You are on page 1of 10

1.1.

Quá trình hình thành và phát triển của đồng USD


Đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ. Hiện nay trên thế giới
ngoài Hoa Kỳ, còn có một vài quốc gia khác cũng dùng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ
chính thức của mình và nhiều quốc gia khác cho phép dùng đôla Mỹ trong thực tế
(nhưng không chính thức).
1.1.1. Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
Cả thế giới sử dụng chế độ bản vị vàng. USD mới xuất hiện như đồng tiền của
một quốc gia.
1.1.2. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, chế độ bản vị vàng sụp đổ. Đến khi Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai kết thúc, đồng USD trở thành đồng tiền chủ chốt của thế
giới
1.3.3. Giai đoạn từ 1973 – 1980
Các giao dịch quốc tế dựa trên chế độ tỷ giá thả nổi mới được hình thành. Đồng
USD trở về với vai trò là một đồng tiền quốc gia, nhưng vẫn là một đồng tiền
mạnh.
1.3.4 Giai đoạn đỉnh cao 1980 – 1985
Trong giai đoạn này, USD liên tục tăng giá.
1.3.5 Sau cuộc khủng bố 11/9 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho đến
nay
Đồng USD liên tục mất giá sau cuộc khủng bố nhắm vào nước Mỹ và tiếp tục giảm
mạnh sau cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng hiện nay đang có xu hướng tăng trở
lại

PHẦN II: VAI TRÒ (VỊ THẾ) CỦA ĐỒNG USD ĐỐI VỚI
NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI

2.1 Vai trò của đồng USD trong nền kinh tế thế giới qua các giai đoạn
2.1.1. Trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất
Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế thế giới vận hành theo hệ
thống bản vị vàng (tiền tệ của mỗi nước được qui đổi ra vàng theo một tỷ lệ được định
rõ). Hệ thống này dẫn tới các tỷ lệ hối đoái cố định - tức là, tiền tệ của mỗi nước có
thể đổi ra tiền của mỗi quốc gia khác theo một tỷ giá không thay đổi xác định trước.
Tỷ giá hối đoái cố định đã khuyến khích thương mại thế giới phát triển bằng việc xóa
đi tính không chắc chắn liên quan tới các tỷ giá dao động, nhưng lại có hai nhược
điểm. Thứ nhất, dưới hệ thống bản vị vàng, các nước có thể không kiểm soát được các
mức cung tiền của chính mình; đúng hơn, mức cung tiền của mỗi nước được xác định
bởi dòng tiền vàng được sử dụng để quyết toán các khoản nợ của mình với những
nước khác. Thứ hai, chính sách tiền tệ ở tất cả các nước bị ảnh hưởng mạnh bởi nhịp
độ sản xuất vàng. Trong giai đoạn này đồng USD chỉ đơn thuần đóng vai trò là 1 đồng
tiền quốc gia.
2.1.2 Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai
Các quốc gia đã cố gắng phục hồi lại hệ thống bản vị vàng, nhưng nó đã sụp
đổ hoàn toàn trong cuộc Đại khủng hoảng của những năm 1930. Sự sụp đổ này đã là
cho quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế trở nên rối ren, dẫn đến sự hình thành các liên
minh tiền tệ do một số nước tư bản đầu sỏ cầm đầu. Khu vực đồng đô la do Mỹ cầm
đầu tồn tại bên cạnh các “đối thủ không hơn kém” là khu vực đồng Bảng Anh và khu
vực đồng Phơ-răng Pháp. Nhưng sau Đại chiến thế giới lần thứ II, Mỹ trở thành một

1
cường quốc mạnh nhất thế giới về ngoại thương, về tín dụng quốc tế và là nước có dự
trữ vàng lớn nhất thế giới (chiếm khoảng ¾ tổng dự trữ vàng của toàn bộ thế giới tư
bản). Đây chính là những yếu tố tạo nên thế mạnh cho đồng đô la Mỹ trên trường
quốc tế, đưa đồng tiền này “lên ngôi” đồng tiền chủ chốt của thế giới.
Tháng 7 năm 1944, Hoa Kỳ đã đứng ra triệu tập Hội nghị tiền tệ - tài chính
quốc tế tại thành phố Bretton-woods với sự tham gia của 44 nước để thoả thuận về
việc thiết lập các quan hệ tài chính tiền tệ quốc tế mới cho thời kỳ sau chiến tranh thế
giới lần II. Được gọi là chế độ tiền tệ Bretton-woods. Nội dung chủ yếu của chế độ
tiền tệ Bretton-woods:
- Thừa nhận USD là đồng tiền chuẩn, làm trụ cột cho chế độ tiền tệ này. Nó
được coi là phương tiện dự trữ và thanh toán quốc tế, đóng vai trò chủ chốt trong các
quan hệ tiền tệ, thanh toán và tính dụng quốc tế. Nhiều thập kỷ qua, đồng đôla vẫn là
đồng tiền các nước trên thế giới có xu hướng sử dụng trong kinh doanh. Hầu hết các
ngân hàng trung ương trên thế giới giữ phần lớn lượng dự trữ ngoại tệ bằng đồng
đôla, mặt khác, hầu hết các hàng hóa được giao dịch trên toàn cầu (như dầu lửa) cũng
được định giá bằng đồng tiền của nước Mỹ này.
- Việc sử dụng USD trong thanh toán quốc tế và các quan hệ đối ngoại khác
không hạn chế, các đồng tiền của các nước khác phải liên hệ chặt chẽ với USD theo
chế độ tỷ giá cố định.
- Các nghiệp vụ về vàng được thực hiện theo 1 giá chính thức là 35 USD = 1
ounce vàng. Đô la Mỹ được tự do chuyển đổi ra vàng theo giá đó. Ngân hàng trung
ương của các nước thành viên phải can thiệp vào thị trường vàng để giữ giá vàng
chính thức luôn luôn ở mức 35 USD = 1 ounce vàng.
- Các nước phải thực hiện ngay các biện pháp thiết thực để loại trừ chế độ
kiểm soát và quản chế ngoại hối, đồng thời thiết lập chế độ tiền tệ tự do chuyển đổi.
- Thiết lập một tổ chức tiền tệ quốc tế nhằm điều chỉnh các quan hệ tiền tệ - tài
chính quốc tế theo những nguyên tắc của chế độ tiền tệ Bretton-woods.
2.1.3Giai đoạn từ năm 1973 đến những năm 1980
Qua 2 lần phá giá USD, năm 1973, Mỹ và các quốc gia khác đã chấp thuận
cho phép tỷ giá hối đoái thả nổi. Chế động tiền tệ Bretton Woods sụp đổ. Hệ thống
tiền tệ thế giới hình thành nên 1 số chế độ tiền tệ mới:
- Chế độ tiền tệ Gia-mai-ca ra đời trên cơ sở Hiệp định được ký kết giữa các
nước thành viên IMF tại Gia-mai-ca vào những năm 1976-1978. Chế độ tiền tệ này
thừa nhận SDR là cơ sở của chế độ tiền của các nước. SDR trở thành một đơn vị tiền
tệ tính toán quốc tế mới. Giá trị của nó được xác định theo phương pháp rổ tiền tệ, lúc
đầu rổ tiền tệ gồm 16 đồng tiền mạnh nhất của thế giới. Hiện nay, tham gia “rổ tiền
tệ” là 5 đồng tiền mạnh của những quốc gia có tiềm lực về kinh tế, tài chính. Như vậy,
chế độ tiền tệ Gia-mai-ca thực chất là chế độ bản vị SDR.
- Chế độ tiền tệ châu Âu: Chế độ tiền tệ châu Âu là một chế độ tiền tệ quốc tế
khu vực. Chế độ tiền tệ này ra đời trong bối cảnh mâu thuẫn giữa ba trung tâm thế lực
quốc tế trong lĩnh vực thương mại, tiền tệ, tài chính ngày càng trở nên gay gắt. Nó
được xây dựng trên cơ sở Hiệp định tiền tệ do các nước trên lục địa châu Âu ký kết
vào tháng 3-1979. Chế độ tiền tệ châu Âu dựa vào ECU - một đơn vị tiền tệ quốc tế
khu vực của các nước châu Âu. Giá trị của ECU được đảm bảo bằng dự trữ vàng và
ngoại hối của các nước thành viên.

2
USD lại trở về vị trí đồng tiền quốc gia. Nhưng do tiềm lực kinh tế của Mỹ rất
lớn, cho nên USD vẫn còn là một đồng tiền mạnh, đồng thời nó vẫn chiếm 1 tỷ trọng
đáng kể trong quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia của các nước.
2.1.4. Giai đoạn 1980 – 1985
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1980 đến tháng 3 năm 1985 đồng USD
không ngừng tăng giá, tỷ giá danh nghĩa của USD tăng gần 50% và tỷ giá thực cũng
tăng với một tỷ lệ tương tự. Một trong những nguyên nhân chính khiến cho đồng USD
lên giá mạnh là vì Chính phủ Mỹ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng nới lỏng
chính sách tài khoá dẫn đến thâm hụt ngân sách (từ 16 tỷ $ năm 1979 lên 204 tỷ $
năm 1986). Tuy nhiên việc USD liên tục lên giá làm phát sinh nhiều mối quan tâm
lớn đó là ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu và gây thâm hụt cán cân vãng lai.
2.1.5. Sau sự kiện khủng bố 11/09 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cho
đến nay
Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ và sự ra đời chính thức của đồng Euro, đồng
USD liên tục mất giá so với các các ngoại tệ khác và vàng (trong 05 năm qua, đồng
USD đã mất giá 25%). Đồng euro ngày càng được các công ty cũng như các chính
phủ từ Trung Quốc đến Trung Đông chấp nhận nhiều hơn như một ngoại tệ dự trữ .
Đồng đô la Mỹ có lúc trồi sụt, gây thiệt hại kinh tế, mất an toàn cho nền tài chính tiền
tệ các nước và nhiều nước chủ trương thay thế vị trí độc tôn của USD bằng euro. Theo
Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF), dự trữ ngoại tệ toàn cầu trong quí 1 -2006 xấp xỉ 4,34
ngàn tỷ USD. Trong số đó, đồng USD chiếm 66,3% và đồng euro 24,8%. Kinh tế toàn
cầu, vốn đang bị tác động bởi cuộc khủng hoảng thị trường tài chính và sự suy giảm
kinh tế của Mỹ, hiện đang đứng trước mối nguy hiểm, với đồng USD giảm giá và
vượt khỏi tầm kiểm soát. Thêm vào đó là mối lo sợ các ngân hàng trung ương đột
ngột tung nguồn dự trữ USD không lồ của họ ra để mua các phương tiện dự trữ khác
thay thế và các nước Trung Đông có thể từ bỏ chế độ tỷ giá gắn kết với USD.
Sự kiện 11/9/2001 và cuộc chiến chống khủng bố đã tác động xấu đến cán cân
thanh toán của Mỹ, mà đỉnh cao là đổ vỡ tín dụng tại Mỹ và dẫn đến khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Chính sự mất cân đối ngân sách kỷ lục tại Mỹ và sự nổi lên của các
nền kinh tế mới nổi đã khiến cho USD mất giá 16% tính từ tháng 3/2009 và trên 20%
tính từ năm 2002 và còn tiếp tục xuống giá. Tỉ trọng USD trong dự trữ thế giới giảm
từ 72% vào năm 1999 (đồng euro bắt đầu lưu hành) xuống còn 62,8% vào quí 2/2009.

Trong thời gian qua, thị trường tiền tệ thế giới có nhiều biến động với
việc đồng USD giảm giá kỷ lục so với các đồng tiền chủ chốt cũng như so với các
đồng tiền châu Á khác. Trong giai đoạn từ tháng 7 đến tháng 9/2007, giá trị đồng
USD đã giảm 5,4% so với đồng Euro và giảm 6,8% so với đồng Yen Nhật. Kể từ đầu
năm 2007 tới nay, đồng USD nhìn chung đã mất giá khoảng 16%.

Đồng USD liên tục xuống dốc không phanh trong những tháng cuối năm
2007. Đồng USD đã thực sự đạt được một dấu mốc khi nó vượt cả mức thấp nhất so
với đồng Mark Đức hồi đầu năm 1995, tương đương với khoảng 1,455-1,457
USD/Mark và đồng Euro tăng lên với 1 Euro đổi được 1,48 USD. Đồng đôla Canada
(CAD) đã tăng lên mức cao nhất trong gần nửa thế kỷ qua so với đồng USD, tương
đương với 1 CAD đạt xấp xỉ 1,05 USD. Đồng Bảng Anh đã có lúc tăng lên 2,0317
USD/bảng Anh - mức cao nhất kể từ năm 1981.

3
Trên các thị trường châu Á, đồng USD liên tục giảm giá so với đồng baht Thái
Lan và đạt ngưỡng 34 Baht/USD - mức thấp nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài
chính năm 1997-1998. Kể từ đầu năm 2007, giá của đồng Baht đã tăng 7%, sau khi
tăng 12% vào năm 2006. Đồng Peso của Philippines cũng đã tăng lên mức cao nhất
trong 7 năm qua so với đồng USD, trong khi đồng đôla Singapore tăng cao nhất kể từ
10 năm nay. Tại Ấn Độ, đồng Rupee tăng 12% so với đồng USD trong năm. Còn
đồng Rupiah của Indonesia, đồng Won của Hàn Quốc, đồng đôla Đài Loan đều tăng
mạnh so với đồng USD. Đồng Nhân dân tệ (NDT) của Trung Quốc liên tục lập các
mức cao kỷ lục mới trong nhiều phiên giao dịch liên tiếp. Nếu tính từ đầu năm đến
nay, đồng NDT đã 67 lần lập mức cao kỷ lục và tăng tổng cộng trên 4%. Đồng đôla
Australia (AUD) cũng đã tăng lên 0,9023 USD/AUD - mức cao nhất trong 23 năm
qua. Các nguyên nhân khiến cho đồng USD giảm giá:Có nhiều nhân tố ảnh hưởng
đến giá các đồng tiền, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của chính sách lãi suất trên khắp thế
giới, sự mất cân đối thương mại, những điểm khác biệt về tăng trưởng kinh tế và
chính sách kiểm soát tiền tệ.

- Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai
của Mỹ và quyết định giảm lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm
2007. Và gần đây là những lo ngại về lĩnh vực cho vay thế chấp yếu, gây tác động tiêu
cực đến nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Mất cân bằng trong cán cân thanh toán là
vấn đề đáng lo ngại trong vòng 10 năm trở lại đây đối với nhiều nước. Theo thống kê
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), mức thâm hụt cán cân buôn bán của Mỹ trong năm
2006 tương đương 6% GDP, mức cao chưa từng có trong lịch sử nước này. Trong khi
đó, một số nước châu Á như Trung Quốc và Nhật Bản lại đạt thặng dư thương mại
ngày càng lớn. Năm 2006, thặng dư thương mại của Nhật Bản đạt 3,9% GDP, trong
khi con số này của Trung Quốc là 9,4% GDP. Các số liệu Hải quan Trung Quốc cũng
cho biết khối lượng thặng dư mậu dịch của nước này trong 9 tháng đầu năm đã lên tới
185,7 tỷ USD, vượt qua cả số lượng thặng dư mậu dịch của cả năm 2006 (177,47 tỷ
USD). Dự đoán thặng dư thương mại năm 2007 của Trung Quốc sẽ tăng lên 250 - 300
tỷ USD. Xu hướng thâm hụt thương mại kéo dài đã tạo nên áp lực khiến đồng USD
tiếp tục giảm giá.

- Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ.
Nhờ vào việc đồng Euro có sức mua mạnh, các doanh nghiệp trong khu vực Eurozone
và Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ. Năm 2000,
khi người ta bắt đầu đề cập tới vấn đề đồng Euro yếu, châu Âu đã đầu tư 125 tỷ USD
vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn 122 tỷ USD và
trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân trong lĩnh vực
này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ USD năm 2000
lên 127 tỷ USD năm 2006, và trong 6 tháng đầu năm 2007, con số này cũng đã đạt 85
tỷ USD. Như vậy, tính từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có xu hướng chảy từ Mỹ
sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn cầu khi
mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ là 85 tỷ USD, trong khi
lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm vào đó là cán cân tài khoản
vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng tài chính phải chịu sức ép
không thuận lợi của việc đồng USD mất giá.

Đồng USD ngay lập tức bị ảnh hưởng sau khi vài quan chức ngân hàng Trung Quốc
phát biểu rằng Trung Quốc có thể thay đổi cơ cấu tiền tệ của kho dự trữ ngoại hối

4
khổng lồ. Tính đến cuối tháng 9/2007, dự trữ ngoại tệ của quốc gia này đã lên tới
1.430 tỷ USD, tăng 45,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhiều đối tác làm ăn của Trung
Quốc cho rằng các kho dự trữ ngoại tệ này tăng từ 40-50 tỷ/tháng trong 6 tháng đầu
năm nay khiến cho đồng NDT bị đánh giá thấp hơn giá trị thật của nó.

- Tiền tệ luôn có xu hướng di chuyển qua biên giới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn.
Bởi vậy, tiền tệ sẽ tăng khi thị trường kỳ vọng vào triển vọng kinh tế khả quan và
giảm khi kinh tế suy giảm. Sự mạnh lên hay yếu đi về kinh tế được thể hiện trong thu
nhập từ trái phiếu và lãi suất trái phiếu của quốc gia đó. Vào thời điểm này, thị trường
cho rằng nền kinh tế Mỹ đang phát triển chậm lại. Bởi vậy, các nhà đầu tư đã liên tục
từ đồng USD sang các loại tiền tệ khác cho lãi cao hơn.

- Tuy nhiên, các nhân tố kinh tế vĩ mô này cũng chưa giải thích toàn bộ các vấn đề
trên thị trường ngoại hối. Theo quan điểm của IMF và bộ trưởng tài chính các nước
G7, sự định giá quá thấp của các đồng tiền châu Á, đặc biệt là đồng NDT của Trung
Quốc và đồng Yen Nhật, là nguyên nhân chính khiến đồng tiền chủ chốt trong thanh
toán quốc tế này giảm giá. Để hạn chế sự mất cân bằng thương mại hiện nay, Trung
Quốc và Nhật Bản cần phải kích thích tiêu dùng nội địa và không định hướng chính
sách tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu. Để làm được điều đó, không có gì thích
hợp hơn là áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi để cho đồng nội tệ tự định giá. Đối
với Trung Quốc, biện pháp này không những có thể giúp họ kiềm chế xuất khẩu và
hạn chế những tác động do lạm phát gây ra, mà việc tăng giá đồng NDT còn tạo điều
kiện cho người dân Trung Quốc có thể mua được nhiều hàng hóa của Mỹ và châu Âu
hơn. Kịch bản này cũng nên được Nhật áp dụng và nếu điều đó thành hiện thực, thâm
hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm bớt và đồng USD khi đó sẽ có thể tăng giá trở lại.

Những tác động tiềm tàng: Đồng USD mất giá đang là bài toán hóc búa cho giới
quản lý các kho dự trữ ngoại tệ lớn của thế giới. Đối với các nước, như Trung Quốc
và các nước vùng Vịnh vốn gắn tỷ giá đồng nội tệ với đồng USD, thì sức ép của nguy
cơ lạm phát có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng cho kinh tế và xã hội. Tuy nhiên,
bất kỳ động thái nào nhằm gỡ bỏ mối liên hệ với đồng USD cũng sẽ ảnh hưởng lên thị
trường tiền tệ, gây tổn thất về giá trị tài sản cho các kho dự trữ ngoại tệ của các nước
này. IMF cho biết các kho dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu hiện tăng từ 2.000 tỷ USD
trong quý II/2002 lên 5.700 tỷ USD đến quý II/2007. Hơn thế nữa, 2/3 trong tổng số
quỹ dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới nằm trong tay 6 nền kinh tế như Trung Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Nga và Singapore.

Theo các chuyên gia kinh tế, việc nhiều đồng tiền của các nước châu Á tăng giá so với
đồng USD trong năm nay đã khiến cho hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt đỏ hơn và
lượng ngoại tệ dự trữ bị giảm giá trị. Giá trị đồng USD sụt giảm sẽ khiến cho các mặt
hàng xuất khẩu của các nước châu Á trở nên đắt đỏ hơn đối với người tiêu dùng ở
Mỹ. Ấn Độ và Thái Lan là những nước đáng lo ngại nhất, vì tỷ giá hối đoái sẽ tạo lợi
thế cho hàng hóa của Trung Quốc so với hàng hóa của hai nước này trên thị trường
thế giới. Tuy nhiên, chính phủ các nước châu Á không quá lo ngại đối với vấn đề giá
cả hàng hóa xuất khẩu đắt đỏ hơn, một phần vì đa số các đồng tiền trong khu vực đều
tăng giá so với đồng USD. Các chuyên gia cho rằng, sự sụt giảm lượng hàng hóa xuất
khẩu sang Mỹ có thể bù lại bằng việc xuất khẩu sang châu Âu, châu Phi và Mỹ
Latinh. Bên cạnh đó, chính phủ các nước châu Á được hưởng lợi từ việc đồng nội tệ
tăng giá vì điều này sẽ giúp họ mua dầu mỏ - được bán với giá tính bằng USD - rẻ
hơn. Nhiều nước cũng mua được hàng hóa của Mỹ với giá rẻ hơn, giúp những nước

5
phụ thuộc vào nhập khẩu như Singapore có thể bù đắp lại sự gia tăng giá cả của một
số mặt hàng nhập khẩu.

Đồng USD yếu khiến các mặt hàng được giao dịch bằng USD như dầu thô trở nên rẻ
hơn đối với những khách hàng sử dụng đồng tiền có giá trị hơn và do đó khuyến khích
nhu cầu tiêu thụ. Điều này giúp bù đắp giá dầu đang ở mức cao kỷ lục trên thị trường
thế giới. Tuy nhiên, đồng USD yếu sẽ làm giảm giá trị doanh thu từ xuất khẩu dầu của
các nước khai thác dầu thô lớn. Thực tế này khiến Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu
mỏ (OPEC) không vội vã tăng sản lượng một lần nữa, mặc dù nguồn cung trên thị
trường thế giới đang eo hẹp. Cho đến nay, nền kinh tế Khu vực đồng Euro vẫn chưa
phải hứng chịu tác động của sự bất ổn về tỷ giá hối đoái, nhưng các rủi ro đang tăng
lên. Đồng USD tiếp tục giảm giá là mối lo ngại lớn bởi nó làm cho hàng hóa và các
dịch vụ của châu Âu trở nên đắt đỏ hơn so với hàng hóa và dịch vụ của Mỹ. Nhiều
nhà hoạch định chính sách châu Âu đang lo ngại đồng USD sẽ kìm hãm đà tăng
trưởng của Eurozone.

Đồng USD yếu sẽ khiến hàng hóa Mỹ cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Thâm
hụt thương mại của Mỹ sẽ giảm khi xuất khẩu tăng, hạn chế ảnh hưởng của thâm hụt
đối với tăng trưởng. Đồng USD yếu cũng giúp cải thiện tình hình việc làm vì các công
ty đa quốc gia sẽ chọn thuê người Mỹ với chi phí thấp hơn. Khi đồng USD giảm giá,
hàng nhập khẩu sẽ đắt lên, đẩy giá cả đắt đỏ lên theo và như vậy sức ép lạm phát sẽ
tăng. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng nền kinh tế quá lớn và cạnh tranh đến
mức phần lớn các công ty không có cơ hội tăng giá bán.

2.2Vai trò của đồng USD so với các đồng tiền khác Một số quốc gia ngoài Hoa Kỳ
sử dụng đồng đô la Mỹ làm đơn vị tiền tệ chính thức như Ecuador, El
Salvador và Đông Timor, các cựu thành viên trong nhóm Lãnh thổ Tín nhiệm Các đảo
TháiBìnhDương (TrustTerritoryofthePacifi Islands), kể cả Palau, Micronesia và Quần
đảoMarshall... Thêmvàođó,đơnvị tiền địa phương của Bermuda, Bahamas, Panama và
một số quốc gia khác có thể hoán đổi với đồng USD với tỷ giá 1:1. Đơn vị tiền tệ
của Barbados được hoán đổi với tỷ giá 2:1. Argentina đã dùng tỷ giá hoán đổi 1:1
giữa đồng peso Argentina và đô la Mỹ từ 1991 đến 2002. Tại Lebanon, 1 đô la được
đổi thành 1500 lira Lebanon, và cũng có thể được sử dụng để mua bán như đồng lira.
Tại Hồng Kông, đồng đô la Mỹ và đô la Hồng Kông đã được ràng buộc với giá
HK$7,8/USD từ năm 1983. Đồng Pataca của Macao, được ràng buộc với đô la Hồng
Kông với giá MOP1,03/HKD, được gián tiếp hoán đổi với đô la Mỹ với tỷ giá khoảng
MOP8/USD. Đồng Nhân dân tệ của CHND Trung Hoa đã được ổn định giá với đô la
Mỹ từ giữa thập niên 1990 với giá Y8,28/USD cho đến ngày 21 tháng 7,
2005.Malaysia cũng đã ổn định giá của đồng ringgitt với giá MR3,8/USD từ 1997.
Ngày 21 tháng 7, 2005, cả hai quốc gia đã thả giá tiền họ để theo giá thị trường.

Đồng đô la còn được dùng làm đơn vị tiêu chuẩn trong các thị trường quốc tế
cho các mặt hàng như vàng và dầu hỏa. Ngay cả các công ty ngoại quốc ít buôn bán
tại Hoa Kỳ, như Airbus, liệt kê và bán sản phẩm của họ bằng đô la (tuy trong trường
hợp này một số người cho rằng lý do là vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang thống trị
ngành hàng không).
Vào thời điểm này, đồng đô la Mỹ vẫn là đơn vị tiền dự trữ hàng đầu, hầu
hết trong đơn vị $100. Phần đông tiền giấy Hoa Kỳ đang ở ngoài Hoa Kỳ. Theo kinh
tế gia Paul Samuelson, nhu cầu cho tiền đô la cho phép Hoa Kỳ giữ sự thiếu hụt trong
xuất-nhập khẩu mà không dẫn đến sự suy sụp của đồng tiền.

6
Không lâu sau khi đồng euro (€; mã ISO 4217 EUR) được ra mắt như tiền mặt
trong năm 2002, đồng đô la đã bị từ từ giảm giá trên thị trường quốc tế. Sau khi đồng
euro lên giá trong tháng 3 năm 2002, việc thiếu hụt trong chi tiêu và thương mại của
Hoa Kỳ ngày càng gia tăng. Đến Giáng Sinh năm 2004 đồng đô la đã tụt giá thấp nhất
đối với các đơn vị tiền quan trọng khác, đặc biệt là đồng euro. Đồng euro lên giá cao
hơn $1,36/€ (dưới 0,74€/$) lần đầu tiên cuối năm 2004, khác hẳn với đầu
năm 2003 ($0,87/€). Bắt đầu từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 6 năm 2005 đồng đô la lại
lên giá nhanh chóng so với đồng euro sau khi nền kinh tế các nước châu Âu đang ứ
đọng và Hiến pháp Liên minh châu Âu không được phê chuẩn trong cuộc trưng cầu
dân ý ở hai nước Pháp và Hà Lan. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp tại các nước sử dụng
euro và sự phát triển kinh tế bị chậm lại tại các nước thuộc Liên Minh, đồng euro có
thể bị xuống giá so với đồng đô la, tuy đồng euro vẫn giữ sức mạnh.
Hiện tượng trên bắt nguồn từ ba nguyên nhân chính- Thâm hụt cán cân
thương mại và ngân sách quốc gia và kèm theo đó là tăng nợ của Mỹ.- Chuyển đổi
trong dự trữ ngoại tệ của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật, Nga và các
quốc gia khác.

- Các nước xuất khẩu dầu mà trước tiên là Nga ngày càng sẵn sàng chấp nhận
đồng Euro như là phương tiện thanh toán cho dầu mỏ.

Về cơ bản, logic kinh tế của việc dự trữ bằng USD, dù không mạnh như trước
đây, vẫn còn đúng. Nó tiếp tục khiến nhiều nước tích lũy bằng loại ngoại tệ mà họ
thường gọi là nợ nước ngoài và điều khiển ngoại thương của họ. Nói cách khác, các
ngân hàng trung ương sử dụng quỹ đó để trả nợ và thanh toán ngoại thương, cũng như
can thiệp vào các thị trường ngoại hối.
Một trong những vấn đề được quan tâm lớn nhất thời gian qua trên thị trường
tiền tệ thế giới là sự lên giá không ngừng của đồng Eur so với USD. Kể từ khi suy yếu
năm 1999, liên tục từ năm 2002 và cho đến nay Eur luôn tăng giá trước USD.
Bảng tỷ giá Euro trên USD giai đoạn 1999 - 2010
Euro trên Đô la Mỹ 1999–2010
Năm Cao nhất Thấp nhất
Ngày Tỷ giá Ngày Tỷ giá
1999 03/12 €0.9985 05/01 €0.8482
2000 26/10 €1.2118 06/01 €0.9626
2001 06/07 €1.1927 05/01 €1.0477
2002 28/01 €1.1658 31/12 €0.9536
2003 08/01 €0.9637 31/12 €0.7918
2004 14/05 €0.8473 28/12 €0.7335
2005 15/11 €0.8571 03/01 €0.7404
2006 02/01 €0.8456 05/12 €0.7501
2007 12/01 €0.7756 27/11 €0.6723
2008 27/10 €0.8026 15/07 €0.6254
2009 04/03 €0.7965 03/12 €0.6614
2010 08/01 €0.8374 13/01 €0.6867
Nguồn: Euro exchange rates in USD, ECB

7
USD đã mất giá trên 50% so với thời điểm đồng EUR ra đời và đã giảm 20%
tính đến thời điểm cuối năm 2004. Tỷ giá yên Nhật với USD cũng ở mức thấp nhất kể
từ bốn năm qua, còn giá vàng cuối năm 2004 đã tăng khoảng 90.000 đồng/chỉ so với
đầu năm 2004(trên 10%).
Tuy nhiên, những ảnh hưởng của nó thì chưa dừng hẳn. Các DN đã nhập khẩu
hàng hóa từ EU chưa thanh toán hết bằng Euro đang lâm vào hoàn cảnh mất cả lãi và
thâm hụt vốn bởi giá Euro hiện tăng quá cao so với thời điểm 1 tháng trở về trước, khi
đồng tiền này được các DN lựa chọn làm đồng tiền thanh toán hàng hóa với đối tác.
Các DN xuất khẩu còn bị nợ tiền bằng USD cũng thiệt hại không nhỏ.
Và nhiều quốc gia tiếp tục cho vay và trao đổi ngoại thương bằng đồng đôla
Mỹ, bất chấp sự nổi lên của EUro và các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng khác. Đến cuối
năm 2008, khoảng 45% trái phiếu quốc tế là bằng USD, trong khi chỉ 32%
bằng EURO. Và theo thăm dò năm 2007 của Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS),
USD vẫn được sử dụng trong 86% trao đổi ngoại hối, so với chỉ 38% bằng euro.
Đến tháng 4/2008, theo IMF, 66 quốc gia sử dụng USD làm mốc tỷ giá hối
đoái của mình, trong khi con số này chỉ là 27% đối với euro. Lý do khiến một ngân
hàng trung ương đưa ra lựa chọn là tầm ảnh hưởng lớn của ngoại tệ đó trong quỹ dự
trữ quốc gia. Các ngân hàng trung ương muốn không chỉ tối ưu hóa sự trở lại hoạt
động bình thường của mình, mà còn giảm thiểu nguy cơ. Ví dụ tại một quốc gia kiềm
chế tỷ giá của nội tệ với USD, lạm pháttrong nước họ có xu hướng đi theo diễn
biến lạm phát ở Mỹ, và như vậy trong trường hợp này quỹ dự trữ USD sẽ ít dao
động so với giá trị nội tệ của họ.
Các đánh giá về việc trộn lẫn các đồng tiền nào sẽ giúp tối ưu hóa một sự kết
hợp đặc biệt giữa nguy cơ và lợi nhuận cho thấy, tất cả các ngoại tệ đều rất dễ mua và
bán – tức là tất cả các thị trường trái phiếu đều có tính thanh khoản như nhau, bất kể
loại ngoại tệ nào mà chủ đạo. Đặc tính này rất quan trọng. Nếu các quỹ dự trữ không
sẵn sàng được chuyển thành tiền mặt, chúng không được sử dụng dễ dàng trong các
hoạt động thị trường. Như vậy, thị trường buôn bán trái phiếu Kho bạc Mỹ hấp dẫn vì
đây là thị trường trái phiếu chính phủ duy nhất có tính thanh khoản cao nhất trên thế
giới nhờ mức chênh lệch giá đặt mua/bán rất ít của nó. Tính thanh khoản cao nói trên
là một đặc tính tự củng cố. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng ý thực hiện các giao
dịch và tập trung cổ phiếu của mình vào các thị trường Mỹ vì các thị trường này có
tính thanh khoản cao, và chính hoạt động này khiến thị trường càng dễ thanh toán
hơn. Giống như trong chính trị, trong cuộc cạnh tranh để trở thành trung tâm tài chính
quốc tế hàng đầu và giữ vị trí là đồng tiền dự trữ hàng đầu, thì thách thức cũng là cơ
hội.
Các ngoại tệ khác cũng cố gắng cạnh tranh. Bảng Anh và franc Thụy Sỹ cũng
từng là loại ngoại tệ dự trữ quan trọng, nhưng nền kinh tế hai nước này ngày nay quá
nhỏ để các nội tệ của họ tiếp tục giữ vị trí này; không quốc gia nào khác có thể cung
cấp các công cụ ghi nợ mà hệ thống tài chính toàn cầu cần đến. Và như vậy, cuối năm
2007, bảng Anh chỉ còn chiếm không đến 3% quỹ dự trữ toàn cầu, trong khi franc
Thụy Sĩ chỉ chiếm dưới 1%.
Nền kinh tế Nhật Bản đang mở rộng, nhưng chính phủ nước này từ lâu đã
không đủ can đảm sử dụng đồng yên trong các giao dịch quốc tế vì sợ điều này sẽ phá
hủy khả năng duy trì một tỷ giá hối đoái thấp và mang tính cạnh tranh, cũng như làm
phức tạp thêm cách quản lý chính sách công nghiệp của họ. Nếu người nước ngoài có
thể mua và bán chứng khoáncủa Nhật với số lượng lớn, Chính phủ Nhật sẽ gặp khó

8
khăn hơn trong việc sử dụng hệ thống tài chính để chuyển hướng các nguồn vốn đến
cho các công ty trong nước.
Giờ đây, Nhật Bản dường như cũng nóng lòng muốn đồng yên đóng một vai
trò quốc tế lớn hơn, đặc biệt là ở châu Á. Nhưng chính sách trước đây của họ đã hạn
chế tính thanh khoản bằng đồng tiền này của thị trường. Gần đây, tình trạng trì trệ
kinh tế Nhật và mức lãi suất 0% đã khiến dự trữ bằng đồng yên trở nên ít hấp dẫn.
(Cuối năm 2007, yên chiếm gần 3% tổng trái phiếu nước ngoài). Dân số ngày càng
già đi của Nhật sẽ đồng nghĩa với việc nền kinh tế của họ, cũng như đồng tiền của họ,
khó có được một vai trò lớn hơn trên thế giới.
2.3. Ảnh hưởng của đồng USD đối với kinh tế Việt Nam
2.3.1. Ảnh hưởng bởi đồng USD mất giá
- Tỷ giá VND/USD đứng yên
Về phương diện cạnh tranh việc USD mất giá so với nhiều đồng tiền khác
trong khi tỷ giá VND/USD đứng hoặc yếu đi một chút là có lợi cho xuất khẩu của
Việt Nam.
Đứng ở góc độ xuất khẩu, một khi đồng tiền của nước nào lên giá so với USD
thì đều gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên, khi USD chỉ mất giá khá mạnh so với
những đồng tiền chủ chốt. Đối với đồng tiền của các nước trong khu vực vốn là đối
thủ cạnh tranh của Việt Nam thì tỷ lệ mất giá không nhiều (đồng nhân dân tệ của
Trung Quốc và ringit Malaysia gần như không thay đổi; tỷ giá giữa HKD (đôla
Hongkong) và USD vẫn được cố định.
Việc mất giá của đồng đôla Mỹ trên thị trường thế giới thực ra ảnh hưởng
không nhiều lắm về mặt tỷ giá đối với tình hình xuất nhập khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam. Vì phần lớn doanh nghiệp, ngay cả doanh nghiệp nước ngoài vẫn chọn
đồng đôla Mỹ là đồng tiền thanh toán. Chỉ khi ở nước có đồng tiền tăng giá đề nghị
doanh nghiệp Việt Nam (nhà xuất khẩu) đổi sang thanh toán bằng tiền của họ thì mới
có thể có thiệt thòi.
Ví dụ ở doanh nghiệp Casumina, một số khách hàng châu Âu có đề nghị thanh
toán bằng đồng euro khi Casumina xuất hàng cho họ. Trong bối cảnh euro tăng giá,
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sau khi nhận euro phải chuyển ngược lại thành đô
la Mỹ thì sẽ bị lỗ về tỷ giá.Tuy nhiên theo thông lệ, nếu giá nguyên vật liệu đột xuất
bỗng tăng đến 5% thì các đối tác mới đàm phán lại với nhau. Còn đối với tỷ giá đồng
tiền, dù biến động đến 5%, các bên cũng chưa đặt thành vấn đề.
- Tỷ giá VND/USD giảm
Các doanh nghiêp sản xuất các mặt hàng xuất khẩu thực hiện việc thanh toán
các lô hàng xuất khẩu của doanh nghiệp phần lớn dựa trên đồng USD, trong khi
nguyên liệu, vật tư chủ yếu cho sản xuất đa phần lại dựa vào các nguồn trong nước và
thanh toán bằng tiền đồng. Khi USD bị mất giá trên thị trường, tiền đồng bị thiếu hụt
trong lưu thông khiến các doanh nghiệp rất khó bán ngoại tệ thu về sau xuất khẩu để
thu hồi vốn, trang trải chi phí sản xuất. Các ngân hàng lúc này sẽ chủ trương hạn chế
mua USD và mua với tỷ giá thấp đã tác động đến dòng vốn kinh doanh của doanh
nghiệp.
Ví dụ khi tỷ giá từ trên 16.000 đồng/USD giảm xuống chỉ còn 15.700
đồng/USD, chưa kể nhiều ngân hàng còn thu thêm phí (2%) khi mua USD khiến các
doanh nghiệp bị thiệt đơn thiệt kép.

9
Thực tế trên đang đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng có dư ngoại tệ
nhưng không bán được cho ngân hàng trong khi vẫn phải vay vốn tiền đồng với lãi
suất cao hơn trước đây (do các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất cho vay lên 1,1 -
1,4%/tháng). Các doanh nghiệp đang phải chịu lỗ để duy trì sản xuất và thực hiện các
đơn hàng đã ký với khách hàng trước đây.
Do thiếu vốn tiền đồng và chịu lỗ về tỷ giá khi thu hồi tiền bán hàng, chi phí
tăng cao do vật tư tăng giá, doanh nghiệp buộc phải giảm mua nguyên liệu hoặc mua
với giá thấp hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp sản xuất nguyên
liệu trong nước. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng hơn đối với mặt hàng xuất khẩu
thuộc khu vực nông nghiệp.
Ví dụ trong xuất khẩu thủy hải sản, khi vào chính vụ thu hoạch, do quan hệ
cung - cầu trên thị trường, doanh nghiệp không thể kéo giá xuất khẩu lên nên không
thể mua nguyên liệu với giá cao, trong khi người nuôi phải thu hoạch gấp khiến tiêu
thụ nguyên liệu khó khăn và phức tạp. Các chi phí đầu vào ở khâu nuôi và đánh bắt
thủy sản như giống, thức ăn, nhiên liệu, chi phí vận chuyển đều tăng khoảng 20%,
khiến người nuôi và ngư dân bị lỗ, khó đầu tư vào vụ tiếp theo. Điều này sẽ gây thiếu
hụt nguyên liệu cho xuất khẩu trong năm nay, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu
thủy sản của cả nước.
2.3.2. Ảnh hưởng bởi đồng USD tăng giá
Đồng USD tăng giá cũng khiến việc nhập khẩu, mua vào của các nước trên thế
giới trở nên đắt đỏ hơn: Thị trường sắt, thép quốc tế mới hạ nhiệt được giờ đây lại trở
nên đắt hơn do đồng USD tăng giá các nhà nhập khẩu phải chi nhiều tiền hơn cho các
hợp đồng thanh toán bằng USD.
Mỹ hiện là thị trường số 1 của các nhà sản xuất khu vực trong hầu hết các lĩnh
vực sản xuất. Chính vì thế việc đồng USD tăng giá trong tương lai sẽ giúp người tiêu
dùng Mỹ, các nhà NK Mỹ mua được nhiều hàng hơn từ những đồng tiền sẵn có của
mình, còn các nhà XK khu vực nhờ đó mà đẩy mạnh XK vào Mỹ. Cũng trong xu
hướng đó, các nhà Xk Việt Nam sẽ xuất khẩu được nhiều hàng hóa hơn.
Thông thường, khi tỷ giá tăng tăng giá các DN xuất khẩu sẽ có lợi, tuy nhiên,
không ít DN không hoạt động trong lĩnh vực xuất, nhập khẩu cũng thường nhân dịp
này, tự ý tăng giá.Khi tỷ giá tăng, các DN cung ứng nguyên liệu trong nước thường
hay tăng giá và mức tăng giá này luôn cao hơn mức tăng của tỷ giá, khiến chi phí đầu
vào của DN sản xuất hàng xuất khẩu tăng. DN sẽ gặp khó khăn, vì hợp đồng đã ký từ
trước, muốn thương lượng lại với đối tác để điều chỉnh giá bán cũng rất khó.
Trong khi tỷ giá tăng, DN nhập khẩu nguyên vật liệu về sản xuất hàng để bán
ở thị trường trong nước sẽ bị thiệt hơn so với những DN chuyên xuất khẩu. Nếu chỉ có
một số loại nguyên liệu tăng giá thì ảnh hưởng không đáng kể, nhưng nếu nhiều loại
nguyên liệu cùng đồng loạt tăng giá thì sẽ ảnh hưởng nhất định tới DN xuất khẩu.
Dự báo, giá nguyên liệu trong nước (những nguyên liệu có thể xuất khẩu) sẽ
tăng, nên các DN đang tính tới việc sẽ đàm phán với khách hàng tăng giá bán sản
phẩm. Tuy nhiên, điều này là rất nguy hiểm, bởi việc đàm phán tăng giá bán sẽ đồng
nghĩa với việc giảm tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, kèm theo
nguy cơ bị mất đơn hàng.+Các DN nên tính toán kỹ lại giá thành sản phẩm. Trong cơ
cấu giá thành, nên có kinh phí dự phòng rủi ro về tỷ giá, nhằm hạn chế tác động của
việc tăng, giảm tỷ giá (trong thời gian tới) đến sản xuất - kinh doanh. Tiếp đó, DN nên
chủ động dự trữ nguyên nhiên liệu, để khi giá cả biến động thì cũng không ảnh hưởng
nhiều đến sản xuất - kinh doanh.

10

You might also like