You are on page 1of 20

1. Trình bày nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong các nguồn gốc đó, nguồn gốc


nào chủ yếu nhất, quyết định bước phát triển về chất của tư tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao?

2. Trình bày các giai đoạn hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những giai
đoạn đó, giai đoạn nào tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa vạch đường đi cho cách mạng Việt
Nam? Hãy chứng minh.

3. Trình bày những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc? Để thực hiện luận
điểm: Kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay chúng ta phải
làm gì?

4. Trình bày những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc? Bằng
lý luận và thực tiễn hãy chứng minh rằng, luận điểm: CMGPDT cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở "chính quốc" là một sáng tạo lớn của Hồ
Chí Minh?

5. Trình bày quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất và động lực của chủ nghĩa xã
hội? Theo anh (chị) trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay, động lực nào là quan trọng
nhất? Để phát huy động lực đó chúng ta phải làm gì?

6. Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc? Để xây dựng và
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta hiện nay đòi hỏi chúng ta phải làm gì?

7. Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại? Để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại một cách hiệu quả trong giai
đoạn hiện nay đòi hỏi chúng ta phải chú ý những vấn đề gì?

8. Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất giai cấp công nhân và nền tảng tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam? Làm rõ sự sáng tạo của Người trong quan điểm về sự ra
đời của Đảng?

9. Phân tích những nguyên tắc xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ý nghĩa của những
nguyên tắc này trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay?

10. Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân; về sự thống
nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước? Để xây
dựng Nhà nước ngang tầm với nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng hiện nay chúng ta phải làm
gì?

11. Trình bày những chuẩn mực đạo đức mới của người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vận dụng những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới của Người vào việc rèn luyện đạo đức của
bản thân?

12. Trình bày những nội dung chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh? Ý nghĩa của tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong việc xây dựng con người Việt Nam mới?

13. Trình bày những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hóa. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà.

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bước phát triển
mới trong tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và phát triển nền văn hoá; quan niệm về phát triển,
về mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.

1. Ngay từ những năm 1942-1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn”(1).
Điểm mới trong tư duy về văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới là việc xác định văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội. Văn hóa không phải là một hoạt động riêng biệt có tính chất ngành nghề(ngành văn hoá - thông
tin...), không phải là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, chỉ là văn nghệ,... Văn
hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và
bản lĩnh, cốt cách của dân tộc được thể hiện qua truyền thống văn hóa dân tộc và hệ giá trị văn hóa. Các giá
trị văn hoá và truyền thống văn hoá được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng, dân tộc, được
lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế hệ... trở thành nền tảng tinh thần của mỗi con
người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã hội. Các bộ phận cơ bản nhất cấu thành nền văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội là: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; học thuật; nghệ thuật; thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa;
thể chế và thiết chế văn hoá v.v..

Đời sống của mỗi con người cũng như đời sống của xã hội có hai mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là
nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội. Là nền tảng tinh thần của xã hội, văn
hóa biểu hiện sự hiểu biết, tài năng và trí tuệ, đạo đức, lối sống, tâm hồn, tình cảm, thẩm mỹ... của con người
và của cộng đồng dân tộc trong mối quan hệ hài hòa với xã hội, với tự nhiên. Vì vậy khả năng phát triển của
một dân tộc không chỉ dựa vào nền tảng vật chất (kinh tế) của xã hội mà còn cần phải dựa vào nền tảng tinh
thần (văn hóa) của xã hội.

Với tính cách và vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Sự phát triển của quốc gia, dân tộc không chỉ dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên, vốn... mà còn ở khả năng phát huy tối đa nguồn lực con người, là làm cho văn hóa thấm sâu vào trong
các lĩnh vực và hoạt động xã hội, thấm sâu vào mọi lĩnh vực sinh hoạt của con người biến thành "nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất của phát triển".

2. Tư duy về phát triển của Đảng ta trong hơn hai thập niên qua cũng ngày càng sáng tỏ và sâu sắc. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu lên một số kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo việc
thực hiện Nghị quyết Đại hội X là: “Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc(...) phải coi trọng việc kết
hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(...) gắn phát triển kinh tế với
phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng an ninh... ”(2).

Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta, phát triển là một bước tiến toàn diện và đồng bộ về các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. Phát triển bao hàm sự tăng trưởng về kinh tế gắn liền với bảo đảm
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với phát triển văn hoá - giáo dục, phát triển toàn diện con người, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn
định chính trị và giữ vững an ninh - quốc phòng của Tổ quốc.

Coi nhẹ nhân tố văn hoá, xã hội, con người và môi trường trong phát triển, chạy theo tăng trưởng kinh tế
thuần túy và mô hình "xã hội tiêu thụ" là ngõ cụt của phát triển. Vì vậy, Đảng ta và nhân loại tiến bộ mạnh mẽ
phê phán việc coi nhẹ nhân tố văn hoá trong phát triển. Trên đất nước ta và nhiều quốc gia khác trên thế giới
quan niệm về "những kích tấc văn hóa của phát triển" đã và đang được nhấn mạnh trong chiến lược phát
triển của nhiều quốc gia và vai trò của văn hóa đối với phát triển đang trở thành một vấn đề trung tâm của
dân tộc và của thời đại.

Như vậy tăng trưởng kinh tế là cơ sở và điều kiện của phát triển nhưng chưa phải là toàn bộ sự phát triển.
Tăng trưởng kinh tế phải nhằm phục vụ mục tiêu phát triển văn hóa, phát triển con người... Tăng trưởng kinh
tế phải gắn với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá bảo vệ môi trường. Nếu chỉ chạy
theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần thì sự tăng trưởng kinh tế là vô nghĩa, có hại và thực chất là phản phát
triển.

Nguyên Tổng Giám đốc UNESCO, F.Mayor cũng nhấn mạnh: “Kinh nghiệm của hai thập kỷ qua cho thấy
rằng trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển kinh tế nào hoặc theo xu hướng chính trị nào,
văn hóa và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau (...). Hễ nước nào tự đặt ra cho mình mục tiêu phát triển
kinh tế mà tách rời môi trường văn hóa thì nhất định sẽ xảy ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về mặt
kinh tế lẫn văn hóa và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều. Một sự phát triển chân chính
đòi hỏi phải sử dụng một cách tối ưu nhân lực và vật lực của mỗi cộng đồng. Vì vậy phân tích đến cùng, các
trọng tâm, các động lực và các mục đích của phát triển phải được tìm trong văn hóa (...). Từ nay trở đi văn
hóa cần coi mình là một nguồn bổ sung trực tiếp cho phát triển và ngược lại phát triển cần thừa nhận văn hóa
giữ một vị trí trung tâm, một vai trò điều tiết xã hội...”(3). Như vậy, khái niệm phát triển phải bao gồm các nhân
tố kinh tế và xã hội, cũng như các giá trị đạo đức và văn hoá, quy định sự nảy nở và phẩm giá con người
trong xã hội. Nếu như con người là nguồn lực của phát triển, nếu như con người vừa là tác nhân lại vừa là
người được hưởng, thì con người phải được coi chủ yếu như là sự biện minh và là mục đích của sự phát
triển.
Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng luôn khẳng định vị trí và vai trò to lớn của
văn hóa trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo
yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta chủ trương phát huy đến mức cao nhất
vai trò và tác dụng của văn hóa, của đội ngũ những người hoạt động văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy (...) cũng như các
chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ (...) phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân".

3. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, cùng với sự đổi mới trong tư duy kinh tế và chính trị, Đảng ta
đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khoá VI
(1987) về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một
bước mới đã xác định: "Văn hóa là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa, là một động lực
mạnh mẽ, đồng thời là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội".

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1993) đã xác định: "Văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội". Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1998) tiếp tục
khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội (...). Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng văn
minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện
chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển".

Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban chấp hành Trung ương khoá IX (2004) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X (2006) đã xác lập vị trí của văn hoá là một trong ba bộ phận hợp thành sự phát triển bền vững
và toàn diện của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nhận thức sâu sắc của Đảng về mối
quan hệ giữa văn hoá và phát triển, là bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vai trò to lớn, sâu
sắc của văn hoá trong phát triển bền vững và toàn diện của đất nước. Đây là sự năng động của nhận thức
trong việc nắm bắt các vấn đề thời đại, cũng là sự xác định chính xác định hướng phát triển văn hoá, kinh tế,
chính trị và xã hội ở Việt Nam theo học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Theo đó, văn hóa không đứng ngoài phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Phát triển văn
hóa - nền tảng tinh thần của xã hội gắn kết chặt chẽ, đồng bộ và tương xứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế
(là trung tâm); xây dựng chỉnh đốn Đảng (là then chốt) chính là điều kiện quyết định sự phát triển bền vững
và toàn diện của đất nước vì “xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” tiến bước vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.

4. Để phát huy vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta cần
phải tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh
trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, các
đơn vị, tổ chức cơ sở, các gia đình, trong từng cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, hội viên, các bậc cha
mẹ, các thầy cô giáo. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã nhấn mạnh phải: "Tiếp tục xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân
tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại(...) Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất
lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức" (6). Chú trọng thực hiện tốt chiến
lược con người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định
nhất, là sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam. Cần coi đây là khâu trung tâm của sự nghiệp xây dựng nền
tảng tinh thần, tiềm lực văn hóa và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Phải thực sự coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và xã
hội cho phát triển văn hóa, tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hoá văn hoá, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao... đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực này.

Phải gắn chặt nhiệm vụ phát triển văn hóa với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng văn hóa
trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh" cho cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, hội viên và nhân dân. Xây dựng Đảng ta
thực sự trong sạch vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh” (Hồ Chí Minh), từ đó mà phát huy mạnh mẽ
nhất vai trò lãnh đạo “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng
cao chất lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới./.
Đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái - một nhiệm vụ quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng

18:44 | 01/11/2010

(ĐCSVN) - Ở nước ta, trong tiến trình cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hệ tư tưởng
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước chi phối
toàn bộ đời sống xã hội. Tuy nhiên, do thực tế diễn biến phức tạp, mà những năm gần đây tình trạng
chống phá của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng đang được ráo riết
thực hiện…

Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới công cuộc đổi mới của đất nước, tới sự phát triển của Đảng trong sự
nghiệp lãnh đạo dân tộc. Bảo vệ nền tảng tư tưởng luôn luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ chiến lược
của cả quá trình xây dựng đất nước theo định hướng XHCN. Nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trong mọi tình huống cách mạng luôn là vấn đề cấp thiết.

Nhiệm vụ bao trùm của toàn Đảng, toàn dân ta trong lúc này là phải đẩy mạnh công tác đấu tranh chống các
quan điểm sai trái góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện nhiệm vụ trên, điều kiện tiên
quyết là phải luôn giữ vững sự ổn định về chính trị và tư tưởng. Có ổn định về chính trị và tư tưởng, mới có
điều kiện phát triển kinh tế- xã hội, từng bước khắc phục khó khăn và cải thiện đời sống nhân dân, tạo lòng
tin trong nhân dân vào Đảng, Nhà nước, qua đó tạo sức mạnh đấu tranh với các quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch. Đối với nước ta, sau mấy thập kỷ đấu tranh đầy hi sinh, gian khổ và trên mình còn mang
nhiều vết thương, nếu mất ổn định, gây đảo lộn về chính trị, rối loạn về kinh tế thì sẽ là mảnh đất cho kẻ thù
thực hiện âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là điều mà mỗi công dân, mỗi đảng viên cần
nhận thức rõ để gánh vác trách nhiệm trong tình hình vô cùng sôi động và phức tạp hiện nay.

Trong quá trình phấn đấu giữ vững ổn định về chính trị và tư tưởng, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
đời sống xã hội, phải phân biệt và có biện pháp khác nhau để xử lý đúng đắn mâu thuẫn giữa ta và địch, mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân; phải tập hợp, đoàn kết rộng rãi nhân dân, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, có
quan điểm, phương pháp và bước đi đúng đắn trong cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng.

Để thực hiện nhiệm vụ đấu tranh chống các quan điểm sai trái, Đảng cần tăng cường quan hệ với quần
chúng, phải thấy cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng
là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân, là kết hợp hài hòa các lợi ích, là thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ
của công dân. Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần chúng phải coi công tác quần chúng là cuộc đấu tranh quyết
liệt của lực lượng cách mạng chống các thế lực thù địch trên các lĩnh vực, đập tan những âm mưu và thủ
đoạn phá hoại nền tảng của Đảng.

Bên cạnh đó cần tăng cường đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái bằng nhiều con đường, phương
thức khác nhau. Phải tiến hành đấu tranh chống các quan điểm sai trái ở từng cơ quan, từng ngành, coi đó là
phương pháp tự bảo vệ mình, và thông qua đó hình thành một mặt trận chung của nhiều ngành, nhiều cơ
quan tham gia đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch. Phải tăng cường công tác
thông tin, nhất là thông tin đại chúng như mạng lưới báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh, internet...Các
phương tiện báo chí cần phải tìm ra những hình thức tuyên truyền cho thật phù hợp, sát với từng đối tượng
cụ thể. Phát huy vai trò của tuyên truyền miệng, thông báo nội bộ, qua đội ngũ báo cáo viên ở các cấp để
phê phán các quan điểm sai trái, cung cấp thông tin đứng đắn cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Hiện nay, nhiều tình huống đấu tranh tư tưởng không thuần túy dừng lại trong phạm vi tư tưởng mà gắn liền
với vấn đề chính trị. Mà xử lý một vấn đề chính trị tư tưởng thì đòi hỏi phải có cơ quan chính trị có thẩm
quyền đứng ra tổ chức, phối hợp xử lý thì mới đạt hiệu quả. Như vậy, đấu tranh chống các quan điểm sai trái
hiện nay đòi hỏi phát huy sức mạnh tổng hợp, đa dạng hóa các hình thức và phương pháp đấu tranh

Như chúng ta đã biết, hiện nay các lực lượng phản động đang âm mưu lật đổ sự lãnh đạo của Đảng, đưa
nhân dân ta đi chệch khỏi con đường XHCN, do đó cuộc đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Đây là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và phức tạp, không chỉ đơn thuần về
mặt nhận thức, mà còn mang tính chính trị sâu sắc. Đảng đã sớm xác định và chỉ đạo kịp thời cuộc đấu tranh
này, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thống nhất về tư tưởng và hành động. Đó là chúng
ta kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng nhưng
chúng ta không được chủ quan. Cuộc đấu tranh giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng còn khá nặng nề.
Những lực lượng thù địch, chống đối đang tìm cách đưa những quan điểm sai trái của chúng vào đời sống xã
hội ta. Hơn nữa cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân không phải tất cả đã vững vàng về tư tưởng.
Tình hình này đặt ra cho chúng ta là phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ
thành quả cách mạng. Tính chiến đấu của mỗi chúng ta phải được thể hiện ở những công việc cụ thể. Và để
có thể chiến đấu thắng lợi, mỗi chúng ta phải nắm chắc quan điểm của Đảng, phải cảnh giác với âm mưu
phá hoại của kẻ thù.

Trong lịch sử mấy chục năm gần đây, chưa bao giờ mỗi người lại quan tâm đến bản thân mình và quan tâm
đến các hiện tượng xã hội xung quanh như hiện nay. Rõ ràng sự nghiệp đổi mới đã lôi cuốn và dẫn dắt công
tác tư tưởng vào trung tâm của cuộc sống. Và cũng rất rõ ràng rằng, công tác chính trị tư tưởng đã trở thành
nhiệm vụ chung của tất cả các cấp, các ngành.

Nhiệm vụ quan trọng trong việc đấu tranh chống các quan điểm sai trái bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trước mắt là phải làm cho mọi người kiên định đường lối, quan điểm của Đảng; quán triệt và thực hiện tốt
chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; khắc phục được tư tưởng bi quan, dao động và
những quan điểm sai trái như phủ nhận thành quả cách mạng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, chủ trương
đa nguyên chính trị, đa đảng...

Mặt khác phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước mọi âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù,
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, học tập đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, đẩy mạnh cuộc vận
động xây dựng cuộc sống mới, gia đình văn hóa mới và con người mới XHCN.

Di sản Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Với 34 tham luận tiêu biểu của các nhà khoa học Việt Nam và thế giới chọn đăng trong cuốn sách, những tư
tưởng này của Người được trình bày, phân tích, làm rõ.

Nhiều tham luận đều cho thấy, độc lập dân tộc là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Cống hiến to
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (Tô Huy Rứa); Giải phóng dân tộc, giải
phóng con người, hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh (PGS, TS. Phạm Hồng Chương); Tư tưởng độc lập tự do
với sự kiến lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước pháp quyền của toàn thể dân tộc (PGS. Lê
Mậu Hãn)… Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những người tượng trưng cho ý chí và khát vọng đó. Người
đã nêu lên một chân lý nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Người được coi là một chiến sĩ đi tiên
phong trong việc thức tỉnh dân tộc mình và các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc
và phẩm giá con người. Chiến lược của Người là “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công,
đại thành công”. Tư tưởng và tấm gương đấu tranh bất khuất cho độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và nhân
dân Việt Nam đã trở thành nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa trong thế kỷ XX. Nhiều quốc gia độc lập đã thừa nhận ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của cách
mạng Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngày nay, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn giữ nguyên sức sống của nó, đại tướng Phùng
Quang Thanh trong tham luận “Không có gì quý hơn độc lập, tự do - Ý nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực”
khẳng định. Độc lập dân tộc ở Hồ Chí Minh luôn luôn gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Theo
Người, “nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”1.
Người tìm thấy giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc trong mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa
học, vì vậy, Người khẳng định: “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ
nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”1. Đề cập đến vấn đề này, có các tham luận: Tư tưởng Hồ Chí
Minh và con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử và nhân dân Việt Nam (GS, TS.
Phan Kim Nga); Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường phát triển của các dân tộc (Suvănđi Sisavát); Sự
nghiệp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội (Raun Vanđết Vivô)….

Di sản Hồ Chí Minh về hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc

Phần này gồm 29 bài tham luận. Các bài này đều cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng của khát vọng
hòa bình Việt Nam, của tình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.

Về hòa bình, theo các tác giả, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người thiết tha với hòa bình - một nền hòa bình
chân chính gắn liền với độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Kiên định về chiến lược đồng thời cũng hết sức linh
hoạt về sách lược để giữ gìn hòa bình, Hồ Chí Minh đã kiên trì con đường thương lượng, đối thoại nhằm giải
quyết mối xung đột Việt - Pháp bằng phương pháp hòa bình. Các bài tham luận đề cập đến khía cạnh này là:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thế giới quan và đường lối đối ngoại vì hòa bình, hợp tác và phát triển (Phạm Gia
Khiêm); Hồ Chí Minh với sự nghiệp hòa bình, hữu nghị và phát triển vì tiến bộ của Việt Nam và thế giới
(Nguyễn Mạnh Cầm); Hồ Chí Minh - nhà văn hóa hòa bình (PGS, TS. Lê Văn Tích); Hồ Chí Minh với tư tưởng
ngoại giao vì hòa bình hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc (TS. Trần Minh Trưởng); Đấng cứu tinh của hòa
bình, độc lập và hạnh phúc (Geetesh Sharma)…
Khẳng định Việt Nam là “một bộ phận trong phe hòa bình, dân chủ thế giới” 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với
một ai”3, “nhằm xây đắp nền hòa bình thế giới”4. Nhân dân thế giới hiểu rõ cuộc đời chiến đấu hơn 60 năm
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc mình mà còn vì hạnh
phúc và phẩm giá của các dân tộc bị áp bức. Bản án kết tội chủ nghĩa thực dân của Người đã có tiếng vang
rộng rãi, góp phần thức tỉnh nhiều dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh tự giải phóng.

Sau khi Việt Nam giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng giáo dục nhân dân Việt Nam về
lòng yêu hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc, biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hợp tác rộng rãi của Việt Nam
với thế giới trên mọi lĩnh vực. Trong tuyên bố Lời kêu gọi Liên hợp quốc (12-1946), Hồ Chí Minh đã nói rõ:
Việt Nam không chỉ chiến đấu vì những quyền lợi thiêng liêng của mình mà còn “chiến đấu cho một sự
nghiệp chung, đó là sự khai thác tốt đẹp những nguồn lợi kinh tế” và “cho an ninh ở Viễn Đông”. Đó là những
tư tưởng có tầm nhìn xa, đi trước thời đại, đặt nền móng cho chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa,
hợp tác làm ăn với nước ngoài của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay. Các tham luận đã phân tích, làm
rõ những tư tưởng này.

Các vấn đề văn hóa, đạo đức, nhân cách trong di sản Hồ Chí Minh

Phần này gồm 31 tham luận, tập trung thể hiện sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự nghiệp và tư tưởng
thấm đậm giá trị văn hóa. Những giá trị văn hóa đó càng thêm sâu sắc khi Người chủ trương giác ngộ nhân
dân, làm cho nhân dân hiểu rõ các quy luật phát triển của xã hội, nhận rõ mục đích đấu tranh và con đường
giải phóng, tin chắc vào sự thắng lợi mà kiên quyết tự đứng lên làm cách mạng và xây dựng xã hội mới
không có áp bức, bóc lột và tạo ra những điều kiện phát triển toàn diện cho con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu
biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà”5. Chủ trương “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, trong bất kỳ điều kiện nào, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng chú trọng phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức, tạo điều kiện cho mỗi
người tận lực phát triển những năng lực sẵn có của mình… Đọc cuốn sách, người đọc sẽ thấy nhiều tham
luận đề cập đến những giá trị này của Người.

Tư tưởng và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cống hiến to lớn vào sự nghiệp giải
phóng xã hội, giải phóng con người. Sự tôn vinh của UNESCO đối với Người vừa là “Anh hùng giải phóng
dân tộc” vừa là “Nhà văn hóa kiệt xuất” là một sự vinh danh kép, theo nghĩa: Hồ Chí Minh đã vận dụng thành
công văn hóa - đạo đức vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng và nâng cao phẩm giá con người, đó là một sự
nghiệp anh hùng, đồng thời, đó cũng là một sự nghiệp văn hóa cao cả nhất.

ĐCSVN) - “Đạo đức Hồ Chí Minh cần được hiểu một cách đầy đủ, đó không chỉ là tư tưởng của Người
về đạo đức cách mạng, mà còn là thực tiễn đời sống đạo đức của Người…” đó là lời khẳng định của
GS, TS. Hoàng Chí Bảo khi viết cuốn sách Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia ấn hành mới đây.

Theo tác giả, văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất hữu cơ, không thể tách rời giữa tư tưởng đạo
đức của Người, là hiện thân sinh động, chân thực, cảm động về trí tuệ - tình cảm - tâm hồn - lối sống và nhân
cách Hồ Chí Minh - con người Việt Nam đẹp nhất, là bản sắc độc đáo của văn hóa đạo đức dân tộc gắn liền
với tầm cao tư tưởng đạo đức của thời đại cách mạng và tiếp biến được những tinh hoa văn hóa đạo đức
của nhân loại.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện qua hoạt động, hành vi và lối sống, qua các mối quan hệ với
con người, với công việc, trong giao tiếp, ứng xử hằng ngày. Ở đâu, lúc nào, với mọi đối tượng khác nhau,
chủ thể đạo đức Hồ Chí Minh cũng là hiện thân sinh động của tính nhất quán giữa nói và làm, tính trung thực
và sự khiêm tốn; tính kiên định về nguyên tắc và niềm tin gắn liền với tính linh hoạt và uyển chuyển trong
phương pháp đối nhân xử thế; lòng dũng cảm, sự sáng suốt, đức hy sinh và nghị lực phi thường vượt lên mọi
khó khăn, thử thách; sự ân cần, chu đáo, lòng khoan dung độ lượng đầy tính nhân ái, vị tha với con người;
sự nhạy cảm và rất mực tinh tế của Người đối với mỗi con người, mỗi cảnh đời và những số phận khác nhau
của họ. Đó chính là những đức tính và phẩm chất đạo đức của Người.

Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một nhà tư tưởng lớn mang tầm vóc vĩ nhân của thời đại, danh nhân
văn hóa của thế giới hiện đại, cốt cách hiền triết Á Đông, tiêu biểu cho tinh hoa đặc sắc của truyền thống dân
tộc. Đạo đức của Hồ Chí Minh là tình người mênh mông rộng lớn, nâng niu giá trị con người, là nghĩa thủy
chung son sắt của đạo làm người… Để thực hiện được những chuẩn mực đạo đức và những nguyên tắc ứng
xử đạo đức đó, con người phải trải qua rèn luyện gian nan thử thách, vì những điều tốt đẹp đó không tự đến.
Nội dung đạo đức với nghĩa là những phẩm chất đạo đức cơ bản của Người Việt Nam trong thời đại mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Một là, trung với nước, hiếu với dân, phải tận trung với nước, tận hiếu với
dân. Đây là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng; Hai là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có
tình; Ba là, suốt đời trau dồi và thực hành tiết kiệm liêm chính, chí công vô tư; Bốn là, tinh thần quốc tế trong
sáng.

Để thực hành những phẩm chất đạo đức đó, theo Hồ Chí Minh, cần phải chú trọng 3 điểm: Nói đi đôi với làm,
phải nêu gương đạo đức. Đây là sự thể hiện tính trung thực và nhất quán đạo đức; Xây đi đôi với chống. Đây
là nguyên tắc, phương châm chỉ đạo mà cũng là phương pháp thực hành trong đời sống đạo đức; Phải tu
dưỡng đạo đức suốt đời. Phải nêu cao ý thức và bản lĩnh tự giáo dục, tự rèn luyện, đề cao tính tự phê phán
của mỗi người, của mỗi tổ chức. Xây dựng Đảng về mặt đạo đức càng phải như vậy, nhất là khi Đảng đã
cầm quyền.

Trong khi nhấn mạnh đạo đức và nêu gương đạo đức của cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh chú trọng xây
dựng đạo đức cho từng đối tượng xã hội. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, ta thấy Người đề
cập đến các mối quan hệ và xác định rõ yêu cầu đạo đức với từng đối tượng như: với quân đội, với cán bộ
chiến sĩ công an, với phụ nữ, với thầy thuốc… qua các mối quan hệ đó.

Xây dựng văn hóa, giáo dục và thực hành văn hóa trong Đảng theo tư tưởng và văn hóa đạo đức Hồ Chí
Minh cần phải làm cho mỗi đảng viên và toàn Đảng trong sạch, vững mạnh hơn, thực sự đem lại cho quần
chúng một cảm nhận thực tế: “Đảng của chính mình”.

Cuốn sách sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu sâu thêm về văn hóa và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

ĐCSVN) - Đại đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta; là một trong những bài học lớn
của cách mạng nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để tăng cường và phát huy cao độ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, Đảng và Bác Hồ đã sáng
lập và lãnh đạo tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.

Cách đây 80 năm, ngay sau khi Đảng ra đời chưa tròn một năm, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ban hành "Chỉ thị về việc thành lập Hội Phản đế đồng minh" - hình thức tổ chức đầu tiên của
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, đánh dấu sự phát triển về chất của phong trào yêu nước, của khối đại
đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đó đến nay, với mỗi giai đoạn cách
mạng, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam đã có những hình thức tổ chức,
tên gọi khác nhau và luôn làm tròn sứ mệnh vẻ vang của mình là đoàn kết mọi người Việt Nam yêu nước vì
mục tiêu cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước
CHXHCN Việt Nam.

Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, làm nêm chiến thắng Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, lập lại hoà bình ở Đông Dương, đưa miền Bắc tiến lên xây
dựng Chủ nghĩa xã hội.

Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, nhân dân ta đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ
nhào”, làm nên đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành
cách mạng dân tộc, dân chủ, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Bước vào thời kỳ cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất, không ngừng phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm
của mình là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân; góp phần tăng
cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của cả
nước, nhất là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước;
góp phần thực hiện mục tiêu: độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ; vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mấy năm qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, nhất là sự khủng
hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới từ giữa năm 2008, tác động rất lớn vào nước ta, làm cho giá cả,
lạm phát tăng cao; mặt khác, thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp, gây hậu quả nặng nề ở nhiều nơi, ảnh
hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân, nhất là người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa
và đe doạ đến sự ổn định của nền kinh tế đất nước; các thế lực thù địch vẫn luôn tìm cách chống phá khối
đại đoàn kết toàn dân tộc... Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã ra sức thực hiện Nghị
quyết Đại hội X, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thách thức; sự nghiệp đổi mới tiếp tục được đẩy mạnh
trên mọi lĩnh vực; kinh tế tiếp tục phát triển; an sinh xã hội được chăm lo thiết thực; quốc phòng, an ninh
được tăng cường, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế
được đẩy mạnh; vị thế của nước ta trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao; khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường... Những kết quả trên là thực tiễn sinh động khẳng định đường lối đổi mới
đất nước của Đảng ngày càng đi vào cuộc sống; khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trung ương Đảng đã ban hành nhiều Nghị quyết, chủ trương, chính sách nhằm chăm lo và phát huy các giai
cấp, các tầng lớp, các lực lượng trong xã hội, nhất là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức,
lực lượng thanh niên, lực lượng doanh nhân... trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Những Nghị quyết, chủ trương, chính sách trên cùng với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh", về công tác dân tộc, về công tác tôn giáo, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị
(khoá IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và nhiều Nghị quyết, Chỉ thị có liên quan của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư là cơ sở hết sức quan trọng để chăm lo các giai tầng trong xã hội, tăng cường và phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách, pháp luật nhằm khơi dậy và phát huy sức sáng tạo của các tầng
lớp nhân dân, chăm lo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt là các chính sách, các nhóm giải
pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, thiết thực chăm
lo an sinh xã hội, nhất là đối với đồng bào nghèo, đồng bào vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc thiều số...

Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam luôn lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào ở trong và ngoài nước, không phân biệt thành
phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến, miễn là tán thành công cuộc đổi
mới. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định
chính trị và đồng thuận xã hội. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đa dạng hoá các hình thức vận động, tập hợp, góp phần tăng cường và phát huy sức mạnh khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.

Mặt trận Tổ quốc các cấp đã không ngừng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là về đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"... Mặt trận Tổ quốc các cấp tăng cường vận động nhân dân đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo; xây dựng nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc; chăm lo sự nghiệp giáo dục-đào tạo, sự nghiệp ý tế, chăm
sóc sức khoẻ cho nhân dân và góp phần đảm bảo quốc phòng, an ninh; nhất là nâng cao chất lượng cuộc
vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư", cuộc vận động "Ngày vì người
nghèo" và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần thiết thực chăm lo đời sống cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và người có công với nước; thông qua phong
trào thi đua để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tăng cường đồng thuận xã hội, chung sức chung
lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua khó khăn thách thức, nhất là kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý. Mặt trận Tổ quốc các cấp ngày càng mở rộng thêm các thành viên; các tổ
chức thành viên của Mặt trận ngày càng tăng cường tập hợp, thu hút thêm nhiều đoàn viên, hội viên mới, góp
phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân vào trong các tổ chức thích hợp. Mặt trận Tổ quốc
các cấp luôn chú ý tới công tác vận động, phát huy vai trò các nhân sỹ, trí thức, người tiêu biểu trong các dân
tộc thiểu số, chức sắc các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác vận động, đoàn kết, xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều năm qua, nhất là những năm gần đây, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
đã tổ chức tốt Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc với nhiều nội dung, hình thức phong phú, ở hầu khắp các
khu dân cư trong cả nước, dịp kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11). Ngày
hội đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, tăng cường sự đồng thuận ở cộng đồng dân
cư; là biểu hiện sinh động tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.

Mặt trận Tổ quốc các cấp đã phát huy vai trò là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, tích cực tham gia
đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; vận động toàn dân phát huy dân chủ, đẩy
mạnh các hoạt động giám sát, nhất là ở cơ sở và địa bàn khu dân cư, tham gia đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí…, góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng, là điều kiện để phát huy dân chủ, khơi dậy và phát huy
sức sáng tạo của nhân dân, góp phần tăng cường đồng thuận xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng không ngừng mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân, góp phần thực hiện
đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước; tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân
Việt Nam với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là các nước có quan hệ truyền thống;
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước.

Qua 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn
dân, toàn quân ta ta đã tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, kiên trì phấn đấu, bằng trí tuệ, tài năng và nghị
lực phi thường của mình, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo nên thế mới và lực mới
cho đất nước. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn còn phải đương đầu với không ít khó khăn thách thức, vẫn còn
những hạn chế, yếu kém: kinh tế phát triển chưa bền vững; các lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều bất cập,
một số mặt còn bức xúc; phân hoá giàu nghèo ngày một tăng; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm, tệ
nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp,
các thế lực thù địch vẫn tăng cường âm mưu, thủ đoạn phá hoạt chế độ, phá hoại thành quả cách mạng và
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tôc…

Những yếu tố trên tác động lẫn nhau, làm hạn chế việc phát huy thành quả của công cuộc đổi mới, làm giảm
lòng tin trong một bộ phận nhân dân, ảnh hưởng đến sự đồng thuận xã hội và phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc. Đây cũng là những khó khăn, thách thức của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ
mới.

Để tiếp tục củng cố, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, sớm đưa Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng vào cuộc sống, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và
các tầng lớp nhân dân cần tăng cường quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
trong tình hình mới; đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”..., qua đó tiếp tục tăng cường đồng thuận xã hội, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đoàn
kết toàn dân tộc, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; của cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội.

Đảng và Nhà nước cần tiếp tục quan tâm hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật. Đây là vấn đề có tính
cấp thiết, là yếu tố quyết định trực tiếp đến đại đoàn kết dân tộc. Có tăng cường được đồng thuận xã hội hay
không, có củng cố, tăng cường và phát huy được sức mạnh toàn dân tộc hay không, phụ thuộc rất lớn vào hệ
thống chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nhất là những chính sách, pháp luật liên
quan trực tiếp tới từng dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài... đảm
bảo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vừa đúng ý Đảng, vừa hợp lòng dân và sát
với yêu cầu thực tiễn. Có như vậy mới phát huy được mọi khả năng sáng tạo và sức mạnh của nhân dân, là
cơ sở quan trọng để thực hiện đại đoàn kết toàn dân. Trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới
và chủ động hội nhập quốc tế, “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp
của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội”. Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, đại diện cho quyền và
lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân; góp sức xây dựng Nhà nước trong sạch vững mạnh, xây dựng
chỉnh đốn Đảng; xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân đối với công tác
và đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, đại biểu dân cử và các cơ quan Nhà nước; giải quyết
những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân... Đảng, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh các quy định
và bảo đảm những điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân hoạt động hiệu quả,
nhất là giám sát và phản biện xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X. Đồng thời, quan tâm chăm lo, xây
dựng đội ngũ cán bộ Mặt trận và đoàn thể ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới.

Phát huy khối đại đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với yêu cầu mở rộng dân chủ và giữ vững kỷ cương trong đời
sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... ở tất cả các cấp, các ngành. Do vậy, các
cơ quan Nhà nước, các cấp chính quyền, phải chăm lo phát huy và bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo
pháp luật, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những biểu hiện vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, cũng như
những biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật, kích động nhân dân, gây rối trật tự công cộng, ảnh
hưởng đến sự ổn định xã hội, làm sứt mẻ tình cảm và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Trước yêu cầu đổi mới,
chỉ có mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự mới có đoàn kết thực sự và bền vững; thực hiện dân chủ và
đoàn kết từ trong Đảng ra toàn xã hội; thực hiện thật tốt Quy chế dân chủ ở các cấp, nhất là Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.

Các cấp uỷ Đảng cần đổi mới hơn nữa phương thức lãnh đạo trong điều kiện một Đảng cầm quyền đối với
hoạt động của hệ thống chính trị và toàn xã hội, đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; thực hiện
tốt vai trò Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Nhà nước cần tiếp
tục phối hợp, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể hoạt động hiệu quả, thiết thực hơn. “Các cấp
uỷ đảng và cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý
kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan
tâm, tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng,
chính quyền và hệ thống chính trị”.

Bản thân các cấp Mặt trận cần tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức, nâng cao hiệu
quả hoạt động, đa dạng hoá các hình thức vận động tập hợp, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn
kết toàn dân tộc; đẩy mạnh cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, nâng cao chất lượng hai cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hoá ở khu dân cư" và "Ngày vì người nghèo"; chung sức chung lòng cùng Đảng, Nhà nước ổn định kinh tế
vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững, bảo đảm anh sinh xã hội, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập
kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và
trật tự an toàn xã hội; đẩy mạnh vận động các tầng lớp nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện quyền làm chủ,
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại nhân dân, tăng cường
tình đoàn kết quốc tế giữa nhân dân ta với nhân dân các nước trong khu vực và trên thế giới.

Tự hào về dân tộc Việt Nam anh hùng, Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại;
tự hào về truyền thống 80 năm vẻ vang của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam; hướng về tương lai tươi
sáng của dân tộc ta, phấn khởi đón chào Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
tin tưởng đồng bào và chiến sĩ cả nước, đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài đoàn kết một lòng, đồng
tâm nhất trí, mang hết tài năng, trí tuệ và công sức cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu
đưa nước ta sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.

Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công”.

http://www.download.com.vn/download/get-soft.aspx?myUrl=http%3A%2F%2Fm4.download.com.vn%2FData%2FSoft
%2F2009%2F01%2F17%2FGT_tutuongHCM.rar&myID=9994&mySource=vD0J8il%2BzUuMwtwrGA67i8ol2QLjr
%2F7oih38EIlwPhc33HlCQcM424Y7mRuHe
%2Bja9i5cnVsDiAkgMFMFwsmFN7k5tD1nl9jOy3jDA5VehrEHT7yc6462Ds2RJeiEYre%2B0ABILkUZSYE%3D

Tài liệu ôn tập môn “Tư tưỏng Hồ Chí Minh”


Câu 1: Trình bày nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đáp án:
Bất cứ một TT nào cũng phải có nguồn gốc, cơ sở hình thành, đó chính là tuân theo qui luật hình
thành TT từ ít đến nhiều, từ hình thức đến nội dung, bản chất. Vì vậy, TTHCM cũng ko nằm ngoài
qui luật đó.
1. Nguồn gốc:
a. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
- Lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước được hình thành từ rất sớm và trở thành một tính chất của
mọi người dân Việt và đây là một yếu tố quan trọng nhất để Nguyễn Tất Thành đi vào con đường
cách mạng (Lòng yêu nước là cái vốn có của người dân Việt. Vấn đề đặt ra là Đảng phải khơi gợi).
- Cho đến nay, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể cả thắng lợi công cuộc đổi mới đều có cội
nguồn từ lòng yêu nước, với học thuyết được du nhập vào Việt Nam đều phải thông qua lòng yêu
nước và chủ nghĩa yêu nước của người dân Việt.
- Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó hợp tác với nhau để tạo nên sức mạnh. Truyền thống
đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của dân tộc Việt và cũng là cội nguồn của sức
mạnh dân tộc Việt. Có 4 hình thức đoàn kết cơ bản:
+ Đoàn kết gia đình
+ Đoàn kết trong cộng đồng và dòng họ
+ Đoàn kết trong cộng đồng làng xã.
+ Đoàn kết quốc gia dân tộc thể hiện ở chỗ: Có tính nội dung, có văn hóa chung và có ngày giỗ tổ
chung (10/3. âm lịch)
- Truyền thống nhân văn nhân ái quý trọng con người, hướng con người vào làm điều thiện, đồng thời
xử lý tinh tế các mối quan hệ, gia đình, vợ chồng, anh em, họ hàng và đề cao tình nghĩa, quy tắc ứng
xử trong xã hội. Do đó người Việt sống tình cảm hơn, nhân nghĩa hơn, thông minh hơn.
- Trong lối sống của người Việt: giản dị, khiêm nhường, cởi mở và đặc biệt không cực đoan, cố chấp.
Vì vậy có thể tiếp thu những cái hay, cái tốt, cái đẹp của dân tộc khác.
- Truyền thống văn hiến: Văn hiến là sự kết hợp nhuần nhuyễn của 3 yếu tố sau đây. Tri thức, đạo
đức, cái đẹp.
- Dân tộc Việt có khả năng học, hiếu học, coi trọng sự học, luôn luôn tôn vinh những người học cao,
đỗ đạt.
b. Tinh hoa nhân loại:
- Tinh hoa văn hoá phương Đông: Người tiếp thu Đạo phật và Nho giáo
+ HCM ra đời trong 1 gia đình Nho giáo nên Người đã tiếp thu những quan điểm tốt đẹp của Nho
giáo. Người đánh giá rất cao Khổng Tử. Ngày 19/5/1966, Người đến thăm Khổng Tử, khắc chữ lên
bia đá: “Khổng Tử là người thầy vĩ đại nhất của nhân loại”.
+ Người dùng rất nhiều những khái niệm, phạm trù nho giáo như: “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” (Thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân)
+ Người đánh giá rất cao tư tưởng bình đẳng của nhà Phật: “Ta là Phật đã thành còn chúng sinh là
Phật sẽ thành”
- Trong tinh hoa văn hóa phương Tây.
+ HCM đã nghiên cứu tiếp thu TT văn hoá dân chủ và CM của CM Pháp, CM Mỹ, trong đó
có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp và Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ.
+ Người đánh giá rất cao về chúa Jêsu. Người tiếp thu những tư tưởng của những nhà khai
sáng Pháp.
c. Chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và
nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam mà
còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản”
Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó, là
phương pháp biện chứng duy vật, học tập, lập trường quan điểm, phương pháp biện chứng của chủ
nghĩa Mác-Lênin để giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Các tác phẩm, bài viêt của Hồ Chí Minh phản ánh bản chất tư tưởng cách mạng của Người
theo thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Là yếu tố quan trọng nhất, quyết định việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
d. Những phẩm chất cá nhân riêng của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh có một tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cùng với một đầu óc phê phán tinh tường sáng
suốt trong việc tìm hiểu tinh hoa tư tưởng văn hoá cách mạng trong nước và trên thế giới.
- Sự khổ công rèn luyện học tập để chiếm lĩnh những tri thức phong phú của thời đại và với kinh
nghiệm đấu tranh trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế để tiếp cận
với chủ nghĩa Mác Lênin một cách khoa học.
- Có một tâm hồn của nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và một trái tim yêu
nước thương nòi, yêu thương những người cùng khổ, sãn sàng chịu đựng hi sinh cao nhất vì độc lập
của tổ quốc, vì hạnh phúc của đồng bào.
Kết luận: Tóm lại, TTHCM là sản phẩm của sự tổng hoà và phát triển biện chứng TT văn hoá truyền
thống của dân tộc, tinh hoa TT văn hoá của phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa M-L làm
nền tảng, cùng với thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của HCM - một con
người có tư duy sáng tạo, có PP biện chứng, có nhân cách, phẩm chất CM cao đẹp tạo nên. TTHCM
là TT VN hiện đại

Câu 2: Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, ý nghĩa của tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
Dân tộc là vấn đề rộng lớn. Mác-Ănghen không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì thời đó ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. Trong giai đoạn quốc tế chủ
nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới.
Mác, Ănghen và Lênin đã nêu những quan điểm biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sạh lược của các Đảng Cộng sản
về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Nhưng trong điều kiện từ đầu thế kỷ XX trở đi, cần vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận Mác-Lênin cho phù hợp với thực tiễn, chính Hồ Chí Minh là người đáp ứng
yêu cầu đó.
1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
1.2 Tất cả các dân tộc trên TG đều bình đẳng
- TT này của HCM thể hiện rõ trong hành động và trg rất nhiều bài nói, bài viết của mình, song rõ
nhất và tập trung nhất là ở “Tuyên ngôn độc lâp” khai sinh ra nước VNDCCH năm 1945. Mở đầu
bản Tuyên ngôn, HCM đã trích 1 đoạn của bản Tuyên ngôn năm 1776 của Mỹ nói về quyền bình
đẳng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền ko ai có thể
xâm phạm được. Trg những quyền ấy có quyền đc sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Người nhận định đây là lời bất hủ, suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên TG đều
bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đồng thời Người còn
trích dẫn Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của CMTS Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra
có quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tụ do và bình đẳng”. Người khẳng
định: “Đó là những lẽ phải ko ai chối cãi được”.
- Thiên tài HCM là người đã sử dụng Tuyên ngôn TS để đấu tranh cho lợi ích của dân tộc mình, biến
quyền tự do, bình đẳng, hạnh phúc cá nhân theo kiểu TS thành quyền bình đẳng của cả dân tộc VN,
của các dân tộc trên TG, ko phân biệt màu da, chủng tộc.
=> TT vĩ đại này của HCM mang tính quốc tế, tính thời đại và tính nhân văn sâu sắc.
1.2 Độc lập dân tộc phải là độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn.
- Một dân tộc không những có quyền bình đẳng với các dân tộc khác trên thê giới mà còn phải được
hửong nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn. Chỉ khi nào được hưởng độc lập thật sự thì dân tộc đó
mới thật sự bình đẳng.
- Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn theo Hồ Chí Minh phải đảm bảo những nguyên tắc sau:
+ Dân tộc đó có đầy đủ chủ quyền quốc gia về chính trị, kinh tế, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ.
+ Mọi vấn đề chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam giải quyết. Mọi sự ủng hộ giúp
đỡ Việt Nam đấu tranh giành độc lập tự do đều được nhân dân Việt Nam hoan nghênh ghi nhớ song
nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ sự can thiệt thô bạo nào.
+ Giá trị và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc phải thể hiện ở quyền tự do hanh phúc của nhân dân.
Theo Người, quyền độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, là trên hết. Dù có phải hy sinh đến đâu cũng
phải giành và giữ cho được độc lập.
1.3 Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính
+ Hồ Chí Minh luôn giơ cao ngọn cờ đấu tranh giành độc lập, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
+ Hồ Chí MInh là hiện thân của khát vọng hòa bình, tư tưởng này của Người được thể hiện rất rõ
mỗi khi nên độc lập dân tộc bị đe dọa.
2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đấu tranh giành độc lập.
Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông
Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra giống như ở phương Tây. Từ sự phân tích
đó, Người kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc
bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản.....Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi...nhận định chủ nghĩa
dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế.
Như vậy, xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộcmà những người cộng sản
phải nắm lấy và phát huy và Người cho đó là “một chính sách cách mạng mang tính hiện thực tuyệt
vời”.
3. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế.
Ngay từ khi lựa chọn con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống
nhất giữa dân tộc và giai cấo, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1930,
trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người xã định phương hướng chiến lược của cách
mạng Việt Nam là: “Tư sản dân quyền cách mạng” (tức là cách mạng dân chủ tư sản) và “Thổ địa
cách mạng” (tức là cách mạng ruộng đất) để đi tời xã hội cộng sản.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong
thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng giai cấp,
giải phóng con người. Xóa bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai
cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa giải phóng được. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức bóc lột,
chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân mới đảm bảo cho người lao động
quyền làm chủ, độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mà
còn đấu tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết, nhưng Hồ Chí Minh không quên nghĩa vụ quốc tế trong
việc ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ kháng chiến
chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và
Campuchia, đề ra khẩu hiệu: “giúp bạn là tự giúp mình và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách
mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Kết luận: Tóm lại, TTHCM về vấn đề dân tộc là hệ thống quan điểm vừa mang tính KH đúng đắn,
vừa có tính CM sâu sắc thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, độc lập
dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. TT này ko chỉ có giá trị trg lịch sử
CMVN mà còn có ý nghĩa lớn lao đối với CMTG trg thời đại ngày nay.

Câu 3: Trình bày nội dung cơ bản của Tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng giải phóng dân
tộc, chỉ ra sự sáng tạo và sự phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin và của Hồ Chí Minh.

Đáp án:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Cách mạng giải phóng dân tộc là hệ thống những quan điểm toàn diện và
sâu sắc về con đường cứu nước, chiến lược CM, sách lược CM và PPCM nhằm giải phóng ách áp
bức, nô dịch, XD một nước VN hoà bình thống nhất, độc lập và CNXH.

* Cơ sở hình thành
- Lý luận: Theo chủ nghĩa M-L: CM là sự nghiệp của quần chúng, còn ở VN: “Giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh”, “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
- Thực tiễn: Khảo sát những PTCM GPDT (CM Pháp, Mỹ, Nga).
=> Muốn thoát khỏi ách áp bức phải tiến hành CMTS.
* Nội dung
1. CMGPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS
- Ngay từ khi mới ra đời, gc TS đóng vai trò là người lãnh đạo các tầng lớp ND đấu tranh chống chế
độ PK, chống ách áp bức bóc lột PK đối với các dân tộc, góp phần hình thành nên các QG dân tộc cơ
bản.
- Khi CNTB chuyển sang giai đoạn ĐQCN chính nó đã trở thành kẻ áp bức bóc lột các dân tộc khác
một cách dã man và tàn bạo, ngọn cờ dân tộc đã chuyển sang tay gc VS, người đại diện cho LLSX
tiên tiến của thời đại.
- Gc VS là gc lãnh đạo CMGPDT vì mang những phẩm chất:
+ Là người CM triệt để nhất
+ Có tính kỷ luật và đoàn kết cao
+ Đại diện cho LLSX mới
+ Có hệ tư tưởng riêng
- Sau khi khảo sát các PT trg nước và trên TG, Người thấy sau CM người dân vẫn chưa được hưởng
tự do, hạnh phúc, Người đã gọi đó là cuộc CM chưa đến nơi. Còn ở CM Nga, Người đã gọi đó là
cuộc CM đến nơi. Vì thế VN phải đi theo con đường CM Nga. HCM khẳng định: Sự nghiệp
GPDTVN phải đặt dưới sự lãnh đạo của gc CN, phải đi theo con đường CMVS, phải đặt
CMDTDCND trong quĩ đạo của CMVS, là một bộ phận của CMTG. “Đây là sự phát hiện đầy sáng
tạo của HCM”.
2. CMGPDT phải do ĐCS lãnh đạo
- Các vấn đề đặt ra trong CMGPDT là:
+ Ai là người lãnh đạo PT?
+ Những giai cấp nào, những liên minh giai cấp nào là lực lượng nòng cốt?
- Người khẳng định: Trong điều kiện CMVN muốn thành công phải có ĐCM lãnh dạo, Đảng có vững
CM mới thành công, Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm nòng cốt.
- Theo HCM: Trong thời đại ngày nay, CMGPDT phải chống lại một kẻ thù tàn bạo và to lớn, giữa
chúng có sự liên minh mang tính quốc tế, muốn đánh thắng chúng cần có bộ tham mưu đủ khả năng,
đường lối đúng đắn, PP đấu tranh khoa học, đó chính là ĐCSVN.
3. Lực lượng của CMGPDT là toàn dân tộc.
- CM là việc chung của cả dân tộc có nghĩa là: Sĩ, Nông, Công, Thương đều nhất trí chống lại cường
quyền. Trong lực lượng đó Công, Nông là gốc của kách mệnh còn học trò, điền chủ nhỏ cũng bị TS
áp bức song không cực khổ bằng công nông. 3 lực lượng ấy đều là bạn của cách mệnh.
- Người xác định: Kẻ thù chính của CMVN là bọn đế quốc + PK tay sai, còn phải tập trung lực lượng
của toàn dân tộc để đánh đổ chúng giành lấy chính quyền.
- Khi phát động cuộc khánh chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Người kêu gọi toàn dân đánh giặc
và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ,
không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người VN thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu nước.
- Tính sáng tạo: Theo Lênin: mới chỉ là lời kêu gọi, còn trg TTHCM, cuộc CMGPDT lực lượng là
toàn dân.
4. CMGPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM
vô sản ở chính quốc
- Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa
phụ thuộc vào thắng lợi của CM vô sản ở chính quốc. Đề cương về phong trào CM ở các nước thuộc
địa và nửa thuộc địa được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1/9/1928) cho rằng: “Chỉ có
thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi
ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này vô hình chung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào CM ở thuộc địa. Còn theo HCM: Ko nhất thiết phải như vậy mà CMVS ở thuộc địa có
thể thắng lợi trc CMVS ở chính quốc; và thực tế đã chứng minh điều đó là đúng.
- Trong tác phẩm Đường kách mệnh, HCM có sự phân biệt về nhiệm vụ của CM và CM giải phóng
dân tộc và cho rằng: hai thứ CM đó tuy có khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất quan trọng
của HCM vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đã được thắng lợi của phong trào CM giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. CMGPDT phải được tiến hành bằng con đường CM bạo lực
- Bạo lực CM trong CM giải phóng dân tộc ở Việt Nam: Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm
lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó
đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì
chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con
đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai. Hồ
Chí Minh cho rằng: Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần
dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”.
- Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong CMGPDT: Trước những kẻ thù lớn mạnh, HCM chủ
trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,
Người nói: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định
thua, ta nhất định thắng”. Kháng chiến phải trường kỳ vì đất nước ta hẹp, nước ta nghèo, ta phải
chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị của toàn dân. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Người
khẳng định chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Các thành phố có
thể bị tàn phá song nhân dân ta quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng
lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn.
Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là một quan điểm
nhất quán trong TTHCM. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người động viên sức
mạnh của toàn dân tộc, đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu qủa
cả về vật chất và tinh thần kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng
lợi.

Câu 4: Con đường hình thành tư duy Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Quan
niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của Chủ nghĩa xã hội. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với công cuộc xây dựng đất nước hiện nay?

Đáp án:
1. Con đường hình thành tư duy HCM về CNXH
a. Các nhà kinh điển tiếp cận CNXH
- Các nhà kinh điển của CN M-LN đã làm sáng tỏ bản chất của CNXH từ những kiến giải KTXH,
CTrị, Triết học ở Tây Âu. Từ đó các ông đã thấy rõ vai trò và sứ mệnh của giai cấp VS là đào mồ
chôn CNTB và CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bằng 1 chế độ XH cao hơn, tiến bộ hơn, chế độ CSCN.
Vì thế học thuyết về CNXH của các ông được coi là vũ khí lí luận để g/c VS thực hiện sứ mệnh của
mình và trên cơ sở đó nhân dân tiến bộ thế giới hướng tới 1 XH vì con người.
- Khi CNTB chuyển từ tự do cạnh tranh sang CNĐQ, Lê Nin đã bổ sung, phát triển và hiện thực hóa
học thuyết XHCN KH ở Liên Xô. CNXH KH với tư cách là 1 chế độ XH sau khi được hoàn thiện sẽ
là bước phát triển cao hơn và 1 bước PTriển về chất so với CNTB
b. HCM tiếp cận học thuyết CNXH KH
- HCM cũng tiếp cận CNXH từ những phân tích kinh tế, Ctrị, xã hội, triết học của CN M-L. Cụ thể là
từ học thuyết về sứ mệnh lịch sử của g/c công nhân. Tuy nhiên từ 1 người yêu nước đến với CN M-
L, HCM còn tiếp cận CNXH KH từ lập trường yêu nước và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc
đặc biệt là về phương diện đạo đức.
- Toàn bộ những quan điểm của HCM về CNXH là sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố kinh tế
XH, Ctrị với các nhân tố nhân văn, đạo đức văn hóa tạo ra những nét riêng trong sự kế thừa làm cho
nó phù hợp với điều kiện lịch sử và khát vọng dân tộc VN. Từ bản chất ưu việt của CNXH, HCM
khẳng định tính tất yếu của sự lựa chọn khi đi lên CNXH ở nước ta hoàn toàn phù hợp với xu thế
chung của thời đại và sự phát triển của lịch sử nhân loại.
2. Phân tích quan niệm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của Chủ nghĩa xã hội:
- Theo Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa xã hội có 5 đặc trưng bản chất.
+ Về kinh tế: CNXH là chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn với sự phát triển
khoa học, kỹ thuật, văn hóa, dân giàu, nước mạnh.
+ Nền tảng kinh tế là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất, thực hiện nguyên tắc phân phối
theo lao động.
+ Về chế độ chính trị: Có chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm chủ, Nhà
nước là của dân, do dân, vì dân, dựa trên nền tảng liên minh công-nông-trí thức, do Đảng Cộng Sản
lãnh đạo.
+ Về xã hội: Có hệ thống các quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn bóc
lột, áp bức, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị
và nông thôn, con người có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển giữa xã hội
và tự nhiên.
+ Về lực lượng: Chủ nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây
dựng lấy.
Các đặc trưng này phản ánh bản chất dân chủ, nhân đạo của Chủ nghĩa xã hội, vượt hẳn các chế
độ xã hội trước đó.
3. Ý nghĩa quan niệm của Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh định hướng tư tưởng lý luận cho Đảng ta, nhân dân ta hoàn thiện,
cụ thể hóa mô hình Chủ nghĩa xã hội được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Mô hình đó bao gồm 6 đặc trưng cơ bản. Nêu 6 đặc trưng này: Chủ
nghĩa xã hội là một chế độ xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ;
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư
liệu sản xuất chủ yếu;
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Câu 5: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, các chuẩn mực đạo đức và các
biện pháp xây dựng nền đạo đức mới?

Đáp án:
1. Nguồn gốc hình thành
a, Truyền thống đạo đức của dân tộc VN
- Đạo đức luôn luôn khuyên con ng sống phải có tình nghĩa, thuỷ chung, biết trung biết hiếu.
- Dân tộc VN là dân tộc đề cao đạo lý làm ng, trg đó yêu nước giữ vị trí trung tâm, đứng đầu
bảng giá trị đạo đức, đó chính là tình yêu và lòng trung thành đối với tổ quốc và ND.
- Thông qua lối hành xử của nhg người thân trg gia đình Bác.
b, TT đạo đức phg Đông và phg Tây
- HCM chú trọng, chắt lọc nhg tinh hoa đạo đức nhân loại: Nho giáo, Phật giáo…và tinh thần
của CM DCTS (nhân nghĩa, tương thân của Nho giáo; từ bi của Phật giáo; nhân đạo, bác ái của
Thiên chúa giáo).
c, Quan điểm của Mác, Angghen, Lênin về đạo đức
- HCM ko chỉ tiếp thu nhg quan điểm, TT chính trị của các nhà sáng lập CNXHKH mà còn học
tập nhg tấm gương cao đẹp của họ để lại.
- HCM cho rằng: Với ng phg Đông, 1 tấm gương sáng còn giá trị hơn 100 bài diễn thuyết.
d, Thực tiễn hoạt động CM của HCM
- HCM trải qua 1 quá trình hoạt động đầy bão táp, rất sôi nổi. Người đã chứng kiến sự tàn bạo,
vô đạo đức của chủ nghĩa thực dân trg việc nô dịch các dân tộc thuộc địa.
- Người đã tìm đến 1 học thuyết nhân đạo nhằm giải phóng và phát triển con ng, tạo ra mqh tốt
đẹp giữa ng với ng, 1 học thuyết đấu tranh cho sự tự do, ấm no, hạnh phúc với NDLĐ. Đó là CN M-
L.

2. Nội dung
a. Quan điểm về vai trò của đạo đức cách mạng
- HCM là lãnh tụ quan tâm đến đạo đức, xây dựng đạo đức mới ngay từ rất sớm, được thể hiện
trong bài giảng tập huấn ở Quảng Châu 1927 “Đường cách mệnh”, nêu lên 23 điều về tư cách của
người chiến sĩ cách mạng.
- Nâng cao đặc điểm CM, quyết sach chủ nghĩa cá nhân.
- Mỗi chiến sĩ CM phải có đạo đức CM. Để có được phẩm chất đặc điểm tốt đẹp ấy cần trang bị
cho họ lý luận thực tiễn thực hành đạo đức . Người quan tâm đến cả 2 phương diện.
- HCM đã xây đựng được quan điểm, chuẩn mực đạo đức đúng đắn phù hợp mang tính chiến đấu
cao.
- HCM đã để lại 1 tấm gương đạo đức sáng ngời, tiếp thu đạo đức từ nhiều yếu tố, học thuyết nhất
là tấm gương của LNin.
- HCM coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người CM. Đạo đức là lòng cao thượng của con người.
Đạo đức là động lực giúp chúng ta vượt lên khó khăn.
- Người quan niệm nước là nước của dân, dân là chủ của nước vì vậy trung với nước, hiếu với dân
là thể hiện trách nhiệm dựng nước và giữ nước.
- Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: Nói đi đôi với lám; phải neo gương đạo đức; Xây đi
đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi; Tu dưỡng rèn luyện đạo đức thường
xuyên.
b. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có 4 chuẩn mực đạo đức cách cơ bản.
- Trung với nước, hiếu với dân: Đây là chuẩn mực đạo đức nền tảng, điều chỉnh hành vi giữa cá
nhân với cộng đồng. Trung, hiếu là các khái niệm đạo đức truyền thống, nhưng được Hồ Chí Minh
sử dụng và đưa vào những nội dung mới.
+ Trung với nước: yêu nước, gắn liền với yêu Chủ nghĩa xã hội; trung thành với lý tưởng, con
đường cách mạng mà đất nước, dân tộc đã lựa chọn; có trách nhiệm bảo vệ, xây dựng và phát triển
đất nước.
+ Hiếu với dân: Thương dân, quý dân, lấy dân làm gốc; chăm lo mọi mặt đời sống nhân dân
một cách tự giác; đấu tranh giải phóng quần chúng nhân dân để dân trở thành người chủ và làm chủ.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Đây là chuẩn mực đạo đức trung tâm, điều chỉnh hành
vi ứng xử trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
Phân tích nội hàm các khái niệm:
Cần: Cần cù, siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, biết phân công, tổ chức hoạt động hợp lý, lao động
với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao.
Kiệm: Tiết kiệm, không hoang phí, tiêu dùng hợp lý; không chỉ tiết kiệm của cá nhân mà còn tiết
kiệm của công; tiết kiệm toàn diện: tiền của, nguyên vật liệu, thời gian, sức lao động.
Liêm: Liêm khiết, trong sạch, không tham tiền tài, địa vị, danh vọng.
Chính: Chính trực, ngay thẳng, thật thà đối với mình, đối với người, đối với việc.
Chí công vô tư: Đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết, hy sinh lợi ích cá
nhân vì lợi ích chung, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
Mối quan hệ giữa các khái niệm: Các tiêu chuẩn đạo đức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo
tiền đề cho nhau. Hồ Chí Minh xác định cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần thiết của một con
người, là thước đo trình độ văn minh, tiến bộ của một dân tộc.
- Yêu thương con người: Yêu thương tất cả mọi người, trước hết là người lao động nghèo khổ, bị
bóc lột, áp bức, những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội: trẻ em, người già, phụ nữ; yêu
thương con người trên lập trường của giai cấp công nhân; chăm lo mọi mặt đời sống con người để
con người được thỏa mãn các nhu cầu, lợi ích, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung: Chuẩn mực đạo đức này điều chỉnh hành vi ứng xử
của con người trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc; nó có cơ sở từ bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân, của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung, chuẩn mực đạo đức này bao gồm: Tôn trọng, thương yêu các dân tộc; ủng hộ, giúp
đỡ các dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng; xây dựng khối đoàn kết quốc tế trên cơ sở cùng
có lợi, có lý, có tình.
c. Những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới
* Nói phải đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức:
- Người nhấn mạnh đổi mới với mỗi người thì lời nói phải đi đôi với việc làm mới đem lại hiệu
quả cho bản thân mình và mới tác dụng cho những người khác. Nếu nói nhiều mà làm ít, nói mà
không làm, nói 1 đằng làm 1 nẻo thì chỉ đem lại những hậu quả phản tác dụng. Đó là thói đạo đức giả
của những g/c bóc lột trong lịch sử, phải xây dựng 1 nền đạo đức mới về chất so với nền đạo đức
trước đó.
- Để xây dựng đạo đức mới cho con người, HCM nhấn mạnh phương pháp nêu gương. Người
ta coi đó là phương pháp thiết thực nhất, có sức mạnh thuyết phục to lớn trong việc giáo dục đạo đức
cách mạng cho mọi người.
- Đối với HCM, tấm gương đạo đức có thể hiểu theo nghĩa rộng phải có những tấm gương
chung, riêng, lớn, nhỏ, xa gần chẳng hạn như trong gia đình đó là tấm gương cha mẹ đối với con cái;
trong tổ chức đoàn thể, trong XH .....
- Người coi một nền đạo đức mới chỉ được xây dựng trên cái nền rộng lớn vững chắc khi có
những phẩm chất đạo đức, những chuẩn mực đạo đức đã trở thành thói quen hành vi đạo đức hàng
ngày phổ biến trong toàn XH mà tấm gương đạo đức có ý nghĩa và thúc đảy qúa trình ấy.
** Xây dựng đi đôi với chống phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
- HCM khẳng định muốn xây dựng đạo đức mới, muốn bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức
cách mạng cho hàng triệu con người cán bộ Đảng viên thì cùng với việc xây dựng bồi dưỡng phẩm
chất tốt đẹp phải nhất thiết phải chống những biểu hiện xấu xa, trái với yêu cầu của đạo đức mới.
- Theo Người, việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục
những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới từ trong gia đình, nhà trường và ngoài XH.
- Theo Người để xây và chống có hiệu qủa phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi
nhằm thôi thúc trách nhiệm đạo đức cá nhân để với mọi người phấn đấu, tự bồi dưỡng và nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng. Người đặc biệt nhấn mạnh phải quýet sạc chủ nghĩa cá nhân vì nó
nảy sinh nhiều căn bệnh nguy hiểm như tham ô, lãng phí....
*** Phải tu dưỡng đạo đức bền bỉ suốt đời
- HCM chỉ rõ, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời xa xuống mà nó do đáu tranh rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vậy càng luyện
cang trong.
- Theo HCM việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong
mối quan hệ XH và mối quan hệ qtế.
Kết luận: TTHCM về đạo đức cách mạng là những quan niệm, tư tưởng về 1 nền đạo đức mới
(cách mạng và tiến bộ). Cùng với tư tưởng, tấm gương đạo đức HCM mãi soi sáng cho nhân dân VN
học tập và noi theo đặc biệt là trong xây dựng dân tộc VN ngày càng văn minh như mong ước của
Người.

Câu 6: Luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam.
Đáp án:
I. TTHCM về ĐCSVN
Cơ sở hình thành: TTHCM về ĐCSVN bắt nguồn từ học thuyết của CN Mác về ĐCS mà trực
tiếp là học thuyết về Đảng kiểu mới của g/c công nhân đã được LêNin đưa ra từ những năm đầu
TK20. Nhưng xuất phát từ những điều kiện cụ thể của VN, HCM đã vận dụng sáng tạo để đua đến
việc thành lập Đảng CSVN 1930. Với những luận điểm mới làm phương pháp thêm học thuyết M-
LN về Đảng CS và giải đáp những yêu cầu thực tiễn cách mạng VN đặt ra.
Bên cạnh cơ sở về tư tưởng, TTHCM về ĐCS cần được hình thành trên cơ sở đúc rút những
kinh nghiệm hoạt động tư tươtng của sự thành lập các ĐCS trên thế giới. Bằng năng lực hoạt động tu
tưởng sôi nổi đã học hỏi ở các chiến sĩ cộng sản và các vị lãnh tụ của g/c VS trên thế giới để đưa tới
sự thành lập ĐCSVN.
1. Những luận điểm cơ bản của HCM về ĐCSVN
- ĐCSVN là nhân tố quyết định hàng đầu để đưa cách mạng VN đến thắng lợi
- Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN cũng như truyền thống dân tộc HCM KD.
Nhưng sức mạnh của QCND chỉ được phát huy thành 1 lực lượng to lớn khi được giác ngộ, được tổ
chức, được lãnh đạo theo 1 đường lối đúng đắn.
- Người KĐ CM trước hết phải có Đảng CM để trong thì vận động tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và CMVS mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công cũng như
người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy đúng hướng.
- ĐCS là chính Đảng của giai cấp công nhân, là đơn vi tiên phong, bộ tham mưu của g/c VS, nhân dân
lao động và của cả dân tộc. Đảng luôn tận tâm, tận lực phục sự tổ quốc và nhân dân, trung thành
tuyệt đối với lợi ích của g/c, của nhân dân và của dân tộc. Ngoài lợi ích đó ra thì Đảng không có lợi
ích gi khác.
2. ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước.
- Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN về sự ra đời của các ĐCS là sản phẩm của sự
kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với phong trào công nhân. HCM từ 1 người VN yêu nước đã bắt gặp
ánh sáng của chủ nghĩa M-LN và vận dụng vào TT cách mạng VN. Người khái quát quy luật ra đời
của ĐCSVN là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa M-LN với PTCN và PTYN.
- Sự ra đời của ĐCSVN tất yếu phải dựa vào cơ sở XH là PTYN vì đó là phong trào rộng lớn nhất
chiếm 90% dân số, trong đó có g/c công nhân. Giai cấp công nhân là nòng cốt có vai trò vạch ra
đường lối chủ chương đúng đắn để lãnh đạo PTYNVN giành thắng lợi cuối cùng.
- Từ sự nhận thức cần giác ngộ sức mạnh dân tộc với sức mạnh giai cấp, HCM kiên định cần phải gắn
bó chặt chẽ với PTCN và PTYN. Phải nắm lấy vũ khí sắc bén là CN M-LN và ngọn cờ dân tộc. Mỗi
người cộng sản trước hết phải là 1 người yêu nước, thường xuyên truyền bá chủ nghĩa M-LN, quan
điểm đường lối của Đảng trong PTCN và QCND để thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Vì vậy
ĐCS là Đảng của g/c công nhân đại biểu cho lợi ích của cả dân tộc, lãnh đạo dân tộc thấy được thắng
lợi to lớn.
3. ĐCSVN là đảng của g/c công nhân đồng thời cũng là Đảng của dân tộc.
- Xuất phát từ những quan điểm của chủ nghĩa M-LN cho rằng: không có Đảng siêu g/c mà bất cứ 1
Đảng nào ra đời cũng đều mang tính giai cấp, đều đại diện cho quyền lợi và lợi ích của 1 g/c nhất
định. Do đó HCM chỉ ra ĐCSVN là Đảng của g/c công nhân đồng thời là Đảng của dân tộc VN.
- Bản chất g/c công nhân của Đảng được thể hiện ở chỗ:
+ Nền tảng TT của Đảng là chủ nghĩa M-LN
+ Mục tiêu đường lối của Đảng thực sự vì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc, giải phóng XH và giải phóng con người.
+ Đảng nghiêm túc tuân thủ những nguyên tắc Đảng kiểu mới của g/c công nhân.
- Sự thống nhất giữa bản chất g/c công nhân với tính dân tộc của Đảng thể hiện:
+ Lợi ích của g/c công nhân thốngnhât với lợi ích của dân tộc. Đó là mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền CNXH nhằm giải phóng g/c, xh và con người.
+ Cơ sở XH để thành lập Đảng là được quần chúng nhân dân ủng hộ và thừa nhận.
+ Thành phần kết nạp Đảng không phải chỉ có g/c công nhân mà bao gồm những người ưu tú
với mọi tầng lớp nhân dân có sức mạnh lãnh đạo nhân dân thực hiện lợi ích chung: GPDT, GPCN,
trong đó con người làm nòng cốt. Vì vậy mà Đảng vừa mang tính bản chất g/c, vừa mang tính dân
tộc.
4. HCM khẳng định ĐCSVN phải lấy chủ nghĩa M-LN làm nòng cốt
- CM muốn thành công thì trước hết phải có Đảng lãnh đạo. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa
làm nòng cốt. Trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa như người
không có trí khôn, không có bảy chỉ Nam. Trong thế giới bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa M-LN.
- Khi nhấn mạnh chủ nghĩa M-LN làm nòng cốt, HCM nhấn mạnh phải nắm vững tinh thần và
phương pháp của nó đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kinh nghiệm của các nước để vận
dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của VN. Từ đó người lưu ý phải tách 2 khuynh hướng giáo điều
và xem xét lại chủ nghĩa M-LN.
5. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam fải xây dựng theo những nguyên tắc của
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ: Đây là nguyên tắc tổ chức của Đảng:
+ Theo Hồ Chí Minh dân chủ và tập trung là 2 mặt có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau
theo một nguyên tắc. Dân chủ là đi đến tập trung, dân chủ là cơ sở của tập trung chứ không phải theo
kiểu phân tán tuỳ tiện vô tổ chức. Còn tập trung trên cơ sở dân chủ chứ không phải tập trung quan
liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
+ Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng:
-> Người phân tích 1 người dù tài giỏi máy cũng không thể thấy hết được mọi việc càng không thể
hiểu hết được một vấn đề.
-> Về cá nhân phụ trách Người chỉ rõ việc gì đã bàn bạc kỹ lưỡng rõ ràng cần giao cho một người
phụ trách. Vì vậy tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách phải luôn đi đôi với nhau.
+ Nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Đây là nguyên tắc sinh hoạt của Đảng:
-> Người chỉ rõ một Đảng mà dấu khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng, một Đảng mà có gan
thừa nhận những khuyết điểm của mình, vạch rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi
cách sửa chữa khuyết điểm đó như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn chắc chắn chân chính.
-> Nhấn mạnh tự phê bình và phê bình Người coi giống như việc soi gương rửa mặt hàng ngày phải
thường xuyên tự giác và nghiêm túc thực hiện.
-> Hồ Chí Minh chỉ rõ tự phê bình và phê bình không những là một vấn đề của khoa học c/m mà còn
là của nghệ thuật c/m đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng viên phải khéo dùng. Trong đó mỗi người phải trung
thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, phải có tính đồng chí thương yêu lẫn
nhau tránh những thái độ lệch lạc sai trái như che dấu khuyết điểm của bản thân mình hay lợi dụng
phê bình để nói xấu.
->Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Đây là một nguyên tắc của Đảng kiểu mới, của giai cấp công
nhân trong đó:
* Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đảng, là kỷ luật đối với mỗi cán bộ Đảng viên không phân biệt
cán bộ lãnh đạo cao hay thấp mà mọi Đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng.
* Tự giác: Là thuộc về mỗi cán bộ Đảng viên tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng vì vậy phải
thực hiện chủ trương nghị quyết của Đảng, có như vậy Đảng mới hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của
mình.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đây là một nguyên tắc quan trọng của Đảng kiểu mới của
Lênin:
-> Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như khối
đại đoàn kết toàn dân. Trong đó đoàn kết trong Đảng là nòng cốt cho việc xây dựng khối đoàn kết
toàn dân.
-> Cơ sở để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong đảng là đường lối quan điểm và điều lệ Đảng.
Đây là cơ sở để tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng nhằm biến những
chủ trương của Đảng thành hành động của giai cấp nông dân.
-> Để xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người yêu cầu phải nghiêm túc thực hiện những
nguyên tắc của Đảng kiểu mới, mỗi Đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân, chống tham ô lãng phí.
KL: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới là
sự kế thừa lý luận về Đảng kiểu mới của Lênin vào điều kiện cụ thể của VN. Đó là nguyên tắc cơ
bản có quan hệ chặt chẽ trong quá trình xây dựng một Đảng kiểu mới. ND nguyên tắc này được
Đảng ta tiếp tục phát huy và vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
6. Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
- Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân.
- Đây là một luận điểm lớn và nhất quán khi Người xác định vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ Đảng
viên. Người chỉ rõ: Khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền xây dựng chính quyền và lãnh
đạo chính quyền xây dựng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thì Đảng là Đảng cầm
quyền. Nhưng Đảng phải ý thức được mình là người đầy tớ của dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước trong
đó dân là chủ. Do đó mối quan hệ ở đây là Đảng là cầm quyền nhưng dân là chủ.
- HCM khẳng định là đầy tớ trung thành của nhân dân Đảng có quyền lợi gì riêng ngoài quyền lợi giai
cấp, quyền lợi dân tộc. Vì vậy Đảng phải thường xuyên chăm lo củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với dân. Đảng không ở trên dân, ngoài dân mà ở trong dân, Đảng phải lấy dân làm gốc.
7. Đảng phải thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn để thực sự trong sạch vững mạnh.
- Để xứng đáng là một đảng cách mạng chân chính lãnh đạo sự nghiệp to lớn của dân tộc, một Đảng
vừa là đạo đức vừa là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ danh dự lương tâm của dân tộc và thời đại thì
Đảng phải thường xuyên chăm lo đến việc chỉnh đốn và đổi mới.
- Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về 3 mặt: chính trị, tư
tưởng, tổ chức ; làm cho đội ngũ cán bộ Đảng viên nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu
cầu nhiệm vụ cách mạng.
- Khi nhấn mạnh vài trò cầm quyền của Đảng Người chỉ rõ: quyền lực của Đảng có sức mạnh to lớn
để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới trong lĩnh vực của đời sống. Nhưng nó cũng có sức phá
hoại nếu người cầm quyền thoái hóa biến chất đi ngược với quyền lợi giai cấp nd.
- “Người khẳng định một dân tộc một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn
lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ
không trong sạch nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
KLC:Tư tưởng HCN về ĐCSVN là hệ thống những luận điểm cơ bản về ĐCS dựa trên sự kế
thừa quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, các phong trào cách mạng trên thế giới và những tư tưởng tiến
bộ của nhân loại để vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của VN. ND tư tưởng ấy không chỉ có
vài trò chỉ đạo cho Đảng lãnh đạo c/m giành thắng lợi mà đặc biệt trong giai đoạn hiện nay trước
những biến cố mới của LS, Đảng vẫn không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo nhân dân thực hiện lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự lãnh đạo của ĐCS là nhân tố quyết định thắng lợi của
c/m VN trong thời kỳ lịch sử. Đảng đó là Đảng của dân tộc VN đồng thời là Đảng của mỗi con người
VN.

You might also like