Professional Documents
Culture Documents
Lý thuyết trò chơi – théorie des jeux là môt phân nghành toán học
ứng dụng nhằm mô hình hóa thức hóa các trạng thái xung đột và
phức tạp của chúng. Những nghiên cứu lý luận đầu tiên được bắt
Tuy nhiên lý thuyết này phát triển chủ yếu đã diễn ra trong thời kỳ
giữa hai cuộc Đại chiến, với F. Knight (1921), E. Borel (1923), J.
von Neumann ( 1928). Tác phẩm kinh điển của J. von Neumann
xuất bản năm 1944), trong khi tổng kết lại những nghiên cứu
trong lĩnh vực này, đã đánh dấu một sự chuyển hướng tiếp cận
trong lý thuyết với các môn khoa học xã hội. cuối cùng những nhà
thực sự làm phát triển và phong phú đáng kể lý thuyết nhờ những
định lý chung mới và những tình huống trò chơi mới được nghiên
TÁC
John Forbes
Reinhard Selten
Nash
John Charles
Harsanyi
1920-2000
Hungary, Công dân Mỹ. Ông là Giáo sư danh dự về Quản trị kinh
Trợ lý Trường Đại học tổng hợp Budapest, Hungary, năm (1947-
1948); giảng viên Kinh tế học, Trường Đại học Tổng hợp
cứu, Quỹ Cowles tại Trường Đại học Tổng hợp Yale, 1957; giáo
sư thỉnh giảng, Trường Đại học Tổng hợp Stanford, 1958; thành
viên cao cấp Trường Đại học Quốc gia Australia tại Canberra
bang Wayne, (1961-1963); giáo sư, Trường Đại học Tổng hợp
California tại Berkeley, (1964-1990). Ông là tiến sỹ triết học,
Trường Đại học Tổng hợp Sydney, Australia, 1953. Tiến sĩ khoa
Lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của ông là Lý thuyết trò chơi, Lý
thuyết quyết định, Toán kinh tế, việc sử dụng mô hình lựa chọn
hợp lý trong khoa học chính trị và trong xã hôi học, đạo đức học
Jonh F. Nash (con) sinh ngày 13 tháng 6 năm 1928 tại Bluefield,
Tây Virginia (Mỹ). Ông học Trường Tổng hợp Carnegie- Mellon.
Breslan (Đức). Học đại học và thạc sỹ tại Trường Tổng hợp
sống đời thường tới chính trị học bậc cao, được đặc trưng hóa
bởi cái mà các nhà kinh tế học gọi là các tương tác chiến lược.
khi có một tương tác chiến lược, kết quả đối với một chủ thể
không chỉ phụ thuộc vào những gì chủ thể ấy làm, mà còn phụ
thuộc ở mức độ lớn vào việc các chủ thể khác hành động và
phản ứng như thế nào. Một hãng tiến hành giảm giá để thu hút
thêm khách hàng sẽ không thành công trong chiến lược này nếu
các hãng lớn khác trong thị trường cũng sử dụng đúng chiến
lược đó. Viêc một đảng phái chính trị có thành công hay không
trong viên thu hút thêm những cử tri ủng hộ mình bằng cách đề
xuất những mức thuế thấp hơn hay chi tiêu nhiều hơn, phụ thuộc
vào những đề xuất của các đảng khác. Thành công của một ngân
hàng trung ương đang cốt gắng chống lạm phát bằng cách duy trì
tỷ giá cố định phụ thuộc vào các quyết định đối với chính sách tài
khóa cũng như vào nhũng phản ứng trên các thị trường lao động
và hàng hóa.
Một ví dụ về kinh tế đơn giản về tương tác chiến lược là khi hai
hãng đang cạnh tranh với nhau trên cùng một thị trường về cùng
một số sản phẩm. Nếu một hãng tăng sản lượng của mình lên, thì
điều này sẽ làm giá thị trường giảm xuống và do đó làm giảm lợi
nhuận của hãng kia. Hãng kia đương nhiên sẽ đối phó, chẳng
hạn bằng cách cũng tăng sản lượng và nhờ đó duy trì được thị
phần của mình, nhưng với phí tổn tiếp tục làm giảm giá thị
trường. Vì vậy, hãng thứ nhất phải dự đoán được phản ứng này
cũng như các phản ứng tiếp theo có thể có khi nó quyết định tăng
quy mô sản xuất . Liệu chúng ta có thể dự đoán được các bên sẽ
lựa chọn những chiến lược như thế nào trong tình huống tương
tự?
Ngay từ những năm 1830, nhà kinh tế học người Pháp, Auguste
Cornot, đã tiến hành nghiên cứu về kết cục có thể sảy ra khi hai
hãng cạnh tranh trên cùng một thị trường. Rất nhiều những nhà
kinh tế học và các nhà khoa học xã hội sau này đã cố gắng phân
tích hậu quả của tương tác chiến lược dưới những hình thái cụ
thể khác. Tuy nhiên, trước khi lý thuyết trò chơi ra đời, không có
một hệ thống công cụ nào giúp các học giả tiếp cận tới một
phương pháp chung nhưng chặt chẽ trong việc phân tích các
Ngày nay tình hình đã hoàn toàn khác, Các tạp chí khoa học, các
giáo trình tiên tiên đầy ắp các phân tích dựa trên lý thuyết trò
chơi, vì lý thuyết này đã được xây dựng bởi những người được
Giải thưởng Nobel kinh tế học của năm 1994 là Jonh C. Harsanyi,
các bên tham gia không được đưa ra những thỏa thuận ràng
buộc nhau. Ngay cả trong những trò chơi hết sức phức tạp với
nhiều bên tham gia và nhiều chiến lược được sử dụng, thì vẫn có
thể miêu tả được kết cục theo một cái gọi là cân bằng Nash. Jonh
không một người chơi nào có thể cải thiện được kết cục của
mình bằng cách lựa chọn một chiến lược khác, khi tất cả những
người chơi đều có những dự đoán chính xác về chiến lược của
nhau. Ngay cả khi mỗi bên tham gia hành động một cách hợp lý
xét theo phương diện cá nhân, cân bằng Nash chỉ ra rằng tương
tác chiến lược có thể thường xuyên đem đến một kết quả tổng
hợp không hợp lý: chiến tranh thương mại hoặc phát thải ô nhiễm
quá mức đe dọa môi trường toàn cầu là những ví dụ trên quy mô
quốc tế. Cũng cần nói thêm rằng, cân bằng Nash cũng hết sức
quan trọng trong khuôn khổ hệ sinh thái tiến hóa - nó miêu tả
chọn lọc tự nhiên như là một tương tác chiến lược trong các loài
và giữa chúng.
Trong nhiều trò chơi, người chơi không có thông tin đầy đủ về
mục tiêu của nhau. Thí dụ, nếu chính phủ muốn nới lỏng quản lý
đối với một hãng, nhưng lại không biết gì về tình hình chi phí của
hãng, trong khi ban quản lý hãng lại nắm rõ thông tin này, ta có
một trò chơi với thông tin không đầy đủ. Trong ba bài báo được
công bố vào cuối thập kỷ 60, Jonh Harsanyi đã chỉ ra khả năng
mở rộng sự phân tích cân bằng để giải quyết khó khăn này, khó
khăn mà các nhà lý thuyết trò chơi cho tới lúc đó vẫn coi là không
thể vượt qua. Cách tiếp cận của Harsanyi đã đặt nền tảng phân
tích cho một số lĩnh vực nghiên cứu sinh động, trong đó có kinh
tế học thông tin, môn học bắt đầu từ một thực tế rằng những
người ra quyết định khác nhau, trên một thị trường hoặc trong
một tổ chức, thường có quyền tiếp cận tới những thông tin không
giống nhau. Những lĩnh vực này bao gồm rất nhiều vấn đề, từ
những hợp đồng giữa các cổ đông và ban quản lý một công ty,
cho đến các thể chế trong các nước đang phát triển.
Một vấn đề liên quan đến cân bằng Nash là trong ngững trò chơi
phi hợp tác có thể có nhiều cân bằng. điều đó có thể gây khó
khăn cho cả những người chơi lẫn nhà phân tích đứng ngoài
cuộc trong việc dự đoán kết quả. Thông qua các khái niệm về “
hoàn hảo” của mình. Reinhard Selten đã đặt nền tảng cho
chương trình nghiên cứu nhằm cố gắng loại bỏ các cân bằng
không khả thi hoặc không hợp lý. Trên thực tế, có những cân
bằng Nash có thể dựa trên những đe dọa hoặc hứa hẹn nhằm
khiến cho những người chơi khác lựa chọn một số lựa chọn một
số chiến lược nhất định. Những đe dọa hứa hẹn này thường là
rỗng, vì việc thực hiện chúng không phải là mối quan tâm của
người chơi, nếu một tình huống phát sinh mà trong đó anh ta đã
đe dọa thực hiện chúng. Bằng cách loại bỏ các đe dọa hoặc hứa
hẹn “rỗng” này, Selten có thể đưa ra những dự đoán vững chắc
hơn về kết cục dưới hình thái của cái gọi là những cân bằng hoàn
hảo.
Những đóng góp của Selten có tầm quan trọng vô cùng lớn trong
phân tích khía cạnh động học của tương tác chiến lược, chẳng
hạn giữa các hãng đang cố gắng chiếm lấy những địa vị thống trị
trên thị trường, hoặc các chủ thể tư nhân và một chính phủ đang
cố gắng thực thi một chính sách nào đó. Phân tích các trò chơi
với thông tin không đầy đủ là công lao của Jonn Harsanyi và nó
có tầm quan trọng vô cùng lớn lao đối với kinh tế học thông tin.
Lý thuyết trò chơi của John Nash đã có những tác dụng hết sức
sâu sắc đến con đường phát triển của lý thuyết kinh tế trong hơn
Khái niệm hoàn hảo của Renhard Selten trong phân tích cân
bằng đã mở rộng đáng kể việc ứng dụng lý thuyết trò chơi phi
hợp tác.