You are on page 1of 2

14.9.

Tóm tắt :

Đĩa cứng là 1 thiết bị lưu trữ vào/ra thứ cấp chủ yếu của hầu hết mọi máy tính
. Yêu cầu cho đĩa vào/ra được tạo ra bởi hệ thống tập tin và bộ nhớ ảo . Mỗi yêu cầu
địa chỉ đặc biệt ở trên dĩa thì khác nhau .

Thuật toán lập biểu ổ đĩa có thể cải thiện hiệu quả băng thông , thời gian đáp
ứng trung bình và sự khác nhau trong thời gian đáp ứng . Những thuật toán chẳng
hạn như SSTF, SCAN,C-SCAN,LOOK và C-LOOK thì được thiết kế để làm cải thiện thứ
tự chờ đợi của ổ đĩa bằng kế hoạch .

Sự thực thi có thể bị làm hại bởi sự phân mảnh bên ngoài . Một vài hệ thống
có nhiều tiện ích quét những file hệ thống để xác định những tập tin nào bị phân
mảnh, sau đó chúng di chuyển vòng quanh theo từng khối để giảm sự phân mảnh .
Quá trình chống phân mãnh ở những hệ thống tập tin bị phân mảnh nhiều có thể cải
thiện đáng kể sự thực thi, nhưng hệ thống có thể giảm sự thực thi khi mà quá trình
phân mảnh đang chạy . Những hệ thống tập tin phức tạp , chẳng hạn như hệ thống
tập tin nhanh UNIX , hợp nhất nhiều kế hoạch để điều khiển sự phân mảnh trong
suốt quá trình định phần không gian ổ đĩa , vì thế mà ổ đĩa tổ chức lại không cần
thiết .

Hệ điều hành tổ chức những khối đĩa . Đầu tiên , ổ đĩa phải bị định dạng ở mức độ
thấp để tạo ra cung từ trên phần cứng thô . Sau đó ổ đĩa được chia và hệ thống tập
tin được tạo , và những khối khởi động được chia bị lưu chương trình tự mồi hệ
thống . Cuối cùng khi một khối tập tin bị hư , hệ thống phải có 1 cách để khóa hoặc
thay thế nó với 1 sự tiết kiệm .

Bởi vì một không gian đĩa cứng trung gian hiệu quả là chìa khóa để tạo sự
thực thi tốt , hệ thống thường đi đường vòng qua các tập tin hệ thống và sử dụng
đĩa cứng thô để truy cập vào những trang ra vào . Một vài hệ thống chuyên dụng là
1 phân vùng đĩa cứng thô tới những khoảng không trung gian . Những hệ thống
khác cho phép người dùng hay người quản trị hệ thống đưa ra những quyết định bởi
những tùy chọn được cung cấp .

Lược đồ bản ghi đòi hỏi những không gian đĩa cứng ổn định có sẵn . Công việc
thực thi như lưu trữ , chúng ta cần phải thay thế những thông tin cần thiết vào
những thiết bị lưu trữ không ổn định ( thường là đĩa cứng) với những mô đun độc lập
với nhau . Chúng ta cũng cần cập nhật thông tin vào 1 loại điều khiển để chắc chắn
là chúng ta có thể khôi phục dữ liệu sau những quá trình chuyển đổi dữ liệu bị hỏng
hoặc trong quá trình khôi phục .

Bởi vì 1 số lượng không gian lưu trữ đòi hỏi vào hệ thống lớn , đĩa cứng thì
thường làm thừa bởi thuật toán RAID . Những thuật toán này cho phép nhiều hơn 1
đĩa cứng sử dụng cho hệ điều hành và cho phép tiếp tục thực hiện , thậm chí tự
động khôi phục khi ổ cứng bị hỏng . Thuật toán RAID thì tổ chức tới những cấp khác
nhau nơi mà mỗi cấp cung cấp 1 vài kết hợp đáng tin cậy và tỉ lệ truyền cao

Ổ đĩa có thể được đính kèm tới 1 hệ thống máy tính theo 2 cách : (1) sử dụng
giao thức cổng vào/ra trên máy tính chủ hoặc (2) sử dụng 1 kết nối mạng chẳng
hạn như mạng lưu trữ nội bộ .

Không gian lưu trữ thứ 3 được xây dựng từ đĩa cứng và đĩa từ mà sử dụng
phương tiện dễ tháo lắp . Nhiều kĩ thuật khác nhau thì có sẵn , bao gồm băng từ ,
đĩa từ dễ tháo lắp và đĩa quang từ , và đĩa quang .

Đối với đĩa cứng dễ tháo lắp , hệ điều hành nói chung cung cấp những dịch vụ
đầy đủ của giao diện hệ thống tập tin , bao gồm quản lý không gian ổ cứng và yêu
cầu chờ lập biểu . Với nhiều hệ điều hành , tên tập tin của hộp chứa băng đĩa di
động là 1 sự kết hợp giữa tên của ổ đĩa và 1 tên tập tin .

Đối với băng từ , hệ điều hành nói chung chỉ cung cấp 1 giao diện thô . Nhiều
hệ điều hành không có những hỗ trợ bên trong cho thiết bị đĩa quang . Hỗ trợ thiết
bị đĩa quang có thể được cung cấp bởi 1 thiết bị ổ đĩa hoặc bởi những ứng dụng đặc
trưng thiết kế cho việc khôi phục dữ liệu hoặc cho HSM .

Ba khía cạnh quan trọng của sự thực thi là băng thông , sự chậm trễ và độ tin
cậy . Một loại băng thông rộng thì có sẵn cho cả đĩa cứng và băng từ nhưng bộ nhớ
truy xuất ngẫu nhiên cho băng từ thì chậm hơn nhiều cho 1 đĩa cứng .

THE END

You might also like