Professional Documents
Culture Documents
MỤC LỤC
Lời mở đầu...................................................................................................2
Lời mở đầu
Bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin ngày nay rất phát triển.Cuộc cách mạng
thông tin đã và đang diễn ra trên hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới .
Có thể nói thông tin ngày nay đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sông hàng ngày
của mỗi con người từ việc ăn gì ở đâu ,xem gì trong những ngày tới đến vấn cổ phiếu
tăng giá hay giảm giá hay những vấn đề quan trọng của cả thế giới đều được phản ánh
qua thông tin được cập nhật hàng ngày. Điều đó cho thấy mạng lưới viễn thông đã bao
trùm trên toàn thế giới .
Ngày nay chúng ta cũng không phải lo về việc thiếu hụt băng thông cho truyền tin như
trước kia thay vào đó là việc làm sao để sử lý gói tin tại các nút là nhanh nhất
Giao thức là một kiểu cách thức giao tiếp , đối thoại . Cũng như con người máy móc
muốn làm việc với nhau cũng cần có những cách thức giao tiếp riêng . Trong việc
truyền tin cũng vậy các Router muốn giao tiếp với nhau cũng cần phải có những giao
thức để làm việc với nhau . Các giao thức đó thường là RIP , IGRP, EGRP, IS-IS,BGP4
và OSPF
từ nguồn đến đích. Mỗi bước đi trong đường đi từ nguồn đến đích được coi như
có giá trị là 1 hop count. Khi một bộ định tuyến nhận được 1 bản tin cập nhật
định tuyến cho các gói tin thỡ nú sẽ cộng 1 vào giỏ trị đo lường (hop count) đồng
thời cập nhật vào bảng định tuyến . Trong đó đáng chú ý là RIP- 1 và RIP-2 RIP
thực hiện việc ngăn cản vũng lặp định tuyến vô hạn bằng cách thực hiện giới
hạn số đường đi cho phép trong 1 đường đi từ nguồn tới đích. Số hop tối đa trong
một đường đi là 15. Nếu 1 bộ định tuyến nhận được một bản tin cập nhật định
tuyến và tại đây giá trị đo lường trở thành 16 thỡ đích coi như là nút mạng không
thể đến được. Nhược điểm của RIP chính là giới hạn đường kính tối đa của 1
mạng RIP là dưới 16 hops. RIP có đặc điểm hoạt động ổn định nhưng khả năng
thay đổi chậm. Khi có thay đổi về cấu hỡnh mạng, RIP luụn thực hiện chế độ
chia rẽ tầng và áp đặt cơ chế ngăn chặn các thông tin định tuyến sai được phát
tán trong các bộ định tuyến. RIP sử dụng các bộ định thời để điều chỉnh hoạt
động của mỡnh. Bộ định thời cập nhật định tuyến theo khoảng thời gian định
trước, thông thường 30s là bộ định thời lại được khởi động lại để cập nhật lại
các thông tin định tuyến được gởi từ các bộ định tuyến lân cận. Điều này cũng
giúp ngăn chặn sự tắc nghẽn trong mạng khi tất cả các bộ định tuyến cùng 1 thời
điểm cố gắng cập nhật các bảng định tuyến lân cận.Chính vỡ điều đó mà người
ta đó ghĩ ra cách khắc phục những nhược điểm của RIP để cho ra OSPF một giao
thức vừa áp dụng cho đa miền vừa áp dụng cho nội miền
III: Giao thức đường đi ngắn nhất (OSPF-open shoter Path Fist)
cỏc thụng tin này tới cỏc khu vực khỏc. Trong số cỏc khu vực bờn trong AS, cú
một khu vực đặc biệt được gọi là đường trục; tất cả các khu vực trong một AS
phải được nối tới đường trục. Hay nói cách khác là đường trục được coi như là
khu vực sơ cấp cũn cỏc khu vực cũn lại đều được coi như là các khu vực thứ
cấp.
Các router bên trong khu vực đường trục được gọi là các router đường
trục, các router đường trục cũng có thể là một router biên khu vực. Nếu vỡ một
lý do nào đó mà kết nối giữa một khu vực và đường trục bị hỏng thỡ người quản
trị mạng phải tạo một liên kêts ảo (virtual link) giữa các router để cho phép
đường trục tiếp tục hoạt động như một khu vực sơ cấp.
OSPF là giao thức định tuyến trạng thái liên kết, được thiết kế cho các mạng lớn
hoặc các mạng liên hợp và phức tạp. Các giải thuật định tuyến trạng thái sử
dụng các giải thuật Shortest Path First (SPF) cùng với một cơ sở dữ liệu phức
tạp về cấu hỡnh của mạng. Cơ sở dữ liệu về cấu hỡnh mạng về cơ bản bao
gồm tất cả dữ liệu về mạng có liên kết đến bộ định tuyến chứa cơ sở dữ liệu.
Giải thuật chọn đường dẫn ngắn nhất SPF là cơ sở cho hệ thống OSPF. Khi 1
bộ định tuyến sử dụng SPF được khởi động, bộ định tuyến sẽ khởi tạo cấu trúc
cơ sở dữ liệu của giao thức định tuyến và sau đó đợi chỉ báo từ các giao thức
tầng thấp hơn dưới dạng các hàm. Bộ định tuyến sẽ sử dụng các gói tin OSPF
Hello để thu nhận các bộ định tuyến lân cận của mỡnh. Bộ định tuyến gửi gói tin
Hello đến các lân cận và nhận các bản tin Hello từ các bộ định tuyến lân cận.
Ngoài việc sử dụng gói tin Hello để thu nhận các lân cận, bản tin Hello cũn được
sử dụng để xác nhận việc mỡnh vẫn đang hoạt động đến các bộ định tuyến
khác.
Mỗi bộ định tuyến định kỳ gửi các gói thông báo về trạng thái liên kết (LSA) để
cung cấp thông tin cho các bộ định tuyến lân cận hoặc cho các bộ định tuyến
khác khi một bộ định tuyến thay đổi trạng thái. Bằng việc so sánh trạng thái liên
kết của các bộ định tuyến lion kề đ• tồn tại trong cơ sở dữ liệu, các bộ định
tuyến bị lỗi sẽ bị phát hiện ra nhanh chóng và cấu hỡnh mạng sẽ được biến đổi
thích hợp. Tờ cấu trúc dữ liệu được sinh ra do việc cập nhật liên tục các gói
LSA, mỗi bộ định tuyến sẽ tính toán cây đường đi ngắn nhất của mỡnh và tự
mỡnh sẽ làm gốc của cõy. Sau đó từ cây đường đi ngắn nhất sẽ sinh ra bảng
định tuyến.
1.1Định tuyến động và thuật toán LSA
Định tuyến động lựa chọn tuyến dựa trên thông tin trạng thái hiện thời của
mạng. Thông tin trạng thái có thể đo hoặc dự đoán và tuyến đường có thể thay
đổi khi topo mạng hoặc lưu lượng mạng thay đổi. Thông tin định tuyến cập nhật
vào trong các bảng định tuyến của các nút (node) mạng trực tuyến, và đáp ứng
tính thời gian thực nhằm tránh tắc nghẽn cũng như tối ưu hiệu năng mạng. Định
tuyến động xây dựng trên hai yếu tố cơ bản: Mô hỡnh tớnh toỏn và thụng tin
trạng thỏi
1.2Thuật toán trạng thái liên kết LSA: Trong thuật toỏn trạng thỏi liờn
kết, cỏc node mạng quảng bỏ giỏ trị liờn kết của nú với cỏc node xung quanh tới
cỏc node khỏc. Sau khi quảng bỏ tất cả cỏc node đều biết rừ topo mạng và thuật
toỏn sử dụng để tớnh toỏn con đường ngắn nhất tới node đớch được mụ tả
hỡnh thức như sau:
Giả thiết :
r là node nguồn, d là node đớch
Cdr là giỏ thấp nhất từ node r tới đớch d
Nrd là node tiếp theo của r trờn đường tới d
R1 R2
R3 R4
Định tuyến tĩnh cho phép các router định tuyến gói tin từ mạng này tới mạng
khác dựa trên các thông tin được cấu hình nhân công. Trong ví dụ này, router R1
luôn gửi lưu lượng có đích là router R4 qua router R3. Router R1 tham chiếu tới
bảng định tuyến của nó và dựa theo các thông tin tĩnh để chuyển tiếp gói tới
router R3. Router R3 cũng thực hiện các công việc tương tự và chuyển tiếp gói
tới router R4. Router R4 chuyển gói tới trạm đích.
Nếu đường đi giữa router R1 và router R3 bị lỗi, router R1 không thể chuyển gói
tới Router R4 thông qua tuyến tĩnh đó thiết lập này. Như vậy, truyền thông với
mạng đích không thể thực hiện được cho đến khi router R1 được cấu hình lại để
chuyển gói qua router R2. Đây chính là một nhược điểm của định tuyến tĩnh.
Định tuyến động hoạt động linh hoạt hơn. Theo bảng định tuyến của router R1,
gói có thể tới đích của nó qua router R3. Tuy nhiên, cũng có một đường đi sẵn
khác tới đích, đó là đi qua router R2. Khi router R1 nhận ra rằng liên kết tới router
R3 bị lỗi, nó điều chỉnh bảng định tuyến và đường đi tới mạng đích sẽ qua router
R2. Khi liên kết giữa router R1 và router R3 được khôi phục, router R1 có thể
một lần nữa thay đổi bảng định tuyến để chuyển đường đi tới đích là qua router
R3.
Định tuyến động sử dụng các giao thức định tuyến để thực hiện xây dựng
nên các bảng định tuyến trên các bộ định tuyến. Các giao thức định tuyến động
được chia thành 2 nhóm chính: Giao thức định tuyến véctơ khoảng cách và giao
thức định tuyến trạng thái liên kết. Ngoài ra còn có nhóm giao thức thứ 3 là nhóm
các giao thức định tuyến lai ghép giữa hai nhóm trên hay nói cách khác có các tính
chất của cả hai nhóm giao thức: Định tuyến véctơ khoảng cách và định tuyến
trạng thái liên kết.
2.1:Giao thức định tuyến vecto khoảng cách (distance-vecto: gọi tắt
là định tuyến véctơ): Dựa vào các giải thuật định tuyến có cơ sở hoạt động là
véctơ khoảng cách. Theo định kỳ các bộ định tuyến chuyển toàn bộ các thông tin
có trong bảng định tuyến đến các bộ định tuyến lân cận đấu nối trực tiếp với nó
và cũng theo định kỳ nhận các bảng định tuyến từ các bộ định tuyến lân cận. Sau
khi nhận được các bảng định tuyến từ các bộ định tuyến lân cận, bộ định tuyến
sẽ so sánh với bảng định tuyến hiện có và quyết định về việc xây dựng lại các
bảng định tuyến theo thuật toán của từng giao thức hay không. Trong trường hợp
phải xây dựng lại, bộ định tuyến sau đó sẽ gửi bảng định tuyến mới cho các lân
cận và các lân cận lại thực hiện các công việc tương tự. Các bộ định tuyến tự
xác định các lân cận trên cơ sở thuật toán và các thông tin thu lượm từ mạng.
• Từ việc cần thiết phải gửi các bảng định tuyến mới lại cho các lân cận và
các lân cận sau khi xây dựng lại bảng định tuyến lại gửi trở lại bảng định tuyến
mới, định tuyến thành vòng có thể xảy ra nếu sự hội về trạng thái bền vững của
mạng diễn ra chậm trên một cấu hình mới. Các bộ định tuyến sử dụng các kỹ
thuật bộ đếm định thời để đảm bảo không nảy sinh việc xây dựng một bảng
định tuyến sai. Có thể diễn giải điều đó như sau:
• Khi một bộ định tuyến nhận một cập nhật từ lân cận chỉ rằng một mạng
có thể truy xuất trước đây nay không thể truy xuất được nữa, bộ định tuyến đánh
dấu tuyến không thể truy xuất và khởi động một bộ định thời.
• Nếu tại bất kỳ thời điểm nào mà trước khi bộ định thời hết hạn một cập
nhật được tiếp nhận cũng từ lân cận đó chỉ ra rằng mạng đã được truy xuất trở
lại, bộ định tuyến đánh dấu là mạng có thể truy xuất và giải phóng bộ định thời.
• Nếu một cập nhật đến từ một bộ định tuyến lân cận khác với giá trị định
tuyến tốt hơn giá trị định tuyến được ghi cho mạng này, bộ định tuyến đánh dấu
mạng có thể truy xuất và giải phóng bộ định thời. Nếu giá trị định tuyến tồi hơn,
cập nhật được bỏ qua.
• Khi bộ định thời được đếm về 0, giá trị định tuyến mới được xác lập, bộ
định tuyến có bảng định tuyến mới.
Việc tính toán tuyến trong giao thức định tuyến véctơ khoảng cách sử dụng
thuật toán tính toán con đường ngắn nhất theo kỹ thuật chọn đường phân tán mà
điển hình là thuật toán chọn đường Ford& Fulkerson. Kỹ thuật chọn đường này
cho phép ta tìm tất cả các con đường đi ngắn nhất từ tất cả các đỉnh tới một đỉnh
đích cho trước. Giải thuật này được thực hiện bằng các bước lặp, sau k bước,
mỗi đỉnh được đánh dấu bởi một cặp giá trị (nk(v),Dk(v)) trong đó:
Dk(v) là giá trị cực tiểu từ đỉnh v đến đích tại bước thứ k
Nk(v) là đỉnh tiếp theo trên con đường từ v đến đích tại bước thứ k
Quá trình lặp sẽ dừng lại khi cặp giá trị đánh dấu của mỗi đỉnh được giữ nguyên
không thay đổi nữa.
Thuật toán Ford-Fulkerson được mô tả như sau:
2.2: Các Giao thức định tuyến trạng thái liên kết (link-state: gọi
tắt là định tuyến trạng thái): Các giải thuật định tuyến trạng thái, cũng được gọi
là SPF (shortest path first-chọn đường dẫn ngắn nhất), duy trì một cơ sở dữ liệu
phức tạp chứa thông tin về cấu hình mạng. Trong khi giải thuật véc tơ không có
thông tin đặc biệt gì về các mạng ở xa và cũng không biết các bộ định tuyến ở
xa, giải thuật định tuyến trạng thái biết được đầy đủ về các bộ định tuyến ở xa
và biết được chúng liên kết với nhau như thế nào. Giao thức định tuyến trạng
thái sử dụng:
• Các thông báo về trạng thái liên kết: LSA (Link State
Advertisements).
• Một cơ sở dữ liệu về cấu hình mạng.
• Giải thuật SPF và cây SPF sau cùng.
• Một bảng định tuyến liên hệ các đường dẫn và các cổng đến từng
mạng.
Hoạt động tìm hiểu khám phá mạng trong kiểu định tuyến trạng thái được thực
hiện như sau:
• Các bộ định tuyến trao đổi các LSA cho nhau. Mỗi bộ định tuyến
bắt đầu với các mạng được kết nối trực tiếp để lấy thông tin.
• Mỗi bộ định tuyến đồng thời với các bộ định tuyến khác tiến hành
xây dung một cơ sở dữ liệu về cấu hình mạng bao gồm tất cả các LSA
đến từ liên mạng.
• Giải thuật SPF tính toán mạng có thể đạt đến. Bộ định tuyến xây
dựng cấu hình mạng luận lý như một cây, tự nó là gốc, gồm tất cả các
đường dẫn có thể đến mỗi mạng trong toàn bộ mạng đang chạy giao thức
định tuyến trạng thái. Sau đó, nó sắp xếp các đường dẫn này theo chiến
lược chọn đường dẫn ngắn nhất.
• Bộ định tuyến liệt kê các đường dẫn tốt nhất của nó và các cổng
dẫn đến các mạng đích trong bảng định tuyến của nó. Nó cũng duy trì các
cơ sở dữ liệu khác về các phần tử cấu hình mạng và các chi tiết về hiện
trạng của mạng.
Khi có thay đổi về cấu hình mạng, bộ định tuyến đầu tiên nhận biết được
sự thay đổi này gửi thông tin đến các bộ định tuyến khác hay đến một bộ định
tuyến định trước được gán là tham chiếu cho tất cả các bộ định tuyến trên mạng
làm căn cứ cập nhật.
• Theo dõi các lân cận của nó, xem xét có hoạt động hay không, và
giá trị định tuyến đến lân cận đó.
• Tạo một gói LSA trong đó liệt kê tên của tất cả các bộ định tuyến
lân cận và các giá trị định tuyến đối với các lân cận mới, các thay đổi trong
giá trị định tuyến và các liên kết dẫn đến các lân cận đã được ghi.
• Gửi gói LSA này đi sao cho tất cả các bộ định tuyến đều nhận
được.
• Khi nhận 1 gói LSA, ghi gói LSA vào cơ sở dữ liệu để sao cho cập
nhật gói LSA mới nhất được phát ra từ mỗi bộ định tuyến.
• Hoàn thành bản đồ của liên mạng bằng cách dùng dữ liệu từ các
gói LSA tích luỹ được và sau đó tính toán các tuyến dần đến tất cả các
mạng khác sử dụng thuật toán SPF.
Có hai vấn đề lưu ý đối với giao thức định tuyến trạng thái:
• Hoạt động của các giao thức định tuyến trạng thái trong hầu hết
các trường hợp đều yêu cầu các bộ định tuyến dùng nhiều bộ nhớ và thực
thi nhiều hơn so với các giao thức định tuyến theo véc tơ. Các yêu cầu này
xuất phát từ việc cần thiết phải lưu trữ thông tin của tất cả các lân cận,
cơ sở dữ liệu mạng đến từ các nơi khác và thực thi các thuật toán định
tuyến trạng thái. Người quản lý mạng phải đảm bảo rằng các bộ định
tuyến mà họ chọn có khả năng cung cấp các tài nguyên cần thiết này.
• Các nhu cầu về băng thông cần phải tiêu tốn để khởi động sự phát
tán gói trạng thái. Trong khi khởi động quá trình khám phá, tất cả các bộ
định tuyến dùng các giao thức định tuyến trạng thái để gửi các gói LSA
đến tất cả các bộ định tuyến khác. Hành động này làm tràn ngập mạng khi
mà các bộ định tuyến đồng loạt yêu cầu băng thông và tạm thời làm giảm
lượng băng thông khả dụng dùng cho lưu lượng dữ liệu thực được định
tuyến. Sau khởi động phát tán này, các giao thức định tuyến trạng thái
thường chỉ yêu cầu một lượng băng thông tối thiểu để gửi các gói LSA
kích hoạt sự kiện không thường xuyên nhằm phản ánh sự thay đổi của
cấu hình mạng.
Việc tính toán tuyến trong giao thức định tuyến véctơ khoảng cách sử dụng thuật
toán tính toán con đường ngắn nhất theo kỹ thuật chọn đường tập trung mà điển
hình là thuật toán tìm đường đi ngắn nhất Dijkstra. Thuật toán được đưa ra để
tìm đường đi ngắn nhất từ đỉnh s đến tất cả các đỉnh còn lại trong đồ thị có
hướng dựa trên cơ sở gán cho các đỉnh các nhãn tạm thời (Khác với
Ford&Fulkerson tìm đường đi từ tất cả các đỉnh đến 1 đích).
Thuật toán Dijkstra được mô tả như sau:
-Đầu vào: Đồ thị có hướng G=(V,E) với n đỉnh
s thuộc V là đỉnh xuất phát, a[u,v]: ma trận trọng số
d(v) là khoảng cách từ đỉnh xuất phát s đến v
-Đầu ra: Truoc[v]:ghi nhận đỉnh đi trước v trong đường đi ngắn nhất từ
sv
Trong đó quan trọng nhất là khu vực mạng lõi hay khu vực đường trục
Ví dụ về địng tuyến mạng ngoài :
Hình 1.7Biểu diễn 2 khu vực tự trị thông qua router biên khu vực kết nối với
nhau
6:Cập nhật định tuyến
Cập nhật định tuyến có 4 loại khác nhau sử dụng trong các trường hợp khác nhau
Thứ nhất:Cập nhật định tuyến trong một khu vực của vùng tự trị
Thứ hai:Cập nhật định tuyến giữa hai khu vực trong vùng tự trị
Thứ ba:Cập nhật định tuyên dựa vào router mạng lõi
Thứ tư:Cập nhật định tuyến dựa vao router biên vùng tự trị
Cập nhật định tuyến trong một khu vực của vùng tự trị
Hình 1.8:biểu diễn cập nhật định tuyến trong nội vùng
Hình trên miêu tả cập nhật định tuyến dựa vào router trong một khu vực của
vùng tự trị. Lúc này các router trong một khu vực sẽ thường xuyên cập nhật trạng
thái liên kết đẻ đảm bảo thông tin về trạng thái mạng tốt nhất
Cập nhật định tuyến giữa hai khu vực trong vùng tự trị
Hình1.9: biểu diễn cập nhật định tuyến giữa hai vùng
Cập nhật định tuyến dựa vào router mạng lõi
Hình2.0: biểu diễn cập nhật định tuyến trong mạng lõi
Qua ví dụ hình trên , các router mạng lõi luôn cập nhật trạng thái liên kết dựa vào
việc quảng bá các gói tin LSA .Quảng bá gói tin LSA trong mạng lõi hết sức quan
trọng, điều đó cho phép các router mạngl lõi luôn theo dõi được khả năng kết nối
trong nội miền tự trị, và khả năng kết nối ra các vùng khác
Cập nhật định tuyến dự vào router biên vùng tự trị
Hình2.1: biểu diễn cập nhật dịnh tuyến giữa hai vùng tự trị khác nhau
Việc cập nhật này đảm bảo khả năng kết nối liên miền .Các router biên vùng tự
trị cập nhật các bảng định tuyến của mình thông qua việc xử lý gói tin LSA đến
và gửi gói tin LSA đi. Việc cập nhật thông tin trạng thái liên kết này đảm bảo
việc thông tin thông tin giữa nội vùng tự trị và mạng ngoài được thông suốt
7:Định dạng của gói tin OSPF: OSPF sử dụng 5 loại gói khác
nhau.
Tất cả các gói OSPF đều có cùng phần tiêu đề gồm 9 trường có độ dài 24 byte.
đây là lần đầu tiên các lân cận nhận được thông tin của router này, chúng sẽ gửi
gói miêu tả cơ sở dữ liệu. Gói miêu tả cơ sở dữ liệu này không chứa thông tin cơ
sở dữ liệu hoàn chỉnh mà chỉ chứa các thông tin tóm tắt. Router mới được kết nối
với hệ thống này kiểm tra gói miêu tả cơ sở dữ liệu xem thông tin nào nó chưa
có. Sau đó nó sẽ gửi gói yêu cầu trạng thái liên kết để nhận được thông tin đầy
đủ về các liên kết cụ thể. Khi hai router muốn trao đổi các gói miêu tả cơ sở dữ
liệu, một router đóng vai trũ làm chủ (master) và một router đóng vai trũ làm tớ
(slave). Do thụng tin cơ sở dữ liệu có thể rất lớn, nên nội dung của nó được chia
ra thành nhiều gói.
Bảng 1.6:Định dạng gói yêu cầu trạng thái liên kết
Trong đó: Tiêu đề chung (Header) có trường Type được thiết lập bằng 3.
Bảng1.7: Định dạng chung của gói cập nhật trạng thái liên kết
• Các trường chức năng trong gói cập nhật trạng thái liên kết:
• • Tiêu đề (Header): Tiêu đề chung gồm 24 byte trong đó trường Type được
thiết lập bằng 4.
• • Quảng bá trạng thái liên kết (Link State Advertisement): Như ta đó biết
có 5 loại gói LSA khác nhau. Tất cả có cùng tiêu đề nhưng phần thân khác
nhau. Trước hết ta sẽ xem xét phần tiêu đề chung của tất cả LSA:
• Cờ E (Flag E): Khi cờ 1 bít này được thiết lập thỡ đây là khu vực gốc.
• Cờ T (Flag T): Khi cờ 1 bít này được thiết lập thỡ router cú thể xử lý
nhiều loại dịch vụ.
• Kiểu trạng thái liên kết (Link State Type): Trường 8 bít này định nghĩa loại
LSA như sau:
1-Liên kết Router
2-Liên kết mạng
3-Liên kết tóm tắt tới mạng
4-Liên kết tóm tắt tới Router biên AS
5-Liên kết ngoài
• Link State ID (Số hiệu trạng thái liên kết): Trường 32 bít này phụ thuộc
vào loại liên kết. Đối với loại 1 thỡ đây là địa chỉ IP của router. Đối với loại 2
thỡ đây là địa chỉ IP của router chỉ định. Đối với loại 3 thỡ đây là địa chỉ của
mạng. Đối với loại 4 thỡ đây là địa chỉ của router biên AS. Đối với loại 5 thỡ
đây là địa chỉ của mạng ngoài.
• Advertising Router (Router quảng bá): Trường 32 bít này chứa địa chỉ IP
của router đang quảng bá gói này.
• Link State Sequence Number (Số trỡnh tự trạng thái liên kết): Trường 32
bít này là số trỡnh tự được gán cho mỗi gói cập nhật trạng thái liên kết.
• Checksum (M ó kiểm tra lỗi): Trường 16 bít này dùng để kiểm tra lỗi cho
toàn bộ gói trừ trường tuổi trạng thái liên kết.
• Length (Chiều dài): Trường 16 bít này để định nghĩa chiều dài của toàn bộ
gói.
Network Mask
Attached Router
Network Mask
TOS Metric
Bảng2.3:Đinh dạng LSA liên kết tóm tắt tới mạng
Các trường chức năng trong LSA liên kết tóm tắt tới mạng:
• Network Mask (Mặt nạ mạng): Trường này định nghĩa mặt nạ mạng.
• TOS (Loại dịch vụ): Trường này định nghĩa loại của dịch vụ.
• Metric (Giá trị đo lường): Trường này định nghĩa giá trị đo lường cho loại
dịch vụ được định nghĩa trong trường TOS.
4-LSA liên kết tóm tắt tới router biên AS: LSA này được sử dụng để thông
báo tuyến tới router biên AS. Định dạng của gói này giống với LSA liên kết tóm
tắt tới mạng. Gói này chỉ định nghĩa mạng mà router biên AS liên kết tới. Vỡ nếu
gúi cú thể tới mạng này thỡ nú sẽ tới được router biên AS. Trường Unused được
thiết lập mặc định là 0.
Unused
TOS Metric
Network Mask
TOS Metric
Forwarding Address
Route tag
Bảng 2.5: LSA liên kết bên ngoài
Để định tuyến một cách tin cậy hơn, giao thức OSPF buộc mọi router phải
xác nhận việc nhận gói cập nhận trạng thái liên kết. Định dạng của gói này như
sau:
Tổng Kết :
OSPF là một giao thức định tuyến nội miền và đa miền
OSPF sử dụng thuật toán đường đi nhanh nhất
C ác loại thông báo trạng thái liên kết của OSPF có ý nghĩa hết sức quan trọng
với Router nó cho phép Router có khả năng cập nhật bảng định tuyến của bản
thân mình và quảng bá trạng thái liên kết cho các Router khác khám phá
Có rât nhiều loại LSA gồm:
. LSA liên kết Router
. LSA liên kết mạng
. LSA liên kết tóm tắt tới mạng
. LSA liên kết tóm tắt tới router biên khu vực
. LSA liên kết ngoài
Ngoài ra còn có LSA mờ
Giao thức định tuyến OSPF có vai trò hết sức quan trọng trong hạ tằng mạng
hiện nay