You are on page 1of 10

KHÁI QUÁT NGÀNH DỊCH VỤ

Tổ chức Thương mại Thế giới đã chia các hoạt động dịch vụ khác nhau thành 12 ngành (trong
đó gồm 155 tiểu ngành):

Các dịch vụ kinh doanh; dịch vụ bưu chính viễn thông ; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật
liên quan khác; dịch vụ phân phối; dịch vụ giáo dục; dịch vụ môi trường; dịch vụ tài chính; các
dịch vụ xã hội và liên quan đến y tế; các dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan đến lữ hành; các
dịch vụ giải trí văn hoá, thể thao; dịch vụ vận tải và các dịch vụ khác…

Dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu trong từng nền kinh tế quốc dân và là yếu tố đóng góp
quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Năm 2001 ngành dịch vụ đã tạo nên 72% GDP của
các nước phát triển và xấp xỉ 52% ở các nước đang phát triển…

Hoạt động dịch vụ ở Việt Nam:

Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát
triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời
sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế…

Ngành dịch vụ tăng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1995, đạt 8,6%, nhưng sang giai đoạn 1996-
2000 tốc độ tăng chậm lại, chỉ đạt 5,7% và đang có xu hướng hồi phục trong những năm gần đây
(năm 2001 đạt 6,1% năm 2002 đạt 6,54% và 2003 đạt 6,57%).

Tỷ trọng của ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa cao, chỉ đạt 36-37% trong GDP (tính quy luật chung
là 45%). Ngoài ra xu thế tỷ trọng này đã giảm từ 37,1% năm 1995 xuống còn 36,1% năm 2002…

Cơ cấu ngành dịch vụ Việt Nam đa dạng với nhiều phân ngành dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên
hiện nay, Việt Nam chỉ tập trung ở hai công đoạn lắp ráp và gia công chế biến. Các dịch vụ khác
như nghiên cứu khoa học, thiết kế kiểu dáng hay tiếp thị, nghiên cứu thị trường… đều kém phát
triển. Các phân ngành dịch vụ quan trọng như tài chính, viễn thông, cơ sở hạ tầng…chưa đủ
mạnh. Đến nay cả dịch vụ vận tải và dịch vụ viễn thông mới chỉ chiếm 9,6% trong toàn ngành
dịch vụ và dịch vụ tài chính chỉ chiếm 5% …

Ngành dịch vụ tạo ra nhiều việc làm tuy nhiên,ước tính ở Việt Nam mới chỉ có 25% lực lượng lao
động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ. Với sức ép hàng năm Việt Nam cần phải tăng thêm khoảng
1,7 triệu lao động, trong khi đó ngành công nghiệp và nông nghiệp chỉ thu hút được tối đa là 1,1
triệu lao động, vì vậy ngành dịch vụ cần phải tạo ra 0,9 triệu lao động hàng năm, nhưng với tốc
độ tăng trưởng hiện nay, ước tính mỗi năm, chỉ đáp ứng được 0,5 triệu lao động.

Ngành dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Hiện tại các chi phí dịch vụ viễn thông, cảng biển, vận tải…của Việt Nam đang cao hơn mức
trung bình của các nước trong khu vực (viễn thông cao hơn 30-50%, vận tải đường biển cao hơn
từ 40-50%).

Trong khi đó, sức ép tự do hoá đối với lĩnh vực dịch vụ của ta trong BTA và trong WTO sắp tới là
rất lớn. Trước mắt, theo Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, ta cam kết mở cửa các lĩnh vực như
ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm cho các công ty dịch vụ Mỹ vào hoạt động theo lộ trình với
những giới hạn mà Việt Nam đặt ra đối với các loại hình đầu tư, dịch vụ này tuỳ theo mức độ
nhạy cảm (an ninh quốc gia, kinh tế). Thời hạn mở cửa cho các ngành hàng dịch vụ là từ 3-5
năm, trong đó phần góp vốn của Mỹ không quá 49%, riêng khu vực ngân hàng có thể 100% sau
9 năm Hiệp định có hiệu lực.

Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thành lập Tổ công tác liên ngành về dịch vụ, đồng thời Thủ
tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm
2006-2010.

Theo Chỉ thị, trong kế hoạch năm 2005 và các kế hoạch năm 2006-2010, cần nâng cao vai trò
của khu vực dịch vụ; xem ngành dịch vụ là một trong những ngành mũi nhọn để phát triển kinh tế
đất nước với các mục tiêu:

- Tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có tiềm năng như du lịch, bảo hiểm vận tải hàng
không, xây dựng, xuất khẩu lao động… khuyến khích phát triển dịch vụ mới có sức cạnh tranh
cao; phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng dịch vụ giai đoạn 2006-2010 cao hơn tốc độ tăng trưởng
chung của nền kinh tế; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành và nội ngành dịch vụ, tăng dần tỷ
trọng dịch vụ trong GDP của cả nước, tiến tới đạt khoảng 45% vào năm 2010.

- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi
thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh
tranh và phát triển.

- Đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du
lịch, tài chính-ngân hàng, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ, bưu chính viễn thông, vận tải hàng
không và đường biển; giảm thâm hụt cán cân dịch vụ.

- Đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển các dịch vụ văn hoá, giáo dục y tế, thể dục thể thao, dịch vụ
việc làm…theo cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và từng bước
hội nhập quốc tế.

- Khảo sát, đánh giá sức cạnh tranh của từng lĩnh vực dịch vụ hiện tại và trong tương lai, phân
loại các dịch vụ cần được bảo hộ, các lĩnh vực loại trừ tạm thời, loại trừ hoàn toàn cho việc mở
cửa các ngành dịch vụ và dành đãi ngộ quốc gia, tối huệ quốc cho các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài.

Chỉ thị này cũng đặt yêu cầu cụ thể cho các Bộ/ngành/địa phương về công tác xây dựng chiến
lược, quy hoạch phát triển dịch vụ cũng như các công tác liên quan khác nhằm hỗ trợ việc hoạch
định chính sách ngành dịch vụ.

Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (2.360 con sông dài trên 10 km), chảy theo hai
hướng chính là tây bắc- đông nam và vòng cung. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mê
Công tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được
bổ sung tới 310 tỷ m3 nước. Chế độ nước của sông ngòi chia thành mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ
chiếm tới 70-80% lượng nước cả năm và thường gây ra lũ lụt.

THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC:

Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó,
Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển
đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa
phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con
đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây
dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự
công bằng tương đối trong xã hội.

Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo ra khung pháp lý
cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Năm 1991 Luật doanh nghiệp tư
nhân và Luật công ty ra đời. Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng
của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như Luật đất đai, Luật thuế,
Luật phá sản, Luật môi trường, Luật lao động và hàng trăm các văn bản pháp lệnh, nghị
định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội.

Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng bước được
hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, nhấn mạnh quan
hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các
tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị trường cơ bản như thị trường tiền tệ, thị
trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… Cải cách hành chính được thúc
đẩy nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ
hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Chiến
lược cải cách hành chính giai đoạn 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam,
trong đó nhấn mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh
tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai
đoạn mới.

Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã
mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Việt Nam đã tạo ra
được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu
quả trong việc huy động các nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan
hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và
phát triển thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du
lịch, xuất khẩu lao động, tiếp nhận kiều hối...

Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế trong nước đã có sự thay đổi đáng kể.
Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống
20,89% GDP, nhường chỗ cho sự tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây
dựng từ 22,7% lên 41,03%, còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay
đổi: 38,6% năm 1990 và 38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự
thay đổi tích cực. Trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông và lâm nghiệp đã
giảm từ 84,4% năm 1990 xuống 77,7% năm 2003, phần còn lại là tỷ trọng ngày càng tăng
của ngành thủy sản. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến
tăng từ 12,3% năm 1990 lên 20,8% năm 2003, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng
cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành
dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…

Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt
động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung
pháp lý ngày càng được đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức
sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế.

Khi sửa đổi Luật doanh nghiệp (năm 2000), các doanh nghiệp tư nhân đã có điều kiện
thuận lợi để phát triển. Bộ luật này đã thể chế hóa quyền tự do kinh doanh của các cá
nhân trong tất cả các ngành nghề mà pháp luật không cấm, dỡ bỏ những rào cản về hành
chính đang làm trở ngại đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp như cấp giấy
phép, thủ tục, các loại phí… Tính trong giai đoạn 2000-2004, đã có 73.000 doanh nghiệp
tư nhân đăng ký mới, tăng 3,75 lần so với giai đoạn 1991-1999. Cho đến năm 2004, đã có
150.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp, với tổng số vốn
điều lệ là 182.000 tỷ đồng. Từ năm 1991 đến năm 2003, tỷ trọng của khu vực kinh tế tư
nhân trong GDP đã tăng từ 3,1% lên 4,1%, kinh tế ngoài quốc doanh khác từ 4,4% lên
4,5%, kinh tế cá thể giảm từ 35,9% xuống 31,2%, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
tăng từ 6,4% lên 14%. Từ 1/7/2006, Luật Doanh nghiệp 2005 (áp dụng chung cho cả
doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài) đã có hiệu lực, hứa hẹn sự lớn mạnh của
các doanh nghiệp bởi sự bình đẳng trong quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, không
phân biệt hình thức sở hữu.

Trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, những chính sách và biện pháp điều chỉnh, sắp
xếp lại doanh nghiệp, đặc biệt là những biện pháp về quản lý tài chính của công ty nhà
nước, quản lý các nguồn vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, hay việc chuyển các
công ty nhà nước thành công ty cổ phần theo tinh thần cải cách mạnh mẽ hơn nữa các
doanh nghiệp nhà nước, ngày càng được coi trọng nhằm nâng cao tính hiệu quả cho khu
vực kinh tế quốc doanh. Với chính sách xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước có xu hướng giảm đi, từ 40,1% GDP năm 1991
xuống còn 38,3% năm 2003, kinh tế tập thể giảm từ 10,2% xuống 7,9% trong thời gian
tương ứng. Trong các năm 2002-2003, có 1.655 doanh nghiệp nhà nước được đưa vào
chương trình sắp xếp và đổi mới, năm 2004 là 882 doanh nghiệp và năm 2005 dự kiến sẽ
là 413 doanh nghiệp.

Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào mục tiêu phát triển xã
hội như phân chia một cách tương đối đồng đều các lợi ích của đổi mới cho đại đa số dân
chúng; gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế,
giáo dục; nâng chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước
năm 1994, lên vị trí thứ 108/177 nước trên thế giới năm 2005; tăng tuổi thọ trung bình
của người dân từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên 72 tuổi năm 2005, giảm tỷ lệ số hộ
đói nghèo từ trên 70% đầu những năm 1980 xuống dưới 7% năm 2005.
THƯƠNG MẠI:

1. Thị trường trong nước:

Sau hơn 20 năm, với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có một bước chuyển
đổi cơ bản từ một nền kinh tế tập trung thành một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Trong
suốt thời kỳ này, nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh. Mặc dù Việt Nam vẫn còn một
khoảng cách khá xa so với các nước giàu có, song với sự điều hành hợp lý của chính phủ
Việt Nam, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, và các yếu tố thuận lợi khác trong nước
đang giúp cho nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển và đất nước trở lên giàu hơn.

Thống kê [2]

GDP 65 tỉ USD (2007)

Tăng GDP 8,2 % (2006)

GDP đầu người 800 USD (2007 ước tính)

GDP(PPP)/người 3.100 USD (2006 ước tính)

GDP theo lĩnh Nông nghiệp (15,97 %), lâm nghiệp


vực (1,2%), công nghiệp và xây dựng
(40,97 %), dịch vụ (38,1 %) (2006)

Lạm phát 7 % (2006)

Lực lượng lao 44,58 triệu (2006 ước tính)


động

Lao động theo Nông nghiệp (56,8 %), công nghiệp


nghề (37 %), dịch vụ (6.2%) (2005 ước
tính)

Thất nghiệp 6,1 % (2003)

Sau đây là số liệu về tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam theo giá so sánh năm 1994 do
Tổng cục Thống kê công bố:

Năm Tổng sản phẩm quốc nội (nghìn tỷ đồng) Tốc độ tăng so với năm trước (%)

1986 109,2 2,8


1987 113,1 3,6

1988 120,0 6,0

1989 125,6 4,7

1990 132,0 5,1

1991 139,6 5,8

1992 151,8 8,7

1993 164,1 8,1

1994 178,5 8,8

1995 195,6 9,5

1996 213,8 9,3

1997 231,3 8,2

1998 244,7 5,8

1999 256,2 4,8

2000 273,6 6,8

2001 292,5 6,9


2002 313,2 7,1

2003 336,2 7,3

2004 362,4 7,8

2005 393,0 8,4

2006 8,2 ^

2. Ngoại thương:

Xuất 32,23 tỉ USD (2005)


khẩu

Mặt Dầu thô (23%), hàng dệt may (15 %), giầy
hàng dép (9,3%), hải sản (8,5%), điện tử máy tính
xuất (4,5%), gạo (4,3%), cao su (2,4%), cà phê
khẩu (2,2%) (năm 2005).

Đối tác Hoa Kỳ (20%), Nhật Bản (14%), Trung Quốc


xuất (9%) Úc (7%), Singapore (5%), Đài Loan
khẩu (4%), Đức (4%), Anh (4%), Pháp (2%), Hà
Lan (2%), các nước khác (29%) (năm 2003).

Nhập 36,88 tỉ tỉ USD (2005)


khẩu

Mặt Máy móc, thiết bị (14,2%), xăng dầu


hàng (13,5%), thép (8%), vải (6,5%), nguyên phụ
nhập liệu dệt may da (6,3%), điện tử máy tính
khẩu (4,6%), phân bón (1,8%).

Tài chính công [4]

Nợ nước 35,5 % GDP (2004)


ngoài

Thu 8,689 tỉ USD (2003)


Chi 9,718 tỉ USD (2003)

Viện trợ Nhận viện trợ, 2.8 tỷ USD (2004)

Trong suốt thập niên 1990, xuất khẩu tăng trưởng ngoạn mục ở mức 20%-30% một số
năm. Năm 1999, xuất khẩu chiếm tới 40% GDP, một con số ấn tượng tại vùng Châu Á
đang hồi phục sau khủng hoảng. Những nỗ lực nhằm kiểm soát mức tăng trưởng nhập
khẩu của Việt Nam khá thành công. Trong bốn năm qua, mức nhập khẩu khá ổn định.
Năm 1999, trong hai năm liên tiếp, Việt Nam có thặng dư trong thanh toán thương mại.
Thặng dư thương mại của Việt Nam không chỉ xuất phát từ tăng trưởng xuất khẩu mạnh
mẽ mà còn tự những hộ trợ phát triển chính thức cũng như số tiền được gửi về từ những
người Việt ở nước ngoài. Tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức 37.1% GDP năm
1999, tương đương 10.6 tỷ dollar.

Bảng: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu trung bình hàng năm(%)

Giai đoạn Nhập khẩu Xuất khẩu

1986-
28,0 8,2
1990

1991-
17,8 24,3
1995

1996-
21,6 13,9
2000

2001-
17,5 18,8
2005

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Việt nam trong những năm qua(1990 – 2000) đã tăng 7 lần và năm 2000 tổng giá trị
xuất nhập khẩu đã đạt gần 30 tỷ USD trong đó xuất khẩu 14.3 tỉ.

Tổng số 14.3 tỉ hang hóa xuất khẩu, hang công nghiệp chiếm 65%. Trong tổng số
hang nhập khẩu thì 80% là hang tư liệu sản xuất ,còn lại là hang tiêu dung các
loại.các khu vực buôn bán nhiều với Việt Nam:
- Châu Á: 70% giá trị XNK(2001)
Riêng ASEAN: 23.5%
Hàn Quốc: 7.6%
Nhật Bản: 15.6%
Xingapo: 12.0%
Đài Loan: 10.0%
- Châu Âu:
Riêng EU 15: 13.8%
Đức: 3.7%
Pháp: 2.6%
Châu Mỹ: 5.2%
Châu Úc: 4.8%

Đầu tư phát triển kinh tế xă hội ở Việt Nam chiếm 25 – 30% GDP. Cơ cấu nguồn vốn
chuyển dịch như sau:

Nguồn vốn 1995 2000 2002


Nhà nước 42.0 57.5 52.3
Ngoài quốc doanh 27.6 23.8 28.2
Đầu tư trực tiếp của ngước 30.4 18.7 18.8
ngoài(FDI)

Trong 15 năm qua)1988 – 2002) đã có hơn 70 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam
với hơn 4000 dự án, tổng vốn đăng ký gần 43 tỉ USD, trong đó đã có hơn nửa số vốn dự
án được triển khai chiếm hơn 20 tỉ USD.
Tỉ trọng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam cao nhất 1995 – 1997 chiếm 1/3
tổng vốn đầu tư xã hội.ODA chiếm gần ½ vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi thuộc kế
hoạch nhà nước,thì tổng vốn đầu tư của nước ngoài tổng vố đầu tư xã hội lên tới 40%.

Cơ cấu vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội theo nhóm ngành kinh tế (so sánh 1994)

Ngành 1995 1997 2000


Nông – lâm – thủy sản 8.0 7.4 14.4
Công nghiệp – xây dựng 36.6 41.6 36.8
Dịch vụ 55.4 51.0 48.8
Trong đó:
- khách sạn 5.8 5.9 3.0
- Vận tải kho bãi,TTBĐ 16.9 14.7 13.7
- Giáo dục đào tạo 2.0 1.9 4.2
- Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng 20.4 17.9 14.0

Các tỉnh và thành phố thu hút nhiều đầu tư nước ngoài trong 15 năm qua(1988 – 2002):
1. TP.HCM: 10.9
2. Hà Nội : 8.0
3. Đồng Nai: 4.2
4. Bà Rịa – Vũng Tàu: 3.4
5. Bình Dương : 2.0
6. Hải Phòng: 1.6
7. Quãng Ngãi: 1.3
8. Đà Nẵng: 1.1

Các nước và lãnh thổ có số vồn đấu tư vào Việt Nam nhiều nhất:
Xingapo: 6.2
Đài Loan: 5.6
Hồng Kông: 3.8
Nhật Bản: 3.7
Hàn Quốc: 3.6
Pháp: 2.6

Phân bố vốn đầu tư nước ngoài FDI từ 1988 – 2001 theo 8 vùng KH & ĐT

Vùng Số dự án Tổng vốn đăng ký % cả nước


1. ĐBSH 740 10753,9 27.8
- Riêng Hà Nội 503 7964,1 20.5
2. Đông Bắc 171 1623,1 4.2
3. Tây Bắc 12 59.0 0.2
4. Bắc Trung Bộ 57 887.0 2.3
5. Duyên Hải Miền Trung 180 2838.4 7.3
- riêng Đà Nẵng 82 1038.2 2.7
Quãng Ngãi 9 1337.3 3.5
6. Tây Nguyên 67 934.5 2.4
7. Đông Nam Bộ 2230 20663.7 53.4
Riêng TP.HCM 1178 10721.9 27.2
Bình Dương 390 2016.9 5.2
Đồng Nai 370 3999.5 10.3
Bà Rịa – Vũng Tàu 108 3387.5 8.8
8. ĐBSCL 173 953.6 2.5
Cả nước 3630 38713.1 100%

Qua bảng trên ta củng thấy được lực lượng sản xuất của Việt Nam có xu hướng chuyển
dần về phía nam và đặc biệt là vùng Đông Nam Bộ thuận lợi về điều kiện tự nhiên,khí
hậu và là vùng trong điểm của phía nam,có trung tâm kinh tế của cả nước là TP.HCM).
Đông Nam Bộ không chỉ thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà còn thu hút vốn đầu tư trong
nước.

You might also like