiết phải
chia vùng, nếu không chia vùng thì cơ sở dữ liệu trạng thái đường sẽ trùng
nhau đối với tất cả các router trong AS. Mỗi router tạo ra một bảng định tuyến
sử dụng cơ sở dữ liệu cấu hình. Bảng định tuyến được tạo ra dựa trên các hoạt
động của cây spanning, nó phản ánh cây bị tỉa của mạng
Hình 2.11: Tiêu đề LSA Hình 2.12: Định dạng gói LSA
Trường LS age chỉ ra thời gian từ khi bắt nguồn của LSA tính theo giây
(từ 0 đến 30). Nếu nó vượt quá 30s thì router nguồn sẽ gửi lại LSA và thiết lập
trường này bằng 0. Trường option được sử dụng để chỉ ra LSA nên được xử lý
theo một cách xác định. Trường link state ID được sử dụng để phân biệt các
LSA cùng có LS type như nhau và được bắt nguồn từ một router xác định,
thực tế nó thường chứa thông tin địa chỉ. Trường advertising router chứa giá
trị router ID của router nguồn. Trường LS sequence number được tăng lên bởi
router nguồn của LSA bất cứ khi nào nó muốn cập nhật LSA. Do đó một số
thứ tự lớn hơn trong một LSA chỉ ra rằng nó mới hơn LSA có giá trị tương
ứng nhỏ hơn. Trường LS checksum được sử dụng tại phía thu để kiểm tra tiêu
đề và dữ liệu LSA bị sai.Nó cũng được lưu trong cơ sở dữ liệu trạng thái
đường của tất cả các router để (a) quyết định 2 LSA với cùng số thứ tự là xác
định,nó cũng sử dụng LS age cho mục đích này (b) quyết định một cách định
kỳ xem phần cứng và phần mềm của router có làm hỏng thực thể LSA trong
cơ sở dữ liệu. Trường length xác định độ dài của tiêu đề và nội dung của LSA.
Nội dung của các trường gói OSPF theo sau tiêu đề rất khác nhau phụ thuộc
vào loại gói LSA, vai trò này được gán cho router nếu router trên link điểm-
điểm hoặc trên một mạng con chia sẻ.
Sau 20byte tiêu đề LSA là các trường sau. Trường number of link xác
định router nguồn đang báo cáo bao nhiêu link. Trường link ID có giá trị
biến đổi, nó chứa router ID của router kế cận. Trường link data cũng biến đổi
phụ thuộc loại thông báo. Trường link type xác định loại link. TOS metric
không được sử dụng trong Internet và bị loại bỏ khỏi hoạt động của OSPF
cũng như IPv6.
OSPF và RIP thường được sử dụng trong cùng AS. RFC1745 xác định
tương tác giữa OSPF và BGP và IDRP (inter domain routing protocol ) với
IDRP là một biến thể được ưa dùng của BGP. Phần lớn các router high-end hỗ
trợ hoạt động phân tán tuyến, có nghĩa là bất kỳ thông tin giao thức định tuyến
IP-based nào có thể được tái phân tán vào bất kỳ giao thức định tuyến IP-
based khác. OSPF có thể nhập/xuất các tuyến qua RIP, IGRP, EIGRP cho các
hoạt động trong miền. Đối với các hoạt động giữa các miền, OSPF có thể
xuất/nhập các tuyến qua BGP. OSPF thực hiện các hoạt động bảo mật để tránh
các router và các node không được xác nhận gây nguy hiểm cho một miền định
tuyến. Router OSPF có thể được cấu hình để hỗ trợ nhận thực password ở dạng
cleartext, khoá bí mật, MD5…
Để cấu hình một miền định tuyến OSPF các router được cấu hình để
thực hiện các nhiệm vụ sau
- Cho phép OSPF.Để cho phép OSPF hoạt động trên một router thì
nhiệm vụ này phải được cấu hình, nó xác định miền địa chỉ được kết
hợp với tiến trình định tuyến và area ID được kết hợp với miền địa
chỉ IP. Các tham số này được thiết lập cho mỗi giao diện mà OSPF
hoạt động.
- Cấu hình các tham số giao diện OSPF .
- Cấu hình OSPF qua các mạng vật lý khác nhau.
- Cấu hình các tham số vùng OSPF
- Cấu hình không đến vùng stubby
- Cấu hình tóm tắt tuyến giữa các vùng OSPF. Nếu địa chỉ IP trong
một vùng là liên tục thì tóm tắt tuyến cho phép thông báo của một
tuyến được tóm tắt đều được thông báo cho một vùng khác nhờ
ABR. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhà quản lý mạng cấu hình miền
địa chỉ cho tuyến tóm tắt sẽ được thông báo.
- Cấu hình tóm tắt tuyến khi tái phân bố các tuyến cho OSPF. Các
tuyến được thông báo vào một miền OSPF được thông báo độc lập
trong các gói LSA ngoài riêng biệt. Nhiệm vụ này cấu trúc lên OSPF
để thông báo một tuyến đơn cho tất cả các tuyến được tái phân bố
cùng với prefix mạng đơn.
- Tạo link ảo. Nhiệm vụ này tạo ra một link ảo giữa các ABR và các
link ảo phải được cấu hình trong cả hai router, thông tin cấu hình bao
gồm ID của ABR khác và vùng non-backbone. Các tuyến ảo không
thể được thiết lập qua vùng stub.
- Tạo một tuyến mặc định. Nhiệm vụ này được sử dụng để tạo ra một
tuyến mặc định trên miền OSPF. Thậm chí một router có thể là
router biên AS, nó không tạo ra mặc định một tuyến mặc định trong
miền.
- Cấu hình tìm kiếm tên DNS. Các router có một số các lệnh cho phép
nhà quản lý mạng xem hiển thị của các router. Tên miền của các
router DNS có thể được hiển thị với nhiệm vụ này.
- Điều khiển các metric mặc định. Các router high-end cho phép
nhiệm vụ này được cấu hình dựa trên băng tần của link trên mỗi
giao diện trên router.
- Cấu hình OSPF trên giao diện Ethernet đơn. Nhiệm vụ này tạo ra một
giao diện OSPF trên một mạng con Ethernet và cho phép các thiết bị
trên đoạn Ethernet nhìn thấy nhau với các gói hello OSPF .
- Cấu hình đồng hồ định thời tính toán tuyến. Nhiệm vụ này được sử
dụng để xác định thời gian OSPF bắt đầu tính toán đường ngắn nhất
đầu tiên từ khi thu 1 LSA biểu diễn một biến đổi cấu hình. Nó có thể
được sử dụng để thiết lập thời gian giữa 2 tính toán SPF.
- Cấu hình OSPF qua các kênh theo yêu cầu. Cấu hình hoạt động
nhiệm vụ này chỉ là vào một lệnh .
- Nạp các thay đổi kế cận. Các router có các phương tiện gỡ rối mở
rộng, nhiệm vụ này có thể được cấu hình nếu các phương tiện mở
rộng không được yêu cầu và các nhà quản lý mạng chỉ muốn biết khi
nào trạng thái của kế cận OSPF biến đổi.
- Giám sát và bảo dưỡng OSPF. Nhiệm vụ này cung cấp thông tin trên
một mạng rộng,bao gồm nội dung của các bảng định tuyến của các
router và cơ sở dữ liệu trạng thái đường. Nó cũng chỉ ra thông tin
trên các giao diện router đến các kế cận bao gồm các link ảo.
2.4.5 BGP (Border Gateway Protocol)
BGP là giao thức định tuyến giữa các miền,nhiệm vụ của nó là thông
tin giữa các router trong các AS khác nhau. BGP được đề cập đến như một
giao thức định tuyến véc tơ đường vì BGP thông báo khả năng đạt tới một
mạng đích bắng cách chứa một danh sách các AS mà các gói phải chuyển qua
để đến đích. Thông tin véc tơ đường rất hữu ích vì loop có thể được tránh
bằng cách nhìn vào số AS trong cập nhật định tuyến BGP.
Các đặc tính chức năng của BGP.
- Giao thức định tuyến véc tơ đường.
- Hỗ trợ định tuyến dựa theo chính sách, nó ảnh hưởng đến việc lựa
chọn các tuyến bằng cách điều khiển phân bố các tuyến đến các
router BGP khác nhau.
- Sử dụng của TCP để trao đổi thông tin định tuyến tin cậy giữa các
router BGP
- Hỗ trợ tập hợp CIDR và VLSM.
- Không hạn chế về cấu hình mạng.
Một mạng gồm một số AS chạy BGP được chỉ ra trong hình 2.13:
BGP BGP
IBGP IBGP
IBGP
AS#1 IBGP
AS#1
Các router BGP trong các AS khác nhau thiết lập mối quan hệ EBGP
và các router trong một AS thiết lập mối quan hệ I BGP. Để đảm bảo các
router trong cùng AS duy trì cùng thông tin định tuyến, mỗi router BGP trong
AS phải thiết lập mối quan hệ IBGP với các router khác trong AS. Mặc dù
vậy để định tuyến các gói trong một AS thì các giao thức định tuyến trong
miền được sử dụng chứ không phải BGP. Khi mạng được khởi đầu,các router
kế cận mở một kết nối TCP với nhau và thiết lập toàn bộ cơ sở dữ liệu định
tuyến. Sau đó, chỉ những biến đổi về cấu hình hoặc chính sách là được gửi đi
trong bản tin cập nhật BGP. Bản tin này có thể thông báo hoặc rút bỏ khả
năng đạt đến một mạng đặc biệt, nó có thể chứa các đặc tính đường được sử
dụng bởi các router BGP để xây dựng và phân phối bảng định tuyến dựa trên
các chính sách đặc biệt. Phiên bản hiện thời của BGP là BGP 4.
BGP là giao thức giữa các AS, nó có một số ưu điểm so với các giao
thức trước nó. Thứ nhất, nó có thể hoạt động với các mạng có cấu hình loop.
Thứ hai, một node thu được nhiều hơn một đường có thể từ các thông báo đến
một đích thì có thể chọn một đường tốt nhất. Thứ ba, BGP hỗ trợ CIDR và tập
hợp địa chỉ. Hơn nữa, BGP không quan tâm loại giao thức trong AS được sử
dụng là loại gì hay có một hay nhiều giao thức IGP được sử dụng. BGP được
thiết kế để chạy các giao thức lớp vận tải tin cậy như TCP. Do đó, nhà quản lý
mạng BGP không cần thiết quan tâm đến phân mảnh hay thu lưu lượng có
chính xác không… Các vấn đề loại này được xử lý bởi lớp vận tải. BGP hoạt
động bằng cách xây dựng một sơ đồ các AS. Sơ đồ này xuất phát từ thông tin
định tuyến được trao đổi giữa các router BGP trong các AS, BGP xem toàn bộ
Internet như một sơ đồ của các AS với mỗi AS được xác định bởi số AS. Sơ
đồ giữa các AS cũng được gọi là cây, trong khi các AS thường được kết nối
với nhau trong một quan hệ kế cận thì router BGP có thể được cấu hình để bỏ
qua các router trung gian trong cây AS.
BGP có một số ưu điểm so với các giao thức véctơ khoảng cách:
- BGP gửi các bản tin chỉ khi có biến đổi.
- BGP có khả năng lựa chọn đường loop-free thậm chí khi hệ thống có
thể có các loop vật lý.
- BGP cung cấp các đường dự phòng để sử dụng khi đường hoạt động
bị lỗi mà không cần đợi cho các bảng định tuyến mạng ổn định sau
khi sự cố chấm dứt.
- Các quyết định định tuyến có thể dựa trên các cân nhắc về chính sách
và không nhất thiết chỉ dựa vào số hop ít nhất. Điều này rất quan
trọng đối với các mạng công cộng, nơi mà các ISP đưa vảo các thoả
thuận đồng tầng với nhau. Các thoả thuận này có thể được hỗ trợ với
các chính sách định tuyến BGP.
- Một router BGP đưa vào một mối quan hệ với router khác qua cấu
hình bằng tay mà không phải tự động. Nó cũng rất quan trọng trong
Internet để hỗ trợ hoặc từ chối các thoả thuận đông tầng.
Các giao thức định tuyến còn phải biết về các kế cận của nó và trao đổi
thông tin với chúng như thế nào. BGP không là một ngoại lệ, nó hỗ trợ 2 loại
kế cận là kế cận bên trong (cùng AS) và kế cận ngoài (khác AS). Các kế cận
trong có thể không kế cận về mặt vât lý, chúng có thể được đặt bất cử đâu
trong AS. Các kế cận ngoài kế cận nhau và cùng chia sẻ một mạng con. BGP
sử dụng khái niệm speaker để thông báo thông báo thông tin định tuyến,
speaker nằm trong router và nó phục vụ như các điểm ra cho các mạng đặc
biệt phía ngoài AS. Kết nối giữa các speaker BGP của các AS khác nhau gọi
là các link ngoài và giữa các speader trong một AS gọi là link trong.
CHƯƠNG 3
CHUYỂN MẠCH IP
Chuyển mạch IP là một cơ chế và tập các giao thức sử dụng chuyển
mạch lớp 2 để tăng tốc độ chuyển tiếp gói IP qua mạng. Hầu hết các giải pháp
chuyển mạch IP đều sử dụng chuyển mạch lớp 2 là chuyển mạch ATM tuy
nhiên cũng có thể có một số kỹ thuật chuyển mạch lớp 2 khác như Frame
Relay hay Tag Switching.
Switch
a)
IPCP
Hiện nay người ta sử dụng 2 cơ cấu chuyển mạch IP như hình vẽ 3.1.
Trong đó điểm điều khiển giao thức định tuyến (IPCP) trong cả hai cơ chế
đều chạy các giao thức định tuyến điển hình như RIP, OSPF, BGP,... để
cung cấp đường định tuyến lớp 3 mặc định. IPCP có thể giao tiếp một cách
trực tiếp (kiểu a) hoặc gián tiếp (kiểu b) với các thành phần chuyển mạch để
tái định hướng các gói tin IP qua các thành phần chuyển mạch. Tương tự
như chuyển mạch ATM thông thường, các bộ chuyển mạch sử dụng một
bảng kết nối gồm các cổng đầu vào, thẻ đầu vào, cổng đầu ra, thẻ đầu ra
tương ứng. Trong hình vẽ, sơ đồ a gọi là chuyển mạch IP và sơ đồ b gọi là
chuyển mạch IP ảo. Hai kiểu này phân biệt bởi các điểm khác nhau sau:
Thứ nhất là khác nhau ở phạm vi của đường chuyển mạch lớp 2. Với
chuyển mạch IP thì đường chuyển mạch lớp 2 bao gồm các thiết bị chuyển
mạch IP riêng lẻ và các thiết bị chuyển mạch đó hoạt động dưới sự điều
khiển trực tiếp của một IPCP tương ứng. Để thiết lập đường chuyển mạch
xuyên suốt (End-to-End) thì các bộ chuyển mạch IP này phải “bắt tay” nhau
cùng cộng tác. Nhưng đối với kiểu chuyển mạch IP ảo, một đường chuyển
mạch xuyên suốt được xây dựng bởi một chuỗi các thành phần chuyển mạch
IP nhưng dưới sự điều khiển của một IPCP duy nhất.
Thứ hai, khác nhau ở vị trí của các “cổng” vào bộ chuyển mạch. Đối
với cấu hình a, các cổng vào và ra của hệ thống chuyển mạch ở cùng trong
một hệ thống còn ở cấu hình kiểu b, thì có thể ở trên cùng hoặc không cùng
một thiết bị chuyển mạch.
Thứ ba, khác nhau ở kiểu sử dụng các giao thức định tuyến và báo
hiệu ATM UNI/PNNI. Trong kiểu chuyển mạch IP, dựa vào cấu hình mạng
IP và các giao thức định tuyến để lựa chọn một đường dẫn chuyển tiếp
xuyên qua mạng và sau đó sử dụng giao thức điều khiển đặc biệt để trao đổi
với nhau và các chuyển mạch IP lân cận nhau sẽ thực hiện cơ chế ánh xạ
đường chuyển mạch xuyên suốt đó thành đường chuyển mạch lớp 2. Còn
trong kiểu chuyển mạch IP ảo, sử dụng các giao thức điều khiển đặc biệt để
khởi đầu chu trình nhưng dựa trên cấu hình mạng ATM, các giao thức định
tuyến và báo hiệu để lựa chọn và xây dựng các đường chuyển mạch lớp 2.
Trong trường hợp này phải sử dụng các giao thức định tuyến và báo hiệu
ATM UNI/PNNI.
Cần phải lưu ý rằng, một bộ chuyển mạch IP có khả năng chạy các
giao thức ATM trong một hệ thống xuyên suốt hoặc trong các đoạn chuyển
mạch. Báo hiệu UNI của bộ chuyển mạch IP và tính năng quản trị VC được
sử dụng nếu nếu hai thiết bị chuyển mạch IP muốn liên lạc xuyên qua một
mạng các thiết bị chuyển mạch ATM trung gian.
gắn thẻ cho gói. Còn trong trường hợp là một hệ thống chuyển mạch ATM
thì phân mảnh và truyền qua một kết nối ảo.
- Tại đầu ra, nhận các gói qua đường chuyển mạch lớp 2 và thực hiện
các thủ tục chuyển tiếp IP chuẩn khi các gói ra khỏi hệ thống chuyển mạch
IP
Khái niệm đầu vào và đầu ra một chuyển mạch IP được chỉ ra trong
hình 3.2:
L3 Chuyển tiếp L3
L2 Chuyển mạch L2
a)
L3 Chuyển tiếp L3
L2
b)
Hình 3.2: Chuyển mạch IP với chức năng đầu vào (a) và đầu ra (b)
Giả thiết ở trên rằng hệ thống chuyển mạch IP đã quyết định một số gói
được chuyển tiếp qua một đường chuyển mạch lớp 2 và đường này sẽ được
thiết lập giữa các thiết bị đầu vào và đầu ra của mạng. Các gói đến đầu vào
của mạng được phân loại ra hai đường là chuyển tiếp IP lớp 3 mặc định hoặc
chuyển mạch lớp 2, việc phân loại này dựa trên các địa chỉ IP nguồn/đích
hoặc các tiền tố mạng đích. Các gói được phân loại là đường chuyển mạch lớp
2 được chuyển qua đường chuyển mạch. Các gói khác chuyển qua lớp 3 sử
dụng các thủ tục chuyển tiếp IP thông thường. Khi các gói đến đầu ra mạng,
chúng được gửi đến lớp 3 để xử lý IP thông thường và được chuyển phát đến
đích.
Một chuyển mạch IP không hoạt động ở chế độ tự trị, do đó cần có
các chức năng bổ sung tại đầu vào và đầu ra mạng nhằm cho phép các gói
vào hệ thống chuyển mạch IP, chuyển tiếp giữa các chuyển mạch lớp 2 hoặc
định tuyến lớp 3 và sau đó thoát ra.
Đường tắt có thể được xây dựng dựa vào lưu lượng dữ liệu hoặc
lưu lượng điều khiển. ở phương pháp thứ nhất, một phần dữ liệu
được định tuyến qua đường dẫn lớp 3 trước khi hệ thống chuyển
mạch IP thiết lập một đường tắt. ở phương pháp thứ hai, đường
tắt được thiết lập dựa vào lưu lượng điều khiển (như cập nhật
bảng định tuyến) do đó, tất cả dữ liệu đều được truyền qua nó.
Nếu một đường dẫn tắt giữa bộ định tuyến biên vào và ra mạng
không tồn tại hoặc đột ngột bị mất thì lưu lượng vẫn được định
tuyến đến đích theo đường định tuyến lớp 3 bình thường.
Đường tắt có thể cùng đường vật lý (cùng Node và liên kết) với
đường dẫn định tuyến (Chuyển mạch IP) hoặc có thể tách biệt
nhau (Chuyển mạch IP ảo)
Một đường tắt từ biên vào và ra mạng có thể là một đường
dẫn xuyên suốt hoặc được tạo nên bởi sự kết nối một chuỗi các
đường tắt nhỏ hơn.
Đường tắt có thể theo cấu hình điểm đến điểm, điển đến đa
điểm hoặc đa điểm đến điểm.
Mỗi thiết bị được sử dụng ở mạng phải được xác định bởi địa
chỉ IP và ATM.
Sử dụng các giao thức định tuyến tách biệt cho hai loại địa chỉ
khác nhau. Cụ thể OSPF, BGP, ... cho IP và UNI, PNNI cho địa chỉ
ATM.
Trong thực tế, việc sử dụng cơ cấu “yêu cầu máy chủ Server
thực hiện” làm xuất hiện độ trễ cho gói tin khi thiết lập đường định
tuyến bình thường giữa 2 máy chủ trên cùng một mạng con hay
đường tắt giữa thiết bị nguồn và đích.
Chế độ địa chỉ tách biệt được sử dụng kiểu chuyển mạch IP kiểu
chồng phủ ví dụ như giải pháp MPOA (Multi Protocol Over ATM).
3.2.2 Ánh xạ địa chỉ IP sang VC
Trong chế độ này, các thành phần mạng và gói tin chỉ được xác đình
bởi địa chỉ IP. Các gói tin được truyền ở một đường dẫn tắt tách biệt, một VC,
được thiết lập dựa vào nội dung của lớp IP trong tiêu đề của gói tin. Các giao
thức điều khiển được sử dụng để đưa các gói tin IP đến các đường dẫn tắt mà
không cần sử dụng địa chỉ ATM hoặc giao thức của diễn đàn ATM tuy nhiên,
có sử dụng các giá trị VPI/VCI để liên kết thông tin lớp IP với một kết nối
VC.
Đặc điểm của chế độ địa chỉ IP-to-VC là:
Chỉ sử dụng một giao thức định tuyến để thông báo địa chỉ
mạng IP
Sử dụng giao thức ánh xạ IP-to-VC để liên kết gói tin IP với
một đường tắt.
Chế độ địa chỉ chuyển đổi này được sử dụng trong tất cả bộ chuyển
mạch IP ngang hàng với nhau và những khi không sử dụng giao thức của diễn
đàn ATM hoặc sử dụng để thiết lập một đường dẫn tắt. Các giải pháp chuyển
mạch IP sử dụng chế độ địa chỉ này rất nhiều như IFMP, GSMP,...
trúc thiết bị chuyển mạch IP hay chuyển mạch IP ảo. Đó là chế độ ngang hàng
(Peer) và chồng phủ (Overlay).
3.3.1 Mô hình xếp chồng
Chế độ chồng phủ của chuyển mạch IP là chế độ mà lớp IP chạy trên
đầu lớp ATM. Hay nói cách khác, nó bao gồm các thiết bị IP với địa chỉ IP
chạy giao thức định tuyến IP và thiết bị ATM (như máy chủ IP, bộ định tuyến
IP, chuyển mạch ATM) với địa chỉ ATM chạy các giao thức báo hiệu và định
tuyến ATM. Do vậy, có thể nói chế độ chồng phủ là chế độ đơn giản nhất bởi
vì các thành phần IP và ATM đều sẵn có và chạy hầu hết các giao thức cơ
bản. Tuy nhiên có nhược điểm là hiệu năng hoạt động không cao bởi sẽ có
nhiều chức năng được lặp lại bởi luôn tồn tại 2 kiểu địa chỉ và chạy trên 2 bộ
giao thức cùng chức năng.
Đặc điểm của chế độ chồng phủ:
Nếu sử dụng SVC thì yêu cầu có sự phân giải địa chỉ giữa IP -
ATM và thực hiện giao thức định tuyến/ báo hiệu UNI/PNNI để
thiết lập đường định tuyến bình thường cũng như đường dẫn tắt.
Hỗ trợ các đường định tuyến mặc định (Lớp 3) và đường tắt
(Lớp 2)
Có cùng một phiên bản cho kỹ thuật IP trên các mạng đa truy
nhập không quảng bá khác (NBMA).
Một ví dụ của chế độ chồng phủ được minh hoạ như hình vẽ 3.3 sau:
IPCP #2
IPCP #1
Biên vào
Biên ra
ATM Switch#2
ATM Switch#1
Đ ư ờng đ ịnh tu yến IP
Đ ư ờng tắ t
Chỉ sử dụng một kiểu địa chỉ duy nhất: địa chỉ IP
Chuyển mạch IP sử dụng các giao thức điều khiển đặc biệt để
ánh xạ các gói tin vào các đường tắt: đường chuyển mạch lớp 2.
IPCP #4
IPCP#3 IPCP#5
Đ ư ờn g đ ịn h tu y ế n IP
Đ ư ờn g tắ t
Địa chỉ IP-VC được thực hiện bởi vì không có sự có mặt của thành
phần chuyển mạch ATM và chạy các giao thức của diễn đàn ATM. Ở ví dụ
này, đường dẫn tắt trùng với đường định tuyến mặc định xét về tính vật lý
của node và liên kết. Sỡ dĩ có sự giống nhau bởi vì trong chế độ này ta chỉ
dùng một giao thức định tuyến IP để tính một đường dẫn tối ưu đến một đích
dựa vào cấu hình mạng IP.
Bảng 3.1 sau đây sẽ đưa ra sự so sánh tóm tắt giữa các chế độ chuyển
mạch IP.
Đầu tiên N gói tin của một luồng được định tuyến theo từng
chặng qua một hay nhiều thực thể định tuyến IP (R1, R2,..., RN)
đến đích. Các thực thể định tuyến Ri này thuộc các bộ định tuyến
IP, bộ định tuyến IP ảo, hoặc các bộ định tuyến được kết nối với
nhau bằng các kết nối ATM.
Dựa vào đặc tính của luồng IP ví dụ kiểu lưu lượng, số cổng, địa
chỉ IP nguồn/đích, tốc độ đến, ... các thực thể định tuyến IP (tại
biên cũng như ở giữa mạng) quyết định khởi đầu một chu trình tái
điều khiển. Chu trình tái định hướng này liên quan đến việc yêu
cầu hệ thống thiết lập một đường tắt chuyển mạch lớp 2 và điều
khiển lưu lượng truyền qua đường tắt vừa thiết lập.
Một khi luồng IP được tái điều khiển thì tất cả các gói tin còn lại được
truyền qua đường chuyển mạch lớp 2.
Nguồn Đích
N gói tín R1
RB
1
B
B
B
R2
RB
2
B
B
B
RN
RN N gói tín
Tái điều
khiển
ATM
ATM ATM
ATM ATM
ATM
(N +1)+M (N +1)+M
gói tín Switch
Switch Switch
Switch Switch
Switch gói tín
Hình 3.5: Chuyển mạch IP kiểu hướng dữ
liệu
Hình vẽ 3.5 minh hoạ kiểu chuyển mạch này. Kiểu chuyển mạch IP
theo luồng dữ liệu có nhiều ưu điểm. Thứ nhất, nó không cần thiết chuyển
mạch tất cả các luồng lưu lượng của tất cả các luồng. Bởi vì không phải
luồng dữ liệu nào cũng cần thiết phải yêu cầuchuyển mạch như luồng ICMP
“ping”, hay thư điện tử tối ưu,... Thứ hai, sự tái điều khiển chỉ được thực
hiện riêng cho từng luồng cụ thể do đó, đảm bảo chất lượng gói tin truyền
qua luồng đó.
Tóm lại, đặc điểm cơ bản của kiểu chuyển mạch IP theo dữ liệu là:
Tuỳ vào tình trạng của một luồng cụ thể mà thiết bị chuyển mạch
IP quyết định thiết lập một đường chuyển mạch cho luồng đấy từ
ứng dụng đến ứng dụng khác hay từ máy chủ đến máy chủ. Một
luồng được định nghĩa là một chuỗi các gói tin có chung các thông
tin tiêu đề như địa chỉ IP đích/ nguồn hay số cổng TCP/UDP.
Sự tái điều khiển được thực hiện độc lập cho mỗi luồng và phạm vi
có thể chỉ ở các thiết bị chuyển mạch lân cận nhau hoặc xuyên suốt
từ biên vào và ra mạng. Nghĩa là các thiết bị chuyển mạch có thể
xử lý khác nhau cho cùng một luồng lưu lượng.
Nếu một đường tắt không tồn tại hoặc tự nhiên biến mất thì các
gói tin phải được định tuyến đến đích.
Các đường tắt được thiết lập dựa vào lưu lượng mang trạng thái mềm
nghĩa là chúng sẽ huỷ bỏ nếu không được làm tươi trước một thời gian định
trước (time out).
3.4.2 Giải pháp chuyển mạch theo cấu hình
Chuyển mạch IP theo cấu hình dựa trên cấu hình mạng IP và sử dụng
các giao thức định tuyến IP thông thường (như OSPF, BGP...) và được thực
hiện tại các thực thể định tuyến IP của chuyển mạch IP. Các thẻ mới
(VPI/VCI) được kết hợp với địa chỉ mạng IP đích để chỉ ra một mạng đích.
Chúng được tạo ra và phân phối tới các chuyển mạch IP khác trong miền
định tuyến. Tất cả lưu lượng đã được dự tính trước cho một mạng đích cụ thể
sẽ đi theo một đường dẫn chuyển mạch dựa trên các thẻ VPI/VCI mới.
Hoạt động cơ bản của chuyển mạch IP dựa theo cấu hình được minh
hoạ như ở hình vẽ 3.6.
RN
(Địa chỉ đích , nhãn )
Đích
Giải pháp điều khiển theo cấu hình cho chuyển mạch IP cải thiện hiệu
năng và tính linh hoạt so với giải pháp điều khiển luồng. Thứ nhất, tất cả lưu
lượng gồm một hoặc nhiêu luồng đến cùng một mạng đích được chuyển
mạch. Mặt khác toàn bộ lưu lượng được chuyển mạch, không chỉ có phần
đuôi như trong trường hợp chuyển mạch IP theo luồng. Thứ hai, chuyển
mạch IP theo cấu hình có trễ thời gian xử lý gói tin thấp hơn nhiều so với
phương pháp theo luồng bởi vì các đường dẫn chuyển mạch chỉ được thiết
lập sau khi có thay đôi cấu hình hoặc sau khi điều khiển lưu lượng. Nếu cấu
hình ổn định, các đường dẫn chuyển mạch sẽ được thiết lập và tất cả lưu
lượng thích hợp sẽ được truyền qua nó. Xét về phương diện qui mô thì giải
pháp theo cấu hình là tốt hơn. Bởi vì số đường dẫn chuyển mạch trong một
miền định tuyến là cân đối với số lượng các bộ định tuyến hay kích thước
của mạng. Ngoài ra, có thể cho phép các mức cao hơn sử dụng các kết nối đa
điểm đến điểm (ví dụ sự hợp nhất VC) để dùng chung một tập mạng đích.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì kỹ thuật này cũng có nhiều hạn
chế so với kỹ thuật thứ nhất. Thứ nhất, được lợi về qui mô và hiệu năng thực
hiện thì phải trả giá về chi phí. Chuyển mạch theo cấu hình dựa vào cấu hình
mạng để thiết lập tất cả các đường tắt có thể có ngay cả với những đường
không có lưu lượng truyền qua do đó làm lãng phí tài nguyên. Thứ hai, theo
kỹ thuật này việc thực hiện cung cấp QoS cho dịch vụ là khó khăn bởi vì các
đường tắt cho các luồng là cố định về thời gian và tính tối ưu. Thứ ba, có thể
sinh ra các vòng lặp bởi vì nếu sự cập nhật bảng định tuyến là chưa chính
xác (chưa kịp thời) thì các thiết bị chuyển mạch sẽ xác định các thẻ không
chính xác dẫn đến khả năng bị lặp.
Tóm lại, các đặc điểm cơ bản của chuyển mạch IP theo cấu hình là:
Đường tắt được thiết lập dựa vào sự tồn tại của các mạng đích và
chỉ được thiết lập sau khi có sự thay đổi trong cấu hình.
Tất cả lưu lượng có cùng một luồng đều được chuyển mạch qua
đường tắt.
Đầu ra của các chuyển mạch IP nhận được một thẻ mới tương ứng
với một địa chỉ đích. Thông thường chuyển tiếp IP được thực hiện
nhưng thay vì chuyển trực tiếp các gói đến địa chỉ IP của chặng
tiếp theo, đầu vào chuyển mạch IP được bổ sung thêm vào các thẻ
mới và đặt các gói lên một đường dẫn chuyển mạch.
Tại mỗi thành phần chuyển mạch trung gian, các gói (hay các tế
bào) được tráo thẻ.
Đầu ra chuyển mạch IP nhận được các gói từ đường dẫn chuyển
mạch, loại bỏ thẻ và sau đó chuyển tiếp các gói sử dụng các thủ tục
lớp 3 thông thường.
Các gói có thể được định tuyến lớp 3 thông thường đến đích nếu
một đường tắt gặp sự cố.
sau đó là chuyển mạch nhãn đa giao thức (MPLS của IETF) cho phép lien
kết các luồng lưu lượng IP với bất kỳ phương tiện truyền dẫn nào. Một
đường chuyển mạch (LSP) tương tư như một ATM VC có thể được thiết lập
xuyên qua một chuỗi các bộ định tuyến để truyền gói tin mức 2. kết quả đạt
được sự gắn kết giữa IP và chuyển mạch ATM – một sự ánh xạ giữa cơ chế
chuyển tiếp gói tin không hướng kết nối với tiêu đề phức tạp trên một kiến
trúc hướng kết nối ổn định đơn giản. Đảm bảo quan điểm cơ bản của IP đó là
trạng thái mềm (Soft-state) được thực hiện bằng cách các thiết bị ngang hàng
vẫn yêu cầu sự gán kết các đoạn doc theo một đường dẫn từ biên vào mạng
đến biên ra mạng chuyển mạch.
Nhưng cũng có các giải pháp khác đơn giản hơn đang nhanh chóng
nổi lên cúng giải quyết vấn đề là địa chỉ chuyển mạch IP, Ethernet Gìgabit,
thế hệ tiếp theo của Ethernet Crank hỗ trợ tốc đọ chuyển tiếp lên đến 1Gb.
Với thiết bị này, có thể chuyển tiếp hàng triệu gói tin trong một giây ở lớp 3
từ mạng Ethernet này đến mạng Ethernet khác. Các bộ định tuyến Gigabit và
Terabit ở trong mạng WAN được thiết kế cho mạng thế hệ sau sẽ hỗ trợ
hàng chục thậm chí hàng trăm gigabit trong một giây cho tốc độ chuyển tiếp.
Nó sẽ gắn trực tiếp vào mạng quang và hứa hẹn sẽ cung cấp rất nhiều dịch
vụ với tốc đọ cực cao không chỉ cho dữ liệu mà cho tiếng nói và hình ảnh.
Tuy nhiên mỗi giải pháp đều có ưu nhược điểm riêng và hiện nay,
người ta chỉ triển khai giải pháp đầu là chuyển mạch IP ở lớp 2. Có nhiều
giải pháp khác nhau của các công ty khác nhau để giải quyết vấn đề này.
Cụ thể một số giải pháp của một số công ty nổi tiếng trên thế giới là:
- Tag Switching (CISCO)
- IFMP IP Switching (IPSILON)
- IP Navigator (ASCEND)
- CSR/FANP (TOSHIBA)
- MPLS (IETF)
Hình vẽ dưới đây mô tả cây phân loại chuyển mạch IP, các công nghệ
liên quan và các giải pháp:
Chuyển mạch
IP
CHƯƠNG 4
CHUYỂN MẠCH THẺ CỦA CISCO
4.1 Giới thiệu chuyển mạch thẻ
Vào năm 1996, Cisco đã đề xuất một giải pháp mới cho chuyển mạch
IP, giải pháp này phù hợp cho việc tích hợp giữa bộ định tuyến và chuyển
mạch. áp dụng sự phân loại từng luồng và sự ánh xạ địa chỉ để thiết lập các
đường tắt (Là đường chuyển mạch lớp 2) động, chuyển mạch thẻ, sử dụng các
thông tin giao thức điều khiển để đặt luồng lưu lượng IP lên đường dẫn
chuyển mạch. Chuyển mạch thẻ mang thông tin về giao thức định tuyến (như
địa chỉ mạng đích) và phân phối các thẻ đã được liên kết với các luồng thích
hợp tại các thiết bị thực hiện dọc theo đường dẫn. Các gói tin tới một đích cụ
thể được thêm vào thẻ thích hợp và chuyển tiếp qua mạng chuyển mạch thẻ
dựa trên nội dung của thẻ. Chuyển mạch thẻ thay thế việc tìm kiếm các đường
định tuyến cho gói tin trong các bảng định tuyến tiêu chuẩn (rất lớn) tại lớp 3
bằng việc tìm kiếm đường chuyển mạch lớp 2 trong bảng thông tin về thẻ (có
kích thước rất nhỏ, cấu tạo đơn giản).
Chuyển mạch thẻ hoạt động dựa trên một thiết bị được gọi là bộ định
tuyến chuyển mạch thẻ (TSR). Một TSR cung cấp các giao thức định tuyến
tiêu chuẩn đơn hướng (unicast) và đa hướng (multicast) ví dụ như: OSPF,
PIM và có thể khả năng chuyển tiếp lưu lượng IP theo một đường định tuyến
mặc định. Ngoài ra chuyển mạch thẻ sử dụng thêm một giao thức điều khiển
nữa là giao thức phân phối thẻ(TDP), giao thức này được các thiết bị TSR sử
dụng để phân phối ánh xạ địa chỉ mạng - thẻ tương ứng (Prefix-to-label) gọi
là quá trình liên kết thẻ. Bằng cách gán các thẻ cho các luồng tại mỗi thiết bị
TSR, chuyển mạch thẻ thiết lập được các đường chuyển mạch lớp 2. Khi một
gói tin đến một TSR, thông tin về thẻ trong tiêu đề của gói tin được dùng để
tìm kiếm một thực thể thích hợp trong bảng thông tin về thẻ tại TSR đó, sau
đó TSR dùng phương pháp “tráo thẻ” và truyền gói tin với thẻ mới đến thiết bị
TSR tiếp theo.
Chuyển mạch thẻ thuộc kiểu giải pháp hướng cấu hình, nghĩa là đường
chuyển mạch tồn tại trước khi có luồng lưu lượng thật sự được truyền đến và
nó sẽ chuyển mạch tất cả các luồng đến mạng chuyển mạch thẻ.
Bộ định tuyến 9 5 5 1
chuyển mạch
Tráo nhãn
Hình vẽ trên minh hoạ một gói tin IP vào với thẻ bằng 5, được dùng để
truy nhập vào bảng TIB, sau khi xác định được thực thể thích hợp nó thực
hiện cơ chế tráo thẻ và thẻ ra bây giờ có giá trị bằng 1và ra ở cổng 5.
Một tính chất quan trọng của chuyển mạch thẻ là chức năng điều khiển
lớp mạng tách biệt khỏi hoạt động của lớp chuyển tiếp chuyển mạch thẻ. Sự
tách biệt này rất cần bởi nó cho phép các nhà cung cấp mạng liên kết các dịch
vụ mạng hiện tại và tương lai với một cơ chế chuyển tiếp đơn giản và quy mô.
Các dịch vụ như định tuyến dựa vào đích, định tuyến đa hướng, và định tuyến
nổi có thể được liên kết với một tập các thẻ và khi được phân phối qua mạng,
được thể hiện dưới dạng đường chuyển mạch xuyên suốt (end-to-end) cho
từng dịch vụ. Mặc dù các dịch vụ lớp mạng có thể có rất nhiều nhưng cơ chế
chuyển tiếp cơ bản vẫn không thay đổi. Bởi vậy, khi sử dụng một dịch vụ lớp
mạng mới không cần thiết phải cập nhật hay tối ưu lại các thành phần và bộ
máy của cơ chế chuyển tiếp. Một ví dụ điển hình là ở phiên bản IPv6 sẽ mở
rộng không gian địa chỉ thành 128 bit nhưng vẫn không cần có bất kỳ sự thay
đổi nào trên đường dẫn chuyển tiếp đã tồn tại.
Kiến trúc chuyển mạch thẻ gồm hai thành phần cơ bản là: Điều khiển
và Chuyển tiếp.
- Thành phần điều khiển chịu trách nhiệm sinh ra và sử dụng hợp lý
một tập các thẻ giữa các thiết bị tham gia chuyển mạch. Quá trình
phân phối thẻ được thực hiện bằng các giao thức điều khiển riêng
như TDP hoặc có thể sử dụng trên các giao thức điều khiển đã tồn
tại (VD: RSVP, PIM )
- Thành phần chuyển tiếp sử dụng thông tin về thẻ chứa trong mỗi
gói và thông tin lưu trữ trong các thiết bị chuyển mạch để thực
hiện quá trình chuyển tiếp gói. Mặc dù mỗi thẻ đảm nhận các thể
hiện khác nhau tuỳ thuộc vào phương tiện vật lý (ví dụ VPI/VCI,
DLCI,...) nhưng cơ chế chuyển tiếp cơ bản là không thay đổi. Do
dó chuyển mạch thẻ có thể hoạt động trên bất kỳ một kỹ thuật liên
kết dữ liệu nào.
Net 1
5
2
TSR
2 9
1 3
3
TIB Net 2
Cổng Nhãn Cổng Nhãn
Đích
vào vào ra ra
1 9 2 5 Net 1
1 2 3 3 Net 2
c) Chuyển mạch thẻ: Bao gồm kiến trúc, các giao thức và các thủ tục
để gán các thông tin lớp mạng vào các thẻ và chuyển tiếp gói sử dụng cơ cấu
trao đổi thẻ.
g) Bảng thông tin thẻ (Tag Information Base -TIB): TIB là một
bảng kết nối hoặc tráo thẻ được các TSR xây dựng và sử dụng. Các thực
thể trong TIB được cập nhật bởi các thẻ chứa trong TDP hoặc các giao thức
điều khiển khác.
Hình vẽ 4.4 minh hoạ một TIB.
1 9 2 5 Net 1
1 2 3 3 Net 2
Trên hình vẽ: Một gói tin đã được gắn thẻ X đến TSR1, giả sử tại đây
TSR #1 được yêu cầu sử dụng phương pháp ngăn xếp thẻ, TSR #1 thực hiện
đặt thêm một thẻ thứ hai (A) trên thẻ thứ nhất (X) đã tồn tại tạo nên một ngăn
xếp thẻ. Bây giờ, gói tin có 2 thẻ và nó được truyền đi theo nội dung của thẻ
phía trên đỉnh xuyên qua mạng chuyển mạch. Giả sử tại TSR #5, yêu cầu loại
bỏ chế độ ngăn xếp thẻ, TSR #5 tiến hành loại bỏ thẻ đỉnh và dùng thẻ lớp 1
để chuyển mạch đến TSR tiếp theo.
Quá trình xếp thẻ có thể được sư dụng khi úng dụng chuyển mạch thẻ
vào định tuyến phân cấp .Ví dụ thẻ mức 1 được gắn với bộ định tuyến bên
trong miền (BGP),và thẻ mức hai có thể đươc cung cấp cho bộ định tuyến bên
trong miền(OSPF).
j) Lớp chuyển tiếp tương đương (Forwarding Equivalence Class- FEC):
Lớp chuyển tiếp tương đương là một chuỗi các gói có cùng các đặc điểm chung
và được chuyển tiếp cùng một cách thức xuyên qua mạng. Ví dụ, tất cả các gói
có cùng địa chỉ mạng đích có thể xem là một FEC đơn do đó, các gói tin đó được
gán với cùng một thẻ khi truyền qua mạng.
k) Đường dẫn chuyển mạch thẻ (Tag Switch Path:TSP): Là đường dẫn
chuyển mạch từ biên vào đến biên ra của mạng, xuyên qua một chuỗi các TSR
được tạo nên bởi sự liên kết một FEC với một tập các thẻ.
TSR TSR
Up stream Dowm stream
TIB TIB
Thẻ ra Thẻ ra
=2 =2
Hình 4.8: Cấp phát thẻ theo phương pháp Downstream on demand
- Với mỗi thực thể trong bảng định tuyến, thiết bị TSR upstream sinh ra
một yêu cầu liên kết thẻ và truyền nó đến chặng tiếp theo trên đường
đến đích.
- Khi một TSR downstream nhận được yêu cầu này, nó cấp phát một thẻ
và cập nhật vào bảng TIB giá trị này ở vị trí trường thẻ vào sau đó nó
truyền một bản tin có dạng <địa chỉ đích,thẻ> cho TSR upstream.
- Khi TSR upstream nhận được bản tin yêu cầu liên kết thẻ của TSR
downstream nó đặt giá trị thẻ vào trường thẻ ra trong thực thể tương ứng
của bảng TIB TSR upstream.
TSR TSR
Up stream Dowm stream
TIB TIB
Thẻ ra Thẻ ra
=2 =2
Tiêu đề
Tiêu đề của
của TDP
TDP
TDP PIE
TDP PIE TVL
TVL #1
#1
TDP PIE
TDP PIE TVL
TVL #2
#2
Hình 4.10: Định dạng gói
TDP
Sau khi thiết lập một kết nối TCP, một chuỗi các bản tin khởi đầu được
truyền đi để đặt các thiết bị TSR ngang hàng vào trong một trạng thái hoạt
động. Bây giờ, các TSR mới bắt đầu dùng TDP để trao đổi các bản tin gán
thẻ. Thông tin cho gán thẻ được đóng gói thành các cấu trúc TDP PIE và
thành khung với một tiêu đề TDP cố định để truyền trên các kết nối TCP đã
được thiết lập. Nếu kết nối TCP bị mất thì thông tin về gán thẻ bị loại bỏ và
các thẻ phải được cấp phát lại.
4.5.2 Các kiểu đơn vị giao thức TDP
TDP PIE gồm các bản tin sau:
TDP_PIE_OPEN: Là PIE đầu tiên được một TSR gửi đi cho các TSR
ngang hàng sau khi một kết nối TCP được thiết lập. Khi một TSR nhân
được PIE này, nó sẽ ngay lập tức trả lời bằng TDP_PIE_KEEPALIVE
hoặc TDP_PIE_NOTIFICATION.
TDP_PIE_BIND: Là PIE được một TSR gửi đi khi muốn gán thẻ cho
một luồng lưu lượng nào đấy. Nó được sinh ra dựa vào một sự kiện
(như cập nhật bảng định tuyến) hay đáp ứng thành phần
TDP_REQUEST_BIND. Thông tin gán thẻ được chứa trong cấu trúc
TLV và có thể chứa một giá trị thẻ, địa chỉ mạng hoặc độ dài. Cấu trúc
của TDP_PIE_BIND được minh hoạ như hình vẽ 4.11.
Type(0x200) Độ dài
Request ID
AFAM BLIST_TYPE
Binding List
CHƯƠNG 5
ỨNG DỤNG CỦA CHUYỂN MẠCH IP
5.1 Chuyển mạch IP hỗ trợ lưu lượng đa hướng
Các giải pháp chuyển mạch IP của bốn hãng đã xét ở chương trước đều
nhằm mục đích chung là nâng cao hiệu quả của mạng, cố gắng thực hiện
chuyển mạch các luồng lưu lượng IP thay vì định tuyến chúng trên cơ sở từng
chặng thông thường. Nhiều giải pháp khác nhau cùng với các phiên bản giao
thức nâng cấp đã khắc phục được các nhược điểm trong việc cung cấp dịch vụ
của chuyển mạch IP như: Cung cấp dịch vụ trên cơ sở QoS, CoS, hỗ trợ đa
hướng,… Trong chương này sẽ chỉ ra phương thức hỗ trợ lưu lượng đa hướng
(multicast) của các giải pháp chuyển mạch IP.
5.1.1 IFMP hỗ trợ lưu lượng đa hướng
Hoạt động chuyển mạch IP hỗ trợ lưu lượng đa hướng cũng hoàn toàn
tương tự như trong trường hợp hỗ trợ đơn hướng. Đối với giải pháp chuyển
mạch IP của hãng Ipsilon thì các bản tin đổi hướng IFMP cũng truyền ngược
từ các nhánh của cây phân phát để đối chiếu một luồng với một kết nối ảo
mới. Chỉ có một sự khác biệt là địa chỉ đích của bộ nhận dạng luồng địa chỉ
nhóm đa hướng: đó là địa chỉ của các điểm nhánh của cây phân phát. Hơn
nữa, giao thức quản lý chuyển mạch chung (GSMP) sẽ phải tính toán nhiều
thao tác thêm nhánh (ADD BRANCH) mà số thao tác này tùy thuộc vào số
lượng các nhánh luồng xuống trong cây phân phát. Hình 5.1 chỉ ra một ví dụ
mà IFMP hỗ trợ lưu lượng đa hướng:
IFMP IFMP
IFMP
Mặc dù đây là cách đơn giản nhất nhưng có một số điểm cần xem
xét. Một thiết bị TSR hướng lên cũng có thể có nhiều nguồn đa hướng lên
nữa, nên yêu cầu số nhãn nhiều hơn số nhãn được phân phát chung. Mặt
khác nếu có sự thay đổi trong cấu hình mạng thì có thể dẫn tới việc xuất
hiện thiết bị TSR hướng lên mới, do dod phải yêu cầu thực hiện quá trình
gán lại nhãn. Nên quá trình phân bố và gán nhãn xuất phát từ luồng xuống
là thuận lợi và thích hợp hơn, nó cũng hoàn toàn nhất quán với thông tin
của các node thành viên nhóm đa hướng với quá trình phân phối, ấn định
nhãn trong định tuyến đơn hướng. Phương pháp này cũng cho phép sử dụng
các bản tin định tuyến đa hướng PIM để thêm phần thông tin của nhãn vào
vì nó theo hướng luồng xuống. Quan trọng hơn là khi có sự thay đổi trong
cấu hình mãng dẫn tới hình thành thiết bị TSR mới thì cũng không cần phải
thực hiện quá trình gán lại nhãn.
5.1.4 ARIS và dịch vụ đa hướng
ARIS có thể thiết lập các đường chuyển mạch cho lưu lượng đa hướng.
Quá trình thiết lập một cây phát điểm-đa điểm chuyển mạch có thể xuất phát
tại gốc hay tại node đầu vào. Cây có các đường chuyển mạch mạng toàn bộ
lưu lượng đa hướng từ thiết bị ISR đầu ào tới tất cả các các thiết bị ISR đầu ra
đều sử dụng chuyển mạch trên cơ sở phần cứng trong các thiết bị ISR trung
chuyển. Cơ chế sử dụng phần cứng cải thiện nhiều hơn so với định tuyến đa
hướng trên cơ sở phần mềm của bộ định tuyến. ARIS độc lập với bất kỳ giao
thức đinh tuyến đa hướng cơ bản nào. ARIS hỗ trợ cho cách thiết lập theo dữ
liệu, mỗi cặp (nguồn, địa chỉ nhóm) trong cây phân phát có gốc tai nguồn yêu
cầu như yêu cầu trong giao thức DVMRP và PIM DM (PIM-DM). AIRS cũng
hỗ trợ cách thiết lập theo bên nhận, ở đó cây phân phát dùng chung đối lập với
mỗi cặp (*, địa chỉ nguồn) như yêu cầu trong PIM-SM (PIM Sparse Mode)
để phục vụ các luổng riêng đặc biệt, cho phép truy cập nhanh hơn hay chậm
hơn khi đi vào hay đi ra khỏi một mạng xương sống ISP. Xem xét hai ví dụ
trong hình 5.3:
Chuyển mạch IP
Chuyển mạch IP
Server Ví dụ 1
Mạng
Head End
Chuyển mạch IP
Ví dụ 2
Hình 5.3: Các dịch vụ cạnh (edge service) của chuyển mạch IP
Trong trường hợp thứ nhất, một chuyển mạch IP là đầu cuối phía trước
của một server, trong đó bộ phân loại luồng đã được lập trình để nhận dạng và
đánh nhãn các luồng có độ ưu tiên cao hơn, các luồng này sẽ đi vào mạng ISP
theo đường chuyển mạch; ngược lại, các luồng khác sẽ được xử lý từng chặng
với nỗ lực lớn nhất (best-effort).
Trường hợp thứ hai là một trường hợp thú vị; một modem băng rộng tại
nhà riêng hỗ trợ IFMP (cáp hoặc xDSL) dùng để chuyển bản tin đổi hướng
IFMP hướng tới đầu cuối (Head End), do đó cá luông lưu lượng IP xác định
tới nhà sẽ nhanh hơn.
5.2.2 Mạng CSR
Thiết bị CSR có thể triển khai hiệu quả trong môi trường mạng khác
nhau. Xem xét trường hợp đầu tiên, khi có một số lượng lớn các bộ định tuyến
biên kết nối tới một mạng ATM chung. Thông thường phải yêu cầu một lưới
các PVC (kết nối ảo cố định) để cung cấp hiệu năng làm việc tối ưu giữa bất
kỳ cặp bộ định tuyến đầu vào-đầu ra nào. Tuy nhiên, trường hợp này phải yêu
cầu tới O(NP2P) kết nối ảo và một mức tiêu tốn tỷ lệ thuận các tài nguyên sử
dụng trong bộ định tuyến, trong các thiết bị chuyển mạch cũng như các nhân
viên hoạt động liên quan. Việc thay thế bằng các thiết bị CSR trong lõi của
mạng sẽ giảm bớt yêu cầu cho mạng lưới VC, giảm lưu lượng điều khiển phải
truyền qua mạng và cẩn xuất hiện tại các bộ định tuyến mà vẫn cung cấp được
khả năng thiết lập một VC trược tiếp (đường ống chuyển tắt) giữa bất kỳ cặp
bộ định tuyến đầu vào-đầu ra nào. Tất nhiên đường tắt chỉ mở rộng khi nào có
các cơ chế sử dụng để thiết lập nó. Do đó, khung cảnh lý tưởng cho môi
trường này là yêu cầu các bộ định tuyến biên phải hỗ trợ FANP như minh họa
trong hình 5.4
CSR
Bộ định tuyến CSR
(FANP )
Mạng Bộ định tuyến
ATM (FANP )
CSR
được chuyển tiếp lên mạng xương sống, và tùy thuộc vào kiểu lưu lượng, cấu
hình mạng mà lưu lượng có thể chuyển thông qua một đường định tuyến từng
chặng chuẩn hay được đặt lên một đường chuyển tắt chuyển mạch tế bào
3.2.3 Mạng chuyển mạch thẻ
Chuyển mạch thẻ phù hợp nhất cho mạng rộng trên cơ sở IP như các
mạng intranet kết hợp hay các mạng ISP. Chuyển mạch thẻ có thể triển khai
bằng phần mềm trong các bộ định tuyến đang tồn tại hay thêm vào một thiết
bị điều khiển để thiết lập các đường chuyển mạch giống VC trong mạng ATM
đa dịch vụ.
Ví dụ về một mạng chuyển mạch thẻ cơ bản có mạng đường trục
(xương sống) gồm một số các bộ TSR lõi và bao quanh mạng đường trục là
các thiết bị TER. Mạng này không giống với khái niệm về một đám mây
chuyển mạch rộng (Frame Relay hay ATM), mà đám mây này phục vụ như là
lõi của một số lượng lớn hơn gồm các bộ định tuyến cạnh. Mạng chuyển mạch
thẻ này được minh họa như trên hình 5.5
Bộ định tuyến
(TDP) TSR
TSR
Bộ định tuyến
(TDP)
cũng cung cấp lợi ích về mặt hiệu năng làm việc và điều khiển đường rõ mà ở
đó các kết nối ảo chuyển mạch không yêu cầu Frame Relay hay ATM.
5.2.4 Mạng ARIS
ARIS Là một giải pháp chuyển mạch hướng cấu hình, nó phù hợp nhất
cho các mạng diện rộng trên cơ sở IP. Mục đích của ARIS là làm giảm nhỏ
nhất khối lượng các tài nguyên mạng yêu cầu để chuyển mạch tất cả lưu lượng
IP giữa hai node bất kỳ. Có nghĩa là sẽ sử dụng được nhiều tài nguyên mạng
hơn (thiết bị chuyển mạch hay bộ định tuyến) để cung cấp cho các dịch vụ đặc
biệt không mặc định. Những dịch vụ này có thể là các mạng riêng ảo (VPNs),
các luồng QoS, định tuyến rõ ràng, các đường ngầm (tunnels), các kết nối
ATM nguyên bản,... Nói chung, ARIS cho phép các mạng rất lớn chuyển
mạch một số lượng lớn lưu lượng IP kết hợp nên nâng cao được toàn bộ hiệu
năng mạng.
ARIS phù hợp nhất với kiểu mạng rông ISP đa dịch vụ trên cơ sở hạ
tầng ATM. Ví dụ về một mạng ARIS chỉ trong hình 5.6.
Chuyển mạch
ATM Chuyển mạch
ATM
Chuyển mạch
ATM
ISR
Chuyển mạch
ATM
Bộ định tuyến
(ARIS)
Bộ định tuyến
(ARIS) Chuyển mạch
ATM
Theo hình thì mạng có các thiết bị ISR hỗ trợ cho định tuyến IP, các
dịch vụ chuyển mạch IP qua ARIS, và chuyển mạch ATM nguyên gốc. Các
bộ định tuyến đặt tại ngoại biên mạng có thể chuyển tiếp các gói tại lớp 3 tới
các thiết bị ISR lõi, hay dùng các giao thức để thiết lập các đường dẫn chuyển
mạch xuyên suốt từ đầu vào tới đầu ra.
KẾT LUẬN
Từ những gì đã trình bày ở trên về chuyển mạch IP ta có thể rút ra một
số kết luận sau đây:
Do tính đơn giản về mặt kỹ thuật và không cần thay đổi nhiều về phần
cứng khi áp dụng vào các hệ thống hiện có, chắc chắn chuyển mạch IP sẽ là
giải pháp cho mạng Internet đang đòi hỏi tốc đọ cao và cung cấp các dịch vụ
phong phú với số lượng khổng lồ như hiện nay và trong tương lai. Chuyển
mạch IP chính là sự kết hợp ưu điểm chuyển mạch tốc đọ cao của chuyển
mạch ATM với các giao thức điều khiển đơn giản, do đó khắc phục được
nhược điểm cho chuyển mạch ATM và định tuyến IP. Thêm vào đó, chuyển
mạch IP còn có thể áp dụng được cho nhiều kiểu mạng khác nhau: từ các
mạng truy nhập đến các mạng lõi dung lượng lớn.
Tuy nhiên, cung có nhiều lý do mà kỹ thuật chuyển mạch IP còn chưa
được áp dụng rộng rãi. Một trong những lý do đó là giá thành, và trong nhiều
trường hợp chuyển mạch tốn kém hơn nhiều sơ với định tuyến thông thường.
Hơn nữa, trong một số trường hợp, việc cung cấp QoS sẽ thực hiện khó khăn
và có thể gây ra trễ, trượt,…
Những cuối cùng, có thể nói rằng ưu điểm của chuyển mạch IP là
không thể phủ nhận, nó sẽ là một công nghệ chuyển mạch cho tương lai.
Chuyển mạch IP đã và đang là điểm tập trung nghiên cứu của nhiều hãng trên
thế giới nhằm đưa các sản phẩm ứng dụng chuyển mạch IP vào hoạt động
trong các môi trường mạng khác nhau.
Đồ án nghiên cứu về “chuyển mạch IP” mới chỉ là bước đầu xem xét
nghiên cứu về một giải pháp chuyển mạch mới, một giải pháp then chốt để
giải quyết các vấn đề nan giải của mạng IP hiện nay. Do thời gian có hạn và
năng lực nghiên cứu hạn chế nên đồ án chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót, em hy
vọng rằng sẽ được thầy cô và các bạn giúp đỡ để em có điều kiện tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này, góp phần nhanh chóng đưa công nghệ
chuyển mạch IP này vào mạng Việt Nam.
[7] ThS Dương Văn Thành, “Công nghệ ATM và mạng viễn thông
đa dịch vụ băng rộng”, Học viện công nghệ BCVT