You are on page 1of 22

DANH SÁCH NHÓM 3

1. Trần Thị Cẩm Hằng : Vận dụng đề tài 2

2. Phạm Thị Minh Hằng (Nhóm trưởng) : Vận dụng đề tài 4

3. Nguyễn Thị Hằng : Vận dụng đề tài 2

4. Nguyễn Anh Hào : Vận dụng đề tài 4

5. Hoàng Thị Hải Hậu : Cơ sở lý thuyết đề tài


4

6. Đào Hồng Hạnh : Cơ sở lý thuyết đề tài


2

7. Trần Thị Mai Hạnh (Thư ký) : Tổng hợp, đánh máy, lập
biên bản

8. Nguyễn Thị Hiên (45D5) : Vận dụng đề tài 4

9. Nguyễn Thị Hiên (45D6) : Cơ sở lý thuyết đề tài


2

10. Tăng Thị Hiền : Cơ sở lý thuyết đề tài 4

1
Mở đầu

Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa văn
hóa gió mùa nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người Việt đã
trải qua con người bộ lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến con người
làng xã định cư, trồng lúa nước. Trải qua các quá trình hoàn thiện các công cụ lao
động từ nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đồ đồng, người Việt đã nhảy xuống đồng
bằng khai phá đất đai hoang dại, ẩm thấp, sình lầy, quần cư, từ đó hình thành nên
các làng, bản giống như các cư dân Nam Á khác.

Nền văn hóa cổ truyền của người Việt đã kết tinh nhiều giá trị tốt đẹp. Chẳng
hạn: Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa thích ứng, tình cảm vị tha, đức tính hiếu học, cần
cù, tiết kiệm và sáng tạo gắn chặt với cộng đồng làng xã là biểu tượng văn hóa đậm
đà bản sắc Việt Nam. Trong nền văn hóa cổ truyền có sự phát triển ưu trội của các
quan hệ đạo đức. Con người phải có bổn phận với cộng đồng trên là vua, dưới là
làng là cha mẹ, anh em và gia đình. Thiện ác, các tư tưởng bình quân ngấm rất sâu
vào văn hóa lao động, giao tiếp, gia đình và nhân cách mỗi người. Bản chất kinh tế -
xã hội của nó thể hiện lợi ích cộng đồng. Cơ cấu của nó, như Hồ Chí Minh nhận
dạng về chủ nghĩa Khổng Tử: làm cho “sự bình yên trong xã hội không bao giờ thay
đổi” (Báo Ngọn lửa nhỏ - Liên Xô, số 39, ngày 23-12-1923).

Bài thảo luận gồm 2 phần:

PHẦN I: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa.

PHẦN II: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển văn hóa học đường
của sinh viên đại học Thương Mại ngày nay.

2
PHẦN I:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ.

Nói đến văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là sự hài hoà của tinh hoa văn
hoá dân tộc và văn hoá nhân loại. Tư tưởng về văn hoá của Người là cách cảm, cách
nghĩ, cách nói của Người luôn thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách nói của dân tộc.
Ngay từ tháng 8/1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau: “Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật, những
công cụ cho sinh hoạt hàng ngày, về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của các phương
thức sinh hoạt, cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra, nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống của sự sinh tồn” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, H 2000.tr 431). Theo đó, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất,
bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa
là động lực giúp con người sinh tồn; văn hóa là mục đích sống của loài người. Với định
nghĩa này, Hồ Chí Minh đã khắc phục được quan niệm phiến diện về văn hóa trong
lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến vấn đề tinh thần, trong văn học nghệ thuật, hoặc
chỉ đề cập đến vấn đề giáo dục, phản ánh trình độ học vấn… Trên thực tế, văn hóa bao
gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra,
nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc sống của con người.
Cùng với định nghĩa về văn hóa, Hồ Chí Minh còn đưa ra Năm điểm lớn định
hướng cho việc xây dựng nền văn hóa dân tộc:
“1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.

3
5. Xây dựng kinh tế.”
Như vậy, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò và sức mạnh của văn hóa, đã
sớm đưa văn hóa váo chiến lược phát triển của đất nước.
Ngay sau khi nước ta giành được độc lập, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ
bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam, đưa những giá
trị văn hóa đi sâu vào quần chúng, coi nó như một sức mạnh vật chất, một động lực,
một mục tiêu, một hệ điều tiết xã hội trong quá trình phát triển. Đây là một quan điểm
hoàn toàn mới mẻ, điều mà mãi đến những năm 80 của thế kỷ XX, UNESCO mới tổng
kết và coi đó như một quy luật phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh xây dựng nề văn hóa
Việt Nam trên cơ sở quan điểm “vượt truyền thống”. Năm 1942, khi coi văn hóa là
toàn bộ những phát minh sáng tạo, “là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu
đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định
rằng nhà văn hóa thời nay khác với nhà văn hóa thời trước. Các nhà thơ thời trước
thường ngâm vịnh nhàn tản, còn ngày nay “thi gia dã yếu hội xung phong”.
Tư tưởng “nhà thơ phải biết xung phong” là một tư tưởng mới và rất quan trọng,
đặt nền tảng cho quan niệm “Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ”
của Hồ Chí Minh gần 10 năm sau.
Vào những năm tiền khởi nghĩa, dòng văn hóa cách mạng đã tạo ra nhiều nghệ
sĩ - chiến sĩ. Nhà thơ Tố Hữu, nhà thơ Sóng Hồng đã gắn toàn bộ sự nghiệp sáng tạo
thơ ca với hiện thực cách mạng. Cũng chính trong khoảng thời gian này, những bài thơ
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ đã xuất hiện. Bài Tảo
giải II là một thí dụ:
“ Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng”.

4
Về đến Pắc Pó hùng vĩ, tình cảm nhà thơ chiến sĩ Hồ Chí Minh đã quyện cả chủ
nghĩa Mác – Lênin với hồn thiêng sông núi và tương lai sáng lạn của cả dân tộc Việt
Nam:
“Non xa xa, nước xa xa.
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà”.
Theo hướng này, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí
Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng. của xã
hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng. Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế,
chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và được nhận thức
như sau:
- Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.
- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính
trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Dưới chế độ thực dân và phong kiến nhân dân ta bị nô lệ, bị đàn áp, thì văn nghệ
cũng bị nô lệ, không thể phát triển. Theo Hồ Chí Minh, phải tiến hành cách mạng chính
trị trước mà cụ thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành
chính quyền, giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa, mở
đường cho văn hóa phát triển. Quan điểm của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa.
Từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến
trúc thượng tầng. Người cho rằng, “cơ sở hạ tầng xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được”. Như vậy, vấn đề đặt ra là kinh tế
phải đi trước một bước. Tục ngữ có câu “có thực mới vực được đạo” cũng theo nghĩa
như vậy. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên
chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa... để nâng cao đời sống vật chất

5
và văn hóa của nhân dân ta (Hồ Chí Minh không bao giờ nói phát triển văn hóa trước
kinh tế).
- Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng nhưng không thể đứng ngoài, mà phải ở
trong kinh tế và chính trị. Văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng
và phát triển kinh tế.
Tuy “kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được”, nhưng điều đó
không có nghĩa là văn hóa “thụ động” chờ cho kinh tế phát triển xong rồi mới đến lượt
mình phát triển. Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế
và chính trị phát triển như một động lực.
“Văn hóa ở trong chính trị” tức văn hóa phải tham gia vào nhiệm vụ chính trị,
tham gia cách mạng, kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nêu rõ:
“Văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, hoặc đường lối kháng chiến
toàn diện, thi đua trên mọi lĩnh vực,... là với ý nghĩa như vậy. Theo đó, một phong trào
văn hóa cách mạng, văn hóa kháng chiến đã diễn ra rất sôi động, góp phần đắc lực vào
thắnglợi của sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
“Văn hóa ở trong kinh tế” tức là văn hóa phải phục vụ, thúc đẩy việc xây dựng
và phát triển kinh tế.
“Văn hóa ở trong kinh tế và chính trị” cũng có nghĩa là chính trị và kinh tế phải
có tính văn hóa. Đây là một đòi hỏi chính đáng của văn hóa hiện đại. Làm chính trị,
làm kinh tế... phải có văn hóa.
Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hồ Chí Minh đã quan
tâm tới việc xây dựng nền văn hóa mới, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng. Như vậy, nền văn hóa mới ra đời gắn liền với nước Việt Nam mới.
Trước đó ở nước ta là nền văn hóa nô dịch của thực dân phong kiến, làm đồi trụy con
người. Đặc điểm chung nhất của nền văn hóa mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là xua
tan bóng tối của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng
lên cuộc sống của nhân dân ta. Văn hóa mới là phải giáo dục nhân dân ta tinh thần cần,
kiệm, liêm, chính, tự do tín ngưỡng, không hút thuốc phiện; chống giặc dốt...

6
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền văn hóa mới là nền văn hóa dân
chủ mới, đồng thời là nền văn hóa kháng chiến. Nền văn hóa đó có ba tính chất: dân
tộc - khoa học - đại chúng.
Tính chất dân tộc (hay còn gọi là đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc) là cái "cốt",
cái tinh túy bên trong rất đặc trưng của nền văn hóa dân tộc. Nó phân biệt, không nhầm
lẫn với văn hóa của các dân tộc khác. Nó là "căn cước" của một dân tộc. Cốt cách dân
tộc không phải "nhất thành bất biến", mà nó có sự phát triển, bổ sung những tinh túy
mới.
Tính chất khoa học của nền văn hóa phải thuận với trào lưu tiến hóa của tư
tưởng hiện đại: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nền văn hóa mới
phải phục vụ trào lưu đó. Muốn vậy, tính khoa học phải thể hiện trên nhiều mặt: cơ sở
hạ tầng, nền tảng kinh tế phải khoa học, hiện đại. Đội ngũ những người làm công tác
văn hóa phải có trí tuệ, hiểu biết khoa học tiên tiến; phải có chiến lược văn hóa, xây
dựng lý luận văn hóa mang tầm thời đại.
Tính chất đại chúng của nền văn hóa là phục vụ nhân dân, phù hợp với nguyện
vọng nhân dân, đậm đà tính nhân văn. Đó là nền văn hóa do đại chúng nhân dân xây
dựng.
Trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thời kỳ đầu Hồ Chí Minh nói tính
chất nền văn hóa mới phải "xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức". Từ
Đại hội III (tháng 9-1960), Người có bước phát triển trong tư duy lý luận khi khẳng
địnhnền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc.
Nội dung xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện đại, biết
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến hóa trong thời đại mới.
Tính chất dân tộc của nền văn hóa là biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho phù hợp với
những điều kiện lịch sử mới của đất nước.
Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:

7
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.Văn hóa thuộc đời
sống tinh thần của xã hội. Tư tưởng và tình cảm là vấn đề chủ yếu nhất của đời sống
tinh thần của xã hội và con người. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu
vào tâm lý quốc dân để thực hiện chức năng hàng đầu là bồi dưỡng nâng cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai lầm,
tình cảm thấp hèn. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, nhưng phải đặc biệt quan tâm
tới những tư tưởng và tình cảm chi phối đời sống tinh thần của mỗi con người và cả
dân tộc. Lý tưởng là điểm hội tụ của tư tưởng lớn. Hồ Chí Minh khẳng định văn hóa
phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc lập, tự do; phải làm cho quốc
dân "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng". Đó là lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Một khi con người đã phai nhạt lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì không còn ý nghĩa gì đối với cuộc sống
cách mạng. Tình cảm lớn, theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương
nhân loại bị đau khổ, áp bức. Đó là tính trung thực, thẳng thắn, thủy chung; đề cao cái
chân, cái thiện, cái mỹ... Tình cảm đó thể hiện trong nhiều mối quan hệ: với gia đình,
quê hương, dân tộc, nhân loại, với bạn bè, đồng chí, quan hệ thầy trò...
Tư tưởng và tình cảm có mối quan hệ gắn bó với nhau. Tình cảm cao đẹp là con
đường dẫn tới tư tưởng đúng đắn; tư tưởng đúng làm cho tình cảm cao đẹp hơn, làm
cho con người ngày càng hoàn thiện. Văn hóa còn góp phần xây đắp niềm tin cho con
người, tin ở bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tin vào nhân
dân, tin vào tiền đồ của cách mạng.
Hai là, nâng cao dân trí. Văn hóa luôn gắn với dân trí. Không có văn hóa không
có dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí theo từng nấc thang, phục vụ mục tiêu cách mạng
trước mắt và lâu dài. Nâng cao dân trí bắt đầu từ việc làm cho người dân biết đọc, biết
viết. Tiếp đến là sự hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn hóa...
Từng bước nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khoa học - kỹ thuật,
thực tiễn Việt Nam và thế giới... Đó là quá trình bổ sung kiến thức mới, làm cho mọi

8
người không chỉ là chuyển biến dân trí mà còn nâng cao dân trí, điều mà khi chính trị
chưa được giải phóng thì không thể làm được.
Tùy từng giai đoạn cách mạng mà mục đích của nâng cao dân trí có điểm chung
và riêng, nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước có văn hóa cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc. Mục tiêu đó hiện nay Đảng ta chỉ rõ vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh".
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành
mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng hoàn
thiện bản thân mình.
Những phẩm chất tốt đẹp làm nên giá trị của con người. Mỗi người phải biến tư
tưởng và tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp. Đó có thể là phẩm chất chính trị,
phẩm chất đạo đức, phẩm chất chuyên môn, nghiệp vụ.
Có những phẩm chất đạo đức chung cho mọi người Việt Nam trong thời đại
mới: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Lại có những phẩm chất đạo đức dành cho
các lĩnh vực hoạt động khác nhau của con người: phẩm chất nhà giáo, phẩm chất thầy
thuốc...
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh phẩm chất đạo đức, chính trị của cán bộ, đảng
viên. Bởi vì, nếu không có những phẩm chất đó thì không thể biến lý tưởng thành hiện
thực. Phẩm chất thường được biểu hiện qua phong cách, tức là lối sinh hoạt, làm việc,
hoạt động, xử sự của con người. Phẩm chất và phong cách thường gắn bó với nhau, và
chỉ khi nào con người có phẩm chất tốt đẹp, phong cách lành mạnh thì mới thúc đẩy sự
nghiệp cách mạng đi lên.
Muốn có được những phẩm chất và phong cách đó, tự bản thân con người rèn
luyện chưa đủ, mà hoạt động văn hóa đóng chức năng rất quan trọng. Văn hóa phải
tham gia chống được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, chống sự lạm dụng quyền
lực, tham quyền cố vị dẫn tới sự tha hóa con người. Văn hóa giúp cho con người phân
biệt cái tốt với cái xấu, cái lạc hậu và cái tiến bộ... Từ đó văn hóa hướng con người
vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.

9
Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa đã được thể hiện rất rõ ở 3 mảng
lĩnh vực: giáo dục, văn nghệ, đời sống.
Đối với văn hóa giáo dục. Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến
(kinh viện, xa thực tế, coi sách của thánh hiền là đỉnh cao của tri thức...) và nền giáo
dục thực dân (ngu dân, đồi bại, xảo trá, nguy hiểm hơn cả sự dốt nát).
Người quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Nền
giáo dục này được hình thành từ những năm hai mươi, thực sự ra đời từ Cách mạng
Tháng Tám thành công và phát triển cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hồ Chí
Minh xác định, xây dựng nền giáo dục mới là một nhiệm vụ cấp bách, có ý nghĩa chiến
lược, vì nó góp phần làm cho dân tộc ta xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Văn
hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thống nhất nước nhà.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
- Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng
giáo dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang
dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục để
đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục
nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta
sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
- Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp
lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa,
chính trị, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động... Các nội dung đó có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để
nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để
đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ đang
phát triển như vũ bão.
- Phương châm, phương pháp giáo dục:

10
Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế; học tập
kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; thực hiện dân chủ, bình
đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học
ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.
Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo
dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết
hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu
gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.
- Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo
dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách
mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương
pháp. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao
giờ đủ, còn sống còn phải học.
Đối với văn hóa văn nghệ. Văn nghệ được hiểu là văn học và nghệ thuật, biểu
hiện tập trung nhất của nền văn hóa, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, là hình ảnh của
tâm hồn dân tộc. Hồ Chí Minh là người khai sinh nền văn nghệ cách mạng và có nhiều
cống hiến to lớn, sáng tạo cho nền văn nghệ nước nhà. Sau đây là một số quan điểm
chủ yếu của Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ:
- Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
Văn nghệ là mặt trận được hiểu nó là một bộ phận của cách mạng, là văn nghệ
cách mạng. "Mặt trận" là thể hiện tính chất cam go, quyết liệt. Cho nên tác phẩm văn
nghệ và ngòi bút của các văn nghệ sĩ phải là vũ khí sắc bén, là "phò chính trừ tà", là
vạch trần, tố cáo tội ác, âm mưu của lực lượng thù địch đầu độc văn hóa; về chiêu bài
"công lý", "dân chủ"... Đồng thời văn nghệ có vai trò thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh
thần đấu tranh, tổ chức lực lượng, động viên dân chúng phấn khởi, tin tưởng thực hiện
thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Có chính quyền, tính chất mặt trận của văn nghệ vẫn không giảm, mà lại tăng
lên, nặng nề hơn. Bởi vì, xây dựng nền văn nghệ cách mạng là nhiệm vụ chủ yếu, lâu

11
dài. Văn nghệ vừa tiếp tục tham gia kháng chiến, đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa
xây dựng xã hội mới, con người mới. Văn nghệ góp phần định hướng tư tưởng đúng
đắn theo quan điểm của Đảng, bóc trần những thói hư tật xấu như tham ô, nhũng lạm,
lãng phí, quan liêu... là những lực cản trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặt
trận những người làm công tác văn nghệ dưới sự lãnh đạo của Đảng thựchiện nhiệm vụ
"xây" và "chống", sẽ góp phần to lớn đưa cách mạng đến thắng lợi.
Văn nghệ sĩ là chiến sĩ, vì vậy, cần có lập trường vững, tư tưởng đúng đắn, đặt
lợi ích và nhiệm vụ phụng sự nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. Họ phải nâng cao trình
độ chính trị, văn hóa, nghiệp vụ, đặc biệt phải có phẩm chất, bản lĩnh, tài năng để sáng
tạo ra những sản phẩm tinh thần phục vụ cuộc sống, phục vụ nhân dân ngày càng tốt
hơn.
- Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.
Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa văn nghệ.
Đời sống lao động, chiến đấu, sinh hoạt, xây dựng... của nhân dân là chất liệu không
bao giờ cạn, là sinh khí vô tận cho văn nghệ sáng tác. Văn nghệ sĩ có quyền hư cấu,
song phải xuất phát và trở về với cuộc sống thực tại của con người, cái chân thật của
sinh hoạt. Muốn làm được điều đó, phải "từ quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng";
phải "liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân" để hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng,
tình cảm của quần chúng. Quần chúng là những người làm ra lịch sử, sáng tạo ra của
cải vật chất và tinh thần. Họ là những người đánh giá tác phẩm văn nghệ trung thực,
khách quan, chính xác. Nhân dân là người hưởng thụ các giá trị tinh thần.
- Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.
Đây là một khía cạnh phản ánh văn nghệ phục vụ quần chúng. Muốn phục vụ tốt
quần chúng thì phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của tác phẩm. Bởi vì
quần chúng cần những tác phẩm hay, chân thật, hùng hồn, tạo cho họ sự đam mê,
chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn. Nội dung cần chân thực và phong phú;
hình thức phải trong sáng, vui tươi, tức là phải tạo nên một tác phẩm hay. Tác phẩm
hay là tác phẩm cần diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, ai đọc cũng hiểu được, và
đọc xong phải suy ngẫm và thấy có bổ ích.

12
Tác phẩm văn hóa, văn nghệ hay là tác phẩm phản ánh được những giá trị
truyền thống của dân tộc, mang được hơi thở của thời đại; vừa phải ca ngợi cái chân
thật người tốt, việc tốt, vừa phải phê phán cái giả, cái ác, cái sai. Những tác phẩm như
vậy vừa làm gương mẫu cho các thế hệ hôm nay, vừa giáo dục nhắc nhở con cháu đời
sau. Tác phẩm văn nghệ phải phong phú, đa dạng về thể loại, không thể đơn điệu,
nghèo nàn.
Chính món ăn tinh thần phong phú đó cũng sẽ mở ra con đường sáng tạo mới
cho văn nghệ sĩ.
Đối với văn hóa đời sống. Xây dựng đời sống văn hóa mới được Hồ Chí Minh
chỉ ra ngay sau khi mới giành được chính quyền, rồi nhanh chóng trở thành một phong
trào quần chúng sôi nổi, tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối
sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì, có
dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo
đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.
- Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức cách
mạng.
- Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài
hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối sống văn
minh, tiên tiến. Hoạt động của con người gồm: ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc. Tính văn
hóa ở đây là biết cách ăn, cách mặc, cách ở... Con người văn hóa trong lối sống là phải
có một phong cách sống khiêm tốn, giản dị, chừng mực, điều độ, ngăn nắp, vệ sinh,
yêu lao động, quý thời gian, ít lòng ham muốn về vật chất, về chức quyền, danh lợi.
Trong quan hệ với nhân dân, bạn bè, đồng chí thì cởi mở, chân tình, ân cần, tế
nhị; giàu lòng thương yêu, quý trọng con người; đối với mình thì nghiêm, đối với
người thì khoan dung, độ lượng.
Sửa đổi cách làm việc là phải có tác phong quần chúng, tác phong tập thể - dân
chủ, tác phong khoa học. Điều này đặc biệt cần thiết đối với cán bộ quản lý, lãnh đạo.

13
Hồ Chí Minh yêu cầu ở đội ngũ cán bộ phải có phong cách sống, phong cách làm việc
hợp lòng dân.
- Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng
những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được những thuần
phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Tất nhiên không phải cái gì cũ là bỏ hết, cái gì cũng
làm mới.
Cũ mà xấu thì bỏ. Cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi. Cũ mà tốt thì
phát triển thêm. Mới mà hay thì phải làm. Phải bổ sung, xây dựng thuần phong mỹ tục
trong các vấn đề vệ sinh, giỗ tết, ma chay, cưới hỏi...; đồng thời phải chống các hủ tục
như cờ bạc, hút xách...
Xây dựng nếp sống mới rất khó khăn, phức tạp, vì thói quen rất khó sửa đổi, nó
có sức ỳ cản trở ta. Thực tế cho thấy, cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu; cái xấu
mà quen, người ta có thể cho là thường. Vì vậy, quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn
thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu.
Phải tuyên truyền, giải thích một cách hăng hái, bền gan, chịu khó, cẩn thận, khôn
khéo, mềm mỏng,... Phải dùng biện pháp nêu gương: người nêu gương, nhà làm
gương, làng làm gương. Nói đi đôi với làm, nếu không, tuyên truyền giáo dục, xây
dựng nếp sống mới khó đạt kết quả.
Tóm lại, xây dựng văn hóa đời sống chung cho cả xã hội, phải bắt đầu từ từng
người, từng gia đình.
Văn hóa là một phạm trù lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình
thái kinh tế – xã hội. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin coi quá trình sản xuất của cải vật chất là
cơ sở và nguồn gốc để phát triển văn hóa tinh thần. Văn hóa xã hội chủ nghĩa trong khi
kế thừa các thành tựu tiến bộ của quá khứ, của tinh hoa văn hóa nhân loại, vẫn khác về
căn bản với văn hóa tư sản hiện đại về cả bản chất tư tưởng lẫn chức năng xã hội.
Những đặc điểm nổi bật, ưu tú của văn hóa xã hội chủ nghĩa vẫn ngày càng có vai trò
chủ đạo trong xã hội Việt Nam hiện đại, ngay cả khi chúng ta đang xây dựng nền kinh
tế thị trường. Đó là tính nhân dân, tính tư tưởng và tính đảng cộng sản chủ nghĩa, thế
giới quan khoa học, chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa

14
yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế. Hơn thế nữa, nền văn hóa đó phải
được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng cộng sản; Toàn bộ hoạt động văn hóa –
giáo dục của nhà nước xã hội chủ nghĩa phải được diễn ra dưới tác động của Đảng
cộng sản. Như cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng nói “Văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn
hóa ” . Vì vậy trong sự nghiệp đổi mới đầy khó khăn, văn hóa phải đóng vai trò là
nguồn động lực quan trọng. Nguồn động lực ấy sẽ trở thành dồi dào nếu nền văn hóa
được xây dựng, giữ gìn phát huy đúng hướng. Muốn thế, phương châm của mọi hoạt
động văn hóa phải xuất phát từ cuộc sống, đi sâu phản ánh những cơ tầng đa diện, sâu
sắc của cuộc sống và hướng đến phục vụ cuộc sống.

PHẦN II:

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ PHÁT


TRIỂN VĂN HOÁ HỌC ĐƯỜNG CỦA SINH VIÊN
NGÀY NAY.

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí
quan trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam,
của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và quốc tế
mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn hóa dân tộc.

Văn hóa, theo Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia
dân tộc. Trước hết: văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn hóa là kiến trúc
thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong kiến
và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) tốt đẹp là mục tiêu của văn
hóa. Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi triệt để những
nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta

15
phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui
hạnh phúc”(1). Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”(2), Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh vai trò động lực của văn hóa. Theo Người: tiến lên CNXH phải có cả vật
chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để đưa đất nước đi lên, không thể
không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của hoạt động kinh tế lại chính là con
người và thước đo trình độ con người lại chính là văn hóa.
Với một cảm quan văn hóa trên bình diện rộng, Hồ Chí Minh coi Văn hóa là một
mặt hợp thành toàn bộ đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: “trong công cuộc kiến thiết
nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội”(3). Vì thế, văn hóa không thể đứng ngoài “mà phải ở trong kinh tế và
chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong văn hóa”. Tăng trưởng kinh
tế phải đi đôi với phát triển văn hóa và giải quyết những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng
trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng những môi trường văn hóa – xã hội bị
hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt được.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí
Minh cho rằng, văn hóa không thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là
văn hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân
tộc của văn hóa. Rất nhiều lần Người thường nhắc nhở phải “chăm lo đặc tính dân tộc”,
“phát huy cốt cách dân tộc”, “lột cho hết tinh thần dân tộc” trong xây dựng văn hóa,
trong sáng tác nghệ thuật. Với văn hóa Việt Nam, Người tự hào: “nghệ thuật của cha
ông ta hay lắm”(4), “âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo” (5) và “tiếng nói là thứ của cải
vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng
nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”(6). Từ đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau dồi cho văn hóa Việt Nam
thật có tinh thần thuần túy Việt Nam”(7), “cần phải mở rộng kiến thức của mình về văn
hóa thế giới”(8), “Phương Đông hay Phương Tây có cái gì hay, cái gì tốt ta phải học
lấy”(9); song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ bắt chước” (10), và “đừng chịu vay
mà không trả”(11) – “cái gốc của văn hóa mới là dân tộc” (12). Học tập văn hóa hiện đại

16
của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt Nam, kết hợp với văn hóa Việt Nam tạo
ra những giá trị mới đóng góp vào việc phát triển văn hóa nhân loại.

Ngày nay, toàn cầu hóa không còn là hiện tượng mới mẽ; nó là một xu thế
khách quan mà mọi dân tộc, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của nó.
Toàn cầu hóa đang đưa lối sống Phương Tây vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt, tác
động tích cực đến việc làm thay đổi lối sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỷ lại vốn
có của người Việt Nam sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách
nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại.

Tuy nhiên, cũng chính việc tiếp thu lối sống đó một cách thiếu định hướng mà
dẫn đến việc xa rời lối sống theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin
hiện đại đang truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực
dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Lối
sống đó đang tác động mạnh mẽ đến một bộ phận nhân dân, thanh thiếu niên mà đặc
biệt là sinh viên. Nhiều sinh viên bỏ học, ký nợ để “sống chung” với games, net; 30,9%
sinh viên đã vào các trang websex, và hiện tượng “sống thử” cũng đang tồn tại khá phổ
biến trong đời sống sinh viên. Đáng lo ngại hơn, nhiều sinh viên cho rằng đó là chuyện
bình thường, họ tự nguyện đến với nhau như một kiểu “góp gạo thổi cơm chung”,
trong khi hậu quả là nhiều sự việc đáng tiếc, thậm chí là những kết cục bi thảm đã xảy
ra. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận sinh viên,
thanh niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm “lệch chuẩn”, đối lập với quan niệm
văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.

Và sinh viên trường đại học Thương Mại cũng có rất nhiều hiện tượng đó. Điều
đáng buồn là tỷ lệ sinh viên có những biểu hiện đó ngày càng nhiều hơn.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa từ lâu đã trở thành kim chỉ nam của Đảng
trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong tình
trạng “báo động đỏ” về lối sống của thanh niên, sinh viên hiện nay; toàn xã hội mà đặc
biệt là nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cấp thiết cần phải trở về với tư

17
tưởng Hồ Chí Minh; để vận dụng và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng lối sống văn
hóa cho sinh viên.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:

- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên. Thông qua
việc tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị đầu khóa, với các nội dung: quán triệt các Nghị
quyết của Trung ương Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, quy chế của Bộ Giáo
dục và Đào tạo và nhà trường, giới thiệu về tổ chức và các hoạt động của Đoàn, hội.
Nhằm nâng cao nhận thức chính trị, hiểu biết xã hội của sinh viên; giúp họ tin tưởng
vào công cuộc đổi mới hiện nay, vào con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tránh được
âm mưu lôi kéo của kẻ thù; hình thành nhân cách, hoài bão tốt đẹp.

Muốn làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong sinh viên, phải có sự
phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa các cấp ủy Đảng, đoàn thể và các phòng ban liên quan.
Phải nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu về Đảng và Bác Hồ, đồng thời phải có hình thức tuyên
truyền sâu rộng làm cho sinh viên hiểu rõ việc sinh hoạt chính trị vừa là quyền lợi vừa
là nghĩa vụ của bản thân.

Về hoạt động này thì trường đại học Thương Mại đã có nhiều hành động thiết
thực. trường đã tổ chức nhiều buổi thảo luận, hội thảo… và nhất là việc nghiên cứu các
đề tài khoa học về bộ môn Mác-Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đáng vui mừng là
thầy và trò trường ta đã có những thành công lớn. Các bài khoa học của các nghiên cứu
sinh có những tìm tòi, sáng tạo vô cùng đáng quý. Nhiều bài viết của các sinh viên,
mặc dù không phải là chuyên ngành song vẫn đạt được kết quả rất cao. Có những bài
đươc các thầy cô đánh giá rât tôt. Ngày hôm nay, việc học tập các môn học này ngày
càng nghiêm túc chặt chẽ hơn. Với việc triển khai học theo quy chế tín chỉ thi càng làm
cho sinh viên năng động, chủ động, tích cực tìm tòi nghiên cứu hơn. Vì thế nên, chất
lượng học ngày càng được nâng cao. Văn hóa và lối sống của sinh viên cũng từ đó mà
trở nên tốt hơn. Trường đại học Thương Mại đang tích cực và cố gắng nhiều hơn nữa

18
để đào tạo một thế hệ trẻ có đủ tài năng và nhân cách để làm chủ đất nước, đưa đất
nươc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, thỏa lòng mong ước của Bác.

Trong các năm học, trường đại học Thương Mại đã đẩy mạnh công tác giáo dục
truyền thống. Các loại hình tổ chức giáo dục truyền thống cho sinh viên phải đa dạng,
phù hợp với tâm lý tuổi trẻ như: sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, đêm thơ, các buổi tọa
đàm, gặp mặt giữa các thế hệ… vào các dịp lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống học
sinh sinh viên, ngày thành lập Đoàn thanh niên, ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đẩy mạnh các hoạt động hướng về cội nguồn bằng hình thức cho sinh viên tham
quan các di tích lịch sử, nhà bảo tàng, đặc biệt là những địa danh gắn liền với quá trình
hoạt động cứu nước của Hồ Chí Minh; để sinh viên hiểu thêm về truyền thống vẻ vang
của dân tộc, phát huy truyền thống đó trong điều kiện mới; để sống, chiến đấu, lao
động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.

- Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua việc xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần phong phú lành mạnh. Trước hết, phải bài trừ các tệ nạn xã hội, làm
trong sạch học đường. Tổ chức các buổi hội thảo, tuyên truyền về phòng chống các tệ
nạn xã hội. Tổ chức cho sinh viên đăng ký, cam kết không mua bán, tàng trữ sử dụng
chất ma túy và sa vào các tệ nạn xã hội.

Tích cực đấu tranh chống các hình thức mê tín dị đoan, sử dụng văn hóa phẩm
độc hại trong sinh viên. Bằng cách tổ chức, cổ vũ sinh viên tham gia thực hiện cuộc
vận động “Tuổi trẻ sống đẹp”, “Sống và làm việc theo pháp luật”; xây dựng chế độ tự
quản trong sinh viên, đăng ký thực hiện các quy chế về nếp sống văn hóa trong nhà
trường, trong ký túc xá, trên địa bàn mà sinh viên đang cư trú.

Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu thể thao, văn hóa văn nghệ, kết nghĩa với các
đơn vị bên ngoài như bộ đội, đoàn thanh niên địa phương và các trường bạn. Mở rộng
các loại hình văn hóa văn nghệ mang tính quần chúng, thành lập các câu lạc bộ theo sở
thích: câu lạc bộ thơ, câu lạc bộ âm nhạc…

19
Do đặc điểm lứa tuổi sinh viên có nhu cầu về sinh hoạt văn hóa tinh thần cao,
trình độ nhận thức thẩm mỹ tốt, nên cần phải tăng thêm số đầu báo, tạp chí để làm tăng
hiệu quả giáo dục văn hoá. Các chi đoàn cần phải tiến hành sinh hoạt đoc báo, sinh
hoạt lớp thường xuyên, báo của chi đoàn cần được đóng thành tập lưu trữ năm này
sang năm khác.

- Giáo dục lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua việc đẩy mạnh chương
trình học tập, nghiên cứu khoa học và phát triển tài năng trẻ. Quá trình học tập, nghiên
cứu khoa học nghiêm túc đòi hỏi nhiều mặt ở sinh viên như: trí tuệ, phương pháp tư
duy sáng tạo, ý chí, nghị lực vượt khó, trung thực khiêm tốn, ý thức trách nhiệm cá
nhân, hoài bão, ước mơ, bản lĩnh cá nhân. Qua đó, rèn luyện cho sinh viên một tác
phong làm việc khoa học, một phong cách hiện đại và một lối sống lành mạnh.

Nhà trường phải tạo môi trường và điều kiện cho sinh viên học tập: phát huy các
phong trào vượt khó học tốt, phát triển mạnh mẽ các loại hình hoạt động hỗ trợ học tập;
câu lạc bộ ngành học, môn học. Tổ chức các kỳ thi Olimpic môn học để chọn các tài
năng trẻ trong nghiên cứu khoa học.

Kêu gọi, vận động các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà tài trợ hỗ trợ cho sinh
viên học tập thông qua việc xây dựng “Quỹ học bổng vì bạn nghèo”. Tổ chức, vận
động sinh viên tham gia các hội nghị khoa học mang tính chất chuyên ngành; tạo môi
trường thuận lợi cho sinh viên bộc lộ tài năng thông qua hình thức nội san, đặc san,
chuyên san, câu lạc bộ nghiên cứu trẻ.

- Xây dựng lối sống văn hóa cho sinh viên thông qua các hoạt động xã hội từ
thiện. Hoạt động từ thiện xã hội của sinh viên cần tập trung vào việc giúp đỡ gia đình
thương binh liệt sĩ, những người tàn tật khó khăn, ủng hộ đồng bào lũ lụt và tham gia
các hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển kinh tế văn hóa vùng sâu, vùng xa,
qua đó giáo dục truyền thống cách mạng, lòng nhân ái, thương yêu đùm bọc lẫn nhau,
ý thức chung sống trong cộng đồng của người sinh viên.

20
Để hoạt động này trở thành phong trào sâu rộng, có hiệu quả cần đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, tổ chức vào thời điểm phù hợp. Hình thức tổ chức là phối hợp chặt
chẽ giữa các ngành hữu quan để tổ chức chiến dịch “Ánh sáng văn hóa”, “Xóa nạn mù
chữ”, “Mùa hè xanh”, các đợt lao động tình nguyện làm đường, cầu, cống, nhà trẻ… ở
các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, nơi căn cứ cách mạng.

Và hoạt động làm tình nguyện của sinh viên trường đại học Thương mại đã và
đang được thực hiện rất tốt. Với sự hỗ trợ của các giảng viên, các khoa và nhất là sự
nhiệt tình năng nổ của sinh viên- những người trẻ tuổi- hàng loạt những hoạt động tình
nguyện, nhũng chiến dịch lớn của trường và của thành phố đã được thực hiện, triển
khai nhanh chóng và đạt được nhiều kết quả. Mỗi mùa thi đến, sinh viên tình nguyện
lại làm rất nhiều hoạt đông như hương dẫn đường đi cho các sỹ tử ơ các điểm chốt, hay
tham gia vào hoạt động coi thi ở các trường… Còn có các chương trình, các cuộc thi về
kinh doanh, mở các hội chợ của sinh viên, các hoạt động văn hóa, văn nghệ… được tổ
chức rất hiệu quả, gây nhiều sự hưởng ứng và ủng hộ của sinh viên.

Tóm lại: Lối sống là tiêu chí đầu tiên, tiêu chí tổng hợp nhất, thể hiện chất lượng
văn hoá và trí tuệ của một con người. Thực hiện tốt hệ giải pháp trên, chắc chắn sẽ tạo
được cho sinh viên một lối sống lành mạnh, xây dựng được môi trường văn hóa tiến bộ;
góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Trong xu thế đối thoại giữa các nền văn
hóa trên thế giới hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mãi mãi là ánh sáng soi
đường cho dân tộc ta trong quá trình xây dựng “nền tảng tinh thần của xã hội”.

21

You might also like