You are on page 1of 95

HỌC VIỆN CÔNG NGHỆ BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG

CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA VIỄN THÔNG II
_____________

ĐỒ ÁN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: ĐIỆN TỬ - VIỄN THÔNG
HỆ ĐÀO TẠO: VĂN BẰNG HAI

Đề tài:
CÁC CÔNG NGHỆ DI ĐỘNG
SAU 3G

Mã số đề tài: 09406861003

Sinh viên thực hiện: PHẠM HOÀNG DŨNG


Mã số sinh viên: 406861003
Lớp: Đ06VTK1
Giáo viên hướng dẫn: PHẠM THANH ĐÀM

TPHCM – 2009
Các công nghệ không dây Sau 3G i

Mục lục

Lời nói đầu 1


Chương 1: Sự phát triển từ 2G qua 3G lên 4G 3
1.1. Nửa đầu thập kỷ 1990: Viễn thông chủ yếu là thoại 3
1.2. Từ 1995 đến 2000: sự cất cánh của viễn thông di động và Internet 3
1.3. Từ 2000 đến 2005: Dot Com suy sụp, xuất hiện Web 2.0 và Mobile Internet 4
1.4. Từ 2005 đến nay: thoại di động phủ sóng toàn cầu, VoIP và Mobile
Broadband bắt đầu phổ biến 6
1.5. Tương lai – Nhu cầu đối với các hệ thống Sau 3G 7
1.6. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên IP 10
Chương 2: Tổng quan các kiến trúc Sau 3G
– Các hệ thống UMTS, HSPA, và HSPA+ 13
2.1. Tổng quan 13
2.2. UMTS 14
2.2.1. Giới thiệu 14
2.2.2. Kiến trúc mạng 14
2.2.3. Giao tiếp vô tuyến và mạng truy nhập vô tuyến 22
2.3. HSPA (HSDPA và HSUPA) 33
2.3.1. Các kênh dùng chung (shared channel) 33
2.3.2. Đa mã trải 34
2.3.3. Điều chế cấp cao hơn 35
2.3.4. Sắp đặt lịch truyền, điều chế và mã hóa, HARQ 36
2.3.5. Cập nhật và chuyển giao cell 37
2.3.6. HSUPA 38
2.4. HSPA+ và những cải tiến khác: Cạnh tranh với LTE 40
2.4.1. Điều chế cấp cao hơn nữa 40
2.4.2. MIMO 41
2.4.3. Khả năng truyền gói liên tục (Continuos Packet Connectivity) 41
2.4.4. Các trạng thái Enhanced Cell-FACH, Enhanced Cell/URA-PCH 44
2.4.5. Cải tiến mạng vô tuyến: Một đường hầm duy nhất (One-tunnel) 46
2.4.6. Cạnh tranh với LTE ở dải tần 5 MHz 47
Chương 3: LTE và LTE-Advanced 48
3.1. Giới thiệu 48
3.2. Kiến trúc mạng 49
3.2.1. Các trạm cơ sở cải tiến 49
3.2.2. Đường giao tiếp giữa mạng lõi với mạng truy nhập vô tuyến 50
3.2.3. Gateway nối với Internet 51

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ không dây Sau 3G ii

3.2.4. Đường giao tiếp với cơ sở dữ liệu người dùng 52


3.2.5. Chuyển qua chuyển lại giữa những công nghệ vô tuyến khác nhau 52
3.2.6. Thuật ngữ “thiết lập cuộc gọi gói” trở thành lịch sử 52
3.3. Air Interface và mạng vô tuyến của LTE 53
3.3.1. Truyền dữ liệu hướng xuống 53
3.3.2. Truyền dữ liệu hướng lên 55
3.3.3. Các thông số vật lý 56
3.3.4. Từ khe đến khung 57
3.3.5. Các ký hiệu tham chiếu và các kênh truyền 58
3.3.6. Hướng xuống: Kênh quảng bá 59
3.3.7. Hướng xuống: Kênh nhắn tin 60
3.3.8. Hướng xuống và hướng lên: Các kênh truyền tải và kênh điều khiển
dành riêng, và việc ánh xạ chúng vào kênh vật lý dùng chung 60
3.3.9. Hướng xuống: Các kênh điều khiển ở tầng vật lý 60
3.3.10: Hướng lên: Các kênh điều khiển ở tầng vật lý 61
3.3.11. Cấp phát lịch truyền linh động và cấp phát lịch truyền lâu dài 61
3.3.12. Truyền MIMO trong LTE 62
3.3.13. Tính toán thông suất LTE 63
3.3.14. Kiểm soát tài nguyên vô tuyến 64
3.3.15. Trạng thái tích cực RRC 65
3.3.16. Trạng thái rỗi RRC 65
3.3.17. Xử lý các gói dữ liệu ở eNodeB 66
3.4. Các thủ tục báo hiệu cơ bản 67
3.4.1. Tìm kiếm mạng và quảng bá các thông tin hệ thống 68
3.4.2. Liên hệ ban đầu với mạng 68
3.4.3. Xác minh thuê bao (authentication) 68
3.4.4. Yêu cầu cấp phát một địa chỉ IP 69
3.5. Tổng kết và so sánh với HSPA 69
3.6. LTE-Advanced 70
Chương 4: WiMAX (IEEE 802.16) 71
4.1. Giới thiệu 72
4.2. Kiến trúc mạng 72
4.2.1. Các mạng nhỏ dành cho khách hàng cố định 72
4.2.2. Các mạng từ vừa tới lớn và tính di động 72
4.2.3. ASN-GW 74
4.2.4. Xác minh và mã hóa 74
4.2.5. Cấp phát địa chỉ IP cho máy khách và các kênh R6 76
4.2.6. Quản lý tính di động ở tầm vi mô 76
4.2.7. Quản lý tính di động ở tầm vĩ mô 77
4.3. Giao tiếp vô tuyến và mạng vô tuyến của WiMAX cố định 802.16d 78
4.4. Giao tiếp và mạng vô tuyến của WiMAX di động 80

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ không dây Sau 3G iii

4.4.1. OFDMA (Orthogonal Frequency Division Multiple Access) 81


4.4.2. Truyền MIMO trong WiMAX 82
4.4.3. Các hệ thống ăng-ten thích nghi (AAS) 82
4.4.4. Các thủ tục chuyển giao 83
4.4.5. Chế độ tiết kiệm điện năng và chế độ ngủ 84
4.4.6. Chế độ rỗi 84
4.5. Các thủ tục báo hiệu cơ bản 85
4.6. Tổng kết và so sánh với HSPA và LTE 86
4.7. Các công nghệ này cạnh tranh lành mạnh 87
Danh mục các từ viết tắt 88
Tài liệu tham khảo 91

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 1

Lời nói đầu

Trong những năm gần đây, các mạng thoại tổ ong (cellular telephone network1, hay ngắn gọn
hơn: cellular network) đã biến đổi thành những mạng truy cập chuyển gói rất mạnh mẽ, phục vụ
cho cả truyền thoại lẫn truy cập Internet. Các mạng 3.5G hiện tại, chẳng hạn như UMTS/HSDPA
và CDMA 1xEvDO, giờ đây đã cung cấp những thông lượng lên đến vài Mbps cho những người
dùng riêng rẽ, và khả năng truy cập di động vào Internet từ các thiết bị cầm tay và máy tính xách
tay không còn được xem là thấp hơn một mối nối kết DSL hoặc cáp nữa. Thế nhưng, yêu cầu về
băng thông và dung lượng vẫn không ngừng tăng lên do bởi lượng người dùng gia tăng trong
các mạng ấy và do những ứng dụng đòi hỏi cao về băng thông chẳng hạn như truyền phim ảnh
và truy cập Internet di động từ máy tính xách tay. Vì vậy, các nhà chế tạo mạng và các nhà điều
hành mạng viễn thông cần tìm ra những phương cách nào đó để làm tăng dung lượng và hiệu
năng làm việc trên các mạng của họ, trong khi vẫn giữ giá thành thấp hay thậm chí còn giảm đi.
Trong quá khứ, sự tiến hóa của mạng truyền thông không dây chủ yếu liên quan đến việc thiết
kế các mạng truy nhập có dải tần cao hơn và thông lượng lớn hơn. Khi chúng ta tiến đến thời kỳ
các kiến trúc mạng Sau 3G2, giờ đây có một sự tiến hóa còn nhanh hơn nữa ở các mạng lõi, và
quan trọng nhất là ở các thiết bị và ứng dụng dành cho người dùng. Sự tiến hóa này tiếp tục
những xu hướng công nghệ vốn đã “đụng trần” trong thế giới mạng Internet “đường truyền cố
định” hiện nay. Các hệ thống điện thoại chuyển kênh đang được thay thế bởi các công nghệ
VoIP, còn Web 2.0 thì khuyến khích người dùng trở thành những nhà sáng tạo nội dung và chia
sẻ thông tin của mình với toàn thế giới. Trong tương lai, các mạng không dây broadband sẽ có
một ảnh hưởng rất quan trọng đối với xu hướng này, bởi lẽ điện thoại di động và máy tính xách
tay là những công cụ lý tưởng để sáng tạo và tiêu thụ nội dung. Phàn lớn các điện thoại di động
và máy tính xách tay hiện nay đều đã được trang bị những máy ảnh số tiên tiến, và khả năng
quay phim chụp ảnh của chúng ngày càng tốt hơn.
Mặt khác, chúng ta đang chứng kiến các công nghệ mobile broadband ngày càng trở nên
tương đồng về mặt giao tiếp vô tuyến (air interface) và kiến trúc nối mạng (networking
architecture); chúng đang được hội tụ thành một kiến trúc mạng dựa trên IP cùng với công nghệ
giao tiếp vô tuyến dựa trên OFDMA (Orthogonal Frequency Division Multiple Access _ Đa truy
cập phân tần trực giao). Mặc dù sự tiến hóa về kiến trúc mạng chưa đạt đến mức hội tụ đầy đủ
và thực sự, nhưng các loại mạng truy cập không dây ở những giai đoạn khác nhau của quá trình
tiến hóa này đamg được thiết kế để đáp ứng việc truyền các dịch vụ đa phương tiện ở khắp nơi
thông qua việc nối kết liên mạng.

1
“Cellular” có căn ngữ là “cell”, còn cell ở đây có nghĩa là ngăn, ô, hoặc lỗ tổ ong. Gọi như vậy là vì, các
cell trong mạng được mô hình bằng những hình lục giác sắp kế cận nhau để tái sử dụng tần số ở những vùng cách xa
nhau theo nguyên tắc đa truy cập phân chia theo không gian (SDMA). Cách sắp xếp này giống cách sắp xếp các lỗ
hay ngăn trong cấu trúc của tổ ong (cellular construction of a beehive).
2
Thuật ngữ “Sau 3G” là được chuyển từ thuật ngữ “Beyond 3G” trong tiếng Anh sang. Thuật ngữ gốc này
vốn chỉ được qui ước tạm chứ chưa có định nghĩa chính xác, dùng để chỉ các hệ thống công nghệ di động thuộc loại
“Enhanced IMT-2000” theo qui định của ITU (xem Chương 1), nhưng đã trở nên phổ biến (thậm chí được dùng ở
một số nước không nói tiếng Anh). Ở Việt Nam, thuật ngữ đó được chuyển thành “Hậu 3G” và “Sau 3G”, trong đó
“Hậu 3G” phổ biến hơn so với “Sau 3G” (có thể kiểm chứng điều này bằng cách tìm kiếm các cụm từ đó trên Web
thông qua các công cụ như Google, Yahoo! hoặc Bing chẳng hạn), tuy nhiên ở đây chúng tôi sẽ dùng “Sau 3G”.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 2

Tuy các xu hướng tiến hóa công nghệ này đã và đang diễn ra, có rất ít tài liệu mô tả chúng về
mặt kỹ thuật, nhất là ở Việt Nam. Luận văn này cố gắng mô tả sự tiến hóa của những công nghệ
truyền thông không dây từ 3G trở về sau. Nó tập trung bàn về sự tiến hóa của truyền thông di
động 3G và Sau 3G, như được xây dựng bởi tổ chức chuẩn hóa 3GPP (3rd Generation
Partnership Project), lưu ý đến sự tiến hóa về kỹ thuật truy cập vô tuyến và mạng truy nhập.
Luận văn này bao gồm bốn chương. Chương 1 điểm qua lịch sử tiến hóa của các mạng di
động trong quá khứ, rồi liệt kê những xu hướng tiến hóa đang nổi lên hiện nay. Chương 2 bàn
sâu về các công nghệ truy cập vô tuyến hậu duệ của công nghệ GSM phổ biến hiện nay: UMTS,
HSPA và HSPA+. Chương 3 bàn tiếp về các thế hệ cải tiến của HSPA: LTE và LTE-Advanced.
Cuối cùng, chương 4 bàn về công nghệ WiMAX với hai phiên bản đã được triển khai cho tới
nay: 802.16d và 802.16e.
Do khuôn khổ luận văn có hạn mà các lĩnh vực đề cập lại quá rộng lớn và mới mẻ, nên chúng
tôi không dám bàn sâu vào một số khía cạnh kỹ thuật nền tảng trong các công nghệ, ví dụ như
nền tảng lý thuyết của các phương thức điều chế và mã hóa, chi tiết về hệ thống báo hiệu số 7
(SS-7) vốn vẫn còn được dùng trong UMTS, chi tiết về các tầng giao thức trong các hệ thống
mạng, và nguyên lý chi tiết của OFDM và OFDMA, chi tiết kỹ thuật của truyền MIMO, v.v...
Do kiến thức còn hạn chế, luận văn này chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Xin cảm
ơn thầy Phạm Thanh Đàm đã tận tình hướng dẫn tôi trong thời gian làm luận văn này. Xin gửi
lời cảm ơn đến các thầy cô Khoa Viễn Thông 2 đã giảng dạy, cung cấp kiến thức và giúp đỡ
động viên để tôi có thể hoàn thành được luận văn này.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình tôi, cảm ơn những người bạn thân thiết đã giúp
đỡ tôi trong những lúc khó khăn nhất.

Phạm Hoàng Dũng.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 3

Chương 1:

Sự phát triển từ 2G qua 3G lên 4G

Trong 15 năm vừa qua, truyền thông qua đường dây cố định và không dây cũng như Internet
đã phát triển có thể nói là rất nhanh nhưng cũng có thể nói là rất chậm, tùy theo người ta quan sát
lĩnh vực này như thế nào. Để đánh giá khái quát về những sự phát triển cho đến hiện tại và trong
tương lai trong lĩnh vực này, chương này sẽ cung cấp một cái nhìn tổng quan về những sự kiện
chính đã giúp định hình ba lĩnh vực truyền thông này trong một thập kỷ rưỡi vừa qua. Tuy phần
lớn những sự phát triển mô tả dưới đây đã diễn ra ở những nước công nghệ cao nhất, nhưng
những yếu tố địa phương và chính sách điều chỉnh của mỗi quốc gia đã làm giảm đi hay tăng lên
tốc độ xảy ra các sự kiện ấy. Vì vậy, khoảng thời gian đó có thể được phân chia thành một số
giai đoạn, và những mốc thời gian cụ thể sẽ được cung cấp tùy theo mỗi quốc gia được xét.

1.1. Nửa đầu thập kỷ 1990: Viễn thông chủ yếu là thoại
Mười lăm năm trước, vào năm 1993, việc truy cập Internet chưa phổ biến rộng khắp, và hầu
hết những người dùng nó đều đang nghiên cứu hoặc làm việc tại các trường đại học hay trong
một vài công ty chọn lọc trong ngành IT. Vào lúc đó, toàn bộ các trường đại học được nối kết
với Internet ở một tốc độ truyền là 9.6 Kbit/s. Nhiều người trong số họ có máy tính tại nhà riêng,
nhưng việc quay số nối vào mạng của nhà trường chưa được áp dụng rộng rãi. Các mạng diễn
đàn chuyên đề (bulletin board) chẳng hạn như Fidonet3 đã được sử dụng rộng rãi bởi lượng
người dùng ít ỏi “online” được vào lúc đó.
Vì thế, có thể nói rằng viễn thông 15 năm trước chủ yếu chỉ là thoại, xét theo quan điểm thị
trường đại chúng. Một tạp chí trực tuyến về viễn thông đã cung cấp một số hình ảnh thú vị về giá
cả dịch vụ viễn thông vào lúc đó, khi các công ty viễn thông độc quyền vẫn còn hiện diện ở hầu
hết các nước châu Âu. Ví dụ, một cuộc gọi “đường dài nội địa” 10 phút ở Đức trong giờ làm
việc, bị tính tiền là 3,25 Euro (nhưng vẫn còn rẻ hơn so với giá cả thoại đường dài ở Việt Nam
vào lúc đó).
Về phía truyền thông không dây, các mạng tương tự thế hệ đầu lúc đó đã có mặt được vài
năm rồi, nhưng chi phí sử dụng chúng đắt hơn nhiều, và các thiết bị di động kềnh càng và có giá
không với tới nổi, trừ các nhà doanh nghiệp. Vào năm 1992, các mạng GSM đầu tiên đã được
triển khai ở một số nước châu Âu, nhưng chỉ một số ít người chú ý đến các mạng này.

1.2. Từ 1995 đến 2000: sự cất cánh của viễn thông di động và
Internet
Khoảng năm 1998, các công ty viễn thông độc quyền đã cáo chung ở nhiều nước châu Âu.
Lúc đó, nhiều nhà cung cấp dịch vụ vốn đã chuẩn bị từ trước cho sự kiện này nhanh chóng nhảy

3
FidoNet (www.fidonet.org) là một mạng máy tính toàn cầu, được dùng để liên lạc giữa các hệ thống diễn
đàn chuyên đề (bulletin board system _ BBS) bằng các giao thức FTP và Telnet. Nó được nhiều người biết đến nhất
vào đầu những năm 1990, trước khi xuất hiện những khả năng truy cập dễ dàng và phải chăng vào Internet. Mạng
này đến nay vẫn tiếp tục hoạt động, nhưng đã thu hẹp lại khá nhiều, chủ yếu là do sự đóng cửa của nhiều BBS.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 4

vào thay thế, và giá cả đã hạ xuống nhanh chóng trong vài tuần lễ và vài tháng đầu sau khi qui
định mới (bãi bỏ viễn thông độc quyền) có hiệu lực. Kết quả là, giá cả của cuộc gọi đường dài
nội địa 10 phút nhanh chóng rơi xuống chỉ còn một phần nhỏ của giá lúc đầu. Xu hướng này đến
nay vẫn tiếp tục, và chi phí một cuộc gọi như thế hiện nay chỉ khoảng vài xu ở Mỹ. Hơn nữa,
những cuộc gọi đường dài liên quốc gia ở châu Âu và thậm chí liên lục địa đến nhiều nước, như
Mỹ và những nước công nghiệp hóa khác chẳng hạn, cũng được tính với giá tương tự.
Cũng khoảng thời điểm đó, ngành viễn thông đã đạt đến một cột mốc quan trọng. Khoảng 5
năm sau khi các mạng di động GSM đầu tiên được triển khai, bảng giá các cuộc gọi điện thoại di
động cũng như giá cả điện thoại di động đã đạt đến một mức khuyến khích được sự chấp nhận
rộng rãi của thị trường đại chúng. Trong khi vào những năm đầu của GSM, việc sử dụng điện
thoại di động đã được coi là xa xỉ và chủ yếu chỉ phục vụ nhu cầu làm ăn của các doanh nhân, thì
vào cuối thập kỷ đó, việc chấp nhận của đại chúng đã tăng lên đến chóng mặt, và điện thoại di
động đã nhanh chóng biến đổi từ một thiết bị giá cao dành cho doanh nhân thành một công cụ
truyền thông không thể thiếu được đối với phần lớn người dân ở các nước tiên tiến.
Công nghệ truyền tín hiệu số trên đường dây cố định cũng đã phát triển ở một mức độ nhất
định trong khoảng thời gian này, và các modem với tốc độ 30–56 Kbit/s đã dần dần được chấp
nhận bởi các sinh viên và những người dùng máy tính khác để truy cập Internet thông qua trường
đại học hoặc thông qua các nhà cung cấp dịch vụ quay số Internet tư nhân. Khoảng thời điểm
này, truyền thông dựa trên văn bản cũng bắt đầu phát triển, và các trình duyệt Web đua nhau
xuất hiện, có thể hiển thị được các trang Web với nội dung đồ họa. Ngoài ra, e-mail cũng đã vượt
qua cái mục tiêu giáo dục ban đầu của nó. Nội dung trên Internet vào lúc đó chủ yếu được công
bố bởi những hãng thông tấn lớn và các tổ chức IT, và rất giống một mô hình phân phối từ trên
xuống (top-down), trong đó người dùng chủ yếu là người tiêu thụ chứ không phải người cung
cấp thông tin. Ngày nay, mô hình này được gọi là Web 1.0.
Tuy các cuộc thoại qua các mạng di động đã nhanh chóng thành công, song truy cập Internet
di động lúc ấy vẫn đang là những bước đi chập chững. Lúc đó, các mạng GSM chỉ cho phép
truyền dữ liệu với tốc độ từ 9.6 đến 14.4 Kbit/s qua các đường nối kết chuyển kênh. Tuy nhiên
khi ấy chỉ có một số ít người sử dụng dữ liệu di động, chủ yếu là do chi phí cao và thiếu thốn các
ứng dụng và thiết bị. Tuy vậy, cuối thập kỷ đó người ta đã thấy những ứng dụng truyền dữ liệu
di động đầu tiên, chẳng hạn như các trình duyệt Web và email di động trên các thiết bị như PDA
(Personal Digital Assistants) chẳng hạn, vốn có thể truyền thông tin qua lại với các điện thoại di
động thông qua các cổng hồng ngoại.

1.3. Từ 2000 đến 2005: Dot Com suy sụp, xuất hiện Web 2.0
và Mobile Internet
Sự phát triển vẫn tiếp tục và thậm chí còn tăng tốc trong cả ba lĩnh vực truyền thông này, bất
chấp sự suy sụp Dot Com (tức các trang Web) vào năm 2001, vốn đã làm cho cả hai ngành công
nghiệp viễn thông và Internet rơi vào một giai đoạn suy thoái trong vài năm. Mặc cho thời kỳ
đình đốn này, đã có nhiều bước phát triển quan trọng mới xảy ra trong thời gian này.
Một trong những bước đột phá chính trong thời gian này là sự trỗi dậy mạnh mẽ của truy cập
Internet thông qua DSL và các modem truyền hình cáp. Những kiểu truy cập này đã nhanh
chóng thay thế các đường nối kết bằng modem quay số bởi vì chúng trở nên có giá cả phải chăng
và cung cấp những tốc độ kết nối 1 MBit/s và cao hơn. So sánh với những đường nối kết bằng
modem quay số 56 Kbit/s, thời gian tải xuống các trang Web có nội dung đồ họa và các file lớn
đã được cải thiện rất nhiều. Vào cuối thời kỳ này, đa số người dùng ở nhiều quốc gia đã có được
khả năng truy cập Internet băng rộng, cho phép họ xem được các trang Web phức tạp hơn thế
nhiều. Ngoài ra, những dạng truyền thông mới như Blog và Wiki đã xuất hiện, nhanh chóng cách
mạng hóa sự mất cân bằng giữa người tạo và người tiêu thụ nội dung. Đột nhiên, người dùng

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 5

không còn chỉ là người tiêu thụ nội dung nữa mà đồng thời cũng là người tạo ra nội dung cho
toàn thế giới thưởng thức. Đây là một trong những đặc điểm chính của cái được gọi với tính chất
đại chúng là Web 2.0.
Trong thế giới truyền thoại đường dây cố định, giá cả cho các cuộc gọi quốc nội và quốc tế
tiếp tục sụt giảm. Vào cuối khoảng thời gian này, đã có những nỗ lực đầu tiên sử dụng Internet
để truyền đi các cuộc thoại. Những người đầu tiên chấp nhận hình thức này đã khám phá ra công
dụng của Internet telephony và thực hiện những cuộc gọi điện thoại qua Internet thông qua các
đường kết nối DSL hoặc modem cáp của họ. Những chương trình độc quyền như Skype đột
nhiên cho phép người dùng gọi cho bất kỳ thuê bao Skype nào trên thế giới miễn phí, với chất
lượng thoại cực tốt trong nhiều trường hợp. Tuy nhiên, đối với chuyện này thì “miễn phí” là một
khái niệm tương đối thôi, bởi vì cả hai bên tham gia cuộc gọi đều phải trả tiền truy cập Internet,
nên các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vẫn hưởng lợi từ những cuộc gọi này nhờ cước phí
hàng tháng cho các mối nối kết DSL và modem cáp. Thêm vào đó, nhiều công ty mới thành lập
đã bắt đầu cung cấp dịch vụ thoại tương tự cho các hãng chuyển đổi dữ liệu thoại qua giao thức
IP bằng cách sử dụng giao thức SIP (Session Initiation Protocol) đã chuẩn hóa để truyền tải các
cuộc thoại qua Internet. Các thiết bị media gateway bảo đảm rằng những thuê bao như vậy có thể
liên lạc với nhau qua các số điện thoại bằng đường dây cố định thông thường, và có thể gọi đến
bất kỳ điện thoại tương tự nào trên thế giới. Những hình thức truyền thông đường dài mới nổi
này cũng khiến Internet được sử dụng một cách tích cực để truyền đi những cuộc thoại quốc tế,
và vì thế đã giúp cho chi phí thoại thấp hơn.
Năm 2001, dịch vụ GPRS (General Packet Radio Service) đã lần đầu tiên được đưa vào các
mạng GSM công cộng. Khi những điện thoại di động có khả năng GPRS đầu tiên nhanh chóng
xuất hiện sau đó, việc truy cập Internet di động đã trở nên khả thi trong thực tế đối với đông đảo
người dùng hơn. Trước đó, truy cập Internet di động chỉ có thể thực hiện được thông qua những
cuộc gọi dữ liệu chuyển kênh. Tuy nhiên, tốc độ truyền dữ liệu, thời gian thiết lập cuộc gọi, và
việc nhất thiết phải duy trì kênh truyền ngay cả trong những quãng thời gian không tích cực cũng
không thích hợp cho hầu hết các ứng dụng Internet. Những vấn đề này, cùng với những màn
hình hiển thị nhỏ và đơn sắc của các điện thoại di động và phần mềm di động trong thời kỳ “thơ
ấu” này của nó khiến cho những dịch vụ Internet không dây lúc đầu (WAP 1.0) chưa bao giờ trở
nên phổ biến. Đến năm 2005, các thiết bị đã “trưởng thành” hơn, những màn hình màu độ phân
giải cao đã được đưa vào các điện thoại di động tầm trung, và các trình duyệt Web di động WAP
2.0 cùng các chương trình khách e-mail di động dễ dùng kết hợp với GPRS thành một tầng vận
chuyển chuyển gói, cuối cùng đã cho phép truy cập Internet di động đi vào thị trường đại chúng.
Nhưng cho dù có những tiến bộ này, thì những mức giá và cuộc đấu tranh giữa những khu vực
truy cập mở và đóng (lát nữa sẽ bàn kỹ hơn) đã làm giảm đáng kể sự phát triển Internet di động.
Từ đây về sau, trong tài liệu này chúng tôi sẽ dùng các thuật ngữ “truy cập di động vào
Internet” và “truy cập Internet di động” thay vì thuật ngữ “Internet di động”. Đó là vì thuật ngữ
sau khiến người đọc lầm tưởng rằng có thể có một sự phân biệt giữa “Internet đường dây cố
định” và “Internet di động”. Tuy đúng là một số dịch vụ được “cắt may” riêng để dùng trên các
thiết bị điện thoại di động, thậm chí còn hưởng lợi từ và tận dụng tính di động của người dùng,
nhưng xu hướng chung là ngày càng có nhiều ứng dụng, dịch vụ, và nội dung được cung cấp và
hữu ích cho cả các thiết bị di động nhỏ nhắn lẫn các thiết bị cầm tay lớn hơn hoặc cố định.
Một cột mốc quan trọng nữa đối với truy cập Internet không dây trong khoảng thời gian này
là, các mạng 3G đã bắt đầu được đưa vào hoạt động ở nhiều nước vào các năm 2004 và 2005.
Trong khi GPRS có tốc độ truyền gần với modem quay số, thì UMTS đã nâng tốc độ truyền dữ
liệu lên đến 384 Kbit/s trong thực tế, và sử dụng chúng có vẻ cũng nhanh như sử dụng DSL vậy.
Nhưng chế độ giá cả của các nhà cung cấp dịch vụ mạng cũng làm cho sự chấp nhận rộng rãi 3G
phải chậm lại vài năm.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 6

1.4. Từ 2005 đến nay: thoại di động phủ sóng toàn cầu, VoIP
và Mobile Broadband bắt đầu phổ biến
Từ 2005 đến nay, tỉ lệ dân chúng ở các nước công nghiệp hóa truy cập Internet thông qua các
đường nối kết băng rộng DSL hoặc cáp đã tiếp tục gia tăng. Ngoài ra, nhiều nhà cung cấp dịch
vụ mạng đã bắt đầu triển khai ADSL2+, và các modem mới cho phép tốc độ tải xuống vượt quá
15 Mbit/s đối với những người dùng sống gần các tổng đài. Những đường VDSL và cáp quang
triển khai đến trạm phân phối hoặc đến tận nhà thuê bao còn cung cấp những tốc độ truyền lớn
hơn nữa. Kể từ năm 2005, một hướng phát triển khác ngày càng gia tăng là Voice over IP (VoIP)
thông qua một cổng điện thoại trên router DSL hoặc modem cáp. Điều này đang làm cho mạng
điện thoại tương tự truyền thống đi đến chỗ cáo chung, và các nhà cung cấp dịch vụ thoại đường
dây cố định nhìn thấy lượng khách hàng của họ ngày cảng sụt giảm.
Vào đầu năm 2009 này, lượng người dùng điện thoại di động trên toàn thế giới đã đạt đến 3 tỉ.
Thế có nghĩa là gần như cứ hai người trên địa cầu thì có một người sở hữu một điện thoại di
động, một mức phát triển mà năm năm trước hiếm có ai tiên đoán được. Năm 2007, các nhà cung
cấp dịch vụ mạng đã đăng ký mỗi phút 1000 thuê bao mới. Phần lớn sự tăng trưởng này là nhờ
sự triển khai các mạng GSM/GPRS 2G và 2.5G ở các thị trường đang nổi lên. Do sự cạnh tranh
toàn cầu giữa các nhà cung cấp, các thành phần thiết bị mạng cũng hạ đến mức có thể triển khai
được các mạng không dây ở những nước có mức thu nhập trên đầu người rất thấp. Một yếu tố
quan trọng khác đóng góp vào sự tăng trưởng chóng mặt này là sự xuất hiện ngày càng nhiều các
điện thoại di động GSM giá cực rẻ, không đến 50 USD. Chỉ trong vài năm, các mạng di động đã
thay đổi hình thức hoạt động và truy cập thông tin cho những những chủ doanh nghiệp nhỏ như
tài xế tắc-xi và người buôn bán nhỏ ở các thị mới nổi. Các mạng GSM giờ đây có mặt ở hầu hết
mọi nơi trên thế giới.
Ở các nước công nghiệp hóa, các mạng 3G tiếp tục phát triển, và năm 2006 chứng kiến những
cuộc nâng cấp mạng đầu tiên từ UMTS lên HSDPA (High Speed Data Packet Access). Thời gian
đầu, điều này cho phép nâng tốc độ truyền dữ liệu của người dùng lên đến mức từ 1 đến 3
Mbit/s. Với các thiết bị đầu cuối di động cao cấp, tốc độ chắc chắn còn cao hơn nữa. Hiện nay,
những tốc độ truyền cao như vậy chủ yếu chỉ có ích khi phối hợp với các máy tính xách tay cung
cấp Internet băng rộng cho người dùng hầu như ở mọi nơi, nhưng sau này chắc chắn HSDPA
cũng sẽ rất có ích cho những ứng dụng di động một khi việc tải xuống các file ghi âm bài thuyết
trình (podcast), âm nhạc và phim ảnh trên các thiết bị di động trở thành nhu cầu phổ biến của
quần chúng.

Hình 1.1: Tỉ lệ doanh thu truyền dữ liệu di động của vài hãng dịch vụ viễn thông năm 2007.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 7

Tuy các mạng 3G đã xuất hiện vài năm rồi, việc người dùng chấp nhận chúng vẫn còn chậm
chạp cho tới khoảng 2006/2007, khi các nhà cung cấp dịch vụ mạng di động cuối cùng mới đưa
ra những bảng giá hấp dẫn. Giá hạ xuống 40 đến 50 Euro hoặc thấp hơn cho phí thuê bao truy
cập Internet băng rộng không dây và dung lượng tải hàng tháng khoảng chừng 5 GBytes. Như
thế là quá đủ cho mọi thứ ngoại trừ chia sẻ file qua mạng và truyền tải phim ảnh số lượng lớn.
Các nhà cung cấp cũng bắt đầu đưa ra những gói thuê bao nhỏ hơn trong phạm vi từ 6 đến 15
Euro một tháng nếu người dùng thỉnh thoảng mới truy cập Internet bằng máy tính xách tay. Hiện
nay đã có hãng cung cấp những gói với giá tương tự như vậy cho thuê bao duyệt Web và email
không giới hạn trên điện thoại di động. Giá cả và mức độ sẵn dùng 3G hiện nay vẫn khác biệt tùy
theo quốc gia. Vào năm 2006, doanh thu truyền dữ liệu di động riêng ở Mỹ đã đạt đến 15,7 tỉ đô
la, trong số đó 50 đến 60 phần trăm là doanh thu từ các dịch vụ cao hơn SMS. Ở một số nước,
doanh thu truyền dữ liệu di động giờ đây chiếm khoảng 20 đến 30 phần trăm tổng doanh thu của
nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (xem Hình 1.1).
Trong khi việc roaming dữ liệu không dây vẫn còn đang dọ dẫm những bước đầu tiên, thì ở
nhiều nước khả năng truy cập Internet không dây thông qua các SIM card trả trước đã được cung
cấp ở những mức giá tương đương với giá dành cho thuê bao trả sau. Đây đúng là một bước tiến
quan trọng khác, bởi vì nó mở ra cánh cửa truy cập Internet bất kỳ lúc nào và bất kỳ đâu cho
những người dùng sáng tạo chẳng hạn như sinh viên, loại người thích dùng SIM trả trước hơn là
trả sau hàng tháng. Ngoài ra, nó khiến những người thường xuyên đi công tác xa thấy thuận tiện
hơn (những người này trước đây không có khả năng truy cập Internet trên đường đi trừ khi ở các
hotspot không dây tại các sân bay và khách sạn).

1.5. Tương lai – Nhu cầu đối với các hệ thống Sau 3G
Khi nhìn vào tương lai, câu hỏi chính đặt ra cho các nhà cung cấp dịch vụ và cung cấp thiết bị
mạng là khi nào và tại sao người dùng cần đến các mạng không dây Sau 3G (Beyond 3G, viết tắt
là B3G). Mười mấy năm trước, điện thoại là ứng dụng đầu tiên được di động hóa. Vài năm sau
đó thì SMS (Short Message Service) trở thành ứng dụng truyền dữ liệu di động đầu tiên vào
được thị trường đại chúng. Đến nay thì những mạng điện thoại di động đơn giản nhất cũng có
khả năng truyền SMS do bởi yêu cầu thấp về băng thông của nó. Có thể xem SMS chính là dịch
vụ tiên phong của những dịch vụ truyền dữ liệu khác như e-mail di động, duyệt Web di động,
viết blog di động, Push to Talk (PTT, tức dịch vụ dùng điện thoại di động như máy bộ đàm), tin
nhắn tức thời di động, và nhiều dịch vụ khác nữa. Những ứng dụng như vậy trở thành hiện thực
là nhờ sự xuất hiện các mạng không dây truyền các gói dữ liệu theo giao thức IP và các thiết bị
di động ngày càng mạnh mẽ. Đến nay thì dung lượng của các mạng 3G và 3.5G vẫn đủ cho yêu
cầu về bandwidth của các ứng dụng này và số lượng người dùng hiện có. Nhưng đã có thể thấy
rõ là trong tương lai không xa, một số xu hướng sẽ làm tăng yêu cầu về bandwidth:
 Mức độ sử dụng mạng không dây ngày càng tăng: do giá cả ngày càng hạ, ngày càng có
nhiều người sử dụng các ứng dụng không dây cần truy cập mạng.
 Nội dung đa phương tiện: tuy những nỗ lực đầu tiên di động hóa Web chỉ đạt được các
trang Web chủ yếu là văn bản, nhưng nội dung đồ họa ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Một hình ảnh có thể nói thay cho hàng nghìn từ ngữ, nhưng nó cũng làm tăng lượng dữ
liệu cần được truyền đi cho mỗi trang Web. Việc tải xuống âm nhạc và phim ảnh cũng
đang trở nên phổ biến hơn, làm tăng hơn nữa yêu cầu về bandwidth.
 Các mạng xã hội di động: tương tự như trong Internet đường dây cố định, có một dòng
ứng dụng mới đang thay đổi cách thức con người sử dụng Internet. Trong quá khứ, người
dùng chủ yếu chỉ tiêu thụ nội dung. Ngày nay thì các blog, podcast, các site chia sẻ hình
ảnh và các cổng truyền tải phim đang định hình lại Internet, bởi vì người dùng không còn
chỉ tiêu thụ nội dung nữa mà nay đã dùng mạng để chia sẻ những ý tưởng, hình ảnh và

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 8

phim ảnh của họ với người khác. Ví dụ, những ứng dụng như Shozu và Lifeblog cho phép
người dùng tải hình ảnh, phim ảnh và các bài viết blog từ các thiết bị di động lên Web.
Việc truyền hình ảnh, podcast và phim ảnh sẽ làm tăng gấp bội lượng dữ liệu mà người
dùng gửi và nhận qua Internet.
 Voice over IP: thế giới thoại đường dây cố định đang nhanh chóng chuyển sang hướng
VoIP. Nhiều khả năng là chỉ khoảng năm năm nữa, nhiều mạng thoại chuyển kênh đường
dây cố định hiện nay sẽ chuyển hoàn toàn sang truyền thoại dựa trên IP. Tương tự như vậy,
về phương diện truy cập mạng, nhiều người dùng sẽ sử dụng VoIP như dịch vụ thoại chính
của họ, ví dụ như qua các mạng DSL hoặc TV cáp. Hiện nay đã có thể thấy những động
thái chuyển dịch này rồi, bởi vì thị trường thoại chuyển kênh đang chịu áp lực ngày càng
tăng do sự sụt giảm số lượng thuê bao. Kết quả là, nhiều nhà cung cấp dịch vụ thoại đường
dây cố định không còn đầu tư vào công nghệ chuyển kênh nữa. Có thể quan sát thấy một
xu hướng tương tự trong các mạng không dây. Tuy nhiên, ở đây sự chuyển dịch chậm hơn
nhiều, đặc biệt là do yêu cầu bandwidth cao hơn để truyền các cuộc thoại qua một đường
truyền chuyển gói. Chủ đề này sẽ được bàn kỹ hơn trong mục 1.6.
 Sự thay thế cho đường dây cố định: trong khi lượng thông thoại ngày càng tăng thì
doanh thu ngày càng giảm ở cả các mạng đường dây cố định lẫn không dây do cước thuê
bao ngày càng giảm. Vì vậy ở nhiều nước, các nhà cung cấp dịch vụ không dây đang cố
gắng kềm giữ hoặc tăng doanh thu bình quân trên mỗi thuê bao bằng cách chào mời khả
năng truy cập Internet cho máy PC, máy tính xách tay và các thiết bị di động trên các mạng
UMTS/HSDPA hoặc CDMA của họ. Như vậy là họ bắt đầu cạnh tranh trực tiếp với các
nhà cung cấp dịch vụ DSL và cáp. Muốn cạnh tranh thành công, họ cũng phải tăng thêm
băng thông trên mạng của mình.
 Sự cạnh tranh từ những nhà cung cấp dịch vụ Internet không dây khác: ở một số nước,
các nhà cung cấp dịch vụ khác đã và đang chào mời khả năng truy cập Internet không dây
broadband bằng các mạng WiFi hoặc WiMAX/802.16. Những nhà cung cấp dịch vụ như
thế cạnh tranh trực tiếp với các nhà cung cấp dịch vụ UMTS và CDMA truyền thống vẫn
đang hoạt động trong thị trường này.
 Internet băng rộng không phải chỉ có được thông qua những ổ cắm trên tường: ngày
nay, rất nhiều người đã dùng các thiết bị điểm truy cập (access point) WiFi để xây dựng
“lãnh địa” Internet băng rộng của mình. Vì vậy, Internet băng rộng hầu như luôn bao
quanh họ. Trong tương lại, người ta sẽ không chỉ dùng những lãnh địa như vậy cho máy
tính để bàn và xách tay, mà còn cho các thiết bị nhỏ hơn, như điện thoại di động có sẵn khả
năng WiFi chẳng hạn. Những thiết bị nhỏ hơn này cũng sẽ thay đổi cách thức chúng ta tiếp
nhận những lãnh địa Internet như thế. Không còn cần thiết phải ngồi ở một chỗ riêng biệt,
như trước máy tính chẳng hạn, thì mới truyền thông (bằng VoIP, e-mail, nhắn tin tức thời),
lấy thông tin xuống từ hoặc gửi thông tin lên Web (tranh ảnh, các trang blog, phim ảnh,
v.v..). Khi khu vườn băng rộng của cá nhân không còn nữa, các thiết bị di động sẽ chuyển
sang dùng mạng tổ ong. Trong tương lai, các mạng tổ ong sẽ mở rộng ra cả những khu vực
mà hiện nay chúng chưa phủ sóng, và thông lượng khả dụng của chúng sẽ tăng lên để đáp
ứng số lượng người dùng tăng thêm và số lượng ứng dụng được nối kết thông qua chúng.
Việc chuyển qua chuyển lại giữa những lãnh địa Internet cá nhân tại nhà và mạng tổ ong
rộng lớn hơn bên ngoài sẽ trở nên vô hình (tức người dùng sẽ không nhận ra sự chuyển
dịch đó) khi các dịch vụ và thiết bị cho mạng tổ ong phát triển thêm.
Một số công nghệ không dây hiện đang được xây dựng hoặc đang trong giai đoạn triển khai
ban đầu, được thiết kế để đáp ứng nhu cầu tương lai này: LTE (Long Term Evolution) của 3GPP,
HSPA+ và WiMAX. Tất cả các công nghệ này sẽ được bàn kỹ hơn trong Chương 2. Câu hỏi đặt

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 9

ra là trong bối cảnh như vậy, những công nghệ nào là 3G hiện nay, và công nghệ nào được xem
là 4G trong tương lai?
Cơ quan chịu trách nhiệm phân loại các mạng không dây là ITU (International
Telecommunication Union). ITU phân loại các mạng viễn thông di động quốc tế (international
mobile telecommunication _ IMT) như sau:
 Các hệ thống IMT-2000: tức những hệ thống mà ta gọi là 3G hiện nay, ví dụ như UMTS
và CDMA2000. Danh sách tất cả các hệ thống ITU-2000 được liệt kê trong khuyến nghị ITU-
R M.1457-6.
 Các hệ thống Enhanced IMT-2000: sự phát triển của các hệ thống IMT-2000 (tức Sau 3G),
ví dụ như HSPA, CDMA 1xEvDo và những thế hệ phát triển hơn nữa của chúng trong tương
lai.
 Các hệ thống IMT-Advanced: các hệ thống thuộc loại này được xem là hệ thống 4G.
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng nào về các đặc tính của các hệ thống IMT-Advanced
(4G) trong tương lai. Khuyến nghị ITU-R M.1645 cung cấp một vài gợi ý đầu tiên, nhưng vẫn để
ngỏ khái niệm ấy:
It is predicted that potential new radio interface(s) will need to support data rates of up to
approximately 100 Mbit/s for high mobility such as mobile access and up to approximately 1 Gbit/s
for low mobility such as nomadic/local wireless access, by around the year 2010 [. . .] These data
rate figures and the relationship to the degree of mobility [. . .] should be seen as targets for
research and investigation of the basic technologies necessary to implement the framework. Future
system specifications and designs will be based on the results of the research and investigations.
Khi so sánh với các đặc tả hiện nay của WiMAX với các yêu cầu kỹ thuật này, rõ ràng
WiMAX không đủ tư cách để được xem là một chuẩn 4G IMT-Advanced, bởi vì tốc độ truyền
dữ liệu của nó còn thấp hơn khá nhiều, ngay cả trong những điều kiện lý tưởng (WiMAX cố định
chỉ có tốc độ truyền dữ liệu tối đa là 70 Mbps, WiMAX di động còn thấp hơn).
Chuẩn hậu duệ của chuẩn UMTS do 3GPP xây dựng, gọi là LTE, cũng khó mà đáp ứng
những yêu cầu này. Ngay cả trong một hệ thống MIMO (Multiple Input Multiple Output) bốn-
đường-truyền, tốc độ truyền dữ liệu ở dải tần sóng mang 20 MHz cũng không thể vượt quá 326
Mbit/s. (Ngay cả con số này cũng đã được tính ở khả năng tối đa rồi, bởi vì việc đặt bốn ăng-ten
vào trong một thiết bị nhỏ hoặc trên mái nhà trong thực tế không hề đơn giản).
Có lẽ cũng nên so sánh các hệ thống 4G tương lai này với quá trình phát triển của các hệ
thống 3G hiện nay. Quá trình phát triển của UMTS là một ví dụ tiêu biểu. Với HSDPA và
HSUPA, tốc độ truyền của người dùng giờ đây đã vượt mức dự đoán lúc đầu 2 Mbit/s dành cho
các hệ thống IMT-2000. Thế nhưng quá trình phát triển của các hệ thống này vẫn chưa dừng lại.
Những ấn bản chuẩn mới xây dựng Release 7 và 8 trong 3GPP được gọi là HSPA+, vốn bao gồm
cả công nghệ MIMO và những công nghệ cải tiến khác, cũng đưa công nghệ UMTS cải tiến này
đến một mức dung lượng và băng thông như đang được chỉ định cho LTE trên dải tần sóng mang
5 MHz. HSPA+ rõ ràng cũng không phải là một hệ thống 4G IMT-Advanced, bởi vì nó chỉ cải
tiến về mặt công nghệ vô tuyến so với các hệ thống 3G IMT-2000 hiện nay thôi. Vì vậy, HSPA+
được xếp loại là một “hệ thống IMT-2000 nâng cao” (Enhanced IMT-2000 system).
Để đáp ứng những yêu cầu trông đợi của IMT-Advanced, các cơ quan soạn thảo chuẩn
WiMAX và LTE đã bắt đầu những nỗ lực đầu tiên để cải tiến hơn nữa các công nghệ của họ. Về
phía WiMAX, nhóm công tác 802.16m đang tiến hành chuẩn hóa một kỹ thuật giao tiếp vô tuyến
nhanh hơn trước. Về phía LTE, một chương trình làm việc tương tự được đặt tên là LTE+ hoặc
Enhanced LTE cũng bắt đầu khởi động.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 10

Những nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng những yêu cầu về tốc độ truyền được mô tả trong
ITU-R M.1645 chỉ có thể đạt được ở dải tần 100 MHz hoặc hơn nữa. Đây là một thách thức thực
sự, xét theo quan điểm kỹ thuật cũng như do sự thiếu thốn các dải tần cao này. Vì vậy, không
chắc lắm là những yêu cầu này có còn được giữ nguyên trong định nghĩa cuối cùng về 4G IMT-
Advanced hay không.
Trong thực tế, vài công nghệ mạng khác nhau sẽ cùng có mặt và phát triển trong tương lai để
đáp ứng yêu cầu về mặt băng thông và dung lượng. Cũng có thể một sự kết hợp các hệ thống vô
tuyến khác nhau, như LTE cùng với WiFi chẳng hạn, sẽ được dùng để thỏa mãn yêu cầu về dung
lượng.
Từ quan điểm người dùng và quan điểm dịch vụ thì công nghệ mạng nào được coi là 3.5G,
3.9G hay 4G cũng không thành vấn đề. Cho nên tài liệu này dùng thuật ngữ “công nghệ Sau 3G”
hay B3G để chỉ tất cả các công nghệ mà có khả năng thỏa mãn yêu cầu dung lượng trong tương
lai, bao gồm các công nghệ được xây dựng mới hoàn toàn cũng như phát triển từ các hệ thống
hiện tại.

1.6. Tất cả các hệ thống này đều dựa trên IP


Tuy về mặt mạng vô tuyến (giao tiếp với thuê bao), khó đoán trước được tập hợp những công
nghệ 4G hay 3G phát triển nào sẽ được dùng trong tương lai, nhưng tương lai của các mạng lõi
cố định và di động lại dễ tiên đoán hơn nhiều. Một trong những đặc điểm chính của các mạng 3G
là việc hậu thuẫn cho cả các dịch vụ chuyển kênh lẫn các dịch vụ chuyển gói. Trong các mạng di
động trước 3G, bộ phận chuyển kênh của mạng lõi cùng với các dịch vụ chuyển kênh của mạng
giao tiếp vô tuyến được thiết kế để chuyên vận chuyển các cuộc thoại (đơn thuần tiếng cũng như
có cả hình). Việc điều khiển dịch vụ phụ thuộc hoàn toàn vào MSC (Mobile Switching Center),
thành phần chính của một mạng chuyển kênh. Bởi vì các thuê bao có thể chuyển vùng (roaming)
tùy ý trong một mạng di động, nên cần có một cơ sở dữ liệu để theo dõi vị trí hiện tại của thuê
bao cùng với thông tin về thuê bao, đó là HLR (Home Location Register). Để thiết lập một cuộc
gọi, điện thoại di động phải luôn liên lạc với MSC. Tiếp đến, MSC sử dụng số điện thoại đích để
tra vấn HLR về vị trí của thuê bao đích. Sau đó, cuộc gọi được gửi chuyển tiếp đến MSC này, rồi
MSC báo với thuê bao đích về cuộc gọi đến. Quá trình này được gọi là báo hiệu (signaling). Một
đường truyền chuyển kênh (circuit-switched channel) được thiết lập giữa hai thuê bao ấy thông
qua ma trận chuyển mạch (switching matrix) của MSC, còn các tín hiệu báo hiệu cần thiết cho
cuộc gọi được truyền trên một mạng báo hiệu độc lập, bởi vì đường truyền chuyển kênh kia chỉ
vận chuyển tín hiệu thoại thôi.
Trong những kiểu thiết kế mạng gần đây, các MSC được tách ra thành hai thành phần: một là
MSC Call Server chịu trách nhiệm xử lý chuyện báo hiệu, còn thành phần kia là một media
gateway, chịu trách nhiệm gửi chuyển tiếp cuộc gọi thoại, như được minh họa trong Hình 1.2.
Thay vì dùng những kênh nối cố định, các media gateway sử dụng các đường nối kết ATM
chuyển gói hoặc IP để gửi chuyển tiếp cuộc gọi. Điều này loại bỏ sự cần thiết phải vận chuyển
dữ liệu thoại qua các đường truyền chuyển kênh trong mạng lõi.
Tuy cách giải quyết này rất thích hợp để vận chuyển các cuộc gọi thoại với một dải tần cố
định và những yêu cầu nghiêm ngặt về độ trễ, nhưng nó hoạt động không tốt đối với việc truy
cập Internet. Trong Internet, tất cả dữ liệu đều được vận chuyển trong các gói dữ liệu. Hơn nữa,
các gói dữ liệu chỉ được trao đổi giữa hai thiết bị đầu cuối (endpoint) khi có một đường nối kết
được thiết lập, nhưng đường nối kết này hay thay đổi. Ví dụ tiêu biểu là một phiên duyệt Web,
trong đó một người dùng ghé đến vài trang Web, thậm chí nhiều khi cùng một lúc ghé đến nhiều
trang. Khi một trang Web được truyền đi, nó muốn sử dụng càng nhiều thông lượng hiện có càng
tốt chứ không phải bị giới hạn ở một kênh chuyển kênh vốn được thiết kế để vận chuyển những
luồng dữ liệu thoại hoặc hình số hóa băng hẹp. Các đường nối kết Internet nhiều khi cũng chạy

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 11

không tải (tức không vận chuyển dữ liệu gì cả) trong một thời gian dài. Trong thời gian này, tốt
nhất là tài nguyên mạng nên trao cho những người dùng khác. Điều này cũng không thể thực
hiện được đối với một đường truyền chuyển kênh, bởi vì khi đã được thiết lập thì nó là một kênh
dành riêng (exclusive channel), cung cấp một thông lượng không đổi giữa hai bên tham gia, bất
kể họ có tạm ngừng nói giữa cuộc gọi hay không.

Trong mạng lõi, mỗi kênh


dành riêng vận chuyển một Trong mạng vô tuyến, các
cuộc thoại hoặc truyền dữ đường truyền chuyển kênh
liệu IP với tốc độ không đổi được dùng cho các cuộc gọi.
Dữ liệu thoại và báo hiệu không
được vận chuyển qua IP.
Hình 1.2: Hệ thống chuyển kênh với các thành phần mạng xử lý những phần việc chuyên biệt.
Vì những lý do này, các mạng 3G đều chứa một thành phần mạng lõi riêng để gửi chuyển tiếp
các gói dữ liệu thay vì chuyển kênh, như được minh họa trong Hình 1.3. Mạng giao tiếp vô tuyến
phục vụ cả mạng chuyển kênh và mạng chuyển gói, và khi người dùng di động cần phục vụ thì
tùy theo họ cần một đường truyền chuyển kênh hay một đường truyền chuyển gói, một kiểu
đường truyền thích hợp sẽ được thiết lập qua không trung. Một số hệ thống mạng, như UMTS
chẳng hạn, còn cho phép các thiết bị dùng đồng thời các đường truyền kênh và gói, cho nên
người dùng có thể thực hiện một cuộc gọi trong khi đang kết nối Internet và đang truyền dữ liệu.

Hình 1.3: Kiến trúc đôi chuyển kênh và chuyển gói tiêu biểu của các mạng 3G. Thành phần
HLR không được trình bày ở đây.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 12

Các mạng đường dây cố định truyền thống sử dụng một kiến trúc phân đôi tương tự như vậy
để đồng thời thực hiện được cuộc gọi thoại và truy cập Internet. Từ khi dịch vụ DSL trở nên phổ
biến, dịch vụ thoại tương tự và DSL sử dụng cùng một đường truyền vật lý dẫn đến nhà khách
hàng. Vì thế, người ta dùng một splitter để phân tách tín hiệu thoại analog khỏi tín hiệu DSL, bởi
vì chúng hoạt động ở những dải tần khác nhau. Ở tổng đài, người ta dùng một splitter tương tự
như vậy để kết nối đường dây thuê bao với tổng đài chuyển kênh để chuyển tiếp các cuộc gọi
thoại và với một bộ tách kênh truy cập DSL (DSL Access Multiplexer _ DSLAM) để kết nối
Internet. Sau đó các tổng đài điện thoại được nối với nhau thông qua các đường truyền chuyển
kênh, còn các DSLAM thì nối kết với một mạng lõi chuyển gói. Tuy nhiên sau đó không lâu,
người ta còn nghĩ ra một cách giải quyết khác hẳn để vận chuyển các cuộc gọi thoại qua các
đường kết nối Internet. Thay vì nối điện thoại tương tự với splitter, thiết bị truy cập DSL được
trang bị một jack cắm dành cho điện thoại. Thiết bị truy cập DSL số hóa tín hiệu thoại rồi gửi nó
đi dưới dạng các gói IP qua đường dây DSL. Trong nhiều trường hợp, người ta dùng một SIP
Server dựa trên giao thức IP và RTP (Real Time Transport Protocol) để thay cho tổng đài điện
thoại chuyển kênh địa phương. Cách giải quyết này có vài ưu điểm:
 Chỉ cần một loại mạng lõi duy nhất, bởi vì các tổng đài chuyển kênh và mạng chuyển kênh
giữa giữa chúng không còn cần thiết nữa.
 Sử dụng một mạng IP để truyền các cuộc gọi thoại sẽ giúp các công ty cung cấp dịch vụ
Internet nào không phải công ty điện thoại dễ cung cấp các dịch vụ thoại hơn, bởi vì bộ phận
điều khiển mạng không còn cần phải được đặt tại tổng đài địa phương nữa. Nhà cung cấp dịch
vụ có thể kết hợp các dịch vụ thoại với các dịch vụ khác. Bởi vì khi đường truyền có thông
lượng lớn hơn, người dùng có thể sử dụng nó cho mục đích khác, ví dụ như trao đổi ảnh với
người khác trong khi đang tham gia cuộc thoại, hoặc đưa thêm phim ảnh vào một thời điểm
nào đó trong khi trò chuyện.
Trong khi xu hướng chuyển sang VoIP đã và đang diễn ra trong các mạng đường dây cố định,
thì các mạng không dây vẫn chưa theo kịp. Ở đây, mọi sự diễn ra chậm hơn nhiều vì một số lý
do. Lý do chính là các mạng di động 3G không có thông lượng cần thiết để hậu thuẫn VoIP, vốn
đòi hỏi một tốc độ truyền cao hơn so với các cuộc gọi chuyển kênh. Sự chênh lệch này gần đây
đã được giảm thiểu phần nào bởi việc trình làng các mạng 3.5G, nhưng chỉ các mạng Sau 3G
(Enhanced IMT-2000 và IMT-Advanced) mới có đủ thông lượng và một mạng giao tiếp vô
tuyến được tối ưu hóa để hậu thuẫn VoIP ở quy mô lớn.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 13

Chương 2:

Tổng quan các kiến trúc mạng Sau 3G


Các hệ thống UMTS, HSPA và HSPA+

2.1. Tổng quan


Như đã nói ở Chương 1, xu hướng chung phát triển trong viễn thông là chuyển dịch tất cả các
ứng dụng sang một giao thức truyền chung, đó là IP. Lợi ích to lớn của cách tiếp cận này là các
ứng dụng không còn đòi hỏi một công nghệ mạng riêng nữa, mà sẽ vận hành được trên những
loại mạng khác nhau. Điều này quan trọng bởi vì, một ứng dụng có thể vận hành tốt nhất trên
một mạng tổ ong vào một lúc nào đó, nhưng vào những lúc khác thì dùng các công nghệ không
dây tại gia hoặc mạng văn phòng như WiFi chẳng hạn sẽ thuận tiện hơn và rẻ hơn. Số lượng
ngày càng tăng của các thiết bị đa-vô-tuyến (multiradio device, tức thiết bị có nhiều cách giao
tiếp vô tuyến khác nhau) ủng hộ xu hướng này. Hiện nay đã có, và trong tương lai sẽ có nhiều
hơn nữa, công nghệ không dây được triển khai song song nhau,. Điều này là cần thiết, bởi vì việc
triển khai một mạng công nghệ mới cần một lượng thời gian đáng kể, và thường thì lúc đầu chỉ
có một số ít thiết bị hậu thuẫn nó. Do đó các công nghệ mạng khác nhau cần được triển khai
không chỉ song song nhau mà còn cùng một chỗ nữa. Ngoài ra, khi xuất hiện các công nghệ mới,
các công nghệ mạng hiện có cũng tiếp tục phát triển để cung cấp hiệu năng cải thiện trong khi
công nghệ mới chưa được triển khai xong hay chỉ đang trong quá trình triển khai. Vì những lý do
ấy, chương này sẽ khảo sát một số công nghệ Sau 3G khác nhau, nhấn mạnh vào các công nghệ
có thị phần lớn nhất. Ở đây, thuật ngữ “mạng Sau 3G” được dùng để chỉ các mạng tổ ong mà
cung cấp những tốc độ truyền cao hơn các mạng UMTS ban đầu (Release 99), vốn có tốc độ
truyền dữ liệu từ 384 Kbit/s đến 2Mbps cho mỗi người dùng.
Trong thế giới mạng tổ ong, chuẩn UMTS (Universal Mobile Telecommunication System)
với thế hệ cải tiến HSPA (High-speed Packet Access) của nó hiện đang là hệ thống Sau 3G được
triển khai rộng rãi nhất. Vì thế hệ thống này (và thế hệ tương lai HSPA+ của nó) sẽ được đề cập
trước.
Chương kế tiếp tập trung bàn về công nghệ hậu duệ của HSPA và HSPA+, vốn thường được
gọi là Long Term Evolution (LTE). Trong các tài liệu về chuẩn, LTE được gọi là EPS (Evolved
Packet System) và được phân thành hai thành phần: EPC (Evolved Packet Core) và E-UTRAN
(Enhanced-UMTS Terrestrial Radio Access Network).
Tuy LTE chủ yếu đáp ứng nhu cầu của các nhà cung cấp dịch vụ mạng không dây hiện nay,
nhưng nó cũng thu hút sự quan tâm lớn từ những công ty mới trong việc xây dựng những mạng
không dây để truy cập Internet. Nhiều công ty như vậy lại bị hấp dẫn bởi chuẩn WiMAX
(Worldwide Interoperability for Microwave Access), đặc biệt là với kiểu giao tiếp không trung
802.16e (tức WiMax di động). WiMAX rất giống với LTE, nhưng được thiết kế mới hoàn toàn
chứ không cần tương thích ngược với các thế hệ trước. Vì thế, nó thích hợp hơn với nhu cầu của
các công ty mới. Do nghĩ rằng cả LTE lẫn WiMAX sẽ giành được thị phần lớn, chúng tôi sẽ bàn
về cả hai công nghệ này để cho thấy những điểm tương đồng và khác biệt giữa chúng.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 14

2.2. UMTS
2.2.1. Giới thiệu
Những phác thảo đầu tiên của các tài liệu chuẩn UMTS được giới thiệu cho các tổ công tác
của 3GPP vào cuối năm 1999, nhưng những công trình nghiên cứu khả thi về hệ thống này đã
bắt đầu sớm hơn nhiều. Một vài mạng UMTS đã được ra mắt công chúng vào năm 2003, nhưng
mãi tới cuối năm 2004, khi các điện thoại di động UMTS thỏa đáng (về giá cả và chức năng)
được tung ra thị trường và các mạng UMTS được triển khai ra nhiều thành phố, thì những người
chấp nhận đầu tiên mới đủ khả năng và thực sự sử dụng UMTS. Quá trình từ khi có bộ đặc tả
đầu tiên cho đến khi có những cuộc triển khai đầu tiên mất đến năm năm, đó là điều không bình
thường, và có lẽ do tính phức tạp của nó. Có lẽ cũng nên xem xét điều này khi khảo sát những
công nghệ mạng mới nổi lên như LTE và WiMAX, vốn cũng đang ở giai đoạn chuyển tiếp giữa
lúc chuẩn hóa và lúc triển khai.
2.2.2. Kiến trúc mạng
Hình 2.1 cho thấy một cái nhìn tổng quát về kiến trúc của một mạng UMTS. Phía trên bên trái
của hình đó là thành phần truy cập vô tuyến của mạng, vốn được các chuẩn của 3GPP gọi là
UTRAN (UMTS Terrestrial Radio Access Network _ Mạng truy nhập Vô tuyến Mặt đất của
UMTS).

Hình 2.1: Kiến trúc của mạng chung GSM/UMTS.


2.2.2.1. Trạm cơ sở (base station)
UTRAN bao gồm hai thành phần con: Base Station (trạm cơ sở) và Radio Network Controller
(bộ điều khiển mạng vô tuyến). Các trạm cơ sở (được gọi là NodeB trong các tài liệu về chuẩn
của 3GPP) nằm ở rìa ngoài của mạng, liên lạc với các thiết bị di động qua không trung. Ở các
thành phố, mỗi trạm cơ sở thường phủ sóng một vùng (area) với bán kính khoảng 1 Km, đôi khi

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 15

ít hơn, tùy theo mật độ dân cư và yêu cầu về thông lượng. Để gia tăng lượng dữ liệu và số lượng
cuộc gọi thoại đồng thời trên mỗi trạm cơ sở, vùng phủ sóng của mỗi trạm thường được chia ra
thành hai hoặc ba phân vùng (sector), hoặc ô (cell) như được gọi trong các chuẩn. Mỗi phân
vùng có ăng-ten định hướng và thiết bị thu phát của riêng nó. Như vậy, một NodeB với ba sector
bao gồm ba cell riêng rẽ. Nếu một người dùng đi quanh một trạm cơ sở như vậy trong thời gian
một cuộc thoại đang diễn ra hoặc trong khi dữ liệu đang được truyền tải, anh ta hoặc chị ta sẽ lần
lượt được phục vụ bởi từng cell của trạm ấy. Trong suốt thời gian ấy, mạng vô tuyến sẽ chuyển
giao (hand-over hoặc hand-off) mối nối kết của anh ta từ cell này sang cell kế cận khi thấy điều
kiện tín hiệu vô tuyến xấu đi. Như vậy, về mặt kỹ thuật thì sự chuyển giao giữa các cell của cùng
một trạm cơ sở có rất ít sự khác biệt với sự chuyển giao giữa các cell của các trạm cơ sở khác
nhau. Tình huống này và những tình huống quản lý tính di động khác sẽ được bàn kỹ hơn trong
mục 2.2.3. Hệ thống kết nối vô tuyến giữa các thiết bị di động và trạm cơ sở còn được gọi là “air
interface” (tạm dịch: giao tiếp vô tuyến4). Các “điện thoại di động”, “thiết bị đầu cuối”
(terminal), hoặc “thiết bị di động” (theo cách gọi thông thường) sử dụng mạng UMTS được gọi
là các UE (User Equipment _ thiết bị người dùng) hoặc MS (Mobile Station _ Trạm Di động)
trong chuẩn này.
Hiện nay, các trạm cơ sở UMTS được nối với mạng lõi thông qua một hoặc nhiều kênh truyền
E1 (theo chuẩn của châu Âu) tốc độ 2.048 Kbit/s và T1 (theo chuẩn của Bắc Mỹ) tốc độ 1.544
Kbit/s. Mỗi kênh truyền E1 hoặc T1 luận lý được mang trên một cặp đường cáp đồng vật lý. Một
giải pháp thay cho cáp đồng là dùng một đường nối vi ba, vốn có thể mang vài kênh E1 luận lý.
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ UMTS thích dùng cách đó hơn, bởi vì họ không cần phải trả phí
thuê bao hàng tháng cho chủ của hạ tầng cơ sở cáp đồng. Để sử dụng hết dung lượng giao tiếp vô
tuyến của một trạm cơ sở UMTS nhiều cell, cần đến vài kênh E1. Giao thức được dùng trên
những kênh truyền này là ATM (Asynchronous Transfer Mode), một công nghệ truyền tải mạnh
mẽ, được sử dụng rộng rãi ở nhiều mạng viễn thông cố định cũng như không dây khắp thế giới
hiện nay. Hình 2.2 minh họa một tủ trạm cơ sở (base station cabinet) tiêu biểu đặt tại lề đường.
Trong thực tế, các trạm cơ sở thường được lắp đặt trên các mái nhà phẳng gần ăng-ten, bởi vì
nhiều khi không có chỗ trống trên mặt đất, và bởi vì cách này làm giảm đáng kể chiều dài (và vì
thế, cả chi phí) cho hệ thống cáp nối giữa tủ trạm cơ sở và ăng-ten.
Khi công nghệ phát triển, việc dùng các kênh E1 qua cáp đồng sẽ trở nên khó khăn hơn bởi vì
số lượng đường cáp dẫn đến một trạm cơ sở có giới hạn thôi, và quan trọng hơn nữa, tăng số
lượng cáp thì phí thuê cáp hằng tháng sẽ cao. Vì thế, các nhà cung cấp dịch vụ mạng đã bắt đầu
dùng một số công nghệ truyền thay thế khác để nối kết các trạm cơ sở vào mạng lõi:

4
Newton’s Telecom Dictionary (20th Edition) định nghĩa “air interface” như sau: Air interface is a cellular
industry term. It refers to the system that ensures compatibility between equipment (cell phones) and the base
stations. It involves the specification of channel frequencies and widths, modulation, power and power sensitivity
levels, and data framing. The system also selects which radio channels are employed during a call. Air interface is
the standard operating system of a mobile network. A four-layer protocol stack which ensures compatibility between
terminal equipment and base stations, or hubs, through the development of a standard. In terms of the OSI
Reference Model, the layers include the Physical (PHY), the Media Access Control (MAC) layer, the Data Link
Control (DLC) layer, and the Network layer. The PHY layer specifies radio characteristics such as channel
frequencies and widths, modulation schemes, power and power sensitivity levels, and data framing. The MAC layer,
which cuts across the PHY and DLC layers, specifies the procedures by which the wireless terminal and the base
station negotiate selection of the radio channel to be employed. The DLC layer specifies the manner in which the
frames are sequenced, and the mechanism used to ensure their integrity during transmission. The Network layer
specifies the mechanism used to identify and authenticate the wireless terminal to the base station. Air interface are
specified for technologies such as AMPS (Advanced Mobile Phone System), CDMA (Code Division Multiple
Access), DECT (Digital European Cordless Telecommunications), GSM (Global System for Mobile
Communications), PCS (Personal Telecommunications Services), and PWT (Personal Wireless
Telecommunications), and TDMA (Time Division Multiple Access).

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 16

Hình 2.2: Một tủ trạm cơ sở GSM hoặc UMTS tiêu biểu.


 Đường nối vi ba dung lượng cao (như đã nói ở trên): một đường nối vi ba duy nhất có thể
được dùng để vận chuyển vài kênh truyền E1 vật lý. Các thiết bị vi ba gần đây nhất có khả
năng đạt tốc độ vượt quá 50 Mbit/s.
 Đường cáp quang: nhiều nhà cung cấp đường dây cố định hiện đang triển khai các cáp
quang bổ sung, đặc biệt là ở những vùng đô thị đông đúc, để cung cấp khả năng truy cập
Internet tốc độ rất cao cho các doanh nghiệp và tư gia. Loại đường nối này cũng lý tưởng để
kết nối các trạm cơ sở vào phần còn lại của hạ tầng còn lại của một mạng không dây. Tuy
nhiên, trong thực tế chỉ có một lượng nhỏ trạm cơ sở đã triển khai có sử dụng cáp quang kéo
tới tủ mà thôi, có lẽ do chi phí cáp quang còn cao.
 ADSL/VDSL: một giải pháp thay thế khả thi cho trực tiếp sử dụng cáp quang là nối các
trạm cơ sở vào một mạng truyền dẫn quang thông qua các đường nối VDSL tốc độ cao. T-
Mobile ở Đức là một trong các nhà cung cấp dịch vụ đầu tiên chọn giải pháp này. Trong một
số trường hợp, trạm cơ sở vẫn cần ít nhất một kênh E1 để đồng bộ hóa trạm đó với phần còn
lại của mạng và để vận chuyển các cuộc gọi thoại.
 Ethernet: một giao thức truyền tải đang trở nên rất được ưa chuộng hiện nay trong các
mạng truy nhập vô tuyến là IP trên Ethernet. Điều này được phản ảnh trong các kiểu thiết kế
mới dành cho trạm cơ sở UMTS/HSPA. Các thiết kế này có thể dùng các đường truyền E1
dựa trên ATM hoặc đường truyền Ethernet sử dụng giao thức IP. Đường truyền Ethernet này
dùng mạch giao tiếp cáp cặp xoắn chuẩn 100Base-TX với tốc độ truyền 100 Mbit/s vốn
thường được dùng với các thiết bị IT khác như PCs và máy tính xách tay, hoặc dùng mạch
giao tiếp cáp quang. Trong trường hợp dùng hệ thống cáp đồng, thường cần đến thiết bị bổ
sung để vận chuyển các khung (frame) Ethernet qua những khoảng cách xa hơn, bởi vì chuẩn
100Base-TX hạn chế chiều dài đường cáp ở mức 100 m thôi.
2.2.2.2. Bộ điều khiển mạng vô tuyến (Radio Network Controller _
RNC)
Thành phần con thứ hai của UTRAN là bộ điều khiển mạng vô tuyến (Radio Network
Controller _ RNC). Nó đảm trách những công việc quản lý và điều khiển sau đây:
 Thiết lập các đường nối kết vô tuyến (radio connection), còn được gọi là thiết lập kênh
truyền tải (bearer establishment). Việc lựa chọn các đặc tính kênh truyền tải, như thông lượng
tối đa chẳng hạn, dựa trên dung lượng vô tuyến mà kênh đó có thể có, loại tải cần truyền

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 17

(thoại hay dữ liệu), những yêu cầu về chất lượng dịch vụ, và những chọn lựa thuê bao của
người dùng.
 Quản lý tính di động (mobility management) trong khi một đường truyền tải vô tuyến
được thiết lập, tức là kiểm soát sự chuyển giao phục vụ giữa các cell khác nhau và các trạm
cơ sở khác nhau của mạng.
 Kiểm soát quá tải (overload control) trong mạng và trên đường truyền vô tuyến. Trong
những trường hợp mà số người dùng muốn truyền tải nhiều hơn tài nguyên (số kênh truyền
tải, thông lượng) khả dụng, RNC có thể chặn lại những yêu cầu thiết lập kênh truyền tải mới
để phòng ngừa những kênh đã được thiết lập bị suy yếu hoặc rớt. Thay vì vậy, RNC cũng có
thể giảm thiểu thông lượng của các kênh đã được thiết lập. Ví dụ, có thể một yêu cầu lập kênh
truyền dữ liệu mới từ một thuê bao nào đó sẽ bị mạng chặn lại nếu tải trong cell bao quanh
thuê bao đó đã đạt đến giới hạn, nhưng nếu thuê bao đó yêu cầu một cuộc thoại mới thì mạng
có thể giảm thông lượng trên một kênh dữ liệu đang có để cho phép cuộc thoại đó được thiết
lập. Trong thực tế, việc chặn sự thiết lập một kênh để truyền dữ liệu rất hiếm khi xảy ra, bởi
vì hầu hết các nhà điều hành mạng đều giám sát chặt việc sử dụng mạng của họ và tháo gỡ
những chỗ tắc nghẽn, ví dụ như bằng cách lắp đặt những bộ thu phát bổ sung ở một trạm cơ
sở, bằng cách tăng dung lượng backhaul giữa trạm cơ sở và RNC, hoặc bằng cách lắp đặt các
trạm cơ sở bổ sung để làm giảm kích thước vùng phủ sóng và vì vậy giảm số lượng người
dùng của mỗi trạm.
2.2.2.3. Trung tâm chuyển kênh di động (Mobile Switching Center _ MSC)
Nhìn sang bên phải Hình 2.1, ta có thể thấy rằng các RNC được nối với các nút cổng nối
(gateway) nằm giữa mạng truy nhập vô tuyến và mạng lõi. Trong UMTS, có hai thực thể mạng
lõi độc lập với nhau: mạng lõi chuyển kênh và mạng lõi chuyển gói. Góc trên bên phải Hình 2.1
cho thấy MSC, là đơn vị trung ương của mạng lõi chuyển kênh. Nó xử lý các cuộc gọi thoại và
hình, đồng thời phụ trách việc gửi chuyển tiếp các tin nhắn SMS thông qua mạng vô tuyến đến
các thuê bao. Như đã nói trong Chương 1, chuyển mạch kênh nghĩa là một đường truyền dành
riêng được thiết lập cho mỗi cuộc gọi giữa hai thuê bao thông qua MSC, và đường truyền này
được giữ không đổi trong khi cuộc gọi đó đang diễn ra. Các mạng di động lớn thường có vài
MSC, mỗi cái chịu trách nhiệm một khu vực địa lý khác nhau. Tất cả các RNC nằm trong khu
vực của một MSC được nối kết với MSC đó. Mỗi MSC trong mạng chịu trách nhiệm về việc
quản lý tất cả những người dùng của mạng trong khu vực của nó và việc thiết lập các đường
truyền chuyển kênh cho các cuộc gọi đến và đi. Khi một UE yêu cầu thiết lập một cuộc thoại,
RNC ở vùng có thuê bao đó gửi chuyển tiếp yêu cầu ấy đến MSC nối với nó. Kế đến, MSC này
kiểm tra xem người dùng đó có được phép thực hiện một cuộc gọi đi không, nếu có thì ra lệnh
cho RNC thiết lập một kênh truyền tải vô tuyến thích hợp. Cùng lúc đó, nó thông báo cho bên
được gọi về yêu cầu thiết lập cuộc gọi này hoặc, nếu bên được gọi ấy nằm ở một khu vực khác
hoặc mạng khác, thiết lập một đường truyền chuyển kênh đến MSC phụ trách khu vực đó hoặc
mạng đó. Nếu bên gọi ở trong cùng mạng với bên được gọi, UE của họ có thể liên hệ thẳng với
MSC phụ trách bên được gọi. Nhưng trong nhiều trường hợp, bên được gọi không ở trong cùng
mạng hoặc không phải là một thuê bao di động. Trong trường hợp như vậy, một đường truyền
chuyển kênh sẽ được thiết lập với một GMSC (Gateway MSC _ MSC Cổng nối), được minh họa
ở phía trên bên phải trong Hình 2.1. Tùy theo số điện thoại của bên được gọi, GMSC này sẽ gửi
chuyển tiếp cuộc gọi ấy đến một mạng điện thoại cố định hoặc di động bên ngoài. Trong thực tế,
các thiết bị MSC thường phục vụ luôn các thuê bao di động và đóng luôn vai trò GMSC.
Để MSC quản lý được các thuê bao và thông báo cho họ về các cuộc gọi đến, các UE phải
đăng ký với MSC khi chúng được bật lên. Vào đầu quá trình đăng ký, UE gửi đi IMSI
(International Mobile Subscriber Identity _ Mã số Nhận diện Thuê bao Quốc tế) của nó, vốn
được lưu trên card SIM của máy, đến MSC. Nếu IMSI đó không có sẵn trong cơ sở dữ liệu VLR

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 18

(Visitor Location Register) của MSC từ một yêu cầu đăng ký trước đó, thì MSC sẽ tra cứu cơ sở
dữ liệu người dùng chính của mạng HLR (Home Location Register) để biết thông tin thuê bao
(subscription information) và thông tin xác minh (authentication information) của người dùng.
Thông tin xác minh được dùng để xác minh tính hợp lệ của yêu cầu đăng ký và để thiết lập một
đường truyền mã hóa để trao đổi các thông điệp báo hiệu. Sau đó, thông tin xác minh cũng được
dùng trong suốt quá trình thiết lập một cuộc gọi thoại hoặc hình để mã hóa đường tiếng của cuộc
gọi. Chú ý rằng, sự trao đổi các thông điệp này không dựa trên giao thức IP mà dựa trên một
chồng giao thức báo hiệu ngoại băng gọi là SS7 (Signaling System Number 7). Ngoại băng (out-
of-band) nghĩa là các thông điệp đó được trao đổi trong đường truyền dành riêng cho báo hiệu,
khác với đường truyền chuyển kênh được dùng để vận chuyển dữ liệu thoại và hình.
2.2.2.4. Thẻ SIM
Một thành phần quan trọng trong các mạng UMTS, mặc dù nó rất nhỏ, là thẻ SIM (Subscriber
Identity Module). Nó cho phép việc thuê bao mạng tách rời với UE, vì vậy người dùng có thể
mua thẻ SIM và UE riêng biệt với nhau. Do đó, có thể dùng một thẻ SIM với nhiều thiết bị, hoặc
dùng nhiều thẻ SIM với chỉ một thiết bị. Điều này khuyến khích sự cạnh tranh giữa các nhà cung
cấp dịch vụ mạng, bởi vì người dùng có thể đổi từ mạng này sang mạng khác nhanh chóng nếu
giá cả mạng cũ không còn cạnh tranh nữa. Khi đi ra nước ngoài, người dùng cũng có thể mua và
sử dụng một thẻ SIM trả trước tại nơi đến để tránh phải trả phí roaming. Việc tách rời chuyện
thuê bao mạng khỏi các UE còn có một lợi ích nữa là, người dùng không còn bắt buộc phải mua
các UE từ một nhà cung cấp dịch vụ mạng nữa, mà cũng có thể mua từ những cửa hàng độc lập,
ví dụ như các cửa hàng điện tử và cửa hàng điện thoại di động mà bán SIM thuê bao cho vài nhà
cung cấp dịch vụ mạng cùng lúc. Điều này kích thích sự cạnh tranh giá cả các thiết bị di động,
điều sẽ không xảy ra nếu người dùng phải mua thiết bị từ một nguồn cung cấp duy nhất.
2.2.2.5. Short Message Service Center (SMSC)
Có một dịch vụ truyền dữ liệu đã phổ biến từ lâu trước khi xuất hiện các công nghệ truy cập
Internet không dây tốc độ cao hiện nay, đó là SMS (Short Messaging Service _ dịch vụ nhắn tin
ngắn), được dùng để gửi các thông điệp văn bản giữa các người dùng di động với nhau. Bởi vì
dịch vụ này có từ giữa thập kỷ 1990, nên nó là một phần không thể thiếu của mạng lõi chuyển
kênh GSM/UMTS. Các thông điệp văn bản SMS được vận chuyển theo kiểu trữ tạm rồi chuyển
tiếp (store and forward). Khi một thuê bao gửi đi một thông điệp văn bản, thông điệp đó được
gửi qua kênh báo hiệu, vốn có mục đích chính là vận chuyển các thông điệp dành cho việc thiết
lập cuộc gọi và quản lý tính di động, đến SMSC (Short Messaging Service Center _ Trung tâm
Dịch vụ Nhắn tin Ngắn). SMSC lưu trữ thông điệp đó rồi tra vấn cơ sở dữ liệu HLR để tìm xem
MSC nào hiện đang phụ trách thuê bao đích. Sau đó, nó gửi chuyển tiếp thông điệp đó, cũng
trong một kênh truyền SS-7, đến MSC kia. Khi nhận được thông điệp văn bản đó, MSC kia định
vị thuê bao đích bằng cách gửi đi một thông điệp nhắn tin (paging message) chứ không phải
chính thông điệp văn bản đó. Điều này là cần thiết, bởi vì trong nhiều trường hợp, thuê bao đích
tuy nối vào mạng nhưng không phải đang trong trạng thái tích cực (active) khi thông điệp văn
bản gửi tới nó, và vì thế MSC không biết cell nào hiện đang phục vụ thuê bao đó. Trên giao tiếp
vô tuyến, tin nhắn được gửi đi trên một kênh quảng bá (broadcast channel) mà tất cả các thiết bị
nối vào mạng đều nghe thấy được. Vì thế UE của thuê bao đích có thể nhận thông điệp nhắn tin
đó và gửi một câu trả lời đến MSC mặc dù không đang trong trạng thái truyền thông tích cực với
mạng. Sau đó MSC xác minh thuê bao ấy, kích hoạt chế độ mã hóa rồi chuyển giao thông điệp
văn bản đến đích. Trong trường hợp thuê bao đích không tiếp cận được (unreachable, tức ngoài
vùng phủ sóng hoặc đang tắt máy), việc chuyển giao thông điệp tạm thời không thực hiện được,
và SMSC sẽ tạm trữ thông điệp đó cho đến khi lại tiếp cận được thuê bao ấy.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 19

2.2.2.6. Các Điểm kiểm soát dịch vụ (Service Control Point _ SCP)
Các thành phần không bắt buộc phải có, nhưng rất quan trọng, trong các mạng lõi chuyển
kênh là các cơ sở dữ liệu và hệ thống luận lý kiếm soát tích hợp trên các SCP (Service Control
Point _ Điểm kiểm soát dịch vụ). Ví dụ như, cần có một SCP để cung cấp các dịch vụ thoại trả
trước, vốn cho phép người dùng nạp tiền cho một tài khoản bằng phiếu trả tiền trước rồi sử dụng
lượng tiền có trong tài khoản đó để thực hiện các cuộc gọi thoại và gửi các tin nhắn SMS. Đối
với mỗi cuộc gọi thoại hoặc SMS như vậy, MSC sẽ yêu cầu sự cho phép từ hệ thống luận lý
kiểm soát dịch vụ trả trước trên một SCP. Khi đó SCP ấy sẽ kiểm tra và sửa đổi số dư trên tài
khoản của người dùng đó và cho phép hoặc từ chối yêu cầu ấy. Các MSC liên lạc với các SCP
thông qua các kênh báo hiệu SS-7. Khi một người dùng trả trước di chuyển (roam) ra nước
ngoài, các MSC ở nước ngoài cũng cần liên lạc với SCP trong mạng nội địa của người dùng. Bởi
lẽ có nhiều nhà chế tạo MSC, nên chuẩn CAMEL (Customized Applications for Mobile
Enhanced Logic) đã qui định một mô hình và giao thức tương tác chung giữa các MSC và SCP.
Để cung cấp dịch vụ thực tế, thường thì các MSC chỉ cần nối với các SCP bằng các kênh báo
hiệu. Tuy vậy một số dịch vụ, như dịch vụ trả trước chẳng hạn, cũng đòi hỏi phải có một hệ
thống giao tiếp để cho phép người dùng kiểm tra dư số của họ và nạp tiền cho tài khoản của họ.
Trong thực tế có vài khả năng thực hiện hệ thống giao tiếp này. Hầu hết các nhà điều hành mạng
sử dụng một dạng thẻ cào và một hệ thống thoại tự động cho mục đích này. Vì thế, thường thì
cũng cần có các mạch thoại giữa các cổng thoại tương tác có kiểm soát của SCP và các MSC.
Ngoài ra, hầu hết các dịch vụ trả trước cũng cho phép người dùng nạp tiền hoặc kiểm tra số dư
tài khoản của họ thông qua các mã ngắn (ví dụ như *100#); như thế không cần thiết lập một cuộc
gọi thoại mà chỉ cần gửi các mã ngắn đó đến SCP thông qua một kênh báo hiệu SS-7.
2.2.2.7 Hệ thống tính cước (billing)
Ngoài hệ thống tính cước của các người dùng trả trước, vốn được thực hiện tức thời trên các
SCP, mạng lõi còn cần các thiết bị khác nữa để thu thập thông tin tính cước từ các MSC dành
cho các thuê bao trả sau. Đây là trách nhiệm của các server tính cước (billing server), không
được minh họa trong Hình 2.1. Thực chất, server tính tiền thu thập các bản ghi chi tiết cuộc gọi
(Call Detail Records _ CDR) từ các MSC và SMSC trong mạng rồi lắp ghép lại thành một hóa
đơn tính tiền hàng tháng cho mỗi người dùng căn cứ theo bảng giá được chọn. Các bản ghi chi
tiết cuộc gọi chứa những thông tin chẳng hạn như mã nhận diện của bên gọi, mã nhận diện của
bên được gọi, ngày tháng và thời gian của cuộc gọi và mã nhận diện của cell khởi đầu cuộc gọi.
Thông tin về vị trí cũng cần thiết, bởi vì các cuộc gọi được thiết lập từ các mạng nước ngoài
trong khi người dùng đang roaming được tính cước khác với các cuộc gọi khởi đầu từ mạng nội
địa. Một số nhà cung cấp dịch vụ mạng cũng dùng thông tin vị trí cho việc tính cước dựa theo
khu vực (zone-based billing), tức là họ đưa ra giá cước gọi rẻ hơn cho người dùng khi họ ở nhà
hoặc tại nơi làm việc. Một cách tính cước phổ biến khác nữa là tính giá cước rẻ hơn vào những
khoảng thời gian nhất định. Hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ mạng kết hợp nhiều phương án
tính cước vào một bảng giá, và liên tục thay đổi các phương án ấy. Điều này đòi hỏi một dịch vụ
tính cước dựa trên qui luật mềm dẻo, uyển chuyển.
2.2.2.8. Mạng lõi chuyển gói
Các thành phần của mạng UMTS được đề cập từ đầu tới giờ đã được thiết kế cho truyền tải
chuyển kênh. Để thông luồng với các dịch vụ trên Internet, vốn dựa trên chuyển gói, mạng
UMTS cần một phương thức tiếp cận khác. Đây là lý do một mạng chuyển gói được bổ sung
thêm cho hạ tầng mạng lõi chuyển kênh. Như có thể thấy trong Hình 2.1, RNC nối với cả mạng
lõi chuyển kênh lẫn mạng lõi chuyển gói. Thậm chí, các thiết bị UMTS có khả năng thiết lập các
đường truyền chuyển kênh và chuyển gói cùng một lúc. Vì thế, người dùng có thể thiết lập một
cuộc gọi thoại trong khi cùng lúc đó đang sử dụng thiết bị của mình như một modem cho máy

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 20

PC, hoặc để tải xuống những nội dung như một podcast chẳng hạn về UE của mình, mà không
cần ngắt đường truyền với Internet để cuộc gọi thoại diễn ra. Một lợi ích khác của việc được nối
với cả mạng chuyển kênh lẫn mạng chuyển gói là, các phiên nhắn tin tức thời sẽ không bị ngắt
khi thiết lập một cuộc gọi thoại.
Trước khi một UE có thể trao đổi dữ liệu với một mạng chuyển gói bên ngoài như Internet, nó
phải thực hiện hai việc. Đầu tiên, UE đó cần nối (attach) vào mạng lõi chuyển gói UMTS và thực
hiện thủ tục xác minh. Điều này thường được thực hiện sau khi UE đó bật lên và sau khi nó đã
đăng ký với mạng lõi chuyển kênh. Sau đó, UE đó có thể ngay lập tức, hoặc vào một thời điểm
nào đó sau này, yêu cầu cấp phát một địa chỉ IP từ mạng lõi chuyển gói. Quá trình này được gọi
là thiết lập một cuộc gọi dữ liệu (establishing a data call) hoặc thiết lập một bối cảnh PDP
(establishing a Packet Data Protocol). Kiểu nói “thiết lập một cuộc gọi dữ liệu” thật đáng chú ý,
bởi vì nó ám chỉ rằng việc thiết lập một đường truyền với Internet hoặc một mạng chuyển gói
khác cũng tương tự như việc thiết lập một cuộc gọi thoại vậy. Xét theo quan điểm tín hiệu thì hai
hoạt động này thực sự giống nhau. Tuy nhiên, hai loại đường truyền đó được thiết lập dựa trên
hai yêu cầu rất khác nhau. Trong khi các cuộc gọi thoại cần một đường truyền có độ trễ và thông
lượng không đổi, giữ nguyên trong khi cuộc gọi đó diễn ra, thì các cuộc gọi dữ liệu chỉ yêu cầu
có một đường nối kết vật lý trong khi các gói được truyền đi. Trong những khoảng thời gian
không có dữ liệu nào được truyền, kênh dành cho đường nối kết đó hoặc bị sửa đổi hoặc bị giải
phóng hoàn toàn, nhưng đường truyền luận lý của cuộc gọi dữ liệu ấy được giữ nguyên để việc
truyền dữ liệu có thể được tiếp tục bất kỳ lúc nào. Hơn nữa, địa chỉ IP của UE được giữ không
đổi cho dù không có tài nguyên nào được cấp phát trên giao tiếp vô tuyến. Trong UMTS, việc
tách rời chuyện nối với mạng lõi chuyển gói khỏi chuyện thiết lập một đường truyền dữ liệu có ý
nghĩa khi nhìn từ khía cạnh lịch sử và thực tế. Đại đa số các thiết bị di động hiện nay chủ yếu
được dùng cho truyền thoại, vốn không cần đường truyền Internet nào cả. Vì thế, các thiết bị di
động đó có thể thực hiện bổn phận chính của nó mà không cần thiết lập một cuộc gọi dữ liệu nào
cả. Nhưng tất cả các loại mạng di động khác được bàn trong chương này chỉ dựa vào một mạng
lõi chuyển gói thôi, và mạng lõi chuyển gói này cũng được dùng cho các cuộc gọi thoại. Cho
nên, việc nối với mạng và việc yêu cầu cấp phát một địa chỉ IP đều là một phần không thể thiếu
của cùng một thủ tục, và khái niệm “cuộc gọi dữ liệu” không còn là một phần riêng của thiết kế
hệ thống nữa.
2.2.2.9. Serving GPRS Support Node (SGSN)
Mạng lõi chuyển gói của UMTS, giống như mạng lõi chuyển kênh, cũng được phỏng theo
GSM với chỉ một vài sửa đổi. Đây là lý do khiến nút cổng nối của mạng lõi chuyển gói nối với
mạng truy nhập vô tuyến vẫn được gọi là SGSN (Serving GPRS Support Node). GPRS là dạng
viết tắt của General Packet Radio Service (dịch vụ vô tuyến truyền gói tổng quát), và là cái tên
ban đầu của dịch vụ chuyển gói được trình làng trong các mạng GSM. Giống như MSC, SGSN
chịu trách nhiệm quản lý thuê bao và tính di động của họ. Để cho phép người dùng di chuyển
giữa các vùng phủ sóng của các RNC khác nhau, SGSN theo dõi vị trí của người dùng và sẽ thay
đổi tuyến đường mà các gói IP gửi đến từ mạng lõi khi họ thay đổi vị trí. Các SGSN được nối
với các RNC thông qua các đường truyền ATM. Bởi lẽ các RNC nhiều khi kiểm soát đến hàng
trăm cell và ở khá xa một SGSN, nên người ta dùng các kênh cáp quang để nối giữa chúng với
nhau. Trong thực tế, một RNC được nối với một SGSN thông qua một hoặc nhiều kênh quang
OC-3 với tốc độ mỗi kênh là 155 Mbit/s (3 x 51.8 Mbit/s) hoặc một kênh quang OC-12 với tốc
độ 622 Mbit/s (12 x 51.8 Mbit/s). Bên trên tầng ATM, IP được dùng làm giao thức vận chuyển.
SGSN cũng có một đường báo hiệu nối với HLR của mạng, vốn ngoài những dữ liệu cần thiết
cho mạng chuyển kênh còn chứa thông tin thuê bao dành cho mạng chuyển gói. Thông tin này
bao gồm những thứ như: người dùng được phép sử dụng các dịch vụ chuyển gói hay không,
những thiết định chất lượng dịch vụ của họ chẳng hạn như tốc độ truyền tối đa mà mạng cấp cho

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 21

họ và các điểm truy cập Internet nào họ được phép dùng. Thông tin này còn cho thấy người dùng
có một hợp đồng trả trước hay không, trong trường hợp nào SGSN phải liên hệ với một SCP trả
trước rồi mới cấp phát một đường kết nối mà họ yêu cầu.
2.2.2.10. Gateway GPRS Support Node (GGSN)
Tại biên của mạng lõi chuyển gói có các GGSN (Gateway GPRS Support Node) nối kết mạng
lõi chuyển kênh của mạng không dây UMTS với Internet. Mục đích chính của chúng là che dấu
tính di động của người dùng khỏi các router trên Internet. Điều này là cần thiết bởi vì các IP
router gửi chuyển tiếp các gói dựa trên địa chỉ IP đích và một routing table. Cứ mỗi gói gửi đến,
mỗi router trên Internet đều tra cứu routing table của nó rồi gửi chuyển tiếp gói ấy đến router kế
tiếp thông qua cổng xuất được chỉ định trong routing table. Cuối cùng, các gói dữ liệu gửi đến
các thuê bao không dây UMTS sẽ được đưa đến GGSN. Ở đây, cơ chế routing khác hẳn. Bởi lẽ
các RNC và SGSN có thể thay đổi bất kỳ lúc nào do tính di động của thuê bao, cho nên một cơ
sở dữ liệu tĩnh chứa bước nhảy (hop) kế tiếp dựa trên địa chỉ IP như routing table của các IP
router trên Internet là không thích hợp. Thay vì vậy, GGSN có một bảng cơ sở dữ liệu liệt kê địa
chỉ IP của SGSN nào hiện chịu trách nhiệm đối với một thuê bao có địa chỉ IP đã biết. Như thế
thì, gói IP từ Internet gửi đến thuê bao đó sẽ được GGSN đưa vào trong một gói IP rồi gửi đến
địa chỉ đích là địa chỉ của SGSN ấy. Nguyên tắc này được gọi là tunneling (tạm dịch: truyền
xuyên hầm), bởi vì mỗi gói IP gửi đến thuê bao đều được gói trong một gói IP khác gửi đến
SGSN chịu trách nhiệm phục vụ thuê bao đó. Tại SGSN, gói IP ban đầu được khôi phục lại, và
lại được truyền xuyên hầm đến RNC, rồi đến UE của thuê bao. Chiều truyền ngược lại, từ thuê
bao ra Internet, cũng tương tự như vậy.

Hình 2.3: Việc truyền xuyên hầm gói IP trong một mạng lõi chuyển gói.
Hình 2.3 cho thấy một khâu tunneling một gói IP theo chiều từ SGSN ra GGSN trong mạng
lõi truyền gói của UMTS hoạt động như thế nào trong thực tế. Ở đây mạng nối giữa SGSN và
GGSN là mạng Ethernet, nên chồng giao thức là Ethernet ở tầng 2 rồi đến IP ở tầng 3. Tại máy
GGSN, khung Ethernet được tháo ra, để lộ gói IP được giao thức GPRS Tunneling Protocol
(GTP) bao bọc. Địa chỉ nguồn và đích của gói IP bao bọc là địa chỉ của máy SGSN và GGSN
của mạng ấy. Tiếp đến, phần mào đầu (header) của gói IP bao bọc ấy được tước ra ra để có được

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 22

gói IP gốc. Sau đó, giao thức IP gửi gói ấy ra Internet. Trong gói gốc này, địa chỉ nguồn và đích
là địa chỉ của máy thuê bao và một host trên Internet (là một Web server trong ví dụ này).
Ngoài việc truyền xuyên hầm, GGSN còn chịu trách nhiệm cấp phát địa chỉ IP cho các thuê
bao. Trong suốt thời gian thiết lập đường truyền, SGSN thẩm tra yêu cầu của thuê bao bằng
thông tin từ HLR, rồi yêu cầu cung cấp một địa chỉ IP từ quỹ địa chỉ của mạng di động, sau đó
thiết lập đường hầm từ SGSN sang GGSN. Trong thực tế, có hai loại địa chỉ IP. Nhiều nhà cung
cấp dịch vụ mạng di động sử dụng các địa chỉ IP riêng tư (private IP address), vốn không có giá
trị bên ngoài mạng ấy. Điều này cũng tương tự như việc dùng các địa chỉ IP riêng tư trong các
mạng tại gia, ở đó router DSL hoặc cáp cấp phát các địa chỉ IP riêng tư cho tất cả các thiết bị
trong mạng tại gia. Đối với thế giới Internet bên ngoài, mạng đó được đại diện bởi một địa chỉ IP
duy nhất, và router DSL hoặc cáp phải dịch (translate) các địa chỉ IP bên trong cùng với các số
hiệu cổng TCP và UDP tương ứng ra thành các địa chỉ IP bên ngoài cùng với các số hiệu cổng
TCP và UDP mới. Quá trình này được gọi là NAT (Network Address Translation _ Dịch Địa chỉ
Mạng). Nếu các địa chỉ IP riêng tư được dùng trong các mạng không dây, quá trình giống vậy
cũng được thực hiện bởi GGSN. Các nhà cung cấp mạng di động áp dụng cách này được hưởng
lợi là, họ chỉ cần một lượng địa chỉ IP công cộng (vốn hiện nay ngày càng cạn kiệt) ít hơn số
lượng thuê bao nhiều. Những nhà cung cấp dịch vụ mạng khác thì mặc định sử dụng các địa chỉ
IP công cộng cho các thuê bao của mình. Đối với các thuê bao thì đây là một lợi thế, bởi vì họ có
thể được các máy trên Internet tiếp cận trực tiếp, điều này cần cho những ứng dụng như hosting
một Web server hoặc các ứng dụng điều khiển máy tính ở xa (remote desktop control). Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng có một địa chỉ IP công cộng cũng có những bất lợi, đặc biệt là đối với các
thiết bị di động, bởi vì các gói không mong muốn từ Internet công cộng gửi đến có thể nhanh
chóng làm cạn pin của nó. Trong thực tế, một thuê bao có thể có vài biên dạng (profile, tức tập
hợp các đặc điểm riêng) nối kết, được gọi là các APN (Access Point Name). Vì thế nhà cung cấp
dịch vụ mạng có thể chọn những thuê bao và ứng dụng nào sẽ dùng địa chỉ IP riêng tư hay công
cộng.
2.2.2.11. Nối kết liên mạng với GSM
Góc dưới bên trái của Hình 2.1 minh họa một mạng vô tuyến GSM, vốn cũng được nối kết
với mạng lõi chuyển kênh và mạng lõi chuyển gói của UMTS. Tùy theo nhà cung cấp dịch vụ
mạng, mạng vô tuyến GSM đó có thể được nối với cùng các MSC và SGSN của mạng UMTS
hay với các MSC và SGSN riêng. Có thể thực hiện điều này bởi vì chức năng của các thành phần
này rất tương tự đối với GSM và UMTS. Tuy nhiên, các đường nối với các mạng vô tuyến 2G và
3G thì khác nhau. Trong đường truyền giữa SGSN và mạng truy nhập vô tuyến 3G thì ATM
được dùng làm giao thức vận chuyển cấp thấp, trong khi đường truyền giữa SGSN và mạng vô
tuyến 2G thì dựa trên giao thức Frame Relay. Trong một phiên bản mới hơn của chuẩn GSM,
người ta cũng chỉ định dùng một đường truyền dựa trên IP giữa SGSN và mạng truy nhập vô
tuyến 2G, tuy nhiên đến giờ điều đó chưa được áp dụng rộng rãi. Các MSC thì nối kết với mạng
truy nhập vô tuyến GSM thông qua những đường truyền chuyển kênh.
2.2.3. Giao tiếp vô tuyến và mạng truy nhập vô tuyến
2.2.3.1. Nguyên lý CDMA
Các hệ thống vô tuyến 2G như GSM là dựa trên các khe thời gian và các kênh truyền trên
những tần số sóng mang khác nhau (kết hợp TDMA và FDMA), cho nên chỉ một trạm cơ sở thôi
cũng có thể phục vụ nhiều người dùng đồng thời. Tuy phương thức truyền này rất thích hợp để
truyền các cuộc thoại chuyển kênh, nhưng đối với truyền dữ liệu chuyển gói thì nó không mềm
dẻo uyển chuyển, bởi vì dải tần của kênh GSM chỉ có 200 KHz, và vì mỗi lúc chỉ có thể cấp phát
có một lượng hạn chế dải tần cho mỗi người dùng thôi. Vì thế đối với các hệ thống 3G như
UMTS, người ta đã quyết định dùng một phương thức truyền khác làm giao tiếp vô tuyến. Một

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 23

công nghệ truyền thay thế đã khắc phục những hạn chế của một dải tần hẹp và đã được hiểu rõ
vào cuối những năm 1990, khi công trình xây dựng chuẩn UMTS bắt đầu, đó là CDMA (Code
Division Multiple Access). Thay vì dùng dải tần kênh hẹp 200 KHz như trong GSM, các kênh
W-CDMA (Wideband CDMA) được dùng trong UMTS có dải tần đến 5 MHz. Hơn nữa, thay vì
cấp phát các khe thời gian, tất cả người dùng liên lạc với trạm thu phát cùng một lúc nhưng sử
dụng một mã khác nhau. Các mã này còn được gọi là mã trải (spreading code), bởi vì mỗi bit
được biểu diễn trên giao tiếp vô tuyến bởi một từ mã (codeword). Mỗi đơn vị nhị phân của từ mã
được gọi là một chip (để phân biệt rõ với bit). Để có được tốc độ truyền 384 kbit/s, mỗi bit được
mã hóa thành tám chip, như vậy độ dài của mã trải là 8. Các mã được dùng bởi những người
dùng khác nhau để truyền đồng thời phải trực giao về mặt toán học với nhau. Trạm cơ sở có thể
phân biệt các cuộc truyền đồng thời từ các UE bằng cách áp dụng giải thuật ngược lại với giải
thuật được dùng trong các UE, như được minh họa trong Hình 2.4, và nhờ biết các mã được
dùng bởi mỗi UE.
Để thích nghi được với những yêu cầu thông lượng khác biệt của những người dùng khác
nhau, hệ thống có thể dùng vài độ dài mã trải khác nhau cùng một lúc. Đối với các cuộc gọi
thoại, vốn chỉ cần tốc độ truyền 12.2 Kbit/s, UMTS sử dụng độ dài mã trải là 128. Thế có nghĩa
là mỗi bit được biểu diễn trên giao tiếp vô tuyến bởi 128 chip, và đến 128 người dùng có thể gửi
các dòng dữ liệu thoại của họ đồng thời trong điều kiện lý tưởng. Trong thực tế, số lượng cuộc
gọi thoại đồng thời cho mỗi cell nhỏ hơn do sự can nhiễu từ các cell kế cận và những lỗi truyền
do những điều kiện truyền tín hiệu không lý tưởng. Vì thế, nếu muốn 128 cuộc truyền đồng thời,
cần có một tỉ lệ tín hiệu trên nhiễu (signal-to-noise _ S/N) cao hơn. Hơn nữa, một số mã được để
dành cho các kênh thông tin hệ thống quảng bá gửi đến tất cả các thiết bị trong cell, như sẽ được
bàn chi tiết hơn bên dưới. Trong thực tế, người ta ước lượng rằng mỗi cell UMTS có thể dung
chứa đến 60 cuộc gọi đồng thời, loại trừ số thuê bao đang sử dụng cell đó để truy cập Internet
chuyển gói.

Hình 2.4: Các dòng dữ liệu truyền đồng thời của hai người dùng đến cùng một trạm cơ sở.
Để tăng tốc độ truyền dữ liệu của UMTS vượt quá 384 kbit/s, người ta xây dựng các chuẩn
HSPA và HSPA+. Các chuẩn này cho phép mỗi UE sử dụng đồng thời nhiều mã trải, ngoài
những điểm tăng cường khác. Điều này sẽ được bàn chi tiết hơn trong các mục bên dưới.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 24

2.2.3.2. Kiến trúc kênh vô tuyến UMTS


Trong các mạng Ethernet có dây thường được dùng trong các môi trường tại gia và doanh
nghiệp hiện nay, việc nhận ra mạng rồi gửi các gói qua nó là điều đơn giản đối với các thiết bị.
Ngay khi cáp mạng được cắm vào, card mạng hiểu ngay cách thức truyền các gói qua đường cáp,
và cũng bắt đầu truyền ngay khi nó nhận ra không có thiết bị nào khác đang gửi dữ liệu đi cả.
Nhưng trong các mạng không dây, mọi chuyện phức tạp hơn. Trước hết, ở mỗi nơi thường có vài
mạng cùng hiện diện một lúc, cho nên thiết bị cần lấy thông tin về việc mạng nào thuộc nhà cung
cấp dịch vụ mạng nào. Ngoài ra, các thiết bị cần nhận ra các cell kế cận để có thể nhanh chóng
phản ứng với việc thay đổi mức tín hiệu khi người dùng di chuyển. Bởi vì việc giữ cho bộ thu
mở lên suốt ngày suốt đêm rất không hiệu quả về mặt tiêu thụ điện năng, cho nên cũng cần có
sẵn một cơ chế cho phép thiết bị ngắt điện đi trong những lúc có rất ít hoặc không có dữ liệu nào
được truyền đi, và chỉ định kỳ thức dậy để kiểm tra xem có dữ liệu mới hay không. Đối với các
cuộc gọi thoại, còn một điều quan trọng hơn nữa là bảo đảm một mức chất lượng dịch vụ nào đó
để ngăn không cho mạng bị rớt trong những trường hợp quá tải. Vì những lý do này, đường
truyền vô tuyến của UMTS được phân ra thành một số kênh tần số riêng. Việc truy cập và các
kênh tần số này được kiểm soát bởi mạng, và thuê bao có thể bị mạng từ chối cung cấp kênh tần
số trong trường hợp quá tải.
2.2.3.2.1. Mặt phẳng người dùng và mặt phẳng điều khiển
GSM, UMTS, và những hệ thống truyền thông không dây khác phân biệt hai loại dòng dữ liệu
truyền trong mạng. Trong UMTS, các dòng dữ liệu này được phân chia thành hai mặt phẳng
(plane) khác nhau: mặt phẳng người dùng (user plane) và mặt phẳng điều khiển (control plane).
Dữ liệu chạy trong mặt phẳng người dùng là loại dữ liệu được trao đổi trực tiếp và dễ hiểu giữa
người dùng và mạng, như dữ liệu thoại và các gói IP chẳng hạn. Mặt phẳng điều khiển thì chịu
trách nhiệm về tất cả dữ liệu báo hiệu trao đổi giữa người dùng và mạng. Như vậy, mặt phẳng
điều khiển được dùng cho dữ liệu báo hiệu và để trao đổi các thông điệp để thiết lập cuộc gọi
hoặc các thông điệp cập nhật vị trí chẳng hạn. Hình 2.5 cho thấy việc phân chia mặt phẳng người
dùng với mặt phẳng điều khiển, cũng như một số ví dụ về các giao thức được dùng trong các mặt
phẳng đó.

Hình 2.5: Mặt phẳng người dùng và mặt phẳng điều khiển.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 25

2.2.3.2.2. Kênh luận lý, kênh vận chuyển, và kênh vật lý


Để phân biệt các đặc tính vật lý của giao tiếp vô tuyến với đường truyền luận lý, thiết kế
UMTS đưa ra ba tầng kênh truyền khác nhau. Hình 2.6 cho thấy các kênh ở những tầng khác
nhau ở hướng xuống, còn trong Hình 2.7 là các kênh ở những tầng khác nhau ở hướng lên.
Các kênh luận lý: tầng kênh trên cùng được hình thành bởi các kênh luận lý. Các kênh này
được dùng để phân biệt những loại dòng dữ liệu nào phải được truyền qua giao tiếp vô tuyến,
chúng không chứa thông tin gì về cách truyền dữ liệu cả. Chuẩn UMTS qui định các kênh luận lý
sau:
 Kênh điều khiển quảng bá BCCH (Broadcast Control CHannel): kênh này được tất cả các
UE ở trạng thái Idle theo dõi nhằm nhận được thông tin hệ thống tổng quát từ mạng. Thông
tin được phân phối qua kênh này bao gồm những thứ như cách thức truy nhập mạng, những
mã nào được dùng bởi các cell kế cận, LAC (Location Area Code), mã nhận diện cell, và
nhiều thông số khác. Các thông số này được nhóm vào các thông điệp khối thông tin hệ thống
(System Information Block _ SIB) để giúp UE giải mã những thông tin ấy và để tiết kiệm
thông lượng của giao tiếp vô tuyến.

Hình 2.6: Các kênh luận lý, vận chuyển, và vật lý ở hướng xuống.

CCCH DTCH DCCH

RACH DCH

PRACH DPDCH DPCCH

Hình 2.7: Các kênh luận lý, vận chuyển, và vật lý ở hướng lên.
 Kênh điều khiển nhắn tin PCCH (Paging Control CHannel): kênh này được dùng để thông
báo với người dùng là có các cuộc gọi hoặc thông điệp SMS gửi tới hay không. Các thông
điệp nhắn tin cũng được dùng cho các cuộc gọi chuyển gói là có dữ liệu đến từ mạng hay
không sau khi tất cả các kênh vật lý dành cho một UE đã được giải phóng do thời gian thụ
động (inactive) của nó đã dài. Nếu UE nhận được một thông điệp nhắn tin, trước hết nó phải
báo cáo thông tin của cell nào đang phục vụ nó về cho mạng. Sau đó mạng sẽ thiết lập lại một
đường truyền RRC luận lý (sẽ giải thích ở mục 2.2.3.3. bên dưới) với UE, rồi những dữ liệu
đợi trong mạng mới được phân phối đến UE.
 Kênh điều khiển chung CCCH (Common Control CHannel): kênh này được dùng cho tất
cả các thông điệp gửi từ và đến từng UE (hai chiều) nào muốn thiết lập một đường truyền mới

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 26

với mạng. Điều này là cần thiết những lúc như người dùng muốn thực hiện một cuộc gọi
thoại, gửi một thông điệp SMS, hoặc thiết lập một kênh để truyền dữ liệu chuyển gói.
 Kênh điều khiển dành riêng DCCH (Dedicated Control CHannel): trong khi ba loại kênh
nói trên là các kênh chung, được nhiều UE trong cell quan sát cùng lúc, thì kênh DCCH chỉ
vận chuyển dữ liệu cho một UE duy nhất thôi. Mỗi kênh DCCH được dùng cho những việc
chẳng hạn như vận chuyển các thông tin để quản lý tính di động (Mobility Management _
MM) và các giao thức điều khiển cuộc gọi (Call Control _ CC) đối với các dịch vụ chuyển
kênh, các thông điệp quản lý tính di động gói (Packet Mobility Management _ PMM) và quản
lý phiên (Session Management _ SM) đối với các dịch vụ chuyển gói gửi từ và đến MSC và
SGSN.
 Kênh vận chuyển dữ liệu dành riêng DTCH (Dedicated Traffic CHannel): kênh này được
dùng để truyền dữ liệu người dùng giữa mạng và một người dùng duy nhất. Dữ liệu người
dùng có thể là những thứ như một tín hiệu thoại số hóa hoặc các gói IP của một đường truyền
chuyển gói. Nếu một kênh DTCH truyền một cuộc gọi thoại, nó bắt buộc phải ánh xạ (map)
kênh này lên một kênh vật lý dành riêng nào đó. Nhưng nếu kênh DTCH đó truyền dữ liệu
của một đường truyền chuyển gói thì nó cũng có thể được ánh xạ lên một kênh vật lý chung
(common) hoặc dùng chung (shared). Vì vậy, như có thể thấy trong Hình 2.6, một DTCH có
thể được ánh xạ không chỉ lên một kênh vận chuyển và vật lý dành riêng mà còn lên một kênh
vật lý chung hoặc dùng chung nữa.
Ghi chú: Trong UMTS Release 99, hầu hết các đường truyền chuyển gói IP sẽ luôn luôn
được vận chuyển qua một kênh vật lý dành riêng. Bằng cách này, tốc độ truyền dữ liệu dành
cho từng người dùng có thể đạt đến 384 Kbit/s ở hướng xuống. Các kênh vật lý chung/dùng
chung (ví dụ như kênh FACH được giới thiệu bên dưới) chỉ được dùng nếu người dùng đã thụ
động một thời gian dài, hoặc nếu người dùng chỉ thỉnh thoảng mới gửi hoặc nhận những
lượng dữ liệu nhỏ.
 Kênh vận chuyển dữ liệu chung CTCH (Common Traffic CHannel): kênh này được dùng
cho thông tin quảng bá trong cell. Trong GSM, cơ chế nhu vậy cũng đã được dùng, ví dụ như
bởi Vodafone ở Đức, để thông báo cho những thuê bao của các mạng đường dây điện thoại cố
định về các mã khu vực nào được dùng trong phạm vi cell hiện tại có thể được gọi từ điện
thoại di động để có bảng giá cước rẻ hơn.
Các kênh vận chuyển: các kênh tầng giữa này chuẩn bị các khung dữ liệu (frame) hướng
xuống để truyền qua giao tiếp vô tuyến bằng cách phân chia chúng ra thành các phần nhỏ hơn,
được bao bọc vào trong các khung RLC/MAC thích hợp hơn để truyền qua giao tiếp vô tuyến.
Phần mào đầu RLC/MAC, vốn được đặt ở trước mỗi khung, chứa những thông tin quan trọng
sau đây (ngoài những thứ khác ra):
 Chiều dài của khung (10, 20, 40, hoặc 80 ms);
 Kiểu cơ chế kiểm tra tính toàn vẹn (CRC checksum);
 Dạng thức mã hóa kênh để phát hiện lỗi (error detection) và sửa lỗi (error correction);
 Cách điều chỉnh tốc độ cho khớp (rate matching) nếu tốc độ của kênh vật lý và các tầng
bên trên không khớp;
 Thông tin điều khiển để phát hiện truyền không liên tục (Discontinuous Transmission _
DTX) nếu đầu bên kia không có dữ liệu nào để gửi trong một thời gian nhất định.
Tất cả các đặc tính này được kết hợp vào trong cái gọi là dạng thức vận chuyển (transport
format). Tuy nhiên việc mã hóa kênh trong thực tế chỉ được thực hiện trên tầng vật lý của Node-

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 27

B. Điều này rất quan trọng, bởi vì việc mã hóa kênh bao gồm cả việc bổ sung các bit phát hiện
lỗi và sửa lỗi vào dòng dữ liệu, vốn có thể là một lượng phụ phí (overhead) khổng lồ.
Các kênh luận lý được ánh xạ lên những kênh vận chuyển sau đây:
 Kênh quảng bá BCH (Broadcast CHannel): là phiên bản kênh vận chuyển của kênh luận lý
BCCH.
 Kênh dành riêng DCH (Dedicated CHannel): kênh vận chuyển này kết hợp dữ liệu từ các
kênh luận lý DTCH và DCCH. Kênh này có mặt trong cả hướng lên lẫn hướng xuống, bởi vì
dữ liệu được trao đổi theo cả hai chiều.
 Kênh nhắn tin PCH (Paging CHannel): là phiên bản kênh vận chuyển của kênh luận lý
PCCH.
 Kênh truy cập tùy ý RACH (Random Access CHannel): là phiên bản kênh vận chuyển của
kênh luận lý hai chiều CCCH theo hướng lên. Kênh này được các UE dùng để gửi các thông
điệp yêu cầu đường truyền RRC đến mạng nếu chúng muốn thiết lập một đường truyền dành
riêng với mạng (ví dụ như thiết lập một cuộc gọi thoại). Ngoài ra, kênh này còn được các UE
dùng để gửi dữ liệu gói của người dùng (ở trạng thái Cell-FACH, xem mục 2.2.3.3. bên dưới)
nếu không có kênh dành riêng DCH nào được thiết lập giữa UE và mạng. Tuy nhiên, cần lưu
ý rằng kênh này chỉ thích hợp cho những lượng dữ liệu nhỏ mà thôi.
 Kênh truy cập chuyển tiếp FACH (Forward Access CHannel): kênh này được mạng dùng
để gửi các thông điệp thiết lập đường truyền RRC đến các UE nào đã báo qua kênh RACH
rằng chúng muốn thiết lập một đường truyền với mạng. Thông điệp này chứa những thông tin
báo cho UE về cách truy nhập mạng. Nếu mạng vừa cấp phát một kênh dành riêng, thông điệp
này sẽ chứa những thông tin như mã trải nào sẽ được dùng ở hướng lên và hướng xuống.
Kênh FACH này cũng có thể được mạng dùng để gửi dữ liệu người dùng cho UE nếu không
có kênh dành riêng DCH nào được cấp phát cho một cuộc truyền dữ liệu. Khi đó UE ở trong
trạng thái Cell-FACH, như được mô tả trong mục 2.2.3.3. bên dưới. Ở hướng lên, dữ liệu
được truyền qua kênh RACH.
Các kênh vật lý: các kênh tầng dưới cùng này chịu trách nhiệm cung cấp một phương tiện
truyền vật lý cho một hoặc nhiều kênh vận chuyển. Chúng cũng chịu trạch nhiệm mã hóa kênh,
tức bổ sung các bit dự phòng và phát hiện lỗi vào dòng dữ liệu.
Chuẩn cũng đề xuất những sản phẩm trung gian giữa kênh vận chuyển và kênh vật lý, gọi là
kênh vận chuyển mã hóa hỗn hợp (Composite Coded Transport CHannel _ CCTrCH), và là sự
kết hợp của vài kênh vận chuyển với một hoặc nhiều kênh vật lý. Bước trung gian này được đề
xuất bởi vì không chỉ có thể ánh xạ vài kênh vận chuyển lên một kênh vật lý duy nhất (ví dụ như
kênh PCH và FACH lên kênh S-CCPCH) mà còn có thể ánh xạ vài kênh vật lý lên một kênh vận
chuyển duy nhất (ví dụ như kênh DPDCH và DPCCH lên kênh DCH).
Trong các mạng UMTS, một kênh vật lý được biểu diễn bởi một mã trải nhất định. Danh sách
sau đây cung cấp một cái nhìn tổng thể về những kênh vật lý quan trọng nhất theo hướng tải
xuống (downlink, tức từ mạng đến UE) và hướng tải lên (uplink, tức từ UE đến mạng). Tất cả
các kênh vật lý này đều được truyền đồng thời:
 P-CCPCH (Primary Common Control Physical CHannel): kênh vật lý điều khiển chung
chính, truyền tải kênh điều khiển quảng bá luận lý, vốn được giám sát bởi tất cả các UE trong
khi chúng không có một mối nối kết tích cực nào được thiết lập với mạng. Thông tin được
phát tán thông qua kênh này bao gồm mã số nhận diện cell, cách thức truy cập mạng, những
mã trải nào được dùng cho các kênh khác trong cell, những mã nào được dùng cho các cell kế
cận, các bộ định thời để truy cập mạng, v.v....

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 28

 S-CCPCH (Secondary Common Control Physical CHannel): kênh vật lý điều khiển chung
phụ, phục vụ vài mục đích, và vì vậy mang một số kênh luận lý khác nhau. Trước hết, nó
truyền tải các thông điệp nhắn tin mà mạng báo cho các UE để gửi các cuộc gọi tới, các tin
nhắn SMS, hoặc khi các gói dữ liệu tiếp tục đến sau một thời gian dài trầm lắng (thụ động).
Kênh này cũng được dùng để phân phối các gói IP và các thông điệp điều khiển đến các thiết
bị, tức chỉ giao nhận những lượng dữ liệu nhỏ vào một thời điểm đặc biệt, và vì vậy không
cần phải đặt thiết bị vào một trạng thái tích cực hơn.
 PRACH (Physical Random Access CHannel): kênh vật lý truy cập tùy ý, chỉ có ở hướng
lên và là kênh duy nhất mà các UE được phép dùng để truyền mà không cần sự cho phép
trước của mạng. Mục đích của nó là cho phép UE yêu cầu thiết lập một đường truyền để thực
hiện một cuộc gọi thoại, để phản ứng lại một thông điệp nhắn tin, hoặc để gửi đi một thông
điệp SMS. Nếu một cuộc gọi thoại đã được thiết lập rồi và UE chỉ gửi hoặc nhận một lượng
dữ liệu nhỏ thôi, kênh này cũng có thể được dùng để kết hợp với kênh S-CCPCH gửi các gói
IP hướng xuống. Tuy nhiên, tốc độ truyền theo cả hai chiều của nó rất thấp và thời gian khứ
hồi (round trip delay time) lớn (khoảng chừng 200 ms). Vì vậy mạng thường cấp phát những
kênh vật lý khác, chuyên dành cho những cuộc truyền dữ liệu chuyển gói ngay khi nó nhận ra
hoạt động mạng được hồi phục từ một UE nào đó.
 DPDCH và DPCCH (Dedicated Physical Data CHannel và Dedicated Physical Control
CHannel): sau khi một UE đã liên lạc được với mạng thông qua kênh truy cập tùy ý PRACH,
mạng thường quyết định thiết lập một đường liên lạc đầy đủ với UE đó. Trong trường hợp
một cuộc gọi thoại, mạng sẽ cấp phát một kênh dành riêng. Trên giao tiếp vô tuyến, kênh đó
sử dụng một mã trải dành riêng, được cấp phát bởi mạng. Lúc trước, các mạng UMTS cũng
dùng các kênh dành riêng để truyền dữ liệu chuyển gói, nhưng hiện nay tốc độ của những
kênh như vậy (còn được gọi là kênh truyền tải _ bearer) bị giới hạn ở mức 384 Kbit/s. Chỉ
một số ít người dùng có thể nhận cùng lúc một kênh như vậy trong một cell. Một nhược điểm
khác của việc dùng một kênh dành riêng cho các đường truyền chuyển gói là, mạng phải
thường xuyên cấp phát lại các mã trải cho những người dùng khác nhau. Điều này là cần thiết,
bởi vì hầu hết các cuộc truyền chuyển gói thường truyền dữ liệu dồn dập, và vì thế chỉ yêu
cầu một kênh truyền thông lượng cao trong một thời gian giới hạn thôi. Để dùng lại mã trải
cho những người dùng khác, mạng cần thay đổi độ dài mã trải của một kênh dữ liệu dành
riêng ngay khi nó không được dùng đầy đủ nữa, hay thậm chí ánh xạ đường truyền đang sử
dụng kênh riêng ấy vào một kênh điều khiển chung (P-CCPCH hoặc S-CCPCH) để cấp phát
tài nguyên của kênh riêng ấy cho những người dùng khác. Trong thực tế, điều này tạo ra một
phụ phí báo hiệu (signaling overhead) cao mà người dùng lại thấy tốc độ truyền không cao. Vì
vậy, người ta đã quyết định rằng cần một phương thức cải tiến, cung cấp những tốc độ truyền
cao hơn và mềm dẻo uyển chuyển hơn cho những cuộc truyền dữ liệu dồn dập. Kết quả của
quá trình cải tiến này ngày nay được gọi là HSPA (High-Speed Packet Access), mà nhiều
người còn gọi là 3.5G. Chuẩn này sẽ được bàn trong mục 2.3.
2.2.3.3. Các trạng thái RRC (Radio Resource Control)
Để tiết kiệm điện và để chỉ cấp phát tài nguyên cho các UE khi cần thiết, một kênh vật lý nối
nó với RNC của mạng có thể đi vào một trong các trạng thái kiểm soát tài nguyên vô tuyến
(Radio Resource Control _ RRC) như sau:
 Trạng thái rỗi (Idle): trong trạng thái này, các thiết bị không truyền thông tích cực với
mạng. Ở đây, chúng chỉ định kỳ lắng nghe kênh nhắn tin để biết có các cuộc gọi thoại hoặc
hình và các tin nhắn SMS gửi tới hay không.
 Trạng thái Cell-FACH: nếu một UE nào đó muốn liên hệ với mạng, nó chuyển từ trạng
thái Idle sang trạng thái Cell-FACH (Cell-Forward Access Channel). Ở trạng thái này, UE đó

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 29

gửi các thông điệp điều khiển của nó qua kênh truy cập tùy ý PRACH về mạng, và mạng trả
lời bằng kênh truy cập chuyển tiếp FACH, vốn được gửi qua kênh vật lý S-CCPCH đã mô tả
ở trên. Yêu cầu về điện năng cũng tăng lên, bởi vì giờ đây UE cần giám sát hướng xuống để
xem có thông điệp điều khiển nào gửi đến hay không.
 Trạng thái Cell-DCH: sau khi mạng quyết định thiết lập một đường truyền thoại hoặc dữ
liệu, UE được hướng dẫn sử dụng một kênh dành riêng, và vì thế nó chuyển sang trạng thái
Cell-DCH (Cell Dedicated CHannel). Nếu thiết bị đó có khả năng HSPA, thì mạng sẽ chọn
một kênh dùng chung (shared channel) cho nó thay vì kênh dành riêng, như sẽ được bàn chi
tiết hơn bên dưới. Tuy nhiên, xét theo quan điểm kiểm soát tài nguyên vô tuyến thì thiết bị đó
vẫn được xem là đang ở trạng thái Cell-DCH. Thời gian trễ khứ hồi ở trạng thái Cell-DCH là
từ 160 ms với một kênh truyền dành riêng UMTS cho đến 120 ms với một kênh truyền
HSPA. Trong trường hợp một kênh dữ liệu chuyển gói, mạng có thể quyết định chuyển thiết
bị trở lại trạng thái Cell-FACH nếu tính tích cực của nó, tức lượng dữ liệu được truyền đi,
giảm thiểu. Sau khi tính tính cực lại tăng lên, mạng sẽ chuyển kênh truyền đó về lại trạng thái
Cell-DCH. Đối với những khoảng thời gian thụ động dài hơn trong phiên truyền dữ liệu đó,
mạng thậm chí có thể quyết định đặt UE đó về lại trạng thái Idle để giảm tiêu thụ điện năng
của UE để giảm tải xử lý quản lý cho mạng. Cho dù ở trạng thái Idle, UE vẫn có thể tiếp tục
lại việc gửi các gói IP vào bất kỳ lúc nào thông qua kênh PRACH. Tuy nhiên, có một độ trễ
đáng chú ý khi chuyển đến một trạng thái tích cực hơn. Tùy theo nhà sản xuất mạng vô tuyến,
thời gian khứ hồi ban đầu có thể từ 2 đến 4 giây.
 Các trạng thái Cell-PCH và URA-PCH: ngay cả khi ở trạng thái Cell-FACH, UE vẫn đòi
hỏi một lượng điện năng đáng kể để lắng nghe kênh truy cập chuyển tiếp RACH mặc cho tính
tích cực tối tiểu của nó. Do độ trễ đáng kể khi từ trạng thái Idle chuyển sang tiếp tục truyền dữ
liệu, nên có hai trạng thái nữa được chỉ định, nằm giữa trạng thái Idle và trạng thái Cell-
FACH, đó là Cell-PCH và URA-PCH. Trong các trạng thái này, UE chỉ cần định kỳ lắng
nghe kênh thông điệp nhắn tin thôi, trong khi kênh luận lý giữa mạng vô tuyến và UE vẫn
được giữ nguyên. Nếu kênh đó tích cực trở lại, đường truyền có thể nhanh chóng được tiếp
tục. Sự khác biệt giữa hai trạng thái này là, ở trạng thái Cell-PCH UE phải báo cáo những
thay đổi của cell cho mạng, bởi vì thông điệp nhắn tin chỉ được gửi tới một cell mà thôi, còn
khi ở trạng thái URA-PCH thì UE có thể di chuyển (roam) giữa vài cell thuộc cùng một khu
vực routing mà không cần báo cáo sự thay đổi cell cho mạng, bởi vì thông điệp nhắn tin được
gửi đến tất cả các cell thuộc khu vực routing đó. Tuy nhiên, trong thực tế chỉ có một ít nhà
cung cấp dịch vụ mạng tận dụng hai trạng thái bổ sung này.
2.2.3.4. Quản lý tính di động trong mạng vô tuyến đối với các kênh dành
riêng
Một tác vụ quan trọng trong các mạng di động là xử lý tính di động của người dùng. Ở trạng
thái Cell-DCH, trạm cơ sở chủ động giám sát đường truyền giao tiếp vô tuyến từ và đến các UE,
và điều chỉnh công suất phát của trạm cơ sở và công suất phát của UE mỗi giây 1500 lần. Trong
các hệ thống CDMA, những sự điều chỉnh công suất rất nhanh như vậy là cần thiết, bởi vì trạm
cơ sở phải nhận được các cuộc truyền của tất cả các UE ở cùng mức công suất, bất kể chúng ở
rất gần hay rất xa trạm. Ở chiều từ mạng về UE nếu dùng được càng ít công suất phát thì càng
tốt, bởi vì công suất phát của trạm cơ sở bị giới hạn. Trong thực tế, các cuộc truyền đến và đi
khỏi các UE gần trạm cơ sở chỉ cần một lượng công suất phát nhỏ, còn các UE ở xa hoặc bên
trong các tòa nhà cần nhiều công suất phát hơn. Việc điều chỉnh công suất phát thường xuyên
như vậy cũng có nghĩa là, cùng với dữ liệu người dùng, UE phải không ngừng báo cáo cho mạng
thông tin về mức độ tốt mà nó nhận được dữ liệu người dùng. Sau đó mạng xử lý thông tin này
và ra lệnh cho UE, theo cùng nhịp độ khẩn trương đó, là nó nên tăng, giữ nguyên, hay giảm công
suất phát hiện tại. Vì mục đích này, luôn có một kênh điều khiển dành riêng được thiết lập bên

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 30

cạnh một kênh truyền dữ liệu dành riêng. Trong khi nội dung của kênh truyền dữ liệu dành riêng
được chỉ định ở các tầng cao hơn của chồng giao thức, là các tầng mà cuối cùng sẽ trích xuất ra
một gói thoại hoặc một gói IP, thì thông tin được vận chuyển trong kênh điều khiển này nằm
trong chồng phần mềm vô tuyến và không lộ ra với các ứng dụng tầng cao hơn.
Khi một người dùng di chuyển, đến một lúc nào đó họ sẽ rời khỏi vùng phủ sóng của một
trạm cơ sở. Trong khi một kênh dữ liệu (DCH) được thiết lập, RNC chịu trách nhiệm điều chỉnh
sao cho dữ liệu gửi đến UE được truyền đến một cell thích hợp hơn. Quyết định chuyển cell này
dựa trên chất lượng nhận sóng của cell hiện thời và các cell kế cận, vốn được đo bởi UE và gửi
đến mạng. Trong các mạng dựa trên CDMA như UMTS chẳng hạn, có hai loại chuyển giao
(handover) khác nhau. Loại thứ nhất được gọi là chuyển giao cứng (hard handover). Khi mạng
phát hiện rằng có một cell thích hợp hơn cho một UE nào đó, nó chuẩn bị cell mới cho thuê bao
có UE ấy, rồi sau đó ra lệnh cho UE ấy chuyển đổi sang cell mới. Kế tiếp UE sẽ ngắt đường
truyền với cell hiện tại rồi dùng những thông số chuyển giao mà mạng gửi cho, bao gồm thông
tin về tần số và các mã trải của cell mới, để thiết lập một đường truyền. Do đó chuyển giao cứng
còn được gọi là chuyển giao ngắt-trước-khi-làm (break-before-make handover), tức đường
truyền cũ bị cắt đi trước khi đường truyền mới được thiết lập.
Loại chuyển giao thứ hai là chuyển giao mềm (soft handover), vốn là loại chuyển giao thường
được sử dụng nhất trong các mạng CDMA. Chuyển giao mềm tận dụng sự kiện là các cell kế cận
nhau truyền trên cùng tần số với cell hiện tại. Vì vậy, có thể thực hiện một cuộc chuyển giao
làm-trước-khi-ngắt (make-before-break handover), tức là UE liên lạc với nhiều cell cùng một
lúc. UE sẽ đi vào trạng thái chuyển giao mềm khi mạng gửi thông tin điều khiển để ra lệnh cho
nó lắng nghe nhiều mã trải ở hướng xuống. Mỗi mã trải đại diện cho một đường truyền của một
cell khác biệt, và UE kết hợp các tín hiệu nó nhận từ các cell khác biệt ấy. Ở hướng lên, UE tiếp
tục sử dụng chỉ một mã trải duy nhất cho một kênh dành riêng. Tất cả các cell tham gia vào cuộc
chuyển giao mềm đều được RNC chỉ thị phải mã hóa dữ liệu gửi bằng mã này rồi gửi nó đến
RNC. Vì vậy trong suốt quá trình chuyển giao mềm, RNC tiếp nhận đến vài phiên bản của dòng
dữ liệu tải lên của người dùng. Điều này giúp bảo đảm rằng các gói được tiếp nhận đúng đắn và
không cần truyền lại. Những cell có liên quan trong một chuyển giao mềm đối với một kênh
dành riêng được gọi là nhóm tích cực (active set). Mỗi nhóm tích cực có thể có đến tối đa là sáu
cell tham gia. Tuy nhiên trong thực tế, hầu hết các mạng đều hạn chế số lượng cell trong nhóm
tích cực là hai hoặc ba thôi. Nếu không làm vậy, lợi ích của nhiều đường truyền mà có thể kết
hợp với cả mạng lẫn UE sẽ bị đe dọa bởi dung lượng bổ sung cần có trong cả mạng vô tuyến lẫn
trên giao tiếp vô tuyến. Để cải thiện dung lượng của mạng, khoảng 30–40% của tất các kênh
dành riêng trong một mạng vô tuyến được đặt ở trạng thái chuyển giao mềm, cho dù người dùng
không di chuyển.
Hình 2.8 cho thấy chuyển giao mềm và chuyển giao cứng được thực hiện như thế nào trong
trường hợp không phải tất cả các cell đều được nối kết với cùng một RNC. Trong ví dụ này, dữ
liệu tải lên và tải xuống được thu thập và phân phối bởi hai RNC, nhưng chỉ một trong hai RNC
đó, gọi là Serving-RNC (S-RNC, tức RNC phục vụ), liên lạc với mạng lõi thôi. RNC còn lại, gọi
là Drift-RNC (D-RNC, tạm dịch: RNC trôi giạt), thì liên lạc với S-RNC.
Nếu người dùng di chuyển sâu hơn vào trong khu vực được phủ sóng bởi NodeB 2 và NodeB
3, UE của người dùng đó vào một thời điểm nào đó sẽ mất liên lạc với NodeB 1. Lúc đó, không
còn cần có sự dính líu của RNC đang điều khiển NodeB 1 nữa, vì thế S-RNC hiện tại liền yêu
cầu SGSN thăng cấp Drift-RNC hiện tại thành S-RNC mới.
Nếu đường giao tiếp (tùy chọn) giữa các RNC không hiện diện thì một cuộc chuyển giao
mềm như minh họa trong Hình 2.8 không thể xảy ra. Trong trường hợp này, cần có một cuộc
chuyển giao cứng khi UE di chuyển ra khỏi vùng phủ sóng của NodeB 1 và vào vùng phủ sóng
của hai NodeB còn lại. Hơn nữa, việc chuyển đổi RNC phục vụ phải được thực hiện cùng lúc đó,

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 31

điều này làm phức tạp thêm thủ tục chuyển giao và có khả năng làm tăng khoảng thời gian mà
không có dữ liệu nào được trao đổi giữa UE đó và mạng.

Hình 2.8: Chuyển giao mềm với vài RNC.


Nếu người dùng di chuyển giữa các vùng được điều khiển bởi hai SGSN khác nhau thì cần
thay đổi luôn SGSN phục vụ. Phức tạp hơn nữa, các cuộc chuyển giao cũng có thể diễn ra khi cả
hai đường truyền chuyển kênh và chuyển gói đều tích cực. Trong trường hợp như vậy, không chỉ
cần thay đổi các RNC mà còn phải thay đổi cả SGSN và MSC nữa. Điều này đòi hỏi các mạng
lõi chuyển kênh và chuyển gói cần cộng tác chặt chẽ hơn. Tuy thường thì các tình huống chuyển
giao trong thực tế chỉ dính dáng đến các cell được kiểm soát bởi cùng một RNC thôi, nhưng
người ta cũng thực hiện tất cả các phương án chuyển giao khác.
Bởi vì các mạng 3G/3.5G lúc trước không có vùng phủ sóng rộng bằng các mạng GSM 2G
hiện có, và ngày nay thường thì vùng phủ sóng của nó cũng không rộng bằng và khả năng xuyên
tường cũng yếu hơn GSM, cho nên khả năng chuyển vùng các đường truyền đang tích cực từ
chúng sang các mạng GSM rất quan trọng. Điều này đã, và nay vẫn, đặc biệt quan trọng đối với
các cuộc gọi thoại. Vì thế, các UE có khả năng UMTS hiện nay không chỉ tìm kiếm các cell
3G/3.5G kế cận, mà có thể còn được mạng ra lệnh tìm kiếm các cell GSM nữa. Trong khi một
kênh dành riêng đang được thiết lập, điều này rất khó thực hiện, bởi vì trong chế độ truyền chuẩn
mực thì UE gửi và nhận liên tục. Đối với các cell nằm tại rìa của vùng phủ sóng, RNC có thể
kích hoạt một chế độ truyền nén (compressed transmission mode). Chế độ truyền nén này khắc
phục những chênh lệnh về thông lượng trong giao tiếp vô tuyến giữa 2G và 3G/3.5G, cho phép
bộ thu sóng của UE điều chỉnh lại để phù hợp với tần số của các cell GSM kế cận, nhận tín hiệu
của chúng, đồng bộ hóa với chúng, rồi quay trở lại cell UMTS để tiếp tục truyền và báo cáo kết
quả của việc đo đạc tín hiệu của các cell GSM kế cận về cho mạng. Sau đó, dựa vào các số liệu
đo đạc này, mạng có thể ra lệnh cho UE thực hiện một cuộc chuyển giao cứng Inter-RAT (Inter-
Radio Access Technology) với GSM. Trong suốt một cuộc gọi thoại đến, người dùng thường
không hay biết gì về một sự chuyển giao cứng như vậy. Tuy nhiên, một đường truyền dữ liệu
UMTS khi được chuyển giao qua mạng GSM/GPRS/EDGE sẽ chậm hơn đáng kể so với bình
thường.
2.2.3.5. Quản lý tính di động của mạng vô tuyến trong các trạng thái Idle,
Cell-FACH và Cell/URA-PCH
Khi người dùng di chuyển và UE của họ đang trong trạng thái Idle hoặc Cell/URA-PCH, tức
là không có cuộc gọi thoại nào được thiết lập và kênh truyền vật lý của một cuộc gọi dữ liệu đã

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 32

được gỡ bỏ sau một giai đoạn thụ động, UE đó có thể tự quyết định chuyển sang một cell có tín
hiệu tốt hơn. Vùng phủ sóng của các cell được nhóm lại thành các vùng vị trí (location area), và
các UE chuyển sang cell khác chỉ cần liên hệ với mạng để báo cáo vị trí mới của chúng khi chọn
lựa một cell nào đó ở vùng vị trí mới của chúng. Thế có nghĩa là các thông điệp nhắn tin phải
được quảng bá ở tất cả các cell thuộc một vùng vị trí. Trong thực tế, một vùng vị trí chứa khoảng
20 đến 30 trạm cơ sở, đó là một sự cân bằng thỏa đáng giữa việc giảm lượng thông điệp cập nhật
vị trí và việc tăng phụ phí của việc gửi đi các thông điệp nhắn tin vào tất cả các cell của một
vùng vị trí.
Ở trạng thái Cell-FACH, vốn được dùng nếu UE đi vào một giai đoạn tích cực thấp hơn (ví dụ
như, nó chỉ gửi hoặc nhận vài gói IP rời rạc), thì những thay đổi về cell cũng được kiểm soát bởi
UE chứ không phải bởi mạng. Ở đây, một sự chuyển dịch hiệu quả từ cell này sang cell khác
được cho là không đủ quan trọng để biện minh cho việc gia tăng công suất xử lý của mạng và
mức tiêu thụ điện năng cao hơn trong UE.
2.2.3.6. Quản lý tính di động trong mạng lõi chuyển gói
Trong mạng lõi chuyển gói, SGSN chịu trách nhiệm theo dõi vị trí và tính khả tiếp cận
(reachability) của các UE. Đường truyền giữa SGSN và RNC ở trạng thái PMM-Detached
(PMM là dạng viết tắt của Packet Mobility Management) nghĩa là UE không được đăng ký với
mạng, và vì vậy không được cấp địa chỉ IP nào. Đường truyền đó ở trạng thái PMM-Connected
nếu UE có một đường truyền báo hiệu nối với SGSN (ví dụ như trong thời gian cập nhật vị trí,
để báo cáo vị trí mới của nó), và UE cũng được cấp phát một đường truyền IP, tuy nhiên SGSN
chỉ biết RNC nào hiện đang chịu trách nhiệm gửi chuyển tiếp gói cho UE đó chứ không cần biết
mã nhận diện của cell có UE đó. Kiến thức này không cần thiết, bởi vì SGSN chỉ gửi chuyển tiếp
gói dữ liệu đến RNC thôi, rồi RNC chịu trách nhiệm gửi chuyển tiếp nó đến cell hiện có UE đó.
Ngoài ra, SGSN không biết là kênh truyền vô tuyến đến UE đó đang ở trạng thái Cell-FACH,
Cell-DCH, Cell-PCH hay URA-PCH. Thông tin này không cần thiết, bởi vì chính RNC mới chịu
trách nhiệm quyết định giữ UE ở những mức yêu cầu chất lượng dịch vụ nào của một đường
truyền và lượng dữ liệu được truyền tải với UE đó. Chú ý rằng, đường truyền giữa SGSN và
RNC cũng đi vào trạng thái PMM-Connected trong những khoảng thời gian ngắn trong khi thiết
lập những cuộc trao đổi thông tin báo hiệu, như thông tin cập nhật vị trí chẳng hạn, cho dù không
có đường truyền IP nào được thiết lập.
Nếu RNC đặt kênh vô tuyến ở trạng thái Idle, nó cũng thông báo với SGSN rằng nó không
còn tiếp cận trực tiếp với UE nữa. Khi đó SGSN sẽ điều chỉnh trạng thái điều khiển của nó thành
PMM-Idle. Đối với SGSN, điều đó có nghĩa là nếu sau này nó nhận một gói IP gửi đến UE đó,
nó cần thông báo với UE trước đã. Sau đó các gói IP gửi tới UE đó sẽ được trữ tạm (buffer) tại
SGSN cho tới khi UE hồi đáp và SGSN đã thiết lập một kênh báo hiệu với UE đó.
Hình 2.9 cho thấy những trạng thái khác biệt của mạng vô tuyến và của mạng lõi chuyển gói,
và chúng có liên quan với nhau như thế nào trong thời gian một đường truyền dữ liệu chuyển gói
được thiết lập.
Khi di chuyển từ trái sang phải trong hình đó, ta có thể thấy rằng nút càng ở sâu trong mạng
thì nó càng ít có thông tin về trạng thái di động hiện thời của UE và trạng thái của kênh vô tuyến
nối với UE. Chú ý rằng, trạng thái của đường truyền nối giữa SGSN và RNC cũng là PMM-Idle
khi UE đã nối liên lạc với mạng lõi chuyển gói sau khi bật điện lên nhưng chưa thiết lập được
một đường truyền dữ liệu.
Các trạng thái quản lý tính di động vô tuyến cũng áp dụng khi UE liên lạc với mạng lõi
chuyển kênh. Trong suốt một cuộc gọi thoại hoặc hình qua MSC, kênh vô tuyến nối RNC với
UE ở trong trạng thái Cell-DCH. Kênh vô tuyến ấy cũng được đặt ở trạng thái Cell-DCH hoặc

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 33

Cell-FACH trong khi trao đổi các thông điệp báo hiệu, ví dụ như trong một cuộc cập nhật vị trí
với MSC và SGSN chẳng hạn.

Hình 2.9: Các trạng thái quản lý tính di động của mạng vô tuyến và mạng lõi chuyển gói dành
cho một đường truyền chuyển gói tích cực.

2.3. HSPA (HSDPA và HSUPA)


Ngay sau khi có những mạng UMTS được triển khai đầu tiên, người ta thấy rõ rằng việc sử
dụng các kênh dành riêng trên giao tiếp vô tuyến để truyền dữ liệu chuyển gói đã quá thiếu uyển
chuyển về nhiều mặt. Bởi vì theo đặc tả, tốc độ truyền dữ liệu cao nhất có thể đạt được là 384
Kbit/s với một độ dài mã trài là 8. Điều này hạn chế số lượng người đồng thời có thể dùng một
đường truyền tải như vậy ở mức tám theo lý thuyết và ở mức hai hoặc ba trong thực tế, bởi vì
một số mã trải đã được yêu cầu cấp phát cho các kênh quảng bá của cell và cho các cuộc gọi
thoại của các thuê bao khác rồi. Do bản chất dồn dập của nhiều ứng dụng chuyển gói, kênh
truyền có thể hiếm khi được dùng đầy đủ bởi một UE nào đó, và vì thế nhiều dung lượng đường
truyền không được dùng đến. Có thể chống lại điều này phần nào bằng cách trước hết cấp phát
những độ dài mã không lớn lắm cho kênh truyền của người dùng, rồi sau đó chỉ nâng cấp kênh
truyền khi nó phát hiện rằng kênh truyền đã được sử dụng đầy đủ trong một thời gian nào đó (ví
dụ như, trong thời gian tải xuống một file). Ngoài ra, các mã trải ngắn đã nhanh chóng được thay
thế bởi các mã trải dài hơn sau khi RNC thấy rõ rằng dung lượng đường truyền không còn được
sử dụng đầy đủ nữa. Cho dù có những cơ chế này, mức độ sử dụng hiệu quả dung lượng đường
truyền vẫn còn khá thấp. Hệ quả là, các nhà sản xuất thiết bị đã bắt đầu làm việc để đưa ra một
loạt yêu cầu kỹ thuật cải tiến cho chuẩn UMTS. Chuẩn cải tiến ấy ngày nay được gọi là HSDPA
(High-Speed Downlink Packet Access). Đặc tả kỹ thuật của HSDPA bắt đầu được soạn ra từ
năm 2001, nhưng mãi đến cuối năm 2006 mới có các mạng và thiết bị hậu thuẫn HSDPA đầu
tiên trong thực tế. Sau khi việc chuẩn hóa HSDPA đã diễn ra tốt đẹp, nhiều yêu cầu kỹ thuật cải
tiến khác cũng đã được định ra cho hướng lên. Tập hợp các yêu cầu kỹ thuật cải tiến này được
gọi là HSUPA (High-Speed Uplink Packet Access). Kết hợp với nhau, HSDPA và HSUPA giờ
đây được gọi là HSPA.
Các tiểu mục sau đây được tổ chức như sau: trước hết là một cái nhìn tổng quát về những
điểm tăng cường ở hướng xuống, sau đó sẽ bàn đến những cải thiện hiệu năng cho hướng lên.
2.3.1. Các kênh dùng chung (shared channel)
Để cải thiện mức độ sử dụng giao tiếp vô tuyến, khái niệm kênh dùng chung (shared channel)
đã được đưa vào (hay đúng ra là đưa vào lại). HSDPA đưa vào một loại kênh truyền gọi là HS-

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 34

PDSCH (High-Speed Physical Downlink Shared Channel), trong đó vài UE có thể dùng nó hầu
như đồng thời, bởi vì nó được phân ra thành vài khe thời gian (timeslot). Như thế mạng có thể
nhanh chóng phản ứng với những yêu cầu thay đổi bandwidth của một UE bằng cách thay đổi số
lượng khe thời gian được cấp cho UE đó. Vì vậy, không còn cần phải cấp phát các mã trải hoặc
sửa đổi độ dài của mã trải để thay đổi lượng bandwidth được cấp phát nữa. Các khe thời gian
HS-PDSCH được cấp cho các thiết bị thông qua kênh HS-SCCH (High-Speed Shared Control
CHannel). Kênh này phải được theo dõi bởi tất cả các UE mà RNC phụ trách chúng đã được
mạng ra lệnh là dùng một kênh dùng chung. Kênh HS-PDSCH dùng độ dài mã trải cố định là 16,
còn kênh HS-SCCH dùng độ dài mã trải là 256.
2.3.2. Đa mã trải
Để gia tăng tốc độ truyền, các UE có thể lắng nghe nhiều kênh dùng chung tải xuống tốc độ
cao. Các thiết bị HSDPA thuộc nhóm (category) 6 có thể lắng nghe đến năm kênh tải xuống tốc
độ cao đồng thời, còn các thiết bị thuộc category 8 thì lắng nghe đến mười kênh như vậy. Cũng
có thể dùng nhiều kênh tải xuống tốc độ cao để truyền tải dữ liệu đến vài UE đồng thời. Vì mục
đích này, mạng có thể chỉ định đến bốn kênh điều khiển dùng chung đồng thời ở hướng xuống,
và vì vậy, đến bốn UE có thể nhận được dữ liệu trên một hoặc nhiều kênh dùng chung đồng thời.
Hình 2.10 cho thấy dữ liệu người dùng được vận chuyển qua mạng vô tuyến như thế nào, và
thiết bị người dùng HSDPA phải giải mã đồng thời những kênh nào trong khi nó ở trạng thái
Cell-DCH. Mạng lõi gửi các gói dữ liệu người dùng đến RNC theo một kênh DTCH (Dedicated
Traffic Channel). Tại đó, RNC đóng gói lại dữ liệu vào một kênh HS-DSCH (High-Speed
Downlink Shared Channel) rồi gửi chuyển tiếp nó cho NodeB phụ trách khu vực của người
dùng. Ngoài ra, RNC còn gửi thông tin điều khiển đến UE của người dùng thông qua một kênh
DCCH (Dedicated Control Channel). Kênh này không được dùng chung giữa các thuê bao.
Người dùng cũng có thể thiết lập hoặc nhận một cuộc gọi thoại trong khi một cuộc truyền dữ liệu
HSDPA đang diễn ra. Trong trường hợp này, RNC sử dụng thêm một kênh dành riêng để gửi
chuyển tiếp kênh thoại chuyển kênh đến người dùng.

Hình 2.10: Tổng quan về các kênh truyền HSDPA hướng xuống.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 35

Tại trạm cơ sở (NodeB), dữ liệu đến qua kênh HS-DSCH được trữ tạm trong một thời gian
ngắn rồi được truyền đến UE của người dùng qua một hoặc vài kênh HS-PDSCH. Mỗi kênh HS-
PDSCH sử dụng một mã trải có độ dài là 16, nghĩa là về lý thuyết có thể sử dụng đến 15 kênh
HS-PDSCH đồng thời trong một cell. Tuy nhiên trong thực tế, NodeB sử dụng đồng thời từ 5
kênh đến 10 kênh HS-PDSCH đối với các UE thuộc nhóm 8, vì các dịch vụ như thoại và truyền
dữ liệu chuyển gói UMTS cũng cần thông lượng. Ngoài 5–10 kênh dùng chung này này, UE phải
có khả năng giám sát đến bốn kênh điều khiển dùng chung hướng xuống tốc độ cao (HS-SCCH)
để nhận những sự cấp phát khe thời gian cho các kênh dùng chung. Cuối cùng, UE phải giải mã
thông tin điều khiển gửi đến nó trên kênh DPCCH (Dedicated Physical Control Channel), và có
thể cả dòng dữ liệu thoại đến trên kênh DPDCH (Dedicated Physical Data Channel) nữa.
Ở hướng lên, một UE có khả năng HSDPA cũng phải gửi một số kênh dữ liệu khác nhau, mỗi
kênh bằng một mã trải khác biệt. Kênh đầu tiên là kênh điều khiển chung HSDPA, vốn được
dùng để báo đã tiếp nhận đúng các gói dữ liệu tải xuống. Ngoài ra, cần có một kênh dành riêng
để vận chuyển các gói IP hướng lên. Cần thêm một kênh nữa để truyền hoặc hồi đáp những lệnh
cấp phát tài nguyên vô tuyến từ RNC (như một lệnh chuyển cell chẳng hạn) và cho hướng lên
của một cuộc gọi thoại đang diễn ra. Cuối cùng, UE cần gửi thông tin điều khiển (chất lượng
nhận sóng của kênh dành riêng cho hướng xuống) đến NodeB. Việc sử dụng đa mã trải như vậy
giúp UE có khả năng gọi thoại và truyền dữ liệu được cùng lúc.
2.3.3. Điều chế cấp cao hơn
Để tăng hơn nữa tốc độ truyền, HSDPA đưa ra một phương thức điều chế có cấp hoặc bậc
(order) cao hơn để cải thiện thông suất (throughput5) cho những thiết bị mà nhận các cuộc truyền
của trạm cơ sở với chất lượng tốt. Chuẩn UMTS cơ bản sử dụng phương thức điều chế QPSK
(Quadrature/Quaternary Phase Shift Keying), phương thức này mã hóa hai phần tử thông tin cơ
bản (chip) trong mỗi bước truyền. HSDPA giới thiệu kiểu điều chế 16-QAM (Quadrature
Amplitude Modulation), mã hóa đến bốn chip trong mỗi bước truyền. Bởi vì có thể mã hóa 16
giá trị bằng bốn đơn vị nhị phân (24 = 16), nên phương thức điều chế này được gọi là 16-QAM.
PSK (phase shift keying) là cách điều chế khóa dịch pha, trong đó pha của tín hiệu được thay
đổi theo qui luật của tín hiệu dữ liệu, còn tần số và biên độ của sóng mang không đổi. Vì dòng
dữ liệu là chuỗi số nhị phân, nên hệ thống PSK cần tối thiểu hai trạng thái pha. BPSK (hay 2-
PSK) cần 2 trạng thái pha để biểu diễn hai trạng thái của một bit (0 và 1). Trong QPSK (hay 4-
PSK), 4 trạng thái pha được dùng để biểu diễn bốn khóa mã Gray hai bit (00, 01, 11, 10).
QAM (quadrature amplitude modulation) là cách điều chế khóa theo biên độ. Nó vận chuyển
đi hai dòng bit số bằng cách thay đổi (điều chế) biên độ của hai sóng mang theo kiểu điều chế số
khóa dịch biên độ (amplitude-shift keying _ ASK). Hai sóng mang này, thường là hình sin, lệch
pha với nhau 900 và vì vậy được gọi là các sóng mang hoặc thành phần trực giao (quadrature).
Các sóng sau khi điều biến được cộng lại, và dạng sóng kết quả là một sự kết hợp của cả PSK lẫn
ASK. QAM dùng một số nhất định (ít nhất là 2) pha và một số nhất định (ít nhất là 2) biên độ.
Trong QAM, các điểm trên biểu đồ chùm sao thường được sắp xếp trên một lưới hình vuông
cách đều nhau về phương ngang và phương đứng, hoặc các vòng tròn đồng tâm (tâm là gốc tọa
độ). Vì dữ liệu viễn thông số thường là nhị phân, nên số điểm trong lưới này thường là lũy thừa
của 2 (2, 4, 8 ...), phổ biến nhất là 16-QAM, 64-QAM, 128-QAM and 256-QAM. Tín hiệu 16-
QAM là sự tổng hợp hai tín hiệu điều chế ASK 4-mức có sóng mang trực pha nhau (kênh I và

5
Lượng dữ liệu, hoặc lượng dữ liệu hữu dụng, có thể được xử lý hay vận chuyển qua một hệ thống (một cell chẳng
hạn) hoặc phần tử hệ thống (một thiết bị người dùng chẳng hạn) khi làm việc ở khả năng tối đa của nó. Thông suất
được đo bằng số đơn vị dữ liệu trên mỗi đơn vị thời gian, chẳng hạn như số bit, số byte, số khối, số khung mỗi giây.
Nếu xét theo nghĩa sau thì các phụ phí (overhead) như dữ liệu báo hiệu hoặc điều khiển làm giảm lượng payload
truyền được cho nên làm giảm thông suất. Như vậy thông suất luôn thấp hơn thông lượng (bandwidth).

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 36

kênh Q). Nhiều khi, các bộ điều chế PSK được thiết kế bằng cách dùng nguyên lý QAM nhưng
không thay đổi biên độ của tín hiệu sóng mang, cho nên QPSK còn được gọi không chính thức là
4-QAM.
Biểu đồ chùm sao (constellation diagram) của QPSK và 16-QAM được minh họa trong Hình
2.11.

Hình 2.11: Biểu đồ chùm sao của QPSK (bên trái) và 16-QAM (bên phải).
Phương thức điều chế 16-QAM làm tăng gấp đôi thông lượng đạt được so với QPSK trong
điều kiện nhận sóng tốt. Kết hợp với việc sử dụng 10 kênh dùng chung hướng xuống đồng thời,
tốc độ truyền hướng xuống tối đa về lý thuyết là 7.2 Mbit/s. Trong thực tế, tốc độ truyền dao
động trong phạm vi từ 1.5 đến 2.5 Mbit/s đối với những thiết bị có khả năng gom được 5 kênh
dùng chung (tức thuộc category 6) và 4.5 Mbit/s đối với những thiết bị có khả năng gom được 10
kênh dùng chung (tức thuộc category 8).
Ghi chú: Giống như GSM và GPRS, mạng vô tuyến UMTS được thiết kế để chia dữ liệu
thành những khung dữ liệu (frame) nhỏ để gửi qua giao tiếp vô tuyến. Điều này có ưu điểm là
trong trường hợp thất thoát gói hoặc gián đoạn đường truyền, chỉ cần truyền lại một lượng byte
nhỏ thôi. Tùy theo hệ số trải (độ dài mã trải), kích thước khung này thay đổi. Ví dụ, đối với một
kênh 384 kbit/s có TTI (transmission time interval) là 10 ms, mỗi khung dữ liệu chứa 480 Bytes
dữ liệu. Đối với kênh 64 kbit/s với TTI là 20 ms, khung chỉ chứa 160 Bytes. Đối với các cuộc
gọi thoại có TTI là 20 m và tốc độ dữ liệu là 12.2 kbit/s, mỗi khung chỉ chứa 30 Bytes. TTI là
10ms nghĩa là mỗi giây có 100 TTI, cho nên tốc độ truyền của kênh là:
480 Bytes/TTI * 8 bits/Byte * 100 TTI = 384 kbit/s
Các thiết bị HSDPA thuộc category 6 hậu thuẫn cả QPSK và 16-QAM, khung dữ liệu có TTI
là 2 ms nên mỗi giây truyền được 500 khung, nên được tốc độ truyền tối đa có thể đạt như sau:
7298 bits/TTI (phân phối qua 5 kênh HS-PDSCH) * 500 TTI = 3.6 Mbit/s
Tức là mỗi kênh HS-PDSCH có tốc độ 720 kbit/s với độ dài mã trải là 16.
2.3.4. Sắp đặt lịch truyền, điều chế và mã hóa, HARQ
Các kênh HS-DSCH đã được thiết kế sao cho có thể cấp phát những kênh khác nhau cho
những người dùng khác nhau cùng một lúc. Mạng quyết định là đối với mỗi khung dữ liệu cần
cấp phát những kênh nào cho người dùng nào. Vì thế, như đã minh họa ở trên, các kênh HS-
SCCH được dùng để thông báo với các UE là chúng cần nhận dữ liệu dành cho mình trên những
kênh HS-DSCH nào. Việc bố trí này được gọi là scheduling (tạm dịch: sắp đặt lịch truyền).
Tốc độ truyền càng cao thì việc phát hiện các lỗi truyền và phản ứng với chúng nhanh hết cỡ
càng trở nên quan trọng. Mặc khác, các giao thức phụ thuộc kênh nối (connection-oriented

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 37

protocol) ở tầng cao hơn, như TCP chẳng hạn, hiểu lầm rằng các lỗi truyền của giao tiếp vô
tuyến là sự tắc nghẽn và làm cho việc truyền chậm lại. Để phản ứng nhanh hơn đối với các lỗi
truyền, người ta đã quyết định không thực hiện bộ sắp đặt lịch truyền (scheduler) HSDPA trong
RNC mà giao trách nhiệm này cho trạm cơ sở. (Có thể thấy điều này trong Hình 2.10, bởi vì
kênh HS-SCCH xuất phát từ NodeB chứ không phải từ RNC). Vì thế, bộ sắp đặt lịch truyền có
thể phản ứng rất nhanh đối với việc suy giảm (fading) điều kiện truyền. Thay vì gửi các khung
dữ liệu đến một UE nào đó trong khi nó đang trong tình trạng suy giảm sâu điều kiện truyền, và
vì vậy nhiều khả năng là không nhận được khung đó đúng đắn, bộ sắp đặt lịch truyền có thể
dùng khung dữ liệu đó cho các UE khác trong thời gian đó. Điều này xét về tổng thể giúp tăng
thông suất trong cell, bởi vì có ít khung dữ liệu được dùng hơn để gửi lại các khối dữ liệu thất lạc
hoặc đã hỏng. Các nghiên cứu cho thấy việc scheduler lưu ý đến điều kiện kênh truyền như vậy
có thể làm tăng thông lượng tổng thể của cell khoảng 30% đối với những người dùng không di
chuyển. Ngoài chất lượng tín hiệu của đường truyền vô tuyến nối với người dùng, việc sắp đặt
lịch truyền cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố khác, như độ ưu tiên của người dùng chẳng hạn.
Cũng như với nhiều chức năng khác, chuẩn không nói rõ những yếu tố nào sẽ ảnh hưởng tới việc
sắp đặt lịch truyền như thế nào, và vì vậy nhà chế tạo nào thực hiện sắp đặt lịch truyền tốt thì sẽ
có ưu thế.
HSDPA sử dụng cơ chế HARQ (Hybrid Automated Retransmission Request _ Yêu cầu
Truyền lại Tự động Hỗn hợp) cho mục đích này. Với HARQ, mỗi khi một khung dữ liệu với độ
dài cố định là 2 ms được trạm cơ sở gửi tới, UE phải lập tức báo nhận (acknowledge). Nếu báo
nhận là negative, tức chưa nhận được gói, thì trạm cơ sở có thể gửi lại gói trong vòng 10 ms.
Khung dữ liệu kế tiếp chỉ được trạm cơ sở gửi xuống khi khung trước đó đã được UE báo là
nhận rồi. UE phải có khả năng xử lý đến tám quá trình HARQ cùng một lúc, bởi vì UE chỉ được
phép mất tối đa là 5 ms để giải mã gói ấy trước khi nó phải gửi tín hiệu ACK (tức
Acknowledgement) hoặc NACK (tức Negative Acknowledgment) về cho mạng. Điều này là để
bảo đảm rằng dòng dữ liệu không bị ngắt ngang chỉ bởi một vấn đề của một khung nào đó.
Trong thời gian này, hai khung dữ liệu nữa của những quá trình HARQ khác có thể được gửi đến
UE. Trong trường hợp dữ liệu không được nhận một cách đúng đắn trong một quá trình HARQ
nào đó, các khung nhận được thông qua các quá trình HARQ khác phải được trữ tạm trong UE
cho đến khi tất cả các khung trước đó được nhận thành công, để dữ liệu có thể được gửi chuyển
tiếp đi theo đúng thứ tự đến các tầng giao thức cao hơn.
Một lý do nữa để thực hiện bộ sắp đặt lịch truyền HSDPA ở trạm cơ sở là khả năng phản ứng
nhanh đối với sự thay đổi điều kiện truyền. Dựa trên phản hồi của UE, bộ lập lịch truyền của
trạm cơ sở sẽ quyết định cần sử dụng phương thức điều chế nào (QPSK hay 16-QAM) cho mỗi
khung, và cần đưa bao nhiêu bit sửa lỗi vào. Qui trình này được gọi là AMC (Adaptive
Modulation and Coding _ Điều chế và Mã hóa Thích nghi). Các giải thuật tiên tiến ở trạm cơ sở
sử dụng những thông tin về điều kiện tiếp nhận sóng của tất cả các UE hiện đang được phục vụ
trên kênh dùng chung tốc độ cao. Các thiết bị có điều kiện nhận tín hiệu tốt hơn có thể được bộ
sắp đặt lịch truyền ưa thích hơn, còn các thiết bị trong điều kiện cường độ tín hiệu suy giảm
nhiều sẽ nhận được ít gói hơn. Điều này giúp giảm lỗi truyền và cải thiện thông suất tổng thể của
cell, bởi vì tính bình quân thì các khung được truyền bằng phương thức điều chế và cơ chế mã
hóa hiệu quả hơn. Thực nghiệm cho thấy rằng một bộ lập lịch truyền hiệu quả có thể làm tăng
dung lượng tổng thể của cell lên đến 30% so với một bộ lập lịch truyền đơn giản, vốn cấp phát
các khe thời gian theo kiểu luân phiên.
2.3.5. Cập nhật và chuyển giao cell
Như đã được chỉ ra ở trên, các thiết bị HSDPA ở trạng thái Cell-DCH sẽ nhận dữ liệu chuyển
gói thông qua các kênh dùng chung. Tuy vậy, cần có những kênh dành riêng bổ sung bên cạnh
các kênh dùng chung để vận chuyển thông tin điều khiển theo cả hai chiều. Hơn nữa, các gói IP

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 38

hướng lên cũng được vận chuyển trong một kênh dành riêng. Cuối cùng, một cuộc gọi thoại
chuyển kênh song song với cuộc gọi dữ liệu cũng được vận chuyển trong một kênh dành riêng.
Các kênh dành riêng này có thể ở trạng thái chuyển giao mềm để cải thiện điều kiện tiếp nhận
sóng và để đối phó tốt hơn với tính di động của người dùng. Tuy nhiên, dữ liệu trong các kênh
dùng chung chỉ được gửi đến thiết bị từ chỉ một trạm cơ sở nào đó thuộc nhóm tích cực của thiết
bị thôi. Dựa trên thông tin phản hồi nhận được từ UE, một lúc nào đó RNC có thể thăng cấp một
trạm cơ sở khác (thay cho trạm trước) để gửi chuyển tiếp các gói IP hướng xuống. Thủ tục này
được gọi là cập nhật cell (cell update). Bởi vì thủ tục ấy được mạng kiểm soát, nên sự ngắt
quãng của dòng dữ liệu truyền hướng xuống chỉ rất ngắn thôi.
2.3.6. HSUPA
Trong các mạng 3G ban đầu, tốc độ hướng lên bị giới hạn ở khoảng chừng 64 đến 128 Kbit/s.
Với sự ra đời HSDPA, một số nhà chế tạo mạng cũng kèm theo bản cập nhật phần mềm cho
mạng vô tuyến để cho phép thực hiện các kênh vô tuyến hướng lên dành riêng với tốc độ lên tới
384 Kbit/s, nếu điều kiện của giao tiếp vô tuyến nối với người dùng cho phép. Thực tế, có thể
thấy rằng trong nhiều trường hợp công suất phát của UE đủ để thực sự tận dụng một kênh truyền
hướng lên như vậy. Điều này thuận lợi để gửi những file dữ liệu lớn hoặc e-mail có file đính kèm
lớn, cũng như cho nhiều ứng dụng Web 2.0, ở đó nội dung do người dùng tạo ra được gửi từ một
UE nào đó đến một cơ sở dữ liệu trong mạng. Tuy nhiên, cũng như với các kênh truyền dành
riêng hướng xuống, việc cấp phát tài nguyên hướng lên theo cách này không uyển chuyển lắm.
Vì vậy, cơ quan chuẩn 3GPP đã nghĩ ra một số cải tiến cho truyền hướng lên, được gọi là
HSUPA (High-Speed Uplink Packet Access), trong Release 6 của 3GPP, xuất hiện vào quí 4
năm 2004. (Các chuẩn của 3GPP được tổ chức thành các release, do đó những cuộc bàn thảo về
3GPP thường đề cập đến các chức năng trong release này hay release kia).
Không giống hướng xuống, nơi tốc độ đã được cải thiện bằng cách dùng những kênh dùng
chung tốc độ cao, những công ty đại diện trong 3GPP đã quyết định giữ giải pháp dùng kênh
dành riêng để truyền hướng lên. Có vài lý do cho quyết định này. Trạm cơ sở có các bộ nhớ đệm
hướng xuống nên có cái nhìn tổng quát về lượng dữ liệu cần được gửi đến tất cả các thiết bị,
nhưng nó chẳng biết gì về trạng thái bộ nhớ đệm của các UE đang yêu cầu gửi dữ liệu hướng lên.
Điều này khiến việc cấp phát các khe thời gian trên một kênh dùng chung hướng lên trở nên khó
khăn, bởi vì các UE phải liên tục báo về trạm cơ sở là chúng có thêm dữ liệu hay không. Lý do
thứ hai để sử dụng lại khái niệm kênh dành riêng là, khái niệm chuyển giao mềm đặc biệt giá trị
đối với hướng lên, bởi vì công suất phát của các UE có giới hạn thôi. Trong chuẩn, mỗi kênh
dành riêng hướng lên được gọi là một Enhanced-DCH hay E-DCH.
Các kênh dành riêng hướng lên theo chuẩn UMTS thì được RNC kiểm soát, và các mã trải
dành cho chúng chỉ có thể được thay đổi để đạt đến những tốc độ truyền tối đa là 64, 128, hoặc
384 Kbit/s. Vì RNC quản lý các kênh truyền hướng lên nên các tham số truyền tải chỉ được thay
đổi rất chậm, ví dụ như, định kỳ vài giây RNC mới kiểm tra để phát hiện xem đường truyền có
quá lớn hay quá nhỏ cho tải đang được truyền hay không, hoặc điều kiện tín hiệu có thay đổi
đáng kể hay không. Với khái niệm E-DCH trong HSUPA, trách nhiệm quản lý kênh truyền vô
tuyến được chuyển từ RNC sang trạm cơ sở theo cách tương tự như đối với HSDPA vậy. Trạm
cơ sở kiểm soát việc sắp đặt lịch truyền tổng thể của tất cả các kênh truyền hướng lên E-DCH
bằng cách cấp phát dải thông cho tất cả các thiết bị E-DCH đang tích cực. Thông tin cấp phát dải
thông được truyền theo chiều hướng xuống thông qua một kênh điều khiển dùng chung mới, gọi
là E-AGCH (Enhanced Absolute Grant Channel). Thông tin cấp phát dải thông này được dịch ra
thành lượng công suất phát tối đa mà mỗi UE được phép dùng. Bằng cách này, tất cả các UE vẫn
có thể truyền dữ liệu của chúng đến trạm cơ sở cùng một lúc trong khi tốc độ truyền tối đa của
chúng có thể nhanh chóng được điều chỉnh khi cần thiết. Việc giữ lại khái niệm kênh dành riêng,
và vì thế cho phép tất cả các UE truyền cùng một lúc, có một lợi ích nữa là thời gian trì hoãn gói

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 39

ngắn hơn so với giải pháp mà tất cả các UE phải đợi đến khe thời gian của chúng mới được
truyền. Trạm cơ sở cũng có thể dùng thêm một kênh thông tin cấp phát thứ hai, gọi là E-RGCH
(Enhanced Relative Grant Channel), để tăng hoặc giảm nhanh công suất phát của các UE từng
bước một. Kênh này cho phép mỗi trạm cơ sở có liên quan trong một cuộc chuyển giao mềm E-
DCH giảm công suất phát sóng của một UE nếu việc phát sóng này gây ra quá nhiều trở ngại cho
việc liên lạc với các thiết bị khác.
Khái niệm HARQ, vốn được giới thiệu lần đầu trong HSDPA, cũng được dùng với HSUPA
trong việc truyền hướng lên. Thế có nghĩa là trạm cơ sở phải lập tức báo với UE sau mỗi khung
dữ liệu nó nhận được từ UE, nhờ vậy những khung truyền hỏng có thể nhanh chóng được truyền
lại. Vì mục đích này, một kênh dành riêng hướng xuống bổ sung được tạo ra, đó là kênh E-HICH
(Enhanced HARQ Information Channel). Mỗi thiết bị HSUPA khi ở trạng thái Cell-DCH đều
nhận được kênh E-HICH của riêng nó. Nếu một kênh truyền E-DCH ở trạng thái chuyển giao
mềm, mỗi trạm cơ sở tham gia vào việc chuyển giao đó sẽ gửi cho UE thông tin báo nhận của
riêng nó đối với mỗi khung dữ liệu được truyền. Nếu chỉ có một báo nhận là positive, tức đã
nhận được khung đó, cuộc truyền cũng được xem là thành công, và quá trình HARQ chuyển
sang khung kế tiếp.
Tuy với HSDPA, cơ quan 3GPP đã quyết định giới thiệu phương thức điều chế mới 16-QAM
cho hướng xuống nhằm tăng gia tốc độ truyền, nhưng họ cũng thấy (qua mô phỏng) rằng cách đó
có lẽ không có tác dụng mấy đối với các cuộc truyền hướng lên. Truyền hướng lên thường bị hạn
chế công suất, tức là không thể dùng một phương thức điều chế cấp cao hơn bởi vì nhịp độ lỗi sẽ
trở nên quá cao. Thay vì vậy, trong HSUPA họ đã quyết định đưa ra giải pháp truyền đa mã
(multicode transmission) trong một kênh dành riêng duy nhất để cho phép UE tách dữ liệu của
nó ra thành vài kênh mã rồi truyền đi đồng thời. Khái niệm này tương tự như khái niệm dùng
đồng thời vài kênh (dùng chung) ở hướng xuống để làm tăng tốc độ truyền vậy. Những thiết bị
thuộc category cao nhất được qui định hiện nay có thể dùng từ hai mã trải với độ dài là 2 đến hai
mã trải với độ dài là 4. Về lý thuyết, tốc độ truyền hướng lên có thể đạt tới 2 Mbit/s. Trong thực
tế, tốc độ truyền thấp hơn, vì những lý do tương tự như đã mô tả ở trên với HSDPA.

Hình 2.12: Các kênh dành cho một đường truyền kết hợp HSDPA và HSUPA hướng xuống.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 40

Các hình 2.12 và 2.13 cho thấy các kênh được dùng ở hướng lên và hướng xuống dành cho
một UE hậu thuẫn cả HSDPA và HSUPA trong trường hợp phức tạp nhất, khi một cuộc gọi thoại
đang diễn ra song song với việc truyền dữ liệu. Trong thực tế, việc mã hóa và giải mã nhiều kênh
như vậy cùng một lúc là rất khắt khe, và chỉ có thể được thực hiện bởi năng lực xử lý đang gia
tăng không ngừng của các chipset của các UE. Hơn nữa, các cuộc khảo sát cho thấy rằng những
kiểu thực hiện mạng HSPA đầu tiên đã phải quay lại với giải pháp dùng kênh dành riêng mặc
định dành cho đường truyền chuyển gói những khi xảy ra một cuộc gọi thoại song song.

Hình 2.13: Các kênh dành cho một đường truyền kết hợp HSDPA và HSUPA hướng lên.

2.4. HSPA+ và những cải tiến khác: Cạnh tranh với LTE
Việc tìm cách cải tiến UMTS và làm cho nó nhanh hơn, sử dụng điện năng hiệu quả cao hơn,
và cho phép nhiều thiết bị hơn sử dụng đồng thời một cell (ví dụ như, cho VoIP) đã không kết
thúc với HSPA. Ví dụ, ở các Release 7 (cuối năm 2007) và Release 8 (cuối năm 2008) của chuẩn
3GPP, đã có nhiều sáng kiến cải tiến thêm. Những cải tiến trong giao tiếp vô tuyến của hệ thống
HSPA được gọi là chuẩn HSPA+. Ngoài ra, kiến trúc mạng cũng được “đại tu” lại để trở nên
hiệu quả hơn, với một tính năng gọi là “one-tunnel”. Mục này sẽ xem xét tổng quát những cải
tiến này, nhiều cái trong số đó có nhiều khả năng sẽ được đưa vào các mạng trong vài năm nữa
thôi.
2.4.1. Điều chế cấp cao hơn nữa
Một trong các thông số chủ chốt của một hệ thống không dây thường được viện dẫn trong các
bài báo là tốc độ truyền tối đa. Cho đến nay, HSPA sử dụng các phương thức điều chế QPSK và
16-QAM để đạt đến những tốc độ truyền (về lý thuyết) lên tới 14.4 Mbit/s ở hướng xuống, còn
trong thực tế là 2–5 Mbit/s trong những điều kiện truyền tốt. Để tăng hơn nữa tốc độ truyền,
Release 7 của 3GPP đề xuất dùng phương thức điều chế 64-QAM ở hướng xuống, tức mỗi bước

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 41

truyền đi 6 chip so với 4 chip của 16-QAM. Trong thực tế, người ta hy vọng rằng việc đưa vào
phương thức điều chế 64-QAM sẽ giúp người dùng ở gần trung tâm của cell có thêm 30% thông
suất. Tuy nhiên, hầu hết người dùng sẽ không dùng được phương thức 64-QAM, bởi vì khi đó tỉ
lệ tín hiệu trên nhiễu của họ sẽ rất thấp. Tuy nhiên khi thông suất tổng thể trong cell tăng lên,
những người dùng này cũng sẽ hưởng lợi từ việc dùng phương thức điều chế ấy, bởi vì cell sẽ có
nhiều thời gian hơn để truyền dữ liệu, và bởi vì dữ liệu dành cho những người dùng ở gần trung
tâm cell hơn có thể được gửi đi nhanh hơn. Hơn nữa, điều chế 64-QAM cũng có lợi cho việc xây
dựng các microcell ở những nơi công cộng như siêu thị, nơi người dùng ở gần những cell nhỏ
cho nên ít tạo ra nhiễu.
Ở hướng lên, trong Release 7 của 3GPP không có sự thay đổi nào về phương thức điều chế
cả. Tuy nhiên release 8 có thể gộp luôn 16-QAM vào tập hợp các phương thức điều chế, mặc dù
kết luận lúc trước là có lẽ nó không có lợi mấy. Có lẽ những bộ thu sóng tiên tiến hơn và việc tập
trung vào các môi trường microcell ở những nơi công cộng làm thay đổi ý kiến này.
2.4.2. MIMO
Một công nghệ đang nổi lên khác để làm tăng thông suất trong điều kiện tín hiệu tốt là MIMO
(Multiple Input Multiple Output). Về cơ bản, công nghệ truyền MIMO sử dụng hai ăng-ten hoặc
nhiều hơn, ở cả phía bộ phát sóng lẫn phía bộ thu sóng, để truyền đồng thời những dòng dữ liệu
độc lập trên cùng dải tần. Cách này làm tốc độ truyền tăng tỉ lệ thuận với số ăng-ten. Như vậy,
một bộ hai ăng-ten phát và hai ăng-ten thu (2x2) như đang được chỉ định cho HSPA+ có thể làm
tăng gấp đôi tốc độ truyền dữ liệu của hệ thống trong những điều kiện tín hiệu lý tưởng. Release
7 của bộ chuẩn 3GPP dự đoán là MIMO sẽ được sử dụng kết hợp với điều chế 16-QAM ở hướng
xuống. Cho nên, nếu nhà cung cấp dịch vụ mạng chọn triển khai một bộ ăng-ten tăng cường như
vậy cho trạm cơ sở, tốc độ truyền dữ liệu tối đa về lý thuyết 14.4 Mbit/s sẽ tăng lên đến 28.8
Mbit/s. Chương 3 sẽ bàn sâu hơn về nền tảng kỹ thuật của MIMO.
Tùy thuộc điều kiện tín hiệu, số ăng-ten hiện có và khả năng của UE, mạng có thể lựa chọn
giữa truyền một dòng dữ liệu duy nhất bằng 64-QAM hay truyền hai dòng dữ liệu bằng 16-
QAM. Release 8 của bộ chuẩn có thể kết hợp MIMO với 64-QAM, tức có thể đạt đến tốc độ
truyền tối đa là 43.2 Mbit/s ở hướng xuống. Tuy nhiên, cần lưu ý lần nữa rằng, hiện nay chỉ một
lượng rất ít người dùng (gần trung tâm nhất) của một cell mới có thể đạt những tốc độ truyền như
vậy. Bởi vì truyền hướng lên thường bị giới hạn công suất, nên MIMO chỉ được xem xét cho
hướng xuống mà thôi.
2.4.3. Khả năng truyền gói liên tục (Continuous Packet Connectivity)
Continuous Packet Connectivity (CPC) là một tập hợp các tính năng đặc biệt (feature) được
giới thiệu trong các chuẩn 3GPP để cải thiện việc xử lý các thuê bao di động trong khi họ có một
đường truyền gói được thiết lập, tức là trong khi họ được cấp phát một địa chỉ IP. Phối hợp với
nhau, chúng nhằm giảm số lượng thay đổi trạng thái để tối thiểu thời gian trễ và phụ phí báo
hiệu, bằng cách đưa ra những phương thức cải tiến để giữ cho một thiết bị ở trên các kênh tốc độ
cao (ở trạng thái HSPA Cell-DCH) càng lâu càng tốt, cho dù không có cuộc truyền dữ liệu nào
đang diễn ra. Vì mục đích này, cần phải giảm thiểu mức tiêu thụ điện năng trong khi các UE lắng
nghe các kênh dùng chung, và đồng thời giảm thiểu yêu cầu thông lượng cho hệ thống báo hiệu
vô tuyến nhằm làm tăng số lượng UE có thể giữ được ở trạng thái HSPA Cell-DCH.
CPC không đưa ra những tính năng mới có tính cách mạng. Thay vì vậy, những tính năng có
sẵn được sửa đổi lại để đạt được những kết quả mong muốn. Để hiểu cách thức hoạt động của
những cải tiến này, cần phải nghiên sâu hơn một chút vào bộ chuẩn. Đặc tả 3GPP TR 25.903
cung cấp một cái nhìn tổng thể về những thay đổi được đề xuất, và các tiểu mục sau đây bàn về
những tính năng đã được các nhà cung cấp dịch vụ mạng chọn thực hiện.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 42

2.4.3.1. Tính năng 1: Một dạng thức khung (slot format) mới cho kênh điều
khiển hướng lên
Trong khi một đường truyền được thiết lập giữa mạng và UE, có vài kênh được đồng thời sử
dụng. Điều này là cần thiết, bởi vì không chỉ dữ liệu người dùng mà cả thông tin điều khiển cũng
được gửi qua đường truyền, để giữ cho đường truyền đó được thiết lập, để điều khiển công suất
truyền, v.v... Hiện nay, kênh điều khiển vô tuyến ở hướng lên (Uplink Dedicated Control
Channel, UL DPCCH) được truyền liên tục, ngay cả trong những lúc thụ động, để không mất
đồng bộ. Bằng cách này, khi cần thiết UE có thể tiếp tục các cuộc truyền tải lên mà không có bất
kỳ sự trễ nải nào.
Kênh điều khiển hướng lên vận chuyển bốn loại thông số:
 Transmit Power Control (TPC);
 pilot (dùng cho việc đánh giá kênh của bộ thu sóng);
 TFCI (Transport Format Combination Identifier);
 FBI (Feedback Indicator).
Các bit pilot luôn luôn giống nhau, và cho phép bộ thu sóng đánh giá một kênh truyền trước
khi giải mã các khung dữ liệu người dùng, tuy nhiên khi không nhận được khung dữ liệu người
dùng nào thì các bit này ít quan trọng. Thông số lúc nào cũng quan trọng là TPC. Mục đích của
dạng thức khung mới này là làm tăng số bit cần mã hóa TPC và làm giảm số bit pilot những khi
kênh hướng lên rảnh rang (ở trạng thái Idle). Vì vậy, một số bit dự phòng khác được thêm vào
trường TPC. Kết quả là có thể giảm bớt công suất phát dành cho kênh điều khiển mà không bị
nguy cơ sai lạc thông tin chứa trong TPC. Khi việc truyền dữ liệu người dùng tiếp tục, dạng thức
khung chuẩn lại được dùng đến, và công suất phát được dùng cho kênh điều khiển tăng trở lại
như cũ.
2.4.3.2. Tính năng 2: giảm bớt báo cáo CQI, truyền không liên tục hướng
lên kết hợp với những cải tiến trong truyền thông tin điều khiển hướng
xuống
Giảm bớt báo cáo CQI: để sử dụng tốt nhất những điều kiện tín hiệu hiện thời ở hướng tải
xuống, UE phải báo cáo về mạng là nó nhận dữ liệu truyền tốt đến mức nào. Chất lượng của tín
hiệu được báo cáo về mạng bằng thông số CQI (Channel Quality Index) cùng với dữ liệu người
dùng ở hướng lên. Để làm giảm công suất phát của UE trong khi có dữ liệu được tryền ở hướng
lên nhưng không có ở hướng xuống, tính năng này qui định giảm đi số lượng báo cáo CQI trong
dữ liệu hướng lên.
Tắt đi kênh UL HS-DPCCH: khi không có dữ liệu nào được truyền ở hướng lên hoặc hướng
xuống, kênh điều khiển hướng lên (UL DPCCH) dành cho HSDPA được tắt đi (điều này được
gọi là UL HS-DPCCH gating). Định kỳ nó được bật lên trong một khoảng thời gian ngắn để
truyền một mớ gói điều khiển về mạng nhằm duy trì sự đồng bộ. Điều này cải thiện tuổi thọ pin
đối với những ứng dụng như duyệt Web chẳng hạn. Giải pháp này cũng làm giảm mức tiêu thụ
điện năng cho VoIP và làm giảm mức nhiễu trong mạng (tức là cho phép nhiều người dùng VoIP
đồng thời hơn). Hình 2.14 cho thấy những lợi điểm của giải pháp này.
Tắt đi kênh F-DPCH: các UE trong chế độ tích cực HSDPA luôn luôn nhận được một kênh
vật lý dành riêng (DPCH) điều khiển ở hướng xuống, ngoài những kênh điều khiển dùng chung
tốc độ cao (HS-SCCH), vốn vận chuyển thông tin điều khiển công suất và các thông điệp tài
nguyên vô tuyến (RRC) tầng 3, ví dụ cho các cuộc chuyển giao, sửa đổi kênh, v.v… Tính năng
F-DPCH (Fractional-DPCH) đặt các thông điệp RRC lên các kênh dùng chung HSDPA, và vì
vậy, UE chỉ phải giải mã thông tin điều khiển công suất từ kênh DPCH. Vào những khoảng thời

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 43

gian khác, tức khi UE không trong chế độ tích cực HSDPA, thì kênh DPCH không được UE sử
dụng (cho nên nó được gọi là một phần _ fractional). Trong những khoảng thời gian này, thông
tin điều khiển công suất được truyền cho các UE khác bằng cách dùng cùng mã trải. Hệ quả là,
vài UE dùng chung mã trải của kênh vật lý dành riêng đó nhưng lắng nghe nó vào những thời
điểm khác nhau. Thế có nghĩa là hệ thống sử dụng ít mã trải hơn cho mục đích này, như vậy để
lại nhiều tài nguyên hơn cho các kênh tải xuống tốc độ cao, hoặc cho phép nhiều người dùng hơn
đồng thời được giữ ở trạng thái HSPA Cell-DCH.

Hình 2.14: Kênh điều khiển được tắt đi trong những khoảng thời gian đường truyền ít tích cực.
2.4.3.3. Tính năng 3: Nhận thông tin điều khiển không liên tục (DRX) ở
hướng xuống
Khi một UE đang ở trong trạng thái tích cực HSPA, nó phải giám sát một hoặc nhiều kênh
điều khiển dùng chung tốc độ cao (HS-SCCH) để xem khi nào các gói được giao cho nó trên các
kênh dữ liệu tốc độ cao HS-PDSCH. Việc giám sát này là liên tục (continuous), nghĩa là bộ thu
sóng có thể không bao giờ bị tắt đi. Vào những khi không có dữ liệu nào được truyền, hoặc tốc
độ truyền trung bình thấp hơn nhiều so với mức tốc độ truyền cần để giao dữ liệu trên các kênh
dùng chung tốc độ cao, trạm cơ sở có thể chỉ thị cho UE chỉ lắng nghe những khung được chọn
của kênh điều khiển dùng chung thôi. Những khung mà UE không cần phải quan sát sẽ được
đồng bộ đến hết mức với các khoảng thời gian tắt kênh điều khiển. Như thế, có những lúc UE có
thể giảm công suất bộ thu sóng của nó để bảo tồn năng lượng. Khi lượng dữ liệu đến từ mạng
nhiều hơn mức có thể được giao bằng chu kỳ DRX được chọn, chế độ DRX sẽ được tắt đi và
mạng lại có thể sắp đặt lịch truyền cho dữ liệu hướng xuống một cách liên tục.
2.4.3.4. Tính năng 4: Hoạt động không cần kênh HS-SCCH
Tính năng này không nhằm làm tăng hiệu năng sử dụng pin mà để tăng số lượng người dùng
VoIP thời gian thực đồng thời trong mạng. Dịch vụ VoIP, ví dụ như thông qua dịch vụ nhắn tin
nhanh IMS (Instant Messaging Service), đòi hỏi một mức thông lượng trên đầu người tương đối
thấp, và vì vậy số lượng người dùng đồng thời có thể cao. Tuy nhiên trên đường truyền vô tuyến,
mỗi đường có một mức phụ phí báo hiệu (signaling overhead) nhất định, cho nên nhiều người
dùng hơn có nghĩa là nhiều phụ phí báo hiệu hơn, làm giảm thông lượng tổng thể có thể dùng
được cho dữ liệu người dùng. Trong trường hợp HSPA, tài nguyên báo hiệu chính là các kênh
điều khiển dùng chung tốc độ cao (HS-SCCH). Càng có nhiều người dùng tích cực trong cell,
mức độ yêu cầu thông lượng khả dụng của họ càng tăng lên.
Tính năng hoạt động không cần kênh HS-SCCH (HS-SCCH-less operation) có mục tiêu là
làm giảm lượng phụ phí báo hiệu này. Đối với những người dùng thời gian thực nào chỉ cần một
thông lượng hạn chế thôi, mạng có thể sắp đặt lịch truyền cho dữ liệu cho họ trên các kênh
hướng xuống tốc độ cao mà không cần báo hiệu trước trên một kênh HS-SCCH. Điều này được

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 44

thực hiện như sau: ngoài tất cả các gói đang được truyền trên một trong các kênh dùng chung
hướng xuống tốc độ cao, mạng chỉ thị cho UE không lắng nghe thêm kênh HS-SCCH nào cả.
Như thế UE sẽ phải cố gắng giải mã mù (blind decoding) tất cả các gói nhận được trên kênh
dùng chung đó. Để làm cho việc giải mã mù này dễ thực hiện hơn, các gói nào không được thông
báo trên một kênh điều khiển dùng chung chỉ có thể được phép dùng một trong bốn dạng thức
truyền (số lượng bit dữ liệu) được qui định sẵn, và luôn luôn được điều chế bằng QPSK. Những
hạn chế này không gây ra vấn đề gì đối với hiệu năng hoạt động, bởi vì HS-SCCH-less operation
chỉ được dự trù cho các dịch vụ thời gian thực yêu cầu thông lượng thấp mà thôi.
Mã checksum được bổ sung vào gói để nhận diện là gói được dự định gửi tới UE nào. Điều
này được thực hiện bằng cách dùng địa chỉ MAC của UE như một thông số nhập liệu bổ sung
cho giải thuật tính checksum, ngoài số lượng bit dữ liệu ra. Nếu UE có thể giải mã đúng đắn một
gói nào đó, và nếu nó có thể tái cấu trúc lại mã checksum, thì nó chính là thiết bị nhận dự định
của gói đó. Nếu mã checksum không khớp thì hoặc gói đó được dự định dành cho một UE khác,
hoặc một lỗi truyền đã xảy ra. Trong cả hai trường hợp, gói đó đều được bỏ đi.
Trong trường hợp có lỗi truyền, gói đó sẽ được tự động truyền lại, bởi vì UE đã không gửi về
mạng một báo nhận (HARQ ACK) tương ứng với gói đó. Các cuộc truyền lại được thông báo
trên kênh điều khiển dùng chung, như vậy lại cần thêm tài nguyên, nhưng điều này không xảy ra
thường xuyên bởi vì hầu hết các gói đều được giao nhận đúng đắn ngay lần thử thứ nhất rồi.
2.4.4. Các trạng thái Enhanced Cell-FACH, Enhanced Cell/URA-PCH
Các tính năng CPC được mô tả ở trên nhằm làm giảm mức tiêu thụ công suất và phụ phí báo
hiệu ở trạng thái HSPA Cell-DCH. Vậy thì các biện pháp CPC làm tăng số lượng UE có thể vào
trạng thái Cell-DCH đồng thời, và cho phép các UE ở lại trong trạng thái này trong một khoảng
thời gian lâu hơn cho dù chỉ có một lượng dữ liệu nhỏ hoặc không có dữ liệu nào được truyền cả.
Tuy nhiên, nếu cuối cùng có quá ít dữ liệu truyền đến nỗi không còn ý nghĩa nếu giữ UE trong
trạng thái Cell-DCH, không thể biện minh được cho dù giảm phụ phí báo hiệu và tiêu thụ điện
năng. Trong trường hợp này, mạng đặt đường truyền vào trạng thái Cell-FACH như đã mô tả ở
trên, hay thậm chí vào trạng thái Cell-PCH hoặc URA-PCH để giảm mức tiêu thụ năng lượng
hơn nữa. Nhược điểm của biện pháp này là, một sự chuyển trạng thái về Cell-DCH sẽ mất chút
thời gian, và chỉ có một lượng dữ liệu rất ít hoặc không có dữ liệu nào được truyền trong khi thay
đổi trạng thái. Vì vậy trong Release 7 và 8, chuẩn 3GPP đã mở rộng để dùng cả các kênh dùng
chung hướng xuống tốc độ cao để phụ trách các trạng thái này. Trong thực tế, điều này được
thực hiện như sau:
 Enhanced Cell-FACH: ở trạng thái Cell-FACH chuẩn, UE lắng nghe kênh S-CCPCH
(Secondary Common Control Physical CHannel) ở hướng xuống như đã mô tả ở trên đối với
các thông điệp kiểm soát tài nguyên vô tuyến gửi đến từ RNC và thông điệp về dữ liệu người
dùng (các gói IP). Với tính năng Enhanced Cell-FACH, mạng có thể chỉ thị một UE nào đó
phải quan sát một kênh điều khiển hướng xuống tốc độ cao hoặc kênh dữ liệu dùng chung để
nhận các thông điệp kiểm soát tài nguyên vô tuyến gửi đến từ RNC và thông điệp về dữ liệu
người dùng. Ưu điểm của cách tiếp cận này so với cách trên là, ở hướng xuống, thông tin có
thể được gửi nhanh hơn nhiều. Điều này làm giảm độ trễ và làm tăng tốc thủ tục chuyển từ
trạng thái Cell-FACH sang Cell-DCH. Không giống như ở trạng thái Cell-DCH, không có
kênh điều khiển hướng xuống hoặc hướng lên nào khác được sử dụng cả. Ở hướng lên, UE
vẫn dùng kênh truy cập tùy ý RACH để hồi đáp các thông điệp kiểm soát tài nguyên vô tuyến
từ RNC và để gửi những gói IP của chính nó đi. Điều này hạn chế việc sử dụng phương thức
điều chế và mã hóa thích nghi, bởi vì UE không thể gửi những báo cáo đo đạc thường xuyên
về trạm cơ sở và cho biết chất lượng nhận sóng ở hướng xuống. Hơn nữa, nó cũng không thể
thông báo về việc có nhận các khung dữ liệu đúng đắn hay không. Thay vì vậy, RNC thông

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 45

báo cho trạm cơ sở khi nó nhận được thông tin đo đạc trong các thông điệp kiểm soát tài
nguyên vô tuyến từ UE.
 Các trạng thái Enhanced Cell/URA-PCH: trong hai trạng thái này, UE ở tình trạng ngủ sâu,
và chỉ quan sát kênh thông điệp nhắn tin để được cảnh báo về một thông điệp nhắn tin đang
gửi đến, vốn được vận chuyển trên kênh nhắn tin. Sau đó nếu muốn truyền dữ liệu, UE phải
chuyển sang trạng thái Cell-FACH hoặc Cell-DCH. Nếu UE và mạng hậu thuẫn các trạng thái
Enhanced Cell/URA-PCH này, mạng có thể chỉ thị UE không dùng kênh nhắn tin tốc độ
chậm để nhận thông điệp nhắn tin mà dùng một kênh dùng chung hướng xuống tốc độ cao
thay vào đó. Khi đó kênh hướng xuống tốc độ cao ấy cũng được dùng cho những lệnh RRC
sau đó, vốn cần thiết để chuyển UE trở về một trạng thái tích cực hơn. Giống như giải pháp
được mô tả ở trên, giải pháp này làm giảm đáng kể thời gian đánh thức UE.
Hình 2.15 cho thấy cách hoạt động trong thực tế giải pháp này. Trong khi việc trao đổi thông
điệp để thông báo cho UE về dữ liệu gửi tới và chuyển nó sang một trạng thái tích cực khác vẫn
giống như cũ, thì việc dùng các kênh dùng chung hướng xuống tốc độ cao giúp rút ngắn thủ tục
đó đến vài trăm mili-giây.

Hình 2.15: Việc trao đổi thông điệp để chuyển một UE từ trạng thái URA-PCH về lại trạng thái
Cell-DCH khi có các gói IP đến từ mạng.
Những biện pháp cải tiến nào được mô tả ở trên sẽ được đưa vào các mạng HSPA trong tương
lai thì vẫn chưa biết trước, và cũng sẽ tùy thuộc vào chuyện LTE và các công nghệ mạng cạnh
tranh khác được triển khai nhanh đến mức độ nào. Tuy CPC và các trạng thái quản lý tính di
động cải tiến làm tăng tính hiệu quả của hệ thống, nhưng chúng cũng làm tăng đáng kể tính phức
tạp của giao tiếp vô tuyến, bởi vì cả hai loại UE cũ lẫn mới đều phải được giao tiếp vô tuyến hậu
thuẫn đồng thời. Độ phức tạp tăng lên này đặc biệt thách thức đối với việc sáng chế mới các UE
và mạng, bởi vì nó tạo ra những kịch bản tương tác mới, khiến ngày càng trở nên kho thử
nghiệm và gỡ lỗi hơn trước. Đến nay, các UE được kiểm tra bằng các thiết bị mạng do nhiều nhà
chế tạo cung cấp và các phiên bản phần mềm khác nhau. Việc đưa thêm một tầng tính năng khác
vào sẽ làm cho điều này trở nên phức tạp hơn nữa trong tương lai.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 46

2.4.5. Cải tiến mạng vô tuyến: Một đường hầm duy nhất (One-tunnel)
Hình 2.16 cho thấy đường truyền mặc định của dữ liệu người dùng giữa một UE và Internet
thông qua mạng di động tổ ong. Trong kiến trúc hiện nay, các gói dữ liệu được gửi xuyên qua
GGSN, SGSN, RNC và trạm cơ sở. Tất cả các gói dữ liệu người dùng được truyền xuyên hầm để
đi qua mạng như đã mô tả ở mục 2.2.2.10. bên trên, bởi vì vị trí người dùng có thể thay đổi bất
kỳ lúc nào. Kiến trúc hiện tại sử dụng một đường hầm (tunnel) giữa GGSN và SGSN và một
đường hầm thứ hai giữa SGSN và RNC. Vậy thì tất cả các gói dữ liệu phải đi qua SGSN, và nút
này kết thúc một đường hầm, trích xuất các gói ra rồi đặt chúng vào đường hầm còn lại. Điều
này đòi hỏi cả thời gian lẫn khả năng xử lý.

Hình 2.16: Kiến trúc mạng hiện tại so với kiến trúc cải tiến một đường hầm.
Bởi vì cả RNC lẫn GGSN đều là các IP router, nên quá trình xuyên hầm đến hai lần này là
không cần thiết trong phần lớn trường hợp. Giải pháp một đường hầm duy nhất (one-tunnel), giờ
đây đã được chuẩn hóa trong 3GPP, cho phép SGSN tạo ra một đường hầm nối trực tiếp giữa
RNC và GGSN. Như vậy SGSN tự loại nó khỏi dây chuyền truyền dữ liệu. Tuy nhiên, chức năng
quản lý tính di động vẫn ở lại trên SGSN, nghĩa là nó vẫn tiếp tục chịu trách nhiệm về việc quản
lý tính di động và sửa đổi đường hầm trong trường hợp UE di chuyển tới một khu vực được phục
vụ bởi một RNC khác. Đối với người dùng, giải pháp này có ưu điểm là độ trễ gói được giảm
thiểu. Xét theo quan điểm mạng thì, ưu điểm là SGSN cần ít tài nguyên xử lý hơn đối với mỗi
người dùng tích cực, như vậy giúp giảm chi phí cho thiết bị. Điều này đặc biệt quan trong đấy,
bởi vì lượng dữ liệu đi qua mang lõi chuyển gói sẽ tăng lên đáng kể.
Có một kịch bản không áp dụng phương án một đường hầm, đó là roaming quốc tế. Ở đây,
SGSN phải tham gia vào đường truyền để đếm dữ liệu đi qua, nhằm mục đích tính cước liên
mạng. Một trường hợp khác không thể dùng giải pháp một đường hầm là khi SGSN được hệ
thống trả trước yêu cầu có mặt để giám sát dòng dữ liệu lưu thông. Tuy nhiên, đây chỉ là một hạn
chế nhỏ thôi, bởi vì trong thực tế, người ta có thể thực hiện tính cước trả trước thông qua GGSN.
Những cải tiến do một hãng độc quyền sáng chế thậm chí còn nhắm vào việc kết thúc đường
hầm dữ liệu của người dùng ở NodeB cơ, bỏ qua luôn RNC. Tuy nhiên, điều này không nhận
được sự ủng hộ rộng rãi của các công ty trong 3GPP, và không chắc sẽ tương thích với một số

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 47

đặc tính mở rộng HSPA+, chẳng hạn như các trạng thái Enhanced Cell-FACH và Enhanced
Cell/URA-PCH.
2.4.6. Cạnh tranh với LTE ở dải tần 5 MHz
Với những điểm cải tiến đã mô tả trong mục 2.4. này, khá chắc chắn rằng các mạng Enhanced
HSPA sẽ trở thành một giải pháp thay thế tồn tại độc lập với những cuộc triển khai LTE trong
tương lai ngắn hạn và trung hạn, bởi vì độ hiệu quả phổ ở dải tần 5 MHz của cả hai hệ thống này
tương đương nhau. Như sẽ được mô tả trong chương kế, LTE vẫn vượt trội so với HSPA khi dải
tần rộng hơn, bởi vì nó không bị hạn chế ở các kênh 5 MHz. Vì vậy trong thực tế, rất có thể một
số nhà điều hành mạng sẽ chọn cách cải tiến mạng HSPA của họ rồi sau này mới chuyển sang
LTE, trong khi những nhà điều hành mạng khác thì thích chuyển thẳng sang LTE hơn.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 48

Chương 3:

LTE và LTE-Advanced

3.1. Giới thiệu


Trong vài năm gần đây, có một xu hướng đang nổi lên trong các mạng đường dây cố định là
chuyển tất cả các dịch vụ chuyển kênh sang một hạ tầng cơ sở IP chuyển gói. Trong thực tế, có
thể thấy rằng các nhà cung cấp dịch vụ mạng đường dây cố định đang chuyển các dịch vụ điện
thoại của họ sang một kiến trúc chuyển gói, cung cấp cả khả năng thoại và truy cập Internet
thông qua modem DSL hoặc cáp. Điều này có nghĩa là công nghệ chuyển kênh được thay thế bởi
các giải pháp dựa trên VoIP. Trong các mạng không dây, xu hướng này chưa bắt đầu. Đó chủ
yếu là do sự thật rằng các kiến trúc mạng 3G và 3.5G hiện nay vẫn được tối ưu hóa cho thoại
chuyển kênh ở cả mạng vô tuyến lẫn mạng lõi. Ngoài ra, những kiểu thực hiện thoại VoIP hiện
nay làm tăng đáng kể lượng dữ liệu cần được truyền qua giao tiếp vô tuyến, nghĩa là có ít cuộc
gọi thoại được xử lý đồng thời hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những thách thức này, việc chuyển dịch
vụ điện thoại sang IP mang lại một số lợi ích lớn, chẳng hạn như chi phí xây dựng mạng rẻ hơn,
và việc tích hợp với những ứng dụng dựa trên IP khác.
Trong lúc đó, xu hướng chung là nhu cầu thông lượng truyền không ngừng tăng đang làm nổi
bật hơn những hạn chế của các mạng 3G và 3.5G hiện nay. Vì thế, năm 2005 cơ quan chuẩn
3GPP đã quyết định bắt đầu chuẩn bị cho một kiểu mạng không dây thế hệ mới, chỉ dựa vào
truyền dữ liệu chuyển gói thôi. Kế hoạch này đã được thực hiện trong hai chương trình nghiên
cứu: LTE và SAE. Chương trình LTE (Long Term Evolution) tập trung vào thiết kế của một kiến
trúc mạng vô tuyến và giao tiếp vô tuyến mới. Sau đó một chút, người ta bắt đầu chuẩn bị thiết
kế một hạ tầng mạng lõi mới với chương trình SAE (Service Architecture Evolution). Sau đó,
chúng được kết hợp thành một chương trình làm việc duy nhất, gọi là chương trình EPS
(Evolved Packet System). Tuy nhiên, lúc đó cái tên viết tắt “LTE” đã trở nên phổ biến rồi, và
hầu hết các tài liệu vẫn tiếp tục gọi chương trình này là LTE thay vì EPS.
Bên cạnh việc dựa trên gói hoàn toàn, những mục tiêu thiết kế sau đây đã được thiết lập cho
mạng mới này:
 Giảm thời gian chuyển đổi trạng thái: trong các mạng HSPA hiện nay, thời gian để một UE
chuyển từ trạng thái nghỉ sang nối kết với mạng và bắt đầu truyền thông tin trên một kênh
truyền tải tốc độ cao là tương đối dài. Điều này ảnh hưởng tai hại lên tính khả dụng (usability)
của mạng, bởi vì người dùng có thể cảm nhận được khoảng thời gian trễ này trong khi truy
cập một dịch vụ trên Internet sau một khoảng thời gian dài thụ động. Vì thế, người ta đã quyết
định rằng thiết kế mạng mới LTE phải có khả năng chuyển từ trạng thái rỗi sang nối kết đầy
đủ trong thời gian không đến 100 ms.
 Giảm độ trễ ở mặt phẳng người dùng: một nhược điểm khác của các mạng tổ ong hiện nay
là độ trễ truyền cao hơn nhiều so với các mạng đường dây cố định. Trong khi hiện nay độ trễ
một chiều giữa máy tính của một người dùng ở biên của một mạng DSL với Internet khoảng
chừng 15 ms, thì các mạng HSPA có độ trễ lên đến khoảng 50 ms. Điều này là bất lợi đối với
các ứng dụng như thoại và chơi game thời gian thực. Đối với LTE, người ta đã quyết định

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 49

rằng độ trễ trên giao tiếp vô tuyến phải khoảng chừng 5 ms để đạt đến độ trễ truyền từ UE này
đến UE kia tương đương với độ trễ ở các mạng đường dây cố định.
 Dải tần co giãn được: các mạng HSPA hiện bị hạn chế ở dải tần là 5 MHz. Trong khi đó,
chỉ có thể đạt đến mức thông suất cao hơn thỏa đáng bằng cách tăng dải tần của kênh truyền
tải. Đối với một số ứng dụng thì một kênh truyền tải 5 MHz lại quá rộng, và vì vậy người ta
đã quyết định rằng giao tiếp vô tuyến của hệ thống mới LTE cũng phải có tính co giãn được
(scalable) ở hướng còn lại.
 Thông suất gia tăng: đối với hệ thống mới LTE, phải đạt đến một thông suất tối đa trong
những điều kiện lý tưởng là 100 Mbit/s.
Bây giờ, các tiểu mục sau đây mô tả người ta đã đạt được các mục tiêu thiết kế đó trong thực
tế như thế nào.

3.2. Kiến trúc mạng


3.2.1. Các trạm cơ sở cải tiến
Hình 3.1 cho thấy các thành phần chính của một mạng lõi và mạng truy nhập vô tuyến LTE.
So sánh với UMTS, mạng vô tuyến ít phức tạp hơn. Người ta đã quyết định rằng các RNC nên
được gỡ bỏ, và chức năng của chúng đã được chuyển một phần sang các trạm cơ sở và một phần
sang nút gateway của mạng lõi. Để phân biệt với các trạm cơ sở UMTS, các trạm cơ sở LTE
được gọi là Enhanced NodeB (eNodeB). Bởi vì không còn phần tử điều khiển ở trung ương
trong mạng vô tuyến nữa, nên giờ đây các trạm cơ sở thực hiện chức năng quản lý dữ liệu truyền
tải một cách tự lập, và bảo đảm chất lượng dịch vụ. Điều này cũng đã phần nào được thực hiện
trong UMTS với sự xuất hiện của HSPA, như đã bàn trong chương trước. Tuy nhiên, các RNC
vẫn điều khiển các kênh truyền tải dành cho dịch vụ thoại chuyển kênh.

Hình 3.1: Kiến trúc mạng LTE cơ bản.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 50

Ngoài ra, các trạm cơ sở giờ đây còn chịu trách nhiệm thực hiện các cuộc chuyển giao cho các
UE tích cực. Vì mục đích này, giờ đây các eNodeB có thể liên lạc trực tiếp với nhau thông qua
các đường giao tiếp X2. Các đường giao tiếp này được dùng để chuẩn bị những cuộc chuyển
giao và cũng có thể được dùng để gửi chuyển tiếp dữ liệu người dùng (các gói IP) từ mạng cơ sở
hiện tại sang mạng cơ sở mới để giảm thiểu lượng dữ liệu người dùng thất thoát trong quá trình
chuyển giao. Bởi lẽ các đường giao tiếp X2 không bắt buộc phải có (optional), nên các trạm cơ
sở cũng có khả năng liên lạc với nhau thông qua gateway truy cập để chuẩn bị các cuộc chuyển
giao. Tuy nhiên trong trường hợp này, dữ liệu người dùng không được gửi chuyển tiếp trong quá
trình chuyển giao. Thế nghĩa là một số dữ liệu đã được mạng gửi đi tới trạm cơ sở hiện tại có thể
thất thoát, bởi vì sau khi một quyết định chuyển giao được thực hiện, nó phải được thi hành càng
nhanh càng tốt trước khi đường truyền vô tuyến mất đi. Không giống trong UMTS, các mạng vô
tuyến LTE chỉ thực hiện các cuộc chuyển giao cứng, tức là vào mỗi thời điểm chỉ có một cell
liên lạc với UE.
Đường giao tiếp nối các eNodeB với các nút gateway giữa mạng vô tuyến và mạng lõi là
đường S1. Nó hoàn toàn dựa trên giao thức IP, và vì vậy không biết gì về công nghệ vận chuyển
tầng thấp cả. Đây là một khác biệt lớn với UMTS. Trong UMTS, các đường giao tiếp giữa các
NodeB, các RNC và SGSN nhất thiết dựa trên giao thức ATM dành cho các tầng thấp. Giữa
RNC và NodeB, IP không hề được dùng cho việc gửi chuyển tiếp các gói. Tuy cho phép đồng bộ
hóa dễ hơn giữa các nút, song việc cần phải sử dụng ATM để vận chuyển dữ liệu trên các tầng
thấp khiến kết cấu không linh hoạt và phức tạp. Trong những năm gần đây, tình hình này càng tệ
hơn bởi vì nhu cầu thông lượng tăng cao không còn được với những đường truyền ATM trên các
kênh E1 2 Mbit/s thỏa mãn nữa. Vì vậy, chuẩn UMTS sau này đã được cải tiến để cũng dùng IP
làm một giao thức vận chuyển giữa mạng lõi và trạm cơ sở. Nhưng LTE thì ngay từ đầu đã hoàn
toàn dựa trên vận chuyển IP trong mạng vô tuyến. Các trạm cơ sở được trang bị những cổng
Ethernet 100 Mbit/s hoặc 1 Gbit/s quen thuộc trong thế giới PC, hoặc các cổng cáp quang
Gigabit Ethernet.
3.2.2. Đường giao tiếp giữa mạng lõi với mạng truy nhập vô tuyến
Như được minh họa trong Hình 3.1, nút gateway giữa mạng truy cập vô tuyến và mạng lõi
được phân ra thành hai thực thể luận lý: Serving Gateway (Serving-GW) và Mobility
Management Entity (MME). Kết hợp với nhau, chúng thực hiện những công việc tương tự như
SGSN (Serving GPRS Support Node) trong các mạng UMTS vậy. Trong thực tế, cả hai thành
phần luận lý này có thể được thực hiện trên cùng một thiết bị phần cứng hoặc có thể được tách ra
để có thể tăng giảm kích cỡ độc lập với nhau.
MME là thực thể thuộc mặt phẳng điều khiển của LTE, chịu trách nhiệm những phần việc sau
đây:
 Báo hiệu quản lý phiên làm việc và quản lý tính di động của thuê bao. Phần việc này bao
gồm những tác vụ như xác minh (hoặc nhận thực _ authentication), thiết lập các kênh truyền
tải vô tuyến, hậu thuẫn việc chuyển giao giữa các eNodeB khác nhau và đến/từ các mạng vô
tuyến khác nhau (ví dụ như GSM, UMTS).
 Theo dõi vị trí của các UE trong chế độ rỗi, tức là trong khi không có kênh truyền tải vô
tuyến nào được thiết lập bởi vì chúng đã không trao đổi các gói dữ liệu với mạng trong một
quãng thời gian kéo dài.
 Chọn lựa một gateway nối với Internet khi UE yêu cầu thiết lập một phiên làm việc, tức là
khi nó yêu cầu mạng cấp một địa chỉ IP.
Serving-GW chịu trách nhiệm đối với mặt phẳng người dùng, tức là chịu trách nhiệm gửi
chuyển tiếp các gói IP giữa các UE và Internet. Như đã nói trong chương dành cho UMTS, các

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 51

đường hầm IP được sử dụng trong mạng truy cập vô tuyến và mạng lõi để thay đổi tuyến đường
của của các gói IP khi người dùng được chuyển giao từ cell này sang cell khác trong khi di
chuyển. Giao thức GPRS Tunneling Protocol (GTP) được sử dụng lại cho mục đích này, và cơ
chế hoạt động của nó cũng giống như đã minh họa cho UMTS trong Hình 2.3 ở chương 2 vậy.
Sự khác biệt với UMTS là, đường hầm dành cho một người dùng trong mạng vô tuyến được kết
thúc trực tiếp trong chính eNodeB chứ không còn trên một thành phần trung gian như RNC nữa.
Thế có nghĩa là BTS được nối trực tiếp qua một đường truyền IP với Serving-GW, và có thể
dùng các công nghệ mạng vận chuyển khác nhau chẳng hạn như Ethernet qua cáp quang hoặc
cáp đồng, DSL, vi ba, v.v... Ngoài ra, thiết kế của đường giao tiếp S1 đơn giản hơn những đường
giao tiếp tương tự của các mạng vô tuyến trước đó, vốn phụ thuộc nặng vào các dịch vụ của các
giao thức tầng thấp phức tạp.
Bởi vì đường giao tiếp S1 được dùng cho cả dữ liệu người dùng (nối với Serving-GW) lẫn dữ
liệu báo hiệu (nối với MME), nên kiến trúc của các giao thức tầng cao hơn được phân ra thành
hai bộ giao thức khác biệt: S1-C và S1-U. Giao thức S1-C (điều khiển) được dùng để trao đổi
các thông điệp điều khiển giữa một UE và MME. Như được trình bày bên dưới, các thông điệp
này được trao đổi qua các kênh “non-IP” đặc biệt trên giao tiếp vô tuyến rồi sau đó được NodeB
đặt vào trong các gói IP trước khi chúng được gửi chuyển tiếp đến MME. Tuy nhiên, dữ liệu
người dùng đã được truyền với tính cách các gói IP qua giao tiếp vô tuyến, và chúng được gửi
chuyển tiếp qua giao thức S1-U (người dùng) đến Serving-GW. Giao thức S1-U là một sự mô
phỏng của giao thức GTP từ GPRS và UMTS (xem lại Hình 2.3).
Nếu MME và Serving-GW được thực hiện riêng biệt, đường giao tiếp S11 sẽ được dùng để
liên lạc giữa hai thực thể đó. Cần có sự liên lạc giữa hai thực thể đó, ví dụ như để tạo ra các kênh
truyền khi người dùng nối vào mạng, hoặc để sửa đổi một đường hầm khi một người dùng nào
đó di chuyển từ cell này sang cell khác.
Không giống như các mạng vô tuyến không dây trước đó, khi một gateway của mạng truy
nhập (SGSN) chịu trách nhiệm đối với một số RNC nhất định và mỗi RNC đến lượt nó lại chịu
trách nhiệm đối với một số trạm cơ sở nhất định, đường giao tiếp S1 hậu thuẫn một kiến trúc nối
kết mắt lưới (mesh). Thế có nghĩa là không phải chỉ một mà vài MME và Serving-GW có thể
liên lạc với từng eNodeB, và số lượng MME và Serving-GW có thể khác biệt. Điều này làm
giảm số lượng các cuộc chuyển giao liên-MME khi người dùng di chuyển, và cho phép số lượng
MME phát triển độc lập với số lượng Serving-GW, bởi vì dung lượng của MME lệ thuộc vào tải
trọng báo hiệu, còn dung lượng của Serving-GW lệ thuộc vào tải trọng dữ liệu truyền của người
dùng. Những dung lượng này có thể phát triển khác nhau qua thời gian, khiến cho việc phân cách
các thực thể này rất đáng thú vị. Một kiến trúc mắt lưới của giao tiếp S1 cũng bổ sung tính dự
phòng cho mạng. Nếu một MME hỏng, ví dụ như vậy, thì một MME thứ hai có thể tự động tiếp
quản nếu nó được định cấu hình để phục vụ những cell giống như MME kia. Tác hại duy nhất
của một cơ chế khôi phục tự động khi gặp hỏng hóc như vậy là, những người dùng được phục vụ
bởi MME hỏng phải đăng ký lại với mạng. Những khả năng mắt lưới của giao tiếp S1 được dùng
trong thực tế như thế nào là tùy thuộc vào chính sách của các nhà cung cấp dịch vụ mạng và vào
kiến trúc của mạng vận chuyển bên dưới.
3.2.3. Gateway nối với Internet
Cũng như trong các kiến trúc mạng trước đó, một router tại biên của mạng lõi không dây sẽ
che giấu tính di động của người dùng khỏi Internet. Trong LTE, router này được gọi là PDN-GW
(trong đó PDN là dạng viết tắt của Packet Data Network) và thực hiện những công việc giống
như công việc của GGSN trong mạng UMTS vậy. Ngoài việc che giấu tính di động của người
dùng, nó còn quản lý một quĩ địa chỉ IP và cấp phát các địa chỉ IP cho các UE nào đang đăng ký
với mạng. Tùy theo số lượng người dùng, một mạng có thể có vài PDN-GW. Số lượng PDN-GW
cụ thể tùy thuộc vào khả năng của phần cứng, số lượng người dùng, và lượng dữ liệu vận chuyển

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 52

bình quân của mỗi người dùng. Như được minh họa trong Hình 3.1, đường giao tiếp giữa PDN-
GW và các MME/Serving-GW được gọi là S5. Giống như đường giao tiếp giữa SGSN và GGSN
trong UMTS, nó sử dụng giao thức GTP-U (người dùng) để truyền xuyên hầm dữ liệu người
dùng từ và đến các Serving-GW, và giao thức GTP-S (báo hiệu) cho việc thiết lập ban đầu
đường hầm dữ liệu người dùng và những sự sửa đổi đường hầm sau đó khi người dùng di chuyển
qua lại giữa các cell được quản lý bởi những Serving-GW khác nhau.
3.2.4. Đường giao tiếp với cơ sở dữ liệu người dùng
Một đường giao tiếp quan trọng nữa trong các mạng lõi LTE là đường giao tiếp S6 nối giữa
các MME và cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin thuê bao. Trong UMTS/GPRS/GSM, cơ sở dữ liệu
này được gọi là HLR (Home Location Register). Trong LTE, HLR được sử dụng lại và được đổi
tên thành Home Subscriber Server (HSS). Về cơ bản, HSS là một HLR cải tiến, và chứa thông
tin thuê bao cho GSM, GPRS, UMTS, LTE và IMS (IP Multimedia Subsystem). Tuy nhiên
không giống như trong UMTS, đường giao tiếp S6 không dùng giao thức MAP (Mobile
Application Part) dựa trên SS-7, mà dùng giao thức Diameter dựa trên IP. HSS là một cơ sở dữ
liệu kết hợp, và nó được sử dụng đồng thời bởi các mạng GSM, UMTS và LTE thuộc cùng một
nhà cung cấp dịch vụ mạng. Vì thế, ngoài đường giao tiếp S6 dành cho LTE ra, nó tiếp tục hậu
thuẫn đường giao tiếp MAP truyền thống.
3.2.5. Chuyển qua chuyển lại giữa những công nghệ vô tuyến khác
nhau
Trong thực tế, hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ mạng đang triển khai một mạng LTE đều có
sẵn một mạng GSM và UMTS rồi. Bởi lẽ vùng phủ sóng của một mạng LTE mới chắc chắn lúc
đầu sẽ rất hạn chế, cho nên nhất thiết các thuê bao phải có khả năng chuyển qua chuyển lại giữa
các công nghệ mạng truy nhập khác nhau để không mất đi đường truyền cùng địa chỉ IP đã được
cấp phát. Hình 3.2 cho thấy điều này được thực hiện trong thực tế như thế nào, khi một người
dùng di chuyển ra khỏi vùng phủ sóng của một mạng LTE và vào vùng phủ sóng của một mạng
UMTS thuộc cùng một nhà cung cấp dịch vụ mạng. Khi người dùng di chuyển ra khỏi vùng phủ
sóng LTE, UE báo cáo với eNodeB rằng đã tìm thấy một cell UMTS (hoặc GSM). Báo cáo này
được eNodeB gửi chuyển tiếp về MME nào mà liên hệ với SGSN 3G (hoặc 2G) chịu trách
nhiệm cell đó và yêu cầu tiến hành một thủ tục chuyển giao. Đường giao tiếp được dùng cho
mục đích đó được gọi là S3, và dựa trên giao thức được dùng cho các thủ tục định vị lại liên-
SGSN. Kết quả là không cần có sự sửa đổi phần mềm nào trên SGSN 3G (hoặc 2G) ấy để hậu
thuẫn thủ tục này cả. Sau khi mạng vô tuyến 3G đã được chuẩn bị cho cuộc chuyển giao rồi,
MME sẽ gửi một lệnh chuyển giao đến UE thông qua eNodeB. Sau khi việc chuyển giao đã được
thi hành xong, đường hầm dữ liệu người dùng giữa Serving-GW và eNodeB được định tuyến lại
đến SGSN ấy. Sau đó MME được giải phóng khỏi trách nhiệm quản lý thuê bao, bởi vì nhiệm vụ
này được SGSN ấy tiếp quản rồi. Tuy nhiên Serving-GW vẫn còn trên đường truyền dữ liệu
người dùng thông qua đường giao tiếp S4 và đóng vai trò như một GGSN 3G theo quan điểm
của SGSN. Vì thế, theo quan điểm của SGSN thì đường giao tiếp S4 được xem là đường giao
tiếp Gn 3G nối giữa SGSN và GGSN.
3.2.6. Thuật ngữ “thiết lập cuộc gọi gói” trở thành lịch sử
Một khác biệt lớn của LTE so với GSM và UMTS là, mỗi UE sẽ luôn luôn được cấp phát một
địa chỉ IP ngay khi chúng đăng ký với mạng. Điều đó không áp dụng cho GSM và UMTS bởi vì
các thiết bị 2G, 3G và 3.5G vẫn chủ yếu được sử dụng cho dịch vụ thoại, cho nên nối kết mạng
mà không yêu cầu cấp phát địa chỉ IP là hợp lý thôi. Nhưng trong các mạng LTE, thiết bị nào
không có địa chỉ IP thì hoàn toàn vô dụng. Vì vậy, thủ tục nối kết mạng LTE đã bao gồm sẵn
việc cấp phát một địa chỉ IP rồi. Xét theo quan điểm LAN/WLAN thì điều này chẳng có gì mới,
nhưng xét theo quan điểm công nghiệp mạng tổ ong thì đây là cả một cuộc cách mạng. Vì thế

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 53

với LTE, thủ tục “thiết lập một cuộc gọi gói” trong GPRS và UMTS, một thuật ngữ đã được tạo
ra với thói quen suy nghĩ cũ là thiết lập một đường truyền chuyển gói nhằm giải quyết một cuộc
gọi thoại, sẽ trở thành chuyện quá khứ. Nhiều người trong giới công nghiệp mạng tổ ong sẽ phải
thay đổi sự hình dung của mình về thế giới di động để thích nghi với điều này.

Hình 3.2: Nối kết liên mạng LTE và UMTS.

3.3. Giao tiếp vô tuyến và mạng vô tuyến của LTE


Trong khi kiến trúc mạng LTE tổng quát chủ yếu chỉ là một sự cải tiến của kiến trúc mạng 3G
thôi, thì giao tiếp vô tuyến và mạng vô tuyến của LTE đã được thiết kế lại hoàn toàn từ đầu.
Trong các chuẩn 3GPP, nơi thích hợp để bắt đầu nghiên cứu sâu hơn về những gì được trình bày
ở đây là TS 36.300 (http://www.3gpp.org/ftp/Specs/html-info/36300.htm).
3.3.1. Truyền dữ liệu hướng xuống
Đối với việc truyền dữ liệu qua giao tiếp vô tuyến, người ta đã quyết định dùng một phương
thức truyền mới trong LTE, phương thức này hoàn toàn khác biệt với giải pháp CDMA của
UMTS. Thay vì dùng một kênh truyền tải qua một dải tần rộng, người ta đã quyết định dùng một
phương thức truyền gọi là Orthogonal Frequency Division Multiple Access (Đa Truy cập Phân
Tần Trực giao), viết tắt là OFDMA. OFDMA truyền đi một dòng dữ liệu bằng cách dùng nhiều,
ví dụ như 512, 1024, hoặc thậm chí nhiều hơn kênh truyền tải con (subcarrier) băng hẹp đồng
thời, tùy thuộc dải tần tổng thể có được (ví dụ như 5, 10, 20 MHz). Bởi vì nhiều bit được vận
chuyển song song với nhau, nên tốc độ truyền trên mỗi kênh truyền tải con có thể thấp hơn nhiều
so với tốc độ truyền dữ liệu tổng cộng. Điều này là quan trọng trong một môi trường vô tuyến
thực tế, nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của việc suy giảm đa đường dẫn (multipath fading) do thời
điểm đến nơi khác biệt đôi chút của tín hiệu từ các hướng khác nhau. Lý do thứ hai để giải pháp
này được chọn là, tác dụng của suy hao đa đường dẫn và sự phân tán độ trễ sẽ trở nên độc lập với
lượng dải tần được dùng cho kênh. Đó là vì dải tần của mỗi kênh con vẫn giống nhau, chỉ thay

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 54

đổi ở số lượng kênh con mà thôi. Với phương thức điều chế CDMA được dùng trước đây, việc
sử dụng một kênh truyền 20 MHz là không khả thi, bởi vì thời gian mỗi bit được truyền đi hẳn
phải ngắn đến nỗi sự nhiễu do phân tán độ trễ trên nhiều đường truyền khác nhau của tín hiệu sẽ
trở nên quá lớn.
Hình 3.3 cho thấy các bit ngõ vào trước hết được nhóm lại rồi được chỉ định truyền qua các
tần số (kênh truyền con) khác nhau như thế nào. Trong ví dụ này, 2 bit (đại diện cho kiểu điều
chế QAM) được gửi trong mỗi bước truyền trên mỗi kênh truyền con. Mỗi bước truyền còn được
gọi là một symbol (tạm dịch: ký hiệu điều chế). Với các phương thức điều chế 16-QAM và 64-
QAM, 4 bit và 6 bit được mã hóa trong một symbol, khiến cho tốc độ truyền dữ liệu còn cao hơn
nhiều. Mặt khác, việc mã hóa nhiều bit hơn trong một symbol sẽ làm cho bộ thu sóng khó giải
mã symbol đó hơn nếu nó bị thay đổi bởi nhiễu. Đây là lý do tại sao ở các điều kiện truyền khác
nhau người ta phải dùng các cấp điều chế khác nhau.

Hình 3.3: Nguyên tắc của OFDMA đối với các cuộc truyền hướng xuống.
Về lý thuyết, mỗi tín hiệu kênh con có thể được tạo ra bởi một khối phần cứng dây chuyền
truyền riêng. Sau đó tín hiệu ngõ ra của các khối này phải được cộng lại, và tín hiệu kết quả sẽ
được gửi qua không trung. Do bởi số lượng kênh con được dùng quá lớn, giải pháp này không
khả thi. Thay vì vậy, người ta thực hiện một giải pháp toán học như sau: Bởi vì mỗi kênh con
được truyền trên một tần số khác nhau, nên người ta xây dựng một đồ thị để biểu diễn tần số trên
trục x và biên độ của mỗi kênh con trên trục y. Sau đó, một hàm toán học gọi là Biến đổi Fourier
Nhanh Ngược (Inverse Fast Fourier Transformation _ IFFT) được áp vào, biến đổi biểu đồ này
từ miền tần số sang miền thời gian. Biểu đồ này có thời gian trên trục x và biểu diễn chính tín
hiệu đó như thể nó đã được tạo ra bởi các khối phần cứng truyền riêng cho mỗi kênh con khi
được cộng lại vậy. Như thế, hàm IFFT làm được đúng công việc mà các khối phần cứng dây
chuyền truyền riêng cho mỗi kênh con có thể làm, kể cả việc cộng lại các kết quả riêng.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 55

Ở phía máy thu, tín hiệu trước hết được giải điều chế rồi được khuếch đại lên. Sau đó kết quả
sẽ được xử lý bởi một hàm Biến đổi Fourier Nhanh (Fast Fourier Transformation _ FFT), hàm
này chuyển đổi tín hiệu thời gian về lại miền tần số. Hàm này tái tạo đồ thị tần số/biên độ đã
được xây dựng ở máy phát. Sau đó, một hàm phát hiện (detector) được dùng ở tần số trung tâm
của mỗi kênh con để sinh ra các bit đã được dùng lúc đầu để tạo ra kênh con đó.
Cho đến nay, tài liệu này đã bàn về khía cạnh OFD (Orthogonal Frequency Division) của các
cuộc truyền OFDMA. Thành phần MA (Multiple Access) của từ viết tắt này ý chỉ sự kiện là dữ
liệu được gửi ở hướng xuống sẽ được nhận bởi nhiều người dùng đồng thời. Như sẽ bàn sau này,
sẽ có các thông điệp điều khiển thông báo cho các UE biết phải đợi nhận bộ phận nào và lờ đi bộ
phận nào của luồng dữ liệu truyền được gửi đến chúng. Tuy nhiên, đây chỉ là một sự phân biệt về
mặt luận lý thôi. Ở tầng vật lý, yêu cầu duy nhất là phải nhanh chóng chuyển đổi các phương
thức điều chế từ QPSK sang 16-QAM hoặc 64-QAM đối với những kênh con khác nhau để thích
nghi với với những điều kiện nhận sóng khác nhau của các thuê bao.
3.3.2. Truyền dữ liệu hướng lên
Đối với việc truyền dữ liệu ở hướng lên, 3GPP đã chọn một phương thức điều chế hơi khác
một chút. Việc truyền OFDMA phải chịu một PAPR (Peak to Average Power Ratio _ tỷ lệ công
suất đỉnh so với trung bình) cao, điều này có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực đối với việc thiết
kế một bộ phát sóng nhúng trong UE; đó là, khi truyền dữ liệu từ UE đến mạng, cần có một bộ
khuếch đại công suất để nâng tín hiệu đến lên một mức đủ cao để mạng bắt được (pick up). Bộ
khuếch đại công suất là một trong những thành phần tiêu thụ năng lượng lớn nhất trong một thiết
bị, và vì thế nên có hiệu quả công suất cao càng cao càng tốt để làm tăng tuổi thọ pin của máy.
Tính hiệu quả của bộ khuếch đại công suất phụ thuộc vào hai yếu tố:
 Bộ khuếch đại đó phải có khả năng khuếch đại giá trị đỉnh cao nhất của sóng. Do những
ràng buộc trong chất bán dẫn, giá trị đỉnh này quyết định mức tiêu thụ năng lượng của bộ
khuếch đại.
 Tuy nhiên, các giá trị đỉnh của sóng không mang nhiều thông tin hơn chút nào so với công
suất trung bình của tín hiệu trong thời gian truyền nhận. Vì thế, tốc độ truyền không phụ
thuộc vào mức công suất ngõ ra cần thiết cho các giá trị đỉnh mà phụ thuộc vào mức công
suất trung bình của sóng.
Bởi vì cả mức tiêu thụ năng lượng lẫn tốc độ truyền đều quan trọng đối với các nhà thiết kế
UE, cho nên bộ khuếch đại công suất nên tiêu thụ càng ít năng lượng càng tốt. Như vậy, UE nào
sử dụng phương thức điều chế có tỉ lệ PAPR càng thấp thì thời gian hoạt động của nó ở một tốc
độ truyền nhất định càng dài.
Một phương thức điều chế tương tự với OFDMA cơ bản, nhưng có một PAPR tốt (thấp) hơn,
là SC-FDMA (Single Carrier-Frequency Division Multiple Access _ Đa Truy cập Phân Tần Một
Kênh truyền duy nhất). Do PAPR của nó tốt hơn, nó được 3GPP chọn để truyền dữ liệu ở hướng
lên. Tuy mang cái tên như vậy song SC-FDMA cũng truyền dữ liệu qua giao tiếp vô tuyến trong
nhiều kênh con, nhưng bổ sung thêm một bước xử lý nữa, như được minh họa trong Hình 3.4.
Thay vì đặt 2, 4 hoặc 6 bit với nhau như trong ví dụ OFDM để tạo thành tín hiệu cho một kênh
con, khối xử lý bổ sung trong SC-FDMA trải thông tin của mỗi bit ra trên tất cả các kênh con.
Điều này được thực hiện như sau: Cũng một số bit (ví dụ như 4 đối với điều chế 16-QAM) được
nhóm lại với nhau, nhưng trong OFDM, các nhóm bit này là dữ liệu nhập cho hàm IFFT, còn
trong SC-FDMA, các bit này được đưa vào một hàm FFT (Fast Fourier Transformation) trước
đã. Dữ liệu xuất của quá trình này là cơ sở cho việc tạo ra các kênh truyền con cho hàm IFFT
theo sau. Bởi vì không phải tất cả các kênh con đều được dùng bởi UE, nên nhiều kênh được đặt
ở mức không (0) trong đồ thị. Những kênh này có thể được dùng bởi các UE khác hoặc không.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 56

Ở phía máy thu, tín hiệu được giải điều chế, được khuếch đại và được xử lý bởi hàm FFT theo
cách giống như trong OFDMA. Nhưng biểu đồ biên độ kết quả không được phân tích thẳng ra để
có được dòng dữ liệu ban đầu, mà được nạp vào một hàm IFFT để gỡ bỏ tác dụng của quá trình
xử lý tín hiệu bổ sung đã được thực hiện ở phía máy phát. Ra khỏi hàm IFFT này, tín hiệu lại trở
thành tín hiệu miền thời gian. Tiếp đến, tín hiệu miền thời gian này được cung cấp cho một khối
phát hiện (detector), khối này tái tạo lại các bit dữ liệu ban đầu. Như vậy, thay vì phát hiện các
bit trên nhiều kênh con khác nhau, người ta chỉ dùng một hàm phát hiện duy nhất trên một kênh
truyền duy nhất.

Hình 3.4: Điều chế SC-FDMA cho các cuộc truyền hướng lên.
Những khác biệt giữa OFDM và SC-FDMA có thể được tổng kết như sau: OFDM tạo ra các
nhóm bit nhập (các con số 0 và 1) để lắp ráp vào các kênh con; sau đó các kênh con này được xử
lý bởi hàm IFFT để có được một tín hiệu miền thời gian. Ngược lại, SC-FDMA trước hết chạy
một hàm FFT trên các nhóm bit dữ liệu nhập rồi đưa kết quả vào hàm IFFT để hàm này tạo ra tín
hiệu miền thời gian. Đây là lý do khiến đôi khi SC-FDMA còn được gọi là phương thức OFDM
trải FFT (FFT spread OFDM).
3.3.3. Các thông số vật lý
Đối với LTE, các thông số vật lý sau đây đã được chọn:
 Khoảng cách giữa các kênh con (subcarrier spacing): 15 kHz;
 Thời gian tồn tại ký hiệu OFDM: 66.667 µs;
 Tiền tố chu kỳ (cyclic prefix) chuẩn mực: 4.7 µs.
Tiền tố chu kỳ được truyền trước mỗi ký hiệu OFDM để ngăn ngừa nhiễu giữa các ký hiệu do
độ dài khác nhau của các đường truyền. Đối với các môi trường khắc nghiệt với các đường
truyền khác nhau cao độ, người ta cũng qui định một tiền tố chu kỳ dài hơn (16.67 µs). Tuy

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 57

nhiên, nhược điểm của việc dùng một tiền tố chu kỳ dài hơn là tốc độ dữ liệu người dùng bị giảm
đi, bởi vì thời gian tồn tại ký hiệu vẫn giữ nguyên.
Khoảng cách giữa các kênh con và thời gian tồn tại ký hiệu được chọn bù đắp cho những hiệu
ứng có hại trên tín hiệu, chẳng hạn như hiệu ứng Doppler (dịch tần) do tính di động của các thuê
bao. Các thông số này đã được chọn để cho phép tốc độ di chuyển của thuê bao vượt quá 350
Km/h.
Để linh hoạt với việc cấp phát các dải tần ở nhiều nước khác nhau khắp thế giới, một số dải
tần kênh truyền khác nhau đã được qui định cho LTE. Các dải tần này biến thiên từ mức thấp
nhất là 1.25 MHz đến mức cao nhất là 20 MHz. Bảng 3.1 cho thấy các dải tần truyền chuẩn hóa,
số lượng kênh con được dùng cho mỗi dải tần đó, và kích thước FFT (số lượng đường phổ) được
dùng ở phía máy thu để chuyển đổi tín hiệu từ miền thời gian sang miền tần số. Trong thực tế,
người ta trông đợi là các nhà cung cấp dịch vụ mạng sử dụng LTE sẽ triển khai các mạng trong
các băng tần có sẵn hiện nay dành cho GSM và UMTS nhưng sử dụng những dải tần ít nhất là 10
MHz, bởi vì không có lợi gì về tốc độ khi dùng LTE ở một dải tần 5 MHz so với HSPA+. Những
dải tần nhỏ hơn, 1.25 MHz và 2.5 MHz, đã được chỉ định cho những nhà mạng nào có phổ nhỏ
hoặc những nhà mạng nào muốn “khai thác lại” một số phổ GSM của họ ở băng 900 MHz. Tuy
nhiên trong thực tế, chưa biết điều này có mang lại lợi ích to lớn nào hay không, bởi vì những tốc
độ truyền có thể đạt được trong một dải tần hẹp như vậy thấp hơn những tốc độ truyền có thể đạt
được với HSPA hiện nay.
Bảng 3.1: Những dải tần qui định cho LTE.
Dải tần Số lượng kênh con Kích thước FFT
1.25 MHz 76 128
2.5 MHz 151 256
5 MHz 301 512
10 MHz 601 1024
15 MHz 901 1536
20 MHz 1201 2048

Ngoài việc sử dụng các băng tần có sẵn, người ta cũng đang mở ra các băng tần mới cho các
công nghệ không dây Sau 3G. Ví dụ, ở Âu châu băng 2.5 GHz, còn được gọi là băng mở rộng
IMT, sẽ được mở ra cho LTE và có thể cho cả những công nghệ không dây khác nữa. Tuy nhiên,
trong các băng hiện tại vẫn còn nhiều dải tần không dùng đến, điều này khiến các băng mới
không hấp dẫn đối với LTE trong tương lai gần.
3.3.4. Từ khe đến khung
Dữ liệu được chuyển hóa thành các kênh con và các ký hiệu, vốn được sắp đặt trong miền
thời gian và miền tần số theo một lưới tài nguyên như được minh họa trong Hình 3.5. Đơn vị tập
kết nhỏ nhất được gọi là khe (slot) hoặc khối tài nguyên (resource block), và chứa 12 kênh con
cùng với 7 ký hiệu trên mỗi kênh con trong trường hợp dùng tiền tố chu kỳ ngắn mặc định. Thời
gian tồn tại ký hiệu là 66.67 µs cộng tiền tố chu kỳ 4.7 µs nhân cho 7 cho ra độ dài khe là 0.5 ms.
Trong trường hợp phải dùng đến tiền tố chu kỳ dài (16.67 µs), số lượng ký hiệu trong mỗi khe
được giảm xuống thành 6, như vậy cũng cho ra kết quả độ dài khe là 0.5 ms. Nhóm 12 kênh con
lại với nhau thì dải tần một khối tài nguyên là 180 kHz. Bởi vì dải tần truyền tải tổng cộng được
dùng trong LTE lớn hơn nhiều (ví dụ như 10 MHz), nên có nhiều khối tài nguyên được truyền
song song với nhau.
Sau đó cứ hai khe được nhóm lại thành một khung con (subframe), còn được gọi là TTI
(Transmit Time Interval). Trong trường hợp hoạt động TDD (Time Division Duplex _ Ghép

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 58

kênh phân thời) (hướng lên và hướng xuống trong cùng một dải tần), có thể dùng một khung con
cho truyền hướng lên hoặc hướng xuống. Tùy theo mạng mà người ta quyết định dùng những
khung con nào cho hướng nào. Tuy nhiên hầu hết các mạng đều có vẻ phù hợp với FDD
(Frequency Division Duplex _ Ghép kênh phân tần) hơn, nghĩa là truyền hướng lên và truyền
hướng xuống đều có một dải tần riêng. Ở đây, tất cả các khung con của dải tần đó đều được dành
hết cho truyền hướng lên hoặc truyền hướng xuống.
Mười khung con được nhóm lại với nhau thành một khung (frame) vô tuyến, có thời gian tồn
tại là 10 ms. Sau đó, chu kỳ lặp lại với khung kế tiếp. Điều này là quan trọng đối với các UE, bởi
vì thông tin quảng bá (ví dụ như thông tin cấp phát dải tần chẳng hạn) luôn luôn được truyền ở
đầu mỗi khung.

Hình 3.5: Lưới tài nguyên LTE.


Lượng phần tử tài nguyên (resource element, tức ký hiệu) nhỏ nhất có thể được phân cho một
UE ở mỗi khoảnh khắc thời gian là bằng hai khối tài nguyên, tức bằng một khung con hoặc một
gián cách thời gian truyền (transmit time interval). Để làm tăng tốc độ truyền cho UE, bộ sắp đặt
lịch truyền trong mạng có thể móc nối vài khối tài nguyên với nhau ở cả chiều thời gian và chiều
tần số. Bởi vì có nhiều khối tài nguyên được truyền song song, nên có thể sắp đăt lịch đồng thời
cho vài UE, mỗi cái lắng nghe những kênh con khác nhau.
3.3.5. Các ký hiệu tham chiếu và các kênh truyền
Không phải tất cả các phần tử tài nguyên của một khối tài nguyên đều được dùng để truyền dữ
liệu người dùng. Đặc biệt là xung quanh tần số trung tâm, một số phần tử tài nguyên được dùng
cho những mục đích khác, như được mô tả bên dưới.
Để cho phép một UE nhận ra mạng sau khi được bật lên và rà soát các cell kế cận, một số
phần tử tài nguyên được dùng làm các ký hiệu hướng dẫn (pilot symbol) hoặc ký hiệu tham chiếu

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 59

(reference symbol) theo một cách thức được qui định trước. Trong khi dữ liệu được truyền, các
ký hiệu pilot này được UE sử dụng để đánh giá chất lượng kênh truyền hướng xuống và tái tạo
lại tín hiệu gốc đã bị méo trong khi truyền, bởi vì nội dung của phần tử tài nguyên này đã được
biết rõ.
Đối với việc truyền những dữ liệu các tầng cao hơn, LTE sử dụng lại khái niệm kênh truyền
của UMTS như được minh họa trong Hình 2.8 và Hình 2.9 ở Chương 2. Tuy nhiên điều khác
biệt với UMTS là tất cả các UE đều dùng kênh dùng chung ở tầng vật lý. Vì thế mô hình LTE
đơn giản hơn nhiều so với mô hình của UMTS. LTE cũng dùng lại khái niệm về các kênh luận lý
(những gì được truyền), kênh vận chuyển (nó được truyền như thế nào) và kênh vật lý (giao tiếp
vô tuyến) để phân biệt việc truyền dữ liệu qua giao tiếp vô tuyến với việc biểu diễn luận lý dữ
liệu. Hình 3.6 cho thấy những kênh quan trọng nhất được dùng trong LTE, và chúng được ánh xạ
vào nhau như thế nào.

Hình 3.6: Các kênh truyền hướng lên và hướng xuống của LTE.
3.3.6. Hướng xuống: Kênh quảng bá
Khi không có dữ liệu nào được truyền cả và UE ở trạng thái rỗi (Idle), nó sẽ lắng nghe hai
kênh luận lý. Kênh luận lý BCCH (Broadcast Control CHannel) được mạng sử dụng để truyền
đến các UE thông tin về hệ thống, chẳng hạn như thông tin về mạng và cell, tức là những khối tài
nguyên và phần tử tài nguyên nào để tìm ra những kênh khác, có thể truy cập mạng bằng cách
nào, v.v… Các thông số cơ bản được gửi đi trên kênh BCCH được ánh xạ vào kênh vận chuyển
BCH, rồi đến kênh vật lý PBCH (Physical Broadcast Channel). Sau đó kênh PBCH được ánh xạ
thành các phần tử tài nguyên dành riêng trong các kênh con của dải 1.25 MHz bên trong băng
tần. Những tài nguyên nào được dùng cho PBCH thì được tính toán bằng một công thức toán
học, công thức này tạo ra một mẫu hình bit nào đó, và vì vậy phân phối thông tin quảng bá cho
những kênh truyền con khác nhau theo thời gian. Ngoài ra, một số phần tử tài nguyên khác được
dùng cho một kênh đồng bộ SCH (Synchronization CHannel), kênh này không được minh họa
trong Hình 3.6. Như cái tên của nó hàm ý, những phần tử tài nguyên này giúp các UE đồng bộ
với cell và nhận ra những phần tử tài nguyên mà có thể tìm thấy thông tin quảng bá trên đó.
Ngoài các thông số cơ bản về cell, kênh quảng bá còn vận chuyển những thông tin khác, vốn
cũng cần thiết nhưng không quan trọng lắm lúc đầu. Vì vậy để tiết kiệm dải tần và để linh động
trong tương lai, những thông tin này không được vận chuyển trên kênh PBCH mà trên kênh
PDSCH (Physical Downlink Shared Channel), vốn cũng được dùng để vận chuyển dữ liệu người

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 60

dùng (các gói IP). Một con trỏ trên kênh PBCH báo cho UE biết cần tìm thông tin quảng bá dành
cho nó ở đâu trên kênh PDSCH.
3.3.7. Hướng xuống: Kênh nhắn tin
Kênh nhắn tin PCH được dùng để liên lạc với các UE ở trạng thái rỗi (Idle) khi một gói IP
mới được gửi từ Internet vào mạng lõi và cần được đưa đến UE ấy. Khi thiết bị ở trạng thái rỗi,
tức trạng thái mà nó được đưa vào sau một thời gian thụ động kéo dài, thiết bị chỉ biết về khu vực
theo dõi (tracking area, tức mã nhận diện cho một nhóm cell) bao quanh thiết bị đó thôi. Vậy thì
khi gói IP đó tới, một thông điệp nhắn tin sẽ được gửi tới tất cả các cell của nhóm này. Khi UE
nhận được thông điệp ấy, nó liên lạc lại với mạng, một đường truyền tải được thiết lập, rồi gói đó
được giao đến nó. Đối với những dịch vụ như gửi tin ngắn, gửi e-mail và gọi VoIP, việc nhắn tin
về các gói IP đang đến là khá phổ biến. Những ứng dụng như thế, nếu được lập trình đúng đắn
và không có bộ dịch địa chỉ mạng (NAT) nào được dùng, đều có một đường truyền luận lý nối
với một server trong mạng, nhưng đường truyền này không hoạt động cho đến khi người dùng
yêu cầu một hành động mới hoặc ứng dụng đó được server trên mạng kia liên hệ vì một tin nhắn
mới gửi đến chẳng hạn. Như có thể thấy trong Hình 3.6, không có kênh vật lý nào dành riêng cho
các thông điệp nhắn tin cả. Thay vì vậy, các thông điệp nhắn tin được gửi đi trên kênh dùng
chung hướng xuống PDSCH, và một con trỏ trên kênh luận lý BCCH cho UE biết là có thể tìm
được những thông điệp nhắn tin đó ở đâu và khi nào trên kênh dùng chung ấy. Chu kỳ quảng bá
cho các thông điệp nhắn tin mà một UE cần lắng nghe thường khoảng chừng 1 đến 2 giây. Đây
là một sự cân bằng hợp lý giữa yêu cầu giao nhanh một gói gửi đến và yêu cầu tiêu thụ điện năng
thấp của UE đang không trong tình trạng được sử dụng tích cực.
3.3.8. Hướng xuống và hướng lên: Các kênh truyền tải và kênh điều
khiển dành riêng, và việc ánh xạ chúng vào kênh vật lý dùng chung
Ở góc nhìn luận lý, dữ liệu người dùng và các thông điệp RRC được truyền qua các kênh vận
chuyển dữ liệu dành riêng DTCH (Dedicated Traffic CHannel) và các kênh điều khiển dành
riêng DCCH (Dedicated Control CHannel). Mỗi UE đều có cặp kênh dành riêng này cho riêng
nó. Như có thể thấy trong Hình 3.6, cả hai kênh này được ghép thành (hoặc được phân ra từ) một
kênh vật lý dùng chung hướng lên hoặc hướng xuống duy nhất (PDSCH, PUSCH), dùng cho tất
cả các thiết bị. Vì thế, những tầng phần mềm cao hơn không phụ thuộc vào kiểu thực hiện vật lý
của giao tiếp vô tuyến.
3.3.9. Hướng xuống: Các kênh điều khiển ở tầng vật lý
Ngoài các kênh đã nói ở trên, cần có một số kênh điều khiển tầng vật lý nữa để trao đổi thông
tin phản hồi ở tầng vật lý. Bởi vì các kênh này chỉ mang thông tin điều khiển ở tầng thấp hơn và
xuất phát từ các trạm cơ sở chứ không phải mạng đằng sau chúng, nên chúng không được trình
bày trong Hình 3.6. Các kênh này bao gồm:
 Kênh PDCCH: để thông báo cho các UE biết là chúng được cấp những khối tài nguyên nào
để truyền theo hướng lên, mỗi kênh PDSCH luôn đi đôi với một kênh PDCCH (Physical
Downlink Control CHannel). Ngoài ra, kênh này còn thông báo cho các UE biết về sự cấp
phát tài nguyên của các kênh vận chuyển PCH và kênh DL-SCH.
 Kênh PCFICH: bởi vì lượng dữ liệu được truyền tải trên kênh PDCCH thay đổi, nên số
lượng ký hiệu OFDM chỉ định cho kênh PDCCH được quảng bá qua kênh PCFICH (Physical
Control Format Indicator CHannel).
 Cuối cùng, kênh PHICH (Physical HARQ Indicator Channel) truyền tải những thông điệp
báo nhận để cho biết có tiếp nhận đúng đắn các khối dữ liệu hướng lên hay không. Chức năng

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 61

báo nhận HARQ được dùng trong LTE cũng tương tự như chức năng được dùng trong UMTS
(xem lại mục 2.3.4 ở Chương 2).
3.3.10. Hướng lên: Các kênh điều khiển ở tầng vật lý
Ở hướng lên, có hai kênh điều khiển tầng vật lý: kênh điều khiển hướng lên vật lý (Physical
Uplink Control CHannel _ PUCCH) và kênh truy cập vật lý tùy ý (Physical Random Access
CHannel). Kênh PUCCH là loại kênh dành riêng cho mỗi thiết bị, và truyền tải những thông tin
sau đây:
 Các thông điệp báo nhận HARQ ứng với những khung dữ liệu nhận được từ mạng (xem lại
mục 2.3.4 ở Chương 2).
 Những yêu cầu sắp đặt lịch truyền từ UE, để báo cho mạng biết rằng có nên sắp đặt lịch
cho những dịp truyền hướng lên thêm nữa bởi vì có thêm dữ liệu trong bộ nhớ đệm ngõ xuất,
hay không.
 Các chỉ báo chất lượng kênh (Channel Quality Indication _ CQI) về cho mạng, để trạm cơ
sở có thể quyết định dùng phương thức điều chế và mã hóa nào cho dữ liệu ở hướng lên.
Thông tin CQI cũng quan trọng đối với bộ sắp đặt lịch truyền ở trạm cơ sở, bởi vì nó có thể
quyết định tạm thời dừng việc truyền dữ liệu cho người dùng trong những tình huống suy
giảm sâu tín hiệu nhất thời, ở đó chắc chắn là dù sao dữ liệu cũng không thể được nhận đúng
đắn.
Kênh điều khiển thứ hai được dùng ở hướng lên là kênh truy cập tùy ý vật lý PRACH. Nó
được sử dụng khi không có đường truyền nào được thiết lập ở hướng lên để yêu cầu những dịp
truyền hướng lên mới. Nó cũng được sử dụng khi UE muốn thiết lập một đường truyền lần đầu
sau một khoảng thời gian nghỉ ngơi dài, hoặc để hồi đáp một thông điệp nhắn tin từ mạng.
3.3.11. Cấp phát lịch truyền linh động và cấp phát lịch truyền lâu dài
Bộ sắp đặt lịch truyền gói ở trạm cơ sở quyết định là những khối tài nguyên nào của các kênh
vật lý hướng xuống và hướng lên sẽ được dùng cho UE nào. Bằng cách này, trạm cơ sở điều
khiển cả việc truyền hướng lên lẫn việc truyền hướng xuống cho mỗi UE, và vì thế, có thể quyết
định là dùng dải tần rộng bao nhiêu cho mỗi UE. Các thông số ngõ nhập dành cho bộ sắp đặt lịch
truyền là những thứ chẳng hạn như điều kiện vô tuyến hiện thời nhìn từ mỗi thiết bị, cho nên tốc
độ truyền dữ liệu sẽ được tăng hoặc giảm đối với những thiết bị nhất thời gặp những điều kiện vô
tuyến đặc biệt tốt hoặc đặc biệt xấu. Các thông số ngõ nhập khác là các thông số chất lượng dịch
vụ của đường truyền và độ rộng dải tần tối đa được nhà điều hành mạng cấp phát cho UE, dựa
trên thông tin đăng ký của người dùng.
Có hai kiểu cấp phát dung lượng cho việc truyền dữ liệu hướng lên: cấp phát linh động
(dynamic grant) và cấp phát lâu dài (persistent grant). Những quyết định cấp phát linh động được
thông báo một lần rồi có hiệu lực trong một hoặc nhiều khoảng thời gian truyền nào đó. Sau đó,
mạng phải phát ra một quyết định cấp phát mới cho những dịp truyền khác hoặc để thiết bị nhận
thêm dữ liệu ở hướng xuống. Kiểu cấp phát linh động có ích cho những dữ liệu đến theo kiểu
“no dồn đói góp” (bursty), giống như khi duyệt Web và khi tải nội dung xuống từng đợt chẳng
hạn.
Những ứng dụng như gọi thoại và gọi video đòi hỏi một dải tần không đổi và càng ít độ biến
động trong khoảng thời gian giữa các gói liên tiếp nhau (jitter) càng tốt. Đối với các ứng dụng
này, trạm cơ sở cũng có thể đưa ra những quyết định cấp phát lâu dài, vốn được cấp một lần rồi
có hiệu lực trong tất cả những khoảng thời gian truyền sau đó. Theo cách cấp phát này thì không
cần tài nguyên báo hiệu để liên tục cấp phát lại tài nguyên giao tiếp vô tuyến trong khi một cuộc
gọi thoại hoặc video đang diễn ra. Điều này làm tăng độ hiệu quả tổng thể của cell và làm tăng

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 62

thông lượng khả dụng cho dữ liệu người dùng. Vấn đề nảy sinh với các cuộc cấp phát lâu dài này
là làm cách nào trạm cớ sở biết được khi nào cần dùng kiểu cấp phát này. Một cách để đạt được
điều này là quyết định dựa trên những yêu cầu chất lượng dịch vụ của đường truyền, vốn được
báo hiệu cho mạng trong suốt thời gian thiết lập đường truyền. Cách này áp dụng tốt đối với
những ứng dụng nào đòi hỏi một thông lượng không đổi và dựa trên phân hệ đa phương tiện IP
(IP Multimedia Subsystem _ IMS). Ngoài thông tin báo hiệu chất lượng dịch vụ (QoS) phát ra từ
UE, IMS có một đường liên lạc với mạng vận chuyển và cũng có thể tác động vào đường truyền
tải. Tuy nhiên, đối với VoIP và những ứng dụng khác không dùng IMS, việc dùng kiểu cấp phát
lâu dài này khó khăn hơn nhiều. Nhiều khả năng là những ứng dụng như vậy được dùng trên một
đường truyền tải mặc định không có bảo đảm gì về thông lượng và độ trễ, bởi vì nó cũng đồng
thời được dùng cho những ứng dụng khác trên cùng thiết bị, như duyệt Web chẳng hạn. Trong
thực tế, vẫn chưa biết các bộ sắp đặt lịch truyền LTE có xem xét mức độ sử dụng thông lượng
của UE trong một thời gian dài rồi trên cơ sở này quyết định cấp phát linh động hay cấp phát lâu
dài hay không.
3.3.12. Truyền MIMO trong LTE
Cho đến nay, chương này đã tập trung bàn về việc truyền dữ liệu thông qua một dòng tín hiệu
duy nhất trong không gian giữa bộ phát sóng và bộ thu sóng. Hầu hết các hệ thống không dây
hiện nay đều hoạt động theo chế độ này, và một bộ phát sóng thứ hai trên cùng tần số được xem
là nhiễu không mong muốn, làm giảm chất lượng kênh truyền. Tuy nhiên trong thực tế, có thể
thấy rằng ngay cả một tín hiệu duy nhất cũng bị phản xạ và tán xạ bởi những đối tượng trong lộ
trình truyền, và đầu kia nhận được vài bản sao của tín hiệu ban đầu từ những góc độ khác nhau
vào những thời điểm hơi lệch nhau một chút. Đối với những công nghệ truyền không dây đơn
giản, các bản sao này cũng là nhiễu không mong muốn. Nhưng LTE lại lợi dụng sự tán xạ và
phản xạ trên lộ trình truyền bằng cách truyền vài dòng dữ liệu độc lập qua những ăng-ten riêng.
Các ăng-ten này được đặt cách nhau ít nhất là một nửa bước sóng, điều này tự nó tạo ra những
cuộc truyền riêng biệt, vốn phản ứng khác nhau khi chúng gặp những chướng ngại trong lộ trình
truyền. Ở phía máy thu, những dòng dữ liệu khác nhau được bắt (pick up) bởi các ăng-ten độc
lập và các dây chuyền thiết bị thu độc lập. Việc truyền vài tín hiệu độc lập trên cùng băng tần
này được gọi là MIMO (Multiple Input Multiple Output), và Hình 3.7 cho thấy một cách biểu
diễn đồ họa đơn giản hóa của kỹ thuật này. Trong thực tế, điều này có nghĩa là vài lưới tài
nguyên LTE như được minh họa trong Hình 3.5 được gửi đồng thời trên cùng tần số nhưng
thông qua những ăng-ten khác nhau.

Hình 3.7: Nguyên tắc của truyền MIMO.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 63

Chuẩn LTE chỉ định hai và bốn cuộc truyền riêng biệt trên cùng một băng tần, tức đòi hỏi
phải có hai hoặc bốn ăng-ten tương ứng ở cả máy phát lẫn máy thu. Hệ quả là, những cuộc
truyền như vậy được gọi là 2x2 MIMO và 4x4 MIMO. Trong thực tế, 2x2 MIMO nhiều khả
năng sẽ được dùng trước, do bởi những ràng buộc về kích cỡ của các UE và do sự kiện là các
ăng-ten phải được đặt cách nhau ít nhất một nửa bước sóng. Hơn nữa, hầu hết các UE đều cho
phép dùng vài băng tần, mỗi băng thường đòi hỏi bộ ăng-ten của riêng nó trong trường hợp hoạt
động MIMO được hậu thuẫn trong băng đó. Ở phía mạng, có thể có được những cuộc truyền 2x2
MIMO bằng một ăng-ten phân cực chéo (cross polar antenna) “duy nhất”, kết hợp hai ăng-ten
theo cách sao cho mỗi ăng-ten truyền đi một dòng dữ liệu riêng biệt với một dạng phân cực khác
nhau (ngang và đứng).
Tuy Hình 3.7 mô tả khái niệm tổng quát của truyền MIMO, nhưng nó không chính xác ở phía
máy thu, bởi vì mỗi ăng-ten nhận không phải chỉ một tín hiệu duy nhất mà là một sự kết hợp của
tất cả các tín hiệu khi chúng chồng chéo lên nhau trong không gian. Vì thế, mỗi dây chuyền thiết
bị thu cần phải tính toán một cách truyền kênh có xét đến mọi cuộc truyền để phân biệt các cuộc
truyền với nhau. Các ký hiệu truyền pilot đã nói ở trên được dùng cho mục đích này. Những
thành tố cần thiết cho các tính toán này bao gồm độ lợi (gain), pha (phase) và các ảnh hưởng đa
đường truyền (multipath effect) cho mỗi lộ trình truyền độc lập. Vì khuôn khổ có hạn, tài liệu
này không đi sâu vào cách tính toán này.
Bởi vì các kênh MIMO phân biệt với nhau, nên 2x2 MIMO có thể làm tăng tốc độ truyền tổng
thể lên hai lần, còn 4x4 MIMO thì tăng lên bốn lần. Tuy nhiên điều này chỉ có thể đạt được trong
những điều kiện tín hiệu lý tưởng. Vì vậy, MIMO chỉ được dùng cho các cuộc truyền hướng
xuống trong LTE, bởi vì bộ phát sóng của trạm cơ sở ít bị ràng buộc về công suất hơn bộ phát
sóng ở hướng lên. Trong những điều kiện truyền ít thuận lợi hơn, hệ thống tự động quay trở lại
kiểu truyền một dòng dữ liệu duy nhất và cũng giảm luôn cấp điều chế từ 64-QAM xuống 16-
QAM hay thậm chí QPSK. Ngoài ra, như đã trình bày trong phần nói về HSPA+, còn có một sự
quân bình (được này mất kia) giữa điều chế cấp cao hơn và sử dụng MIMO. Vì thế trong những
điều kiện tín hiệu kém hơn lý tưởng, truyền MIMO chỉ được dùng với điều chế 16-QAM thôi,
như vậy không thể gấp đôi tốc độ truyền so với truyền một dòng duy nhất sử dụng 64-QAM.
Ở hướng lên, thật khó cho các UE sử dụng MIMO do bởi kích cỡ ăng-ten hạn chế và công
suất ngõ ra của nó, cho nên chuẩn LTE hiện nay không có MIMO. Tuy nhiên bản thân kênh
truyền hướng lên LTE vẫn thích hợp cho truyền MIMO hướng lên. Để tận dụng trọn vẹn kênh
truyền này, một số công ty đang tính tới việc thực hiện MIMO cộng tác (collaborative MIMO),
hay còn gọi là MIMO đa người dùng (multiuser MIMO), trong tương lai. Ở đây, hai UE sử dụng
cùng một kênh hướng lên cho lưới tài nguyên của chúng. Về phía trạm cơ sở, hai dòng dữ liệu
này được phân tách bởi bộ thu sóng MIMO và được xử lý như là hai cuộc truyền từ những thiết
bị độc lập, chứ không phải như hai cuộc truyền từ một thiết bị duy nhất nên phải được kết hợp
lại. Tuy điều này không làm cho tốc độ truyền của mỗi thiết bị cao hơn, nhưng dung lượng
hướng lên tổng thể của cell được gia tăng đáng kể.
3.3.13. Tính toán thông suất LTE
Dựa trên các thông số của tầng vô tuyến đã giới thiệu trong các tiểu mục bên trên, thông suất
của tầng vật lý của một cell vô tuyến LTE có thể được tính toán như sau: thời gian truyền cho
mỗi symbol là 73.167 µs (66.667 µs cho bản thân ký hiệu đó + 4.7µs dành cho tiền tố chu kỳ),
cấp điều chế cao nhất là 64-QAM (6 bit mỗi symbol) và có 1201 kênh con trong một dải tần 20
MHz:
Tốc độ vật lý = (1/0,000073167)* 6 * 1201 = 98487022 bit/s (tức là khoảng 100 Mbit/s)

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 64

Khi sử dụng 2x2 MIMO, tốc độ dữ liệu tầng vật lý tăng gấp đôi tức đạt khoảng 200 Mbit/s,
còn trong trường sử dụng 4x4 MIMO để truyền, tốc độ truyền dữ liệu lý thuyết là 400 Mbit/s
trên một dải tần 20 MHz.
Các giá trị này thường được trích dẫn trong các tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, như đã bàn
trong phần nói về MIMO đối với HSPA+ (mục 2.4.2 ở Chương 2), các tốc độ truyền dữ liệu tầng
vật lý thô này không đạt được trong thực tế vì nhiều lý do khác nhau:
 Điều chế 64-QAM chỉ có thể được dùng khi UE ở rất gần trạm cơ sở. Đối với đa số người
dùng được phục vụ bởi một cell, dùng 16-QAM (4 bit mỗi symbol) hoặc QPSK (2 bit mỗi
symbol) thì thực tế hơn.
 Các bit (mã hóa) phát hiện lỗi (error detection) và sửa lỗi (error correction) thường được
bổ sung vào dòng dữ liệu, bởi vì nếu không làm vậy thì tốc độ lỗi bit trên giao tiếp vô tuyến
sẽ trở nên quá cao. Trong những điều kiện tín hiệu bình thường, người ta thấy tỷ lệ các bit mã
hóa trong tổng số các bit được truyền là 1/3. Cho nên trong thực tế, phụ phí mã hóa trong
phạm vi lên tới 25–30% tổng lượng dữ liệu được truyền.
 Những cuộc truyền lại: với một chiến lược truyền rất thận trọng, kiểu mã hóa được mô tả ở
trên là đủ để sửa hầu hết các lỗi truyền. Thế nhưng trong thực tế, người ta sử dụng các chiến
lược truyền năng nổ hơn để tận dụng tài nguyên của giao tiếp vô tuyến. Điều này thường dẫn
đến tỷ lệ truyền lại gói của giao tiếp vô tuyến lên đến khoảng 20% (cứ 4 bit truyền đi thì phải
truyền lại 1 bit).
 Có một phụ phí đáng kể từ các kênh pilot và kênh điều khiển, chẳng hạn như kênh quảng
bá và các kênh báo hiệu dành riêng cho mỗi người dùng để báo có tiếp nhận đúng đắn các gói
dữ liệu hay không và để vận chuyển những kết quả đo đạc chất lượng tín hiệu. Nhiều kênh
trong số này được truyền bằng một phương thức điều chế bậc thấp hơn (QPSK chẳng hạn) để
ngay cả các thiết bị trong những điều kiện rất bất lợi cũng có thể nhận được thông tin.
 Trong nhiều trường hợp thực hiện LTE, dải tần khả dụng nhỏ hơn 20 MHz.
 Khi sử dụng MIMO, cấp điều chế phải được giảm xuống trong những điều kiện truyền
kém hơn lý tưởng.
 Dung lượng tổng thể của cell phải được chia sẻ bởi tất cả những người dùng trong đó.
 Can nhiễu sinh ra bởi việc truyền các cell kế cận trên cùng băng tần có một ảnh hưởng tai
hại hơn.
Vì vậy trong thực tế, nhiều khả năng thông suất mỗi cell chỉ đạt khoảng 30% đến 50% của các
giá trị lý thuyết được nêu ở trên. Một cell có dải thông truyền 10 MHz và 2x2 MIMO có thể đạt
đến dung lượng tổng thể trên tầng IP khoảng chừng 30 Mbit/s.
3.3.14. Kiểm soát tài nguyên vô tuyến (radio resource control)
Cũng như trong UMTS và HSPA, mạng LTE kiểm soát việc truy cập vào các tài nguyên của
giao tiếp vô tuyến đối với cả hướng lên lẫn hướng xuống. Bởi vì bây giờ không còn một nút
trung tâm trong mạng vô tuyến để quản trị tài nguyên nữa, nên các trạm cơ sở phải tự chịu trách
nhiệm thực hiện những công việc sau đây:
 Quảng bá thông tin hệ thống cho mọi UE.
 Quản lý đường truyền (connection management): các UE và mạng sử dụng các kênh điều
khiển chẳng hạn như kênh truy cập tùy ý PRACH, kênh nhắn tin PCH, và kênh điều khiển
dành riêng DCCH để trao đổi các thông điệp RRC. Loại thông điệp RRC đầu tiên được trao
đổi khi thiết bị truy cập mạng lần đầu hoặc sau một khoảng thời gian dài thụ động là các

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 65

thông điệp yêu cầu thiết lập đường truyền. Sau đó eNodeB chịu trách nhiệm thiết lập một
kênh truyền báo hiệu luận lý với thiết bị thông qua các kênh vật lý hướng lên và hướng xuống
dùng chung PDSCH và PUSCH, hoặc từ chối yêu cầu đó khi hệ thống đã quá tải. Quản lý
đường truyền cũng bao gồm luôn việc thiết lập những kênh vận chuyển dành riêng DL-SCH
và UL-SCH cũng trên các kênh vật lý dùng chung PDSCH và PUSCH, dựa trên các thông số
chất lượng dịch vụ trong thông tin thuê bao.
 Kiểm soát việc đo đạc (measurement control): khi người dùng di chuyển, môi trường vô
tuyến rất biến động, và vì vậy các UE cần báo cáo những thông số đo đạc cường độ tín hiệu
của cell hiện tại và các cell kế cận về cho mạng.
 Các thủ tục chuyển giao khi người dùng di chuyển: dựa trên các thông số đo đạc tín hiệu
của UE, eNodeB có thể khởi xướng một thủ tục chuyển giao thiết bị đó sang một cell khác,
hay thậm chí một mạng vô tuyến khác như UMTS hoặc GSM/GPRS chẳng hạn, khi thiết bị
rời khỏi vùng phủ sóng của LTE.
3.3.15. Trạng thái tích cực RRC
Để tối thiểu hóa việc sử dụng tài nguyên trong mạng, và để tiết kiệm điện năng của pin trong
các UE, LTE qui định vài trạng thái đường truyền khác nhau. Trong khi dữ liệu đang được trao
đổi giữa mạng và UE thì đường truyền ở trạng thái tích cực RRC (RRC active). Trạng thái này
có nghĩa là mạng có thể cấp phát tài nguyên cho thiết bị trên kênh dùng chung bất kỳ lúc nào, và
dữ liệu có thể được truyền đi ngay lập tức. Thiết bị vẫn ở trong trạng thái tích cực cho dù đôi lúc
không có dữ liệu nào được truyền cả, ví dụ như sau khi nội dung của một trang Web đã được tải
đầy đủ về thiết bị. Điều này bảo đảm rằng những cuộc truyền gói sau đó có thể diễn ra ngay lập
tức, ví dụ như khi người dùng kích vào một liên kết trên trang Web đã tải, mà không cần tốn
thêm công sức kiểm soát tài nguyên.
Khi ở trong trạng thái tích cực đầy đủ, UE có vài dịp để làm cho bộ thu sóng của nó không
còn tích cực nữa, điều vốn có ảnh hưởng tiêu cực lên dung lượng của pin. Như vậy sau một thời
gian không tích cực nào đó, mạng có thể quyết định kích hoạt một chế độ nhận sóng không liên
tục (Discontinuous Reception Mode _ DRX) trong khi UE vẫn trong trạng thái tích cực. Tức là
UE chỉ định kỳ mới phải lắng nghe những thông báo cấp phát thông lượng hướng xuống và các
lệnh điều khiển, còn vào tất cả những lúc khác thì có thể tắt đi bộ thu sóng của nó. Khoảng thời
gian ở chế độ DRX này linh động và có thể từ vài mili-giây cho đến vài giây.
Ngay cả trong khi ở chế độ DRX mode, tính di động của thiết bị vẫn được mạng kiểm soát.
Tức là UE phải liên tục gửi những kết quả đo đạc tín hiệu về mạng khi gặp phải một ngưỡng tín
hiệu thấp hoặc cao đã qui định trước cho cell hiện tại và cell kế cận. Như thế eNodeB có thể khởi
phát một thủ tục chuyển giao sang một cell khác bất kỳ khi nào nó thấy cần thiết.
3.3.16. Trạng thái rỗi RRC
Nếu không có gói nào được truyền trong một thời gian kéo dài, eNodeB có thể đặt đường giao
tiếp với người dùng vào trạng thái rỗi RRC (RRC Idle). Tức là, tuy đường truyền luận lý với
mạng và địa chỉ IP vẫn còn nguyên nhưng đường truyền vô tuyến thì được gỡ bỏ. MME cũng
được thông báo về sự thay đổi trạng thái này, bởi vì các gói IP đến từ Internet có thể không còn
được giao tới mạng vô tuyến nữa. Hệ quả là, vào lúc nhận các gói IP, MME cần gửi một thông
điệp nhắn tin đến UE, dẫn tới việc thiết lập lại một đường truyền vô tuyến. Trong trường hợp UE
cần gửi một gói IP trong khi đang ở trạng thái rỗi RRC, chẳng hạn vì người dùng vừa kích vào
một liên kết trên một trang Web sau một thời gian dài không tích cực, nó cũng phải yêu cầu thiết
lập một đường truyền vô tuyến rồi gói đó mới có thể được truyền đi.
Vải lại, mạng không còn kiểm soát tính di động của những UE nào đang trong trạng thái rỗi
RRC nữa, và UE đó có thể tự quyết định di chuyển từ cell này sang cell khác. Vài cell được

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 66

nhóm lại thành một khu vực theo dõi, tương tự như các khu vực routing được dùng trong UMTS
vậy. UE chỉ báo cáo một sự thay đổi cell về cho mạng nếu nó chọn một cell mà thuộc một khu
vực theo dõi khác. Thế có nghĩa là mạng, hoặc cụ thể hơn là MME, phải gửi một thông điệp
nhắn tin qua tất cả các cell thuộc khu vực theo dõi đó khi có một gói dữ liệu mới dành cho thiết
bị gửi đến từ Internet.
3.3.17. Xử lý các gói dữ liệu ở eNodeB
Ngoài những công việc đặc trưng cho tài nguyên vô tuyến, eNodeB còn chịu trách nhiệm về
vài công việc liên quan đến chính các gói dữ liệu trước khi chúng được truyền qua giao tiếp vô
tuyến. Để phòng chống những cuộc tấn công sửa đổi dữ liệu, còn được gọi là tấn công man-in-
the-middle, một mã tổng kiểm tra (checksum) tính toàn vẹn được tính toán cho mỗi gói dữ liệu
rồi cho thêm vào gói đó trước khi nó được gửi qua giao tiếp vô tuyến. Dữ liệu nhập cho giải
thuật sinh mã tổng kiểm tra tính toàn vẹn không phải chỉ có nội dung của gói, mà còn có một
khóa kiểm tra tính toàn vẹn nữa, vốn được tính toán từ một khóa bí mật độc nhất và được chia sẻ
dùng chung giữa các eNodeB và mỗi thiết bị di động. Nếu một thông điệp nào đó bị sửa đổi một
cách gian lận trên giao tiếp vô tuyến, thì kẻ gian cũng không thể cho thêm vào gói đó một một
mã checksum hợp lệ bởi vì thiếu khóa bí mật này, và thế là thông điệp đó không thể được bên
nhận tiếp nhận. Việc kiểm tra tính toàn vẹn áp dụng cho các gói IP, cho các thông điệp kiểm soát
tài nguyên vô tuyến được trao đổi với eNodeB, và cho cả các thông điệp quản lý phiên và quản
lý tính di động được trao đổi với MME nữa.
Ngoài việc kiểm tra tính toàn vẹn, các gói dữ liệu còn được mã hóa trước khi được truyền qua
giao tiếp vô tuyến. Ở đây cũng có một khóa bí mật dùng chung cá nhân của thuê bao lưu trên thẻ
SIM và HSS, được dùng để tính ra một chìa khóa mã hóa (ciphering key) ở cả hai phía của
đường truyền. Vì vậy, những dữ liệu bị chặn lại trên giao tiếp vô tuyến có thể không giải mã
được bởi vì kẻ tấn công không biết ciphering key. Việc mã hóa (ciphering) áp dụng cho các gói
IP, cho các thông điệp điều khiển tài nguyên vô tuyến, và cho cả các thông điệp quản lý phiên và
kiểm soát tính di động, hai thứ sau không dựa trên IP.
Một tác vụ mà chỉ được eNodeB thực hiện trên các gói IP dữ liệu người dùng trước khi chúng
được truyền qua giao tiếp vô tuyến là nén phần mào đầu (header compression). Đối với các
mạng LTE, tính năng này rất quan trọng, đặc biệt là đối với những ứng dụng thời gian thực như
VoIP chẳng hạn. Bởi vì VoIP rất nhạy cảm với độ trễ, nên thông thường mỗi gói IP chỉ chứa 20
ms dữ liệu thoại. Với một tốc độ truyền dữ liệu khoảng chứng 12 Kbit/s sinh ra bởi những bộ mã
hóa/giải mã (codec) giọng nói tinh vi, chẳng hạn như codec AMR (Adaptive Multi-Rate) với
chất lượng tiếng tốt, thì mỗi gói IP mang chừng 32 Byte dữ liệu. Ngoài ra, có một phụ phí là 40
Bytes cho header IPv4, header UDP và header RTP. Với IPv6 thì phụ phí thậm chí còn lớn hơn
do việc sử dụng các địa chỉ IP 128 bit và do có thêm những trường mào đầu khác nữa. Như vậy
là phụ phí mào đầu trên mỗi gói nhiều hơn là dữ liệu thoại. Điều này làm tăng yêu cầu về tốc độ
truyền dữ liệu, và vì vậy, làm giảm đáng kể số lượng cuộc gọi đồng thời khả dĩ trên mỗi trạm cơ
sở. Bởi vì gọi thoại nhiều khả năng sẽ là một tính năng quan trọng cho các mạng LTE, cho nên
cần phải nén các header của gói IP trước khi truyền. Đối với LTE, người ta đã chọn kỹ thuật nén
ROHC (Robust Header Compression). Những ưu điểm của nó là:
 Một tỷ số nén tốt. Phần phụ phí mào đầu 40 Bytes của những giao thức bao bọc khác nhau
thường được giảm còn 6 Bytes.
 Có sẵn một cơ chế hồi báo để phát hiện những sai lạc trong quá trình nén vốn là hậu quả
của những lỗi truyền trong giao tiếp vô tuyến. Điều này cho phép eNodeB lập tức khởi động
lại mạch nén thay vì để cho lỗi đó lây lan vào quá trình nén của những gói sau đó như trường
hợp của các giải thuật nén header đã được dùng trước đó.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 67

 Kỹ thuật ROHC không chỉ nén header IP mà còn phân tích gói IP và nén những header của
những giao thức bao bọc khác chẳng hạn như header UDP và header RTP (Real-time Transfer
Protocol) khi gói dữ liệu chứa thông tin về âm thanh.
 Để tập trung vào chỉ các gói VoIP thôi, ROHC có khả năng phát hiện những kiểu header
khác nhau trong một gói và chọn ra một giải thuật nén tổng thể thích hợp cho mỗi gói. Những
giải thuật nén khác nhau này được gọi là các profile (tạm dịch: cấu hình nén). Đối với các gói
VoIP thì profile RTP được sử dụng, nó nén các phần header IP, header UDP và header RTP
của gói. Những profile khác là profile UDP, vốn nén các phần header IP và UDP (như các
thông điệp báo hiệu SIP chẳng hạn), và profile ESP (Encapsulated Security Payload), vốn
được dùng để nén các phần header của các gói IPsec mã hóa.
Kiểm tra tính toàn vẹn, mã hóa và nén đều là các thành phần của giao thức PDCP (Packet
Data Convergence Protocol), vốn nằm bên dưới tầng IP và vì thế chịu trách nhiệm bao bọc các
gói IP. Tuy nhiên, kích thước gói khi qua PDCP thường không tăng thêm, bởi vì phụ phí phần
mào đầu của PDCP không nhiều hơn phụ phí nén được.

3.4. Các thủ tục báo hiệu cơ bản


Một đặc điểm quan trọng của LTE, ngoài việc tăng thông lượng khả dụng trên giao tiếp vô
tuyến, là việc hợp lý hóa các thủ tục báo hiệu để làm giảm độ trễ cho những thủ tục chẳng hạn
như thiết lập một đường liên lạc ban đầu và tiếp tục truyền dữ liệu sau khi ra khỏi trạng thái rỗi.
Hình 3.8 cho thấy việc trao đổi thông điệp báo hiệu của một UE đang nối vào mạng từ khi nó
vừa được bật lên cho tới khi nó được cấp phát một địa chỉ IP. Như đã nói trước đây, việc nối vào
mạng và nhận một địa chỉ IP là một thủ tục duy nhất trong LTE, bởi vì tất cả các dịch vụ của
LTE đều dựa trên IP. Vì vậy, sẽ vô nghĩa nếu nối vào mạng mà không yêu cầu một địa chỉ IP
như trong trường hợp của các mạng GSM và UMTS.

Radio Bearer
establishment
request
Radio Bearer est.
response

Hình 3.8: Việc nối thiết bị di động vào mạng LTE và yêu cầu cấp phát một địa chỉ IP.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 68

3.4.1. Tìm kiếm mạng và quảng bá thông tin hệ thống


Bước đầu tiên trong việc UE nối kết vào mạng sau khi nó được bật lên là tìm kiếm tất cả các
mạng có thể dùng được quanh nó rồi chọn ra một mạng thích hợp để liên lạc. Vì mục đích này,
UE thực hiện một cuộc rà quét ban đầu trong tất cả các băng tần mà nó hậu thuẫn và cố gắng tìm
các tín hiệu đồng bộ hóa hướng xuống. Bởi vì tất cả các thiết bị có khả năng LTE còn hậu thuẫn
cả các mạng 2G và 3G như GSM và UMTS, nên thủ tục tìm kiếm mạng cũng bao gồm cả việc
tìm những mạng này nữa. Bởi vì hầu hết các băng tần đó không được dành riêng cho một công
nghệ mạng duy nhất, nên UE phải có khả năng liên hệ các tín hiệu hướng xuống nó tìm được với
những hệ thống vô tuyến khác nhau. Trong trường hợp hệ thống LTE, UE sẽ tìm kiếm những tín
hiệu đồng bộ hóa, vốn được đặt ở những khoảng cách đều đặn trong các kênh con trung tâm
(1.25 MHz) của một dải sóng mang LTE. Sau khi đã tìm thấy và giải mã đúng đắn những thông
tin này, UE có thể đọc kênh quảng bá rồi tải xuống thông tin hệ thống đầy đủ của cell. Trong
phần lớn trường hợp, UE sẽ bắt đầu quá trình tìm kiếm của nó trên kênh được dùng lần gần nhất
trước khi nó bị tắt đi. Nếu UE chưa hề bị di chuyển từ khi nó tắt đi thì nó sẽ tìm thấy mạng rất
nhanh. Nếu UE tìm thấy một mạng, quá trình đăng ký sẽ tiếp tục. Bằng không, quá trình này sẽ
được lặp lại cho tới khi tìm ra mạng hoặc đã tìm kiếm hết tất cả các băng tần được UE hậu thuẫn.
Nếu như không tìm được mạng mà UE dùng lần gần nhất trước khi tắt đi, thì UE sẽ hoặc tự chọn
một mạng cho nó dựa trên những thông tin ưu tiên được trữ trên thẻ SIM, hoặc trình danh sách
các mạng mà nó phát hiện cho người dùng, để sau đó họ có thể chọn dùng mạng nào họ thích
(như trong trường hợp roaming chẳng hạn).
3.4.2. Liên hệ ban đầu với mạng
Sau khi UE đã đọc thông tin quảng bá của một cell và quyết định dùng mạng đó, UE có thể
thử thiết lập một cuộc liên lạc ban đầu với mạng đó bằng cách gửi đi một thông điệp ngắn trên
kênh truy cập tùy ý PRACH. Kênh này được gọi là kênh truy cập tùy ý (random access channel)
bởi vì mạng không thể kiểm soát việc truy cập vào kênh này. Vì vậy, có khả năng là vài thiết bị
cố gắng gửi một thông điệp “làm quen” như vậy cùng một lúc, điều này dẫn tới một sự đụng độ
truy cập mạng (network access collision). Nếu điều này xảy ra, trạm cơ sở sẽ không thể nhận bất
kỳ thông điệp nào một cách đúng đắn. Để tối thiểu hóa khả năng này, bản thân các thông điệp đó
phải rất ngắn, và chỉ chứa một con số 5 bit được chọn ngẫu nhiên. Hơn nữa, cứ mỗi giây mạng
lại cung cấp nhiều khe truy cập tùy ý để phân bố ngẫu nhiên những yêu cầu truy cập của các UE
theo thời gian. Khi mạng bắt được yêu cầu truy cập của một UE, nó chỉ định một mã nhận diện
C-RNTI (Cell-Radio Network Temporary Identifier) cho UE đó và trả lời thông điệp đó bằng
một thông điệp RAR (Random Access Response). Thông điệp này cũng chứa một con số 5 bit
ngẫu nhiên, cho nên UE có thể liên hệ thông điệp hồi đáp đó với thông điệp ban đầu và C-RNTI
kia, vốn được dùng để nhận diện UE ấy từ giờ cho đến khi đường truyền vật lý nối nó với mạng
được giải phóng (sau một thời gian dài không tích cực). Ngoài ra, thông điệp này còn chứa thông
tin cấp phát một thông lượng hướng lên ban đầu, vốn là một tập hợp các khối tài nguyên của
kênh dùng chung hướng lên mà UE ấy có thể dùng ở hướng lên. Sau đó, những tài nguyên này
được UE dùng để gửi thông điệp yêu cầu đường truyền RRC, vốn chứa đựng một yêu cầu nối kết
ban đầu.
3.4.3. Xác minh thuê bao (authentication)
Khi eNodeB nhận được thông điệp yêu cầu kết nối, nó gửi chuyển tiếp yêu cầu kết nối chứa
trong đó đến MME. MME trích xuất mã nhận diện người dùng ra khỏi thông điệp đó, mã này là
có thể là một mã nhận diện thuê bao di động quốc tế (International Mobile Subscriber Identity _
IMSI) hoặc một mã nhận diện tạm thời mà UE đó đã được cấp phát trong một cuộc nối kết trước
đó với mạng. Trong phần lớn trường hợp, một mã nhận diện tạm thời sẽ được MME gửi đi (và
mã này sẽ được thay đổi sau khi thuê bao đó đã được xác minh) để làm giảm số lượng IMSI phải
được truyền đi trước khi việc mã hóa được kích hoạt. Nếu MME không biết IMSI của thuê bao

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 69

đó, nó sẽ tra vấn Trung tâm Xác minh (Authentication Center) trong HSS để biết thông tin xác
minh. Nếu MME không biết mã nhận diện tạm thời được UE gửi đến, nó sẽ gửi một yêu cầu đến
UE, bắt UE gửi lại IMSI thay vì mã nhận diện kia. Sau đó, mạng và UE xác minh lẫn nhau bằng
cách dùng các khóa riêng tư bí mật vốn được lưu trữ trên cả thẻ SIM lẫn trong trung tâm xác
minh, một bộ phận của HSS. Sau khi thuê bao đã được xác minh là đúng, eNodeB và UE sẽ kích
hoạt mạch mã hóa giao tiếp vô tuyến. Cùng lúc đó, MME tiếp tục thủ tục kết nối bằng cách gửi
cho HSS một thông điệp cập nhật vị trí (Update Location), báo rằng giờ thì thuê bao đã được xác
minh đúng đắn rồi. Đến lượt nó, HSS gửi dữ liệu thuê bao của người dùng (ví dụ như kiểu kết
nối và loại dịch vụ nào người dùng được phép sử dụng) cho MME trong một thông điệp Insert
Subscriber Data. Tiếp đến, MME xác nhận là đã nhận được thông điệp đó bằng thông điệp Insert
Subscriber Data Acknowledgement. Cuối cùng, HSS kết thúc thủ tục cập nhật vị trí ấy bằng một
thông điệp Update Location Acknowledgement, như được minh họa trong Hình 3.8.
3.4.4. Yêu cầu cấp phát một địa chỉ IP
Tiếp đến, MME yêu cầu PDN-GW cấp phát một địa chỉ IP cho thuê bao thông qua Serving-
GW bằng một thông điệp Create Bearer Request. Khi PDN-GW nhận được thông điệp ấy, nó lấy
một địa chỉ IP từ quỹ địa chỉ của nó, tạo ra một điểm mốc kết thúc đường hầm dữ liệu thuê bao
(subscriber tunnel endpoint), rồi gửi địa chỉ IP đó về cho MME trong một thông điệp Create
Acknowledgement (cũng thông qua Serving-GW). Cần có sự dính dáng của Serving-GW trong
thủ tục này, bởi vì đường hầm dữ liệu thuê bao không được thiết lập giữa MME và PDN-GW mà
giữa Serving-GW và PDN-GW cơ. Sau khi MME nhận được địa chỉ IP ấy, nó gửi chuyển tiếp
địa chỉ ấy cho eNodeB trong một thông điệp Attach Accept, xem như hồi âm cho thông điệp
Attach Request ban đầu. Đến lượt nó, eNodeB gửi chuyển tiếp thông điệp Attach Accept đó gộp
cả địa chỉ IP ấy như một phần trong một thông điệp Radio Bearer Establishment Request đến
UE. UE trả lời bằng một thông điệp Radio Bearer Establishment Response, trong đó chứa một
thông điệp Attach Complete. Sau đó thông điệp Attach Complete được gửi chuyển tiếp đến
MME, và giờ đây UE đã có thể liên lạc với Internet hoặc mạng IP nội bộ của nhà cung cấp dịch
vụ mạng (liên lạc với IMS chẳng hạn).
Tuy có nhiều thông điệp được gửi qua lại giữa những bộ phận chức năng khác nhau trong
mạng, nhưng số lượng thông điệp trao đổi giữa UE và mạng đã được giảm thiểu so với GSM và
UMTS bằng cách thực hiện vài công việc bằng chỉ một thông điệp. Điều này hẳn sẽ làm tăng
đáng kể tốc độ tổng thể của thủ tục. Nếu không kể khâu phát hiện mạng và đọc kênh quảng bá,
nhiều khả năng thủ tục này chỉ mất vài trăm mili-giây.

3.5. Tổng kết và so sánh với HSPA


Lúc mới được trình làng, LTE cạnh tranh tốt với những mạng HSPA đã được triển khai.
Nhưng chắc chắn là một số nhà cung cấp dịch vụ mạng sẽ quyết định nâng cấp các mạng HSPA
của họ và rốt cuộc nâng cấp chúng để dùng những phương thức điều chế bậc cao hơn, MIMO và
đường backhaul dựa trên Ethernet. Ở dải tần 5 MHz, hiệu năng của LTE và HSPA+ là tương
đương nhau, cho nên cần những lý do khác để các nhà cung cấp dịch vụ mạng bổ sung LTE vào
hạ tầng cơ sở GSM và HSPA có sẵn của họ. Một lý do để bổ sung LTE vào một vùng phủ sóng
tổ ong hiện có là tăng thông lượng khả dụng cho một khu vực nhất định nào đó bằng cách
chuyển bớt lưu tải từ HSPA sang LTE, một khi các thiết bị có khả năng LTE đã trở nên phổ biến
hơn.
Bởi vì các nhà chế tạo thiết bị mạng đang chào hàng những trạm cơ sở có khả năng hậu thuẫn
vài công nghệ vô tuyến cùng lúc, nên việc chuyển sang LTE có thể diễn ra như một phần của
việc thay thế các trạm cơ sở cũ. Ví dụ như vào khoảng năm 2012, nhiều trạm cơ sở UMTS hẳn
đã làm việc được gần 10 năm rồi, và vì thế, dù dao cũng sẽ phải được thay thế. Bởi lẽ không
chắc rằng HSPA sẽ được thay thế thẳng bằng LTE vì nhiều thiết bị vẫn “chỉ” có khả năng HSPA

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 70

thôi, nên các trạm cơ sở đa công nghệ vô tuyến sẽ trở nên rất hấp dẫn các nhà cung cấp dịch vụ
mạng di động. Nếu If LTE được dùng ở cùng dải tần như những công nghệ vô tuyến khác thì
trạm cơ sở có thể dùng một ăng-ten duy nhất. Vì thế, nhiều trạm cơ sở sẽ không cần thêm ăng-
ten. Tuy nhiên, những ăng-ten hiện có có thể được thay thế bằng ăng-ten mới, cho phép truyền
MIMO đối với LTE.
Khi có thể cung cấp dải tần lớn hơn 5 MHz thì LTE có thể bộc lộ những ưu thế của nó so với
các công nghệ 3G, bởi vì các kênh vô tuyến LTE có thể dễ dàng được mở rộng ra đến 10, 15 hay
thậm chí 20 MHz. Ngoài ra, mạng lõi và mạng vô tuyến đơn giản hơn với ít thành phần hơn,
cùng với những công nghệ mới cho truyền backhaul từ trạm cơ sở với phần còn lại của mạng, sẽ
làm giảm chi phí vận hành mạng. Đây sẽ là một động lực thú vị cho các nhà cung cấp dịch vụ
mạng, bởi vì yêu cầu thông lượng cứ tăng mãi trong khi hoa lợi bình quân tính trên mỗi người
dùng vẫn cứ như cũ hay thậm chí còn giảm đi. Cuối cùng, nhờ hệ thống báo hiệu trong giao tiếp
vô tuyến được đơn giản hóa, LTE thích hợp hơn nhiều cho những đường truyền IP thường trực
và những ứng dụng như nhắn tin tức thời và truyền e-mail với số lượng lớn, vốn thường xuyên
phải liên lạc với mạng cho dù thiết bị di động không được sử dụng tích cực.

3.6. LTE-Advanced
Như đã bàn trong mục 1.5 ở Chương 1, công nghệ LTE không chắc sẽ đáp ứng được yêu cầu
về tốc độ truyền của ITU cho các hệ thống không dây 4G. Vì thế, 3GPP đã bắt đầu nghiên cứu
làm thế nào để một phiên bản cải tiến của LTE có thể thỏa mãn những yêu cầu này. Danh sách
sau đây cho thấy một số ý tưởng ban đầu về những công nghệ hiện được gọi là LTE-Advanced
và LTE Plus (được đưa ra trong một cuộc hội thảo của 3GPP vào năm 2008) về một hệ thống
như vậy:
 LTE-Advanced phải tương thích lùi với LTE (giống như HSPA tương thích lùi với UMTS
vậy).
 Trọng tâm chính của công nghệ này phải là những người dùng di động ít để đạt đến những
tốc độ yêu cầu của chuẩn IMT-Advanced (đang được 3GPP xây dựng).
 Độ rộng dải tần của kênh được dùng phải lớn hơn mức 20 MHz hiện đã được tiêu chuẩn
hóa cho LTE (ví dụ như 50 MHz, 100 MHz).
 Số ăng-ten cho MIMO phải tăng lên vượt quá con số hiện được chỉ định trong LTE.
 MIMO phải được kết hợp với định hướng búi sóng (beam-forming) (xem chi tiết trong
mục 4.4.3. ở Chương 4).
 Phải có một sự tăng cường hơn nữa dung lượng Voice over IP.
 Tốc độ truyền dữ liệu ở biên cell phải được cải thiện hơn.
 Khả năng tự định cấu hình mạng phải được cải thiện.
Có thể tìm thấy chi tiết về những tính năng này và những tính năng khả dĩ khác tại trang Web
http://www.3gpp.org/ftp/Specs/html-info/36913.htm. Với LTE vẫn đang còn trong giai đoạn
chuẩn hóa và chưa được triển khai rộng rãi, việc chuẩn bị cho một phiên bản cải tiến hơn nữa đặt
ra những thách thức không nhỏ cho các thành viên 3GPP vì nhiều lý do. Trước hết, nhiều khả
năng là những cuộc triển khai lớn theo các chuẩn LTE và SAE ban đầu phải cần đến sau năm
2008 mới được thực hiện. Điều này khiến còn rất ít chỗ cho những cuộc triển khai khác cùng lúc.
Kế đến, chưa có nhiều thời gian để cho phép điều chỉnh các chuẩn dựa trên kinh nghiệm thu
lượm được từ việc triển khai LTE. Cuối cùng, một số nhà cung cấp dịch vụ mạng có thể quyết
định dừng kế hoạch LTE của họ lại và tập trung vào việc cải thiện các mạng HSPA hiện có của
họ để cố gắng trì hoãn cho tới khi sẵn sàng triển khai các hệ thống LTE-Advanced.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 71

Chương 4:

WiMAX (IEEE 802.16)

4.1. Giới thiệu


Một hậu duệ khác các công nghệ mạng 3.5G hiện tại là WiMAX, một hệ thống dựa trên
chuẩn giao tiếp vô tuyến 802.16 của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers _
Học viện các Kỹ sư Điện và Điện tử của Mỹ). 802.16 là một phần trong loạt chuẩn 802 dành cho
các mạng cục bộ (LAN) và mạng cấp đô thị (MAN), bao gồm cả chuẩn Ethernet đường dây cố
định 802.3 và chuẩn LAN không dây 802.11. Trong khi các chuẩn mạng LAN đường dây cố
định và không dây kia chia sẻ các khái niệm liên quan đến cách quản lý mạng và các truyền các
gói dữ liệu giữa các thiết bị mạng, thì 802.16 với tính cách một chuẩn mạng đô thị lại có một
cách tiếp cận khác tận gốc. 802.16 có những khác biệt quan trọng ở tầng 1 (tầng Physical _
PHY) và tầng 2 (tầng Data Link _ MAC) so với chuẩn LAN không dây 802.11. Những khác biệt
quan trọng nhất là:
 Một mạng 802.16 có thể làm việc ở nhiều chế độ. Ở chế độ điểm-đối-điểm (point-to-point
_ P2P), 802.16 được dùng để xây dựng một cầu nối giữa hai địa điểm. Chế độ thứ hai, điểm-
đối-đa-điểm (point-to-multipoint _ P2M) mode, được dùng để cung cấp các khả năng truy cập
Internet và các dịch vụ thoại cho những khách hàng tư nhân và các doanh nghiệp. Bởi vì đây
là ứng dụng chính của công nghệ này trong những năm sắp tới, nên chương này chủ yếu tập
trung vào chế độ làm việc này.
 Trong chế độ P2M của 802.16, việc truy cập vào mạng từ các thiết bị khách hàng, gọi là
Customer Premises Equipment (CPE), Subscriber Station (SS), hoặc Mobile Station (MS),
được quản lý từ một bộ phận quyền lực ở trung ương mạng. Để so sánh, trong 802.11
(WLAN), các máy khách có thể truy cập mạng bất cứ khi nào chúng thấy rằng giao tiếp vô
tuyến không bận.
 Các CPE không nhận được những khung dữ liệu riêng biệt. Ở hướng xuống (từ mạng đến
CPE), dữ liệu được nhúng trong những khung lớn hơn nhiều. Trong khi truyền khung đó,
mạng có thể linh động điều chỉnh cách điều chế và mã hóa cho những phần khác nhau của
khung để phục vụ các CPE gần trạm cơ sở hơn được cung cấp những tốc độ truyền lớn hơn so
với những tốc độ truyền dành cho những CPE có điều kiện nhận sóng kém hơn (ở xa hơn
chẳng hạn). Ở hướng xuống, khái niệm tương tự cũng được dùng, và các CPE được cấp phát
những phần khác nhau của khung dữ liệu để gửi dữ liệu của mình đi.
 Hầu hết các mạng WLAN 802.11 hiện nay đều không cung cấp các cơ chế bảo đảm chất
lượng dịch vụ (QoS) cho các SS hoặc những ứng dụng đơn lẻ như VoIP, vốn rất nhạy cảm với
những biến động của thông lượng hoặc độ trễ. Trong phần lớn trường hợp, thông lượng khả
dụng của mạng và số lượng ít ỏi người dùng trên mỗi access point đền bù cho điều này. Trái
lại, chuẩn 802.16 qui định chi tiết cách bảo đảm QoS, bởi vì các mạng cấp đô thị thường được
xây dựng để chịu tải lớn và nhiều thuê bao trên mỗi cell.
Nhiều nhà chế tạo hạ tầng cơ sở lớn úng hộ công nghệ này, ví dụ như Intel, Motorola, Nortel,
Alcatel-Lucent và Nokia Siemens Networks. Như chương này sẽ cho thấy, WiMAX có chung

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 72

nhiều đặc tính cơ bản với LTE. Về khía cạnh thời gian mà nói thì WiMAX thuận lợi hơn LTE,
bởi vì các hoạt động xây dựng chuẩn này đã được bắt đầu sớm hơn.
Trong khi LTE chủ yếu hấp dẫn các nhà cung cấp dịch vụ mạng 2G và 3G lão làng, thì
WiMAX lại rất lôi cuốn đối với những nhà cung cấp dịch vụ mạng đang chuẩn bị ra đời, tức
những nhà cung cấp dịch vụ chưa có sẵn một mạng nào cả. Có vài lý do cho điều này:
 Ở hầu hết các quốc gia, các băng tần dành cho UMTS và LTE đã được bán hết nhiều năm
trước rồi. Thế nhưng WiMAX có thể được vận hành ở những băng tần mà đến nay vẫn chưa
được dùng đến, vẫn còn đang được đấu thầu.
 Kiến trúc mạng WiMAX hoàn toàn dựa trên IP, điều này làm đơn giản hóa việc thiết kế và
triển khai mạng, và cắt giảm phí tổn vận hành so với các mạng 3G dùng đường truyền
backhaul dựa trên ATM hiện nay.
 Các nhà cung cấp dịch vụ mạng mới đang nhắm đến việc cung cấp khả năng truy cập
Internet, và vì vậy cạnh tranh với những giải pháp Internet tốc độ cao bằng đường dây cố định
như DSL và TV cáp. Hệ quả là, mô hình kinh doanh của họ hoàn toàn khác với mô hình kinh
doanh của các nhà cung cấp dịch vụ mạng không dây lão làng, vốn chủ yếu vẫn tập trung vào
các dịch vụ thoại di động.
 Thiết bị mạng WiMAX hiện nay đã có trên thị trường, trong khi thiết bị LTE sẽ chỉ được
cung cấp thương mại vào khoảng từ 2010 đến 2012 mà thôi.
Một ngoại lệ cho qui luật này dường như là thị trường Mỹ, ở đó Sprint, một nhà cung cấp dịch
vụ mạng lão làng, cùng với Clearwire đã quyết định sử dụng WiMAX do thiếu tin tưởng vào
tương lai công nghệ 3G của họ.

4.2. Kiến trúc mạng


4.2.1. Các mạng nhỏ dành cho khách hàng cố định
Nhiều nhà cung cấp dịch vụ mạng WiMAX sớm đã bắt đầu triển những mạng nhỏ dựa trên
chuẩn 802.16-2004 từ mấy năm trước (lúc đầu được gọi là 802.16d), vốn chủ yếu nhắm vào các
thiết bị cố định có các ăng-ten gắn trên mái nhà hoặc các router WiMAX trong nhà có trang bị
sẵn những ăng-ten không định hướng lớn. Những mạng như vậy chỉ đòi hỏi vài trạm cơ sở và có
thể là một server trung tâm để lưu trữ dữ liệu thuê bao nhằm phục vụ việc xác minh và để kiểm
soát việc truy cập vào mạng. Bởi lẽ những mạng như vậy được thiết kế cho các thiết bị cố định,
nên không cần sự chuyển giao đường truyền nào giữa các trạm cơ sở cả. Vì thế mỗi cell đóng vai
trò một mạng nhỏ của chính nó.
4.2.2. Các mạng từ vừa tới lớn và tính di động
Gần đây hơn, chuẩn về giao tiếp vô tuyến của WiMAX đã được cải tiến để hậu thuẫn cả tính
di động của các thuê bao, bao gồm cả việc chuyển giao từ trạm cơ sở này sang trạm cơ sở khác.
Phiên bản này của chuẩn được gọi là 802.16e, hay 802.16-2005. Bởi vì việc chuyển giao và tính
di động của thuê bao đòi hỏi nhiều khả năng quản trị hơn ở mạng, nên cũng cần phải qui định rõ
về mạng đằng sau các trạm cơ sở. Bởi vì IEEE chỉ chịu trách nhiệm về chuẩn hóa giao tiếp vô
tuyến thôi, nên phần việc này được tiếp quản bởi WiMAX Forum
(http://www.wimaxforum.org). Chuẩn hóa mạng vô tuyến và mạng lõi là một công việc quan
trọng, bởi vì chỉ những chức năng và cách thức giao tiếp đã chuẩn hóa mới cho phép các nhà
cung cấp dịch vụ mạng chọn được những thành phần tương thích từ rất nhiều nhà cung cấp thiết
bị mạng khác nhau. Nhờ vậy, việc cạnh tranh giữa các nhà chế tạo được khuyến khích, dẫn tới
giá cả thiết bị mạng giảm dần. Để bảo đảm khả năng thông tác (interoperability, tức khả năng có
thể làm việc chung với nhau mà không gặp trục trặc gì) của các thành phần mạng do các nhà chế

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 73

tạo khác nhau cung cấp, WiMAX Forum cũng phụ trách một chương trình chứng nhận đủ chuẩn
cho các trạm cơ sở, các thiết bị người dùng và những thiết bị mạng WiMAX khác.
Hình 4.1 cho thấy một kiểu tổ chức hạ tầng cơ sở mạng có khả năng WiMAX trông như thế
nào trong thực tế. Khi so sánh với hạ tầng cơ sở mạng LTE trong Hình 3.1 hoặc Hình 3.2, có
những điểm tương đồng đáng kể. Cũng như trong LTE, các trạm cơ sở WiMAX liên lạc với nhau
để chuyển giao. Hơn nữa, không có phần tử trung tâm nào trong mạng vô tuyến như trường hợp
của UMTS. Thay vì vậy, các mạng WiMAX chỉ đòi hỏi phải có các gateway giữa mạng vô tuyến
và mạng lõi, tức các ASN-GW (Access Service Network Gateway). Các ASN-GW này chịu
trách nhiệm quản lý người dùng và tính di động.

Hình 4.1: Kiến trúc của mạng WiMAX.


Giao tiếp vô tuyến giữa các thiết bị di động và trạm cơ sở WiMAX được chuẩn 802.16 gọi là
điểm tham chiếu (reference point) hoặc giao tiếp (interface) R1. Trong chương này chúng ta sẽ
dùng thuật ngữ giao tiếp cho ngắn gọn. Giao thức liên lạc được dùng trên interface này là
802.16-2004 (trước đây gọi là 802.16d) đối với những mạng WiMAX cố định hoặc 802.16-2005
(trước đây gọi là 802.16e) đối với các mạng WiMAX di động (phục vụ cả khách hàng cố định
lẫn di động). Chi tiết về giao tiếp vô tuyến của WiMAX được bàn trong mục 4.3.
Trong mạng vô tuyến, các trạm cơ sở được nối với ASN-GW thông qua giao tiếp R6. Trong
phiên bản đầu của chuẩn WiMAX, giao tiếp này độc quyền (proprietary), nghĩa là một ASN-GW
và tất cả các trạm cơ sở nối với nó cần phải cùng một hãng chế tạo. Trong phiên bản thứ hai của
chuẩn, giao tiếp R6 cũng được chuẩn hóa để cho phép xây dựng những cấu hình hỗn hợp. Điều
này khuyến khích tính cạnh tranh, dẫn tới giá cả cạnh tranh hơn. Giống như trong LTE, giao tiếp
R6 giữa trạm cơ sở và ASN-GW hoàn toàn dựa trên IP. Hệ quả là, mọi công nghệ vận chuyển
nào có khả năng vận chuyển các gói IP đều có thể được WiMAX sử dụng. Bởi vì các trạm cơ sở
WiMAX đa vùng (multisector) có khả năng đạt những tốc độ truyền dữ liệu trên giao tiếp vô
tuyến lên tới 30 Mbit/s và hơn nữa, nên những công nghệ vận chuyển thích hợp ở dặm cuối nối

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 74

với trạm cơ sở là các hệ thống vi ba dựa trên Ethernet, các đường cáp VDSL và cáp quang. Các
kênh E1 2 Mbit/s thì, do giá cả quá đắt và và tốc độ chậm so với khả năng của giao tiếp vô tuyến,
nên không chắc được dùng.
Để chuyển giao đường truyền giữa các trạm cơ sở một cách trơn tru, người ta đã qui định giao
tiếp R8 như được minh họa trong Hình 4.1. Giống như kênh giao tiếp R6, nó cũng hoàn toàn dựa
trên giao thức IP. Trong thực tế, mỗi trạm cơ sở chỉ được nối với mạng bằng một kênh giao tiếp
vật lý duy nhất. Vì vậy dữ liệu từ trạm cơ sở này sẽ phải đi qua một hoặc nhiều router trước khi
đến được trạm cơ sở khác. Thực tế, phụ phí sinh ra bởi chuyện này cũng nhỏ thôi, bởi vì lượng
dữ liệu người dùng trên kênh giao tiếp R6 chắc chắn là cao hơn nhiều lần so với lượng dữ liệu
trao đổi phục vụ cho một cuộc chuyển giao của một đường truyền trên kênh giao tiếp R8.
4.2.3. ASN-GW
Trong các mạng WiMAX, thiết bị gateway giữa mạng vô tuyến và mạng lõi được gọi là ASN-
GW (Access Service Network Gateway _ Cổng nối Mạng Dịch vụ Truy nhập). Về nguyên tắc,
nó phụ trách những công việc giống như Access Gateway (AGW) trong LTE vậy. Những công
việc đó là:
 Quản lý thuê bao chẳng hạn như xác minh và quản lý thông tin thuê bao;
 Quản lý tính di động để chuyển hướng đường truyền từ cell này sang cell khác khi người
dùng di chuyển;
 Yểm trợ tích cực cho thủ tục chuyển giao trong trường hợp thiếu mất kênh giao tiếp R8
giữa hai trạm cơ sở.
4.2.4. Xác minh và mã hóa
Trong chuẩn WiMAX, các thiết bị người dùng được gọi là Customer Premises Equipment
(CPE), một thuật ngữ được đưa ra trong chuẩn 802.16-2004, vốn chủ yếu chỉ các thiết bị cố định.
Tuy nhiên thuật ngữ này vẫn đang được dùng với chuẩn 802.16-2005 và các thiết bị di động, bên
cạnh các thuật ngữ Mobile Subscriber Station (MSS) và Mobile Station (MS). Khi một CPE
được bật lên, công việc đầu tiên của nó là tìm kiếm các mạng khả dụng và lấy một địa chỉ IP từ
mạng nhà của người dùng, hoặc, trong trường hợp roaming, từ một mạng thích hợp các. Trước
khi một thiết bị được ASN-GW nhận vào mạng, cần có một thủ tục xác minh (authentication).
Không giống như các mạng do 3GPP đề xuất (UMTS, HSPA và LTE), WiMAX không sử dụng
một khóa bí mật lưu trên thẻ SIM và trong mạng. Thay vì vậy, việc xác minh được thực hiện
bằng một cặp khóa công khai/riêng tư (public/private key) để bổ sung cho một chứng chỉ X.509.
Về lý thuyết, các khóa này và chứng nhận đó có thể được lưu trữ trên một thẻ SIM. Nhưng
trong thực tế thì các nhà cung cấp dịch vụ mạng không làm như thế. Thay vì vậy, các khóa và
chứng chỉ đều được trữ ở một nơi an toàn trong chính CPE, nơi này không thể truy cập trực tiếp
được nhằm ngăn không cho các ứng dụng đọc khóa riêng tư bí mật ấy.
Ở đầu thủ tục xác minh, CPE và mạng trao đổi các khóa công khai của chúng với nhau, các
mã này sau đó được sử dụng để chế ra những khóa tạm thời (temporary key) để mã hóa thêm dữ
liệu lưu thông giữa CPE và mạng. Dữ liệu được mã hóa bằng một mã công khai tạm thời chỉ có
thể được giải mã bằng khóa riêng tư tạm thời tương ứng, vốn được chế ra từ khóa riêng tư bí
mật. Bởi vì các khóa riêng tư không bao giờ được truyền qua giao tiếp vô tuyến, nó đảm bảo
rằng những kẻ tấn công mạng không thể mã hóa hoặc sửa đổi dữ liệu. Một lợi ích khác của việc
có các khóa công khai và riêng tư là, khóa riêng tư của thuê bao chỉ được trữ trong CPE của
khách hàng chứ không phải trên mạng, bởi vì mạng chỉ yêu cầu khóa công khai để mã hóa dữ
liệu thôi. Hệ quả là không có thông tin thiết yếu nhạy cảm nào phải được lưu trữ trên bất kỳ thiết
bị nào của mạng của nhà cung cấp dịch vụ.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 75

Ngoài việc trao đổi khóa công khai, WiMAX có một cơ chế bổ sung để bảo đảm rằng khóa
công khai được một CPE gửi đi phải được liên kết chẽ với địa chỉ lớp MAC trong phần cứng của
CPE ấy. Điều này được thực hiện bằng cách qui định rằng, ngoài khóa công khai ra CPE phải
gửi kèm một chứng chỉ (certificate) do một cơ quan ban hành chứng chỉ (certificate authority _
CA) ký, như được minh họa trong Hình 4.2. CA ấy “ký” vào chứng chỉ này bằng cách mã hóa
khóa công khai và địa chỉ MAC của CPE bằng khóa riêng tư của họ. Khi CPE gửi khóa công
khai của nó kèm theo chứng chỉ này, mạng sẽ giải mã chứng chỉ này bằng khóa công khai của
CA ấy. Sau đó, nó kiểm tra xem khóa công khai của CPE có khớp với khóa được giải mã từ
chứng chỉ này hay không. Hơn nữa, nó còn thẩm tra xem địa chỉ MAC trong mỗi gói dữ liệu gửi
đi có khớp với địa chỉ giải mã được từ chứng chỉ này hay không. Nếu chúng khớp, CPE ấy được
xác minh là đúng. Kẻ gian không thể lục lọi trong chứng chỉ này được, bởi vì nó chỉ có thể được
giải mã bởi người (hay thiết bị) nào biết khóa công khai của CA kia thôi. Và chứng chỉ này cũng
không thể bị thay đổi và mã hóa lại được. Chứng chỉ này cũng không cho phép kẻ gian tấn công
bằng cách làm nhái khóa công khai của CPE, bởi vì khóa ấy được dùng kết hợp với một địa chỉ
MAC được lưu một cách an toàn (ghi chết luôn) trong CPE. Vì thế, không thể làm nhái nó cùng
với địa chỉ MAC kia được.

Hình 4.2: Qui trình xác minh của WiMAX với sự trợ giúp của một CA.
Cần lưu ý rằng, các chứng chỉ và các cặp khóa công khai/riêng tư cũng được dùng để xác
minh và mã hóa những phiên truy cập Web an toàn, ví dụ như mua hàng trực tuyến hoặc giao
dịch ngân hàng qua Web chẳng hạn. Ở đây, một phiên HTTPS (Secure HTTP) được thiết lập
thay vì một phiên HTTP thông thường, và quá trình xác minh và mã hóa cũng rất tương tự với
quá trình đã mô tả ở trên. Khi đường liên lạc với khách hàng được thiết lập, Web server gửi một
chứng chỉ được ký bởi một CA đến trình duyệt Web của khách hàng. Chứng chỉ đó chứa địa chỉ
(URL) của Web site và khóa công khai của server. Trình duyệt Web của máy khách so sánh
URL mà người dùng vừa gõ vào với URL trong chứng chỉ. Nếu chúng khớp nhau, trình duyệt
Web ấy có thể chắc chắn rằng đường liên lạc đó đã không bị chuyển hướng bởi một kẻ tấn công
mạng nào đó. Đối với kẻ tấn công mạng thì khóa công khai của server trong chứng chỉ ấy vô giá
trị, bởi vì chúng không có khóa riêng tư của máy khách để giải mã thông tin trong đó, vốn được
mã hóa bằng khóa công khai của máy khách.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 76

Cả hai quá trình xác minh của WiMAX và của HTTPS đều đòi hỏi những chứng chỉ được tạo
ra bởi một CA đáng tin. Sự tin tưởng ấy được thiết lập bằng cách lưu trữ khóa công khai của CA
đó trên máy tại chỗ. Trong trường hợp WiMAX, khóa công khai của CA đó được lưu trong
chính CPE. Còn trong trường hợp HTTPS, khóa công khai của CA đó được lưu trong trình duyệt
Web. Trong thực tế, có nhiều CA khác nhau có thể ban hành các chứng chỉ như vậy. Ví dụ:
Verisign là công ty ban hành các chứng chỉ cả HTTPS lẫn WiMAX.
4.2.5. Cấp phát địa chỉ IP cho máy khách và các kênh R6
Sau khi một CPE được xác minh và chế độ mã hóa giao tiếp vô tuyến đã được kích hoạt,
ASN-GW cũng phụ trách luôn việc cấp phát một địa chỉ IP cho CPE, hoặc yêu cầu cấp phát nó
từ một Home Agent (HA) trong mạng lõi, như sẽ bàn trong mục 4.2.7 bên dưới.
Bởi vì mạng giao tiếp giữa các trạm cơ sở và các ASN-GW không nhất thiết là thuộc quyền
sở hữu của nhà cung cấp dịch vụ mạng WiMAX, nên những dữ liệu lưu thông trên kênh giao tiếp
R6 giữa các ASN-GW và các trạm cơ sở cần phải được mã hóa. Vì mục đích này, giữa mỗi trạm
cơ sở và ASN-GW có thể có một đường hầm IPSec (IPSec tunnel) mã hóa được thiết lập. Như
vậy dữ liệu của người dùng không chỉ được bảo vệ trên giao tiếp vô tuyến, mà còn trên suốt
mạng vô tuyến lên đến ASN-GW nữa.
4.2.6. Quản lý tính di động ở tầm vi mô
Khi một thuê bao di chuyển từ vùng phủ sóng của trạm cơ sở này sang trạm cơ sở khác, chính
trạm cơ sở chịu trách nhiệm chuyển giao đường truyền cho họ. Cả mạng và CPE của thuê bao
đều đề xướng một cuộc chuyển giao. Trong mạng vô tuyến, điều này có nghĩa là trạm cơ sở hiện
thời và trạm cơ sở mới liên lạc với nhau qua kênh giao tiếp R8 hoặc thông qua ASN-GW trong
suốt cuộc chuyển giao. Một phần trong quá trình chuyển giao là phải thông báo luôn cho ASN-
GW rằng thuê bao đã thay đổi vị trí, bởi vì giờ đây các gói dữ liệu người dùng phải được trao đổi
qua một đường hầm IPSec khác. Hình 4.3 cho thấy một ví dụ về việc này trong thực tế. Trong ví
dụ đó, các trạm cơ sở và các ASN-GW trong mạng vô tuyến dùng mạng con IP 10.x.x.x. Một
đường hầm được thiết lập từ trạm cơ sở ở phần bên trên của hình, có (được cấp phát) địa chỉ IP
là 10.0.0.2, với máy ASN-GW có địa chỉ IP là 10.0.0.1. Một đường hầm khác được thiết lập từ
ASN-GW đến trạm cơ sở ở phần bên dưới của hình (với địa chỉ IP là 10.0.0.3). Trước cuộc
chuyển giao, dữ liệu từ CPE của người dùng (có địa chỉ IP là 195.36.219.196), được gửi xuyên
qua đường hầm giữa máy 10.0.0.1 (ASN-GW) và trạm cơ sở bên trên (10.0.0.2). Sau khi cuộc
chuyển giao thực hiện xong, ASN-GW chuyển hướng dòng dữ liệu sang đường hầm nối giữa nó
(10.0.0.1) và trạm cơ sở bên dưới (10.0.0.3) (xem Hình 4.4).

Hình 4.3: Đường hầm dữ liệu trong quản lý tính di động vi mô.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 77

Hình 4.4: Đường hầm dữ liệu người dùng vi mô sau khi chuyển giao sang cell khác.
4.2.7. Quản lý tính di động ở tầm vĩ mô
Giống như trong các mạng UMTS và LTE lớn, đến một lúc nào đó, nhà cung cấp dịch vụ
mạng phải lắp đặt thêm ASN-GW WiMAX trong mạng để hậu thuẫn lượng trạm cơ sở và người
dùng ngày càng tăng. Sau khi có vài ASN-GW trong mạng, có thể sẽ có người dùng di chuyển
giữa các cell được kiểm soát bởi các ASN-GW khác nhau. Điều này có nghĩa là các gói dữ liệu
từ Internet gửi đến người dùng đó không còn mặc định được mạng gửi chuyển tiếp đến một
ASN-GW duy nhất nữa, mà cần phải thực hiện quản lý tính di động ngay trong mạng lõi luôn.
Trong UMTS và LTE, giao thức GPRS Tunneling Protocol (GTP) đảm trách công việc gửi
chuyển tiếp giữa nút cửa ngõ từ Internet vào mạng lõi (GGSN trong trường hợp UMTS, và PDN-
GW trong trường hợp LTE) và nút cửa ngõ từ mạng lõi vào mạng truy cập vô tuyến (SGSN
trong trường hợp UMTS, và bộ đôi MME và Serving-GW trong trường hợp LTE. Trong
WiMAX, người ta đã quyết định dùng một giải pháp khác, như được minh họa trong Hình 4.5.
Thay vì trông cậy vào một giao thức độc quyền như GTP chẳng hạn, người ta đã quyết định
dùng giao thức Proxy Mobile IP (Proxy MIP), một chuẩn quản lý tính di động dựa trên IP có sẵn.
Về nguyên lý, Proxy MIP làm việc như sau: khi một CPE yêu cầu một phiên nối kết IPv4 vào
mạng, máy ASN-GW sẽ đóng vai trò một proxy server và là đầu cuối của đường truyền MIP
thay cho CPE (cho nên còn được gọi là proxy-MIP). (Điều này cho phép các CPE không có khả
năng MIP vẫn dùng một chồng giao thức IPv4 bình thường). Trong quá trình thiết lập đường
truyền, ASN-GW đăng ký với bộ phận Home Agent (HA) MIP trong mạng lõi rồi gửi địa chỉ IP
của chính nó cho HA ấy. Địa chỉ IP này còn được gọi là địa chỉ đại diện (care-of address _
COA) của người dùng (hoặc địa chỉ IP di động _ Mobile IP address), bởi vì nó có thể thay đổi
bất kỳ lúc nào trong suốt thời gian đường kết nối đó tồn tại. Bộ phận HA phụ trách một quỹ các
địa chỉ IP. HA lấy một địa chỉ IP từ quỹ này để cấp cho người dùng, và gửi nó về lại ASN-GW.
Đến lượt nó, ASN-GW gửi chuyển tiếp địa chỉ IP này cho CPE thông qua đường hầm quản lý
tính di động vi mô như đã mô tả trong mục trước, và thế là CPE này dùng địa chỉ đó cho tất cả
các gói dữ liệu gửi tới và gửi đi. Địa chỉ mà HA cấp cho CPE của người dùng (thông qua ASN-
GW) này thuộc trách nhiệm quản lý của HA, cho nên tất cả các gói dữ liệu dùng địa chỉ này làm
địa chỉ đích sẽ phải được gửi đến HA trước. Ở đó, các gói ấy được gửi chuyển tiếp bên trong một
đường hầm MIP đến địa chỉ COA, tức máy ASN-GW. Máy ASN-GW này là nút cuối đường
hầm MIP đó, nên sẽ chịu trách nhiệm gửi chuyển tiếp các gói IP đó qua các đường hầm quản lý
tính di động vi mô. Mọi thay đổi trong COA, tức thay đổi sang một ASN-GW khác, đều vô hình

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 78

đối với các máy và router ngoài Internet. Đối với chúng, HA vẫn là đích của các gói mà chúng
gửi cho người dùng.

Hình 4.5: Quản lý tính di động tầm vĩ mô bằng cách dùng địa chỉ Mobile IP ở ASN-GW.
Đối với các CPE sử dụng IPv4, ASN-GW chịu trách nhiệm kết thúc đường hầm MIP để làm
cho quá trình này vô hình đối với CPE của thuê bao. Cần phải như vậy, bởi vì người ta không
muốn thay đổi chồng giao thức của CPE làm gì. Hệ quả là, ASN-GW trở thành một proxy server
đối với CPE của thuê bao, đó là lý do giải pháp này được gọi là Proxy MIP.
Đối với các CPE chỉ dùng địa chỉ IPv6, vốn được trông đợi sẽ trở nên phổ biến trong tương
lai, thì không cần proxy server, bởi vì MIP đã là một phần trong chồng giao thức ấy rồi. Thế có
nghĩa là CPE ấy tự liên lạc với HA trong mạng lõi thay vì phó thác trách nhiệm đó cho ASN-
GW.

4.3. Giao tiếp vô tuyến và mạng vô tuyến của WiMAX cố định


802.16d
Giống như LTE, WiMAX sử dụng phương thức OFDM để truyền dữ liệu qua giao tiếp vô
tuyến. Vì thế các hệ thống này rất giống nhau ở tầng Physical, và mục này coi như người đọc đã
nắm rõ giao tiếp vô tuyến của LTE như đã mô tả trong mục 3.3.
Phiên bản giao tiếp vô tuyến đầu tiên được triển khai rộng rãi của chuẩn 802.16, gọi là
802.16d hay IEEE 802.16-2004, hiện đang được dùng để nối kết các thiết bị như máy tính xách
tay và PC chẳng hạn với Internet thông qua các modem WiMAX lắp đặt tại nhà riêng hoặc văn
phòng (nên còn được gọi là WiMAX cố định). Nó không tương thích với chuẩn 802.16e (hay
802.16-2005) hiện tại, vốn được xây dựng sau đó và đưa ra nhiều cải tiến cần thiết cho tính di
động (nên còn được gọi là WiMAX di động). Vì thế, tuổi thọ và các kịch bản sử dụng mạng
WiMAX cố định bị hạn chế, bởi vì không chắc là các CPE và thiết bị mạng có thể nâng cấp được
lên chuẩn WiMAX đi động. Ngoài ra, các mạng WiMAX cố định thường không dùng tất cả
những thành phần trong hạ tầng cơ sở đã chuẩn hóa như mô tả ở trên, bởi vì kiến trúc mạng của
chúng đơn giản hơn nhiều, và cũng vì chúng không cần hậu thuẫn tính di động. Tuy vậy, mục

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 79

này vẫn khảo sát giao tiếp vô tuyến của WiMAX cố định, bởi vì nó đã được sử dụng ở một mức
độ nào đó trong thực tế và hình thành nền tảng cho WiMAX di động (sẽ được bàn trong mục
4.4).
Khác biệt lớn của IEEE 802.16-d so với WiMAX di động (IEEE 802.16-e) và LTE là, nó sử
dụng 256 kênh con OFDM độc lập với độ rộng dải tần tổng thể của kênh. Trong số đó, 193 kênh
con được dùng để truyền dữ liệu người dùng. Các kênh con còn lại hoặc không được dùng bởi vì
nằm ở biên của băng, hoặc cung cấp các tín hiệu dẫn hướng (pilot), vốn được các CPE dùng để
đánh giá kênh và xấp xỉ tín hiệu và lọc. Các độ rộng dải tần được qui định là 1.25, 3, 3.5, 5.5, 7
và 10 MHz. Tuy nhiên dải tần càng nhỏ thì càng ít có khả năng được dùng trong thực tế, bởi vì
thông suất có được không đủ để hậu thuẫn truy cập Internet tốc độ cao ngay cả cho một lượng
người dùng nhỏ thôi. Dùng một lượng kênh con giống nhau cho mọi độ rộng dải tần có nghĩa là
thời gian truyền các symbol thay đổi theo độ rộng dải tần. Ví dụ, đối với độ rộng dải tần 1.25
MHz, thời gian truyền symbol là 128 µs, trong khi nếu dùng độ rộng dải tần 10 MHz thì thời
gian truyền symbol chỉ có 22.408 µs. Vì vậy, các đặc tính truyền trên tầng Physical tùy thuộc
vào độ rộng dải tần được dùng cho kênh.
WiMAX Forum qui định hai cấu hình truyền (profile) cho WiMAX cố định. Cấu hình
wirelessMAN-OFDM (wireless Metropolitan Area Network OFDM) được sử dụng khi một cơ
quan điều phối quốc gia đã chính thức cấp phát một băng tần để sử dụng WiMAX, sau một cuộc
đấu thầu phổ chẳng hạn. Dựa trên các đặc tính của băng tần được cấp, các thiết bị WiMAX cố
định sẽ được sử dụng theo chế độ TDD (Time Division Duplexing _ Ghép kênh Phân Thời) hoặc
FDD (Frequency Division Duplexing _ Ghép kênh Phân Tần).
Ở chế độ TDD, băng đó được dùng chung cho cả truyền hướng lên lẫn truyền hướng xuống,
và hệ thống liên tục chuyển qua chuyển lại giữa phát sóng và thu sóng. Ưu điểm của giải pháp
này là, hệ thống có thể được điều chỉnh để phản ảnh tỷ lệ lưu tải giữa hướng lên và hướng
xuống. Hiện nay, hướng xuống cần nhiều thông lượng hơn, đó là lý do nhiều thời gian được cấp
phát cho truyền hướng xuống hơn là truyền hướng lên. Tuy nhiên, đến đây cần phải lưu ý rằng
một tỷ lệ hướng xuống/hướng lên 3:1 trên giao tiếp vô tuyến không phản ảnh chính xác tỷ lệ
thông lượng giữa hai hướng truyền, bởi vì truyền hướng lên thường không hiệu quả do hạn chế ở
công suất phát và những hạn chế về ăng-ten trên một thiết bị nhỏ. Hơn nữa, TDD đòi hỏi các
trạm cơ sở phải được đồng bộ hóa chặt chẽ với nhau để ngăn các cuộc truyền hướng lên của thiết
bị trong một cell can nhiễu với các cuộc truyền hướng xuống trong cell kế cận.
Ở chế độ FDD, truyền hướng lên và truyền hướng xuống dùng những băng tần khác nhau.
Đối với những băng tần được cấp phép, đây thường là chế độ truyền được các nhà cung cấp dịch
vụ mạng ưa thích. Ưu điểm của FDD là dữ liệu có thể được truyền hướng lên và hướng xuống
song song nhau. Hơn nữa, không cần sự tạm dừng truyền nào để thiết bị có thời gian chuyển từ
chế độ phát sóng sang chế độ thu sóng. Ngoài ra, truyền FDD cho phép có những bộ thu sóng
nhạy cảm hơn trong các thiết bị di động, điều này có lợi cho tốc độ truyền dữ liệu tổng thể.
Hình 4.6 cho thấy một cuộc truyền dữ liệu hướng xuống TDD trông như thế nào trong chuẩn
WiMAX cố định. Các cuộc truyền hướng xuống được phân chia vào từng khung (frame) riêng,
với độ dài cố định là từ 2.5 đến 20 ms. Đến lượt nó, mỗi khung chứa một số trường liên tiếp
nhau. Trường đầu là Preamble, vốn có một mẫu hình bit đã biết mà các CPE có thể dùng để nhận
biết đâu là chỗ bắt đầu của một khung. Trường FCH (Frame Control Header) kế đó chứa thông
tin về phương thức điều chế và mã hóa của đoạn dữ liệu hướng xuống đầu tiên (DL-Burst 1)
ngay sau nó.
Phương thức điều chế BPSK và tỷ lệ mã hóa 1/2 được dùng cho FCH để bảo đảm là tất cả các
thiết bị đều có thể nhận thông tin đúng đắn. Đoạn DL-Burst 1 của một khung chứa dữ liệu quảng
bá hướng xuống lúc đầu nhằm thông báo cho các thiết bị là có khung dữ liệu nào được truyền
cho chúng hay không, và truyền vào lúc nào. Hơn nữa, vùng Broadcast bên trong nó còn chứa

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 80

thông tin cần thiết cho các thiết bị khi chúng được phép gửi dữ liệu hướng lên. Tiếp đến, phần
còn lại của DL-Burst đầu tiên của mỗi khung chứa các gói dữ liệu người dùng dành cho một
hoặc nhiều thiết bị. Một khung thường chứa nhiều đoạn DL-Burst, và mỗi đoạn đó dùng một
phương thức điều chế và mã hóa khác nhau. Vì thế vị trí của dữ liệu dành cho một thiết bị nào đó
tùy thuộc vào điều kiện vô tuyến mà nó đang gặp phải (điều kiện càng tốt thì phương thức điều
chế và mã hóa cấp càng cao hơn sẽ được dùng). Hình 4.6 cũng cho thấy rằng, mỗi lúc dữ liệu chỉ
được gửi đến một thiết bị thôi. Thế có nghĩa là các thuê bao chỉ được ghép kênh trong miền thời
gian chứ không phải trong miền tần số.

Hình 4.6: Truyền dữ liệu hướng xuống TDD trong WiMAX cố định.
Bởi vì giao tiếp vô tuyến của IEEE 802.16-2004 được thiết kế để dùng cố định, nên các thiết
bị người dùng không cần báo cáo điều kiện tín hiệu thường xuyên như cần thiết trong các hệ
thống có hậu thuẫn tính di động. Thay vì vậy, thiết bị chỉ đánh giá điều kiện vô tuyến và gửi một
thông điệp quản lý dành riêng về mạng để thay đổi phương thức điều chế và mã hóa cho hướng
lên và hướng xuống khi cần thiết thôi. Tương tự như vậy, việc phát hiện lỗi và sửa lỗi trên tầng
MAC cũng không bắt buộc phải có. Nếu một cơ chế sửa lỗi ARQ (Automatic Retransmission
Request) cơ bản được dùng cho một đường truyền, nó sẽ phân các gói ra thành các khối ARQ,
rồi mỗi phía báo cho phía kia biết mình vừa nhận được đúng đắn những khối nào. Sau đó những
khối nào không được nhận đúng sẽ được truyền lại. Cơ chế này cũng tương tự như cơ chế được
dùng cho giao thức TCP (Transmission Control Protocol) ở bên trên tầng IP vậy.

4.4. Giao tiếp vô tuyến và mạng vô tuyến của WiMAX di động


Bởi vì các ứng dụng không dây cố định chỉ giải quyết một lượng khách hàng ít ỏi thôi, nên
IEEE đã sớm quyết định là sau khi kết thúc chuẩn giao tiếp vô tuyến cố định, cần đi tiếp một
bước nữa và tăng cường giao tiếp vô tuyến bằng những chức năng bổ sung dành cho tính di động
và các thiết bị có công suất hạn chế. Để hậu thuẫn tính di động, bộ phận quản lý giao tiếp vô
tuyến phải phản ứng nhanh chóng để thay đổi điều kiện tín hiệu, và phải có khả năng chuyển
giao một đường truyền giữa các trạm cơ khi người dùng đó di chuyển. Đối với các thiết bị có
nguồn pin hạn hẹp, giao tiếp vô tuyến phải được tối ưu hóa để càng hiệu quả về mặt năng lượng
càng tốt trong những lúc không có dữ liệu nào được truyền trên giao tiếp vô tuyến. Ngoài ra,
giao tiếp vô tuyến của WiMAX đã được nâng cao để cho phép những tốc độ truyền cao hơn. Tổ

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 81

công tác chịu trách nhiệm xây dựng phiên bản mới này được gọi là 802.16e. Sau khi chuẩn được
hoàn tất, nó lại mang tên là IEEE 802.16-2005. Chuẩn WiMAX di động này chấp nhận các
phương thức ghép kênh FDD và TDD, mặc dù những mạng được triển khai lúc đầu sẽ chỉ sử
dụng phương án TDD thôi.
4.4.1. OFDMA (Orthogonal Frequency Division Multiple Access)
Trên tầng Physical, sự khác biệt chính của WiMAX di động so với WiMAX cố định là, độ
rộng các kênh con được ấn định không đổi, cho nên số lượng kênh con giờ đây thay đổi theo độ
rộng dải tần, như được minh họa trong Bảng 4.1. Theo một vài tài liệu, độ rộng dải tần kênh tối
đa mà các chip Intel WiMAX cho máy tính xách tay đầu tiên hậu thuẫn là 10 MHz. Trong tương
lai, những dải thông lớn hơn cũng sắp được hậu thuẫn.
Bảng 4.1: Độ rộng dải tần và số lượng kênh truyền con OFDMA của WiMAX di động.
Độ rộng dải tần Số lượng kênh truyền con Kích cỡ FFT
1.25 MHz 85 128
5 MHz 421 512
10 MHz 841 1024
20 MHz 1684 2048

Ngoài các thông số được trình bày trong Bảng 4.1, các thông số vật lý sau đây cũng được
chọn:
 Khoảng cách giữa các kênh con (subcarrier spacing): 10.94 kHz;
 Thời gian tồn tại ký hiệu OFDM: 91.4 µs;
 Tiền tố chu kỳ (cyclic prefix): 11.4 µs.
Đáng chú ý là, những giá trị này tương tự nhưng không giống hệt các giá trị được dùng trong
LTE. Trong LTE, subcarrier spacing là 15 kHz, và thời gian tồn tại ký hiệu OFDM chỉ là 66.667
µs (xem lại mục 3.3.3 và Bảng 3.1).
Dựa trên những thông số tầng vô tuyến này, thông suất của tầng Physical của một cell
WiMAX có thể được tính như sau: Thời gian truyền mỗi ký hiệu là 102.8 µs (91.4 µs cho bản
thân ký hiệu + 11.4 µs cho tiền tố chu kỳ), cấp điều chế là 64-QAM tức mỗi ký hiệu có 6 bit, và
có 1684 kênh con ở một dải tần 20 MHz:
Tốc độ vật lý = (1/0.0001028) * 6 * 1684 = 98287937 bit/s (tức vào khoảng 100 Mbit/s)
Tốc độ này hầu như giống hoàn toàn với giá trị tính được cho LTE ở Chương 3, và cho thấy
rằng xét về khía cạnh tốc độ thì hai hệ thống có hiệu năng tương đương nhau. Như đã đề cập
trong Chương 3, cần lưu ý rằng trong thực tế, thông suất của một cell WiMAX nhiều khả năng
chỉ chừng 30% đến 50% giá trị này. Đó là vì phụ phí cho mã hóa, việc truyền lại các gói bị lỗi,
các tín hiệu dẫn hướng, và phụ phí của các tầng giao thức cao hơn, và cũng vì điều kiện tín hiệu
cho hầu hết người dùng trong cell thấp hơn lý tưởng.
Hình 4.7 cho thấy cấu trúc của khung dữ liệu OFDMA hướng xuống. Sự khác biệt chính so
với khung được dùng cho giao tiếp vô tuyến của WiMAX cố định là, những cuộc truyền dữ liệu
cho từng người dùng giờ đây cũng có thể được ghép lại theo cả thời gian và tần số, nhờ số lượng
kênh con khả dụng cao hơn nhiều. Vì lý do này, phương thức truyền dữ liệu này không được gọi
là OFDM (Orthogonal Frequency Division Multiplexing) mà là OFDMA (Orthogonal Frequency
Division Multiple Access). Ở đầu mỗi khung, trường DL-MAP (Downlink-MAP) thông báo cho
CPE biết dữ liệu được sắp đặt truyền cho chúng khi nào và ở đâu trong khung. Một trường UL-

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 82

MAP (Uplink-MAP) tùy chọn cũng có thể hiện diện trong khung để chỉ định các dịp truyền
hướng lên cho khung này và các khung theo sau.

Hình 4.7: Một khung dữ liệu OFDMA trong WiMAX.


4.4.2. Truyền MIMO trong WiMAX
WiMAX cũng hậu thuẫn truyền MIMO ở hướng xuống bằng nhiều ăng-ten (ví dụ như hai
ăng-ten nhập, hai ăng-ten xuất = 2x2) theo cách giống như đã mô tả ở Chương 3 vậy. Ở hướng
lên, các CPE chỉ truyền đi một dòng dữ liệu duy nhất. Nhưng các trạm cơ sở tiên tiến thì có thể
kích hoạt chế độ truyền MIMO cộng tác (collaborative MIMO) và ra lệnh cho hai thiết bị truyền
cùng một lúc. Trạm cơ sở nhận diện là tín hiệu nào được truyền tới từ thiết bị nào nhờ các đặc
tính đa đường truyền riêng của chúng, và căn cứ theo đó mà tách các tín hiệu ra.
Tùy thuộc điều kiện truyền, có thể dùng một trong hai chế độ truyền MIMO sau đây:
 Ma trận A: Tăng độ bao phủ. Trong một cấu hình ăng-ten 2x2 (hai ăng-ten phát, hai ăng-
ten thu), một dòng dữ liệu duy nhất được truyền song song bởi hai ăng-ten riêng biệt. Một giải
thuật toán học gọi là STBC (Space Time Block Codes _ Mã Khối Thời gian và Không gian)
được sử dụng để mã hóa các dòng dữ liệu của hai ăng-ten đó, nhằm làm cho chúng trực giao
với nhau. Điều này cải thiện tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu (S/N) ở thiết bị thu, nhờ vậy người ta có
thể:
 Tăng bán kính cell;
 Cung cấp thông suất tốt hơn cho các thuê bao nào khó tiếp cận (ví dụ như ở các điều
kiện trong nhà khó khăn, hoặc đang di chuyển với tốc độ cao);
 Truyền bằng phương thức điều chế cấp cao hơn (ví dụ như 64-QAM) trong khi sử dụng
ít bit sửa lỗi hơn; điều này đến lượt nó lại làm tăng tốc độ truyền tới thuê bao.
 Matrix B: Tăng dung lượng. Trong chế độ truyền MIMO này, còn được gọi là SM-MIMO
(Spatial Multiplexing MIMO), mỗi ăng-ten gửi đi một dòng dữ liệu hoàn toàn độc lập, như đã
mô tả trong các mục bên trên. Như vậy, tốc độ truyền có thể được tăng gấp đôi, miễn là CPE
của thuê bao ở gần trạm cơ sở và có điều kiện nhận sóng tuyệt hảo.
4.4.3. Các hệ thống ăng-ten thích nghi (AAS)
Một tính năng khác có trong tài liệu chuẩn 802.16e nhưng không được dùng trong các mạng
WiMAX đã được triển khai là AAS (Adaptive Antenna System). Bằng cách dùng vài ăng-ten và
nối kết chúng với nhau về mặt điện, người ta có thể tạo ra một búi sóng hướng về phía một CPE
nào đó, vì vậy làm tăng tỷ lệ tín hiệu trên nhiễu mà CPE đó được nhận. Để tạo hình một búi sóng
như vậy, tín hiệu được gửi qua mỗi ăng-ten với một độ lệch pha và biên độ được tính toán sẵn có
liên quan với những ăng-ten khác. Không cần có bộ phận chuyển động nào để hướng búi sóng
theo một hướng nhất định cả, bởi vì hiệu ứng định hướng búi sóng (beam-forming) là dựa trên

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 83

những khác biệt về pha và biên độ của các tín hiệu. Beamforming có thể được áp dụng cho cả
hướng lên và hướng xuống. Đối với hướng lên, beamforming giúp cải thiện mức độ nhận sóng
của tín hiệu gửi từ một CPE đến trạm cơ sở, còn ở hướng xuống thì beamforming làm hạ thấp sự
can nhiễu vào những CPE khác đang nhận một cuộc truyền từ một cell kế cận trên cùng tần số.
4.4.4. Các thủ tục chuyển giao
Trong 802.16e, cả MS lẫn mạng đều có thể khởi xướng một thủ tục chuyển giao. Điều này
khác với UMTS và LTE, trong đó việc chuyển giao một đường truyền luôn được khởi xướng bởi
mạng. Trong đặc tả IEEE, một cuộc chuyển giao đôi khi còn được gọi là một sự chọn lại cell
(cell reselection). Thuật ngữ này có phần không thích hợp, bởi vì trong những hệ thống khác thì
cell reselection là quá trình chuyển sang một cell khác trong khi không có đường truyền nào
được thiết lập với mạng cả.
Để thực hiện việc chuyển giao sang một cell mới, một CPE phải tìm kiếm các cell kế cận khi
điều kiện tín hiệu trở nên xấu đi. Trong quá trình này, CPE sẽ không thể nhận dữ liệu từ cell hiện
tại. Vì vậy, CPE và trạm cơ sở phải đồng ý với nhau khi nào thì có thể thực hiện những cuộc tìm
kiếm như vậy, và trạm cơ sở sẽ đệm trữ tất cả những gói dữ liệu gửi tới CPE cho tới khi CPE
quay trở lại và tiếp tục nhận dữ liệu gửi đến nó. Khi CPE phát hiện được những cell kế cận, nó
báo cáo điều kiện tiếp nhận sóng từ các cell này về cho mạng thông qua trạm cơ sở đang phục vụ
nó. Sau đó, cả mạng lẫn CPE đều có thể khởi xướng một thủ tục chuyển giao, nếu thấy cần thiết.
Một mặt CPE có thể khởi phát cuộc chuyển giao nếu nó cảm thấy rằng nó sẽ được phục vụ tốt
hơn từ một cell kế cận. Mặc khác mạng cũng có thể khởi xướng một cuộc chuyển giao cũng vì lý
do đó hoặc vì mục đích cân bằng tải nếu nó thấy rằng CPE có thể nhận sóng từ một cell kế cận
với ít lưu tải hơn cũng tốt không kém nhận sóng từ cell hiện tại.
Ở dạng chuyển giao đơn giản nhất, mạng hoặc CPE khởi xướng một cuộc chuyển giao, điều
này gây nên một sự gián đoạn dịch vụ ngắn trong khi CPE nối kết với cell mới. Nếu nó đã đồng
bộ hóa sẵn rồi, sự gián đoạn đó sẽ ngắn hơn nếu CPE trước đó đã cộng tác với cell và cell mới
yêu cầu CPE cung cấp những thông số đường truyền hiện tại của thuê bao với cell hiện tại.
Đối với những dịch vụ thời gian thực như VoIP chẳng hạn, những sự gián đoạn là không
mong muốn, và hai thủ tục chuyển giao khác đã được chuẩn hóa để cải thiện cung cách chuyển
giao: FBBS và MDHO. Trong thủ tục chuyển giao FBBS (Fast Base Station Switching) thì,
giống như trong cách chuyển giao cơ bản ở trên, trạm cơ sở yêu cầu CPE phải thường xuyên rà
soát xem có thể dùng dịch vụ của các cell kế cận hay không. Sau đó những thông tin này được
báo cáo về trạm cơ sở đang phục vụ CPE ấy. Nếu điều kiện tín hiệu đủ mạnh, trạm cơ sở đang
phục vụ sẽ liên hệ với các trạm cơ sở kế cận thông qua kênh truyền backhaul và yêu cầu chúng
thiết lập một tình huống phục vụ (context) cho thuê bao này. Nếu các trạm cơ sở đó đồng ý, CPE
sẽ được thông báo rằng nó có thể chọn lựa là muốn nhận các gói dữ liệu hướng xuống của mình
từ trạm cơ sở nào. Các trạm cơ sở đó được lưu trữ trong một danh sách phân tập (diversity list,
tức một nhóm tích cực _ active set) trong CPE đó. Do đó CPE có thể gửi một lệnh ngắn để yêu
cầu mạng chuyển sang cell nào thích hợp cho truyền hướng xuống. Bằng cách này, CPE có thể
nhanh chóng phản ứng đối với sự thay đổi điều kiện truyền. Ở hướng lên, tất cả các trạm cơ sở
tham gia vào active set đều nhận dòng dữ liệu từ CPE rồi gửi chuyển tiếp những gói đã nhận
được đúng đắn đến ASN-GW. Điều này làm tăng khả năng mạng nhận được ít nhất một bản sao
của mỗi gói dữ liệu gửi từ CPE, nhưng có nhược điểm là làm tăng yêu cầu về thông lượng trên
các đường backhaul.
MDHO (Macro Diversity Handover) là hình thức chuyển giao còn trơn tru hơn nữa. Ở đây, tất
cả các trạm cơ sở trong active set truyền đi các khung dữ liệu hướng xuống tới CPE của thuê
bao. Sau đó CPE có thể kết hợp các tín hiệu nhận được, và vì vậy có nhiều cơ hội hơn nhận được
thành công các gói dữ liệu bất kỳ. Giải pháp này rất giống với chuyển giao mềm đã được thực

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 84

hiện trong UMTS nhưng lại bị HSPA và LTE bỏ rơi bởi vì người ta cho rằng quá tốn kém về mặt
yêu cầu dung lượng trên giao tiếp vô tuyến và đường truyền backhaul. Cả FBBS và MDHO đều
đòi hỏi rằng tất cả các cell tham gia vào thủ tục chuyển giao phải dùng cùng một tần số, bởi vì
CPE chỉ có một bộ thu phát sóng, và vì vậy, chỉ có thể thu và phát sóng trên một tần số duy nhất.
4.4.5. Chế độ tiết kiệm điện năng và chế độ ngủ
Để tối thiểu hóa yêu cầu về điện năng của các CPE hoạt động bằng pin, WiMAX di động đưa
ra một số chế độ tiết kiệm điện năng, vốn được gọi trong các tài liệu chuẩn là các kiểu tiết kiệm
điện năng (power-saving class). Với power-saving class 1, CPE và mạng thỏa thuận với nhau về
một mẫu hình hoạt động trong đó CPE thỉnh thoảng mới thức dậy lắng nghe đường truyền hướng
xuống, rồi sau đó lại đi vào chế độ ngủ (sleep mode) trong một quãng thời gian, trong thời gian
đó mạng không tiếp cận nó được. Sau một lúc lâu, các quãng thời gian ngủ này tự động kéo dài
thêm, bởi vì ngày càng ít khả năng là có dữ liệu gửi đến CPE. Nếu có dữ liệu được gửi đến trong
khi CPE đang trong trạng thái ngủ, chúng sẽ được trạm cơ sở lưu trữ tạm rồi sau đó gửi đến CPE
ngay khi nó kích hoạt lại bộ thu phát sóng của nó. Việc gửi dữ liệu này cũng tự động kết thúc
luôn chế độ tiết kiệm điện năng của CPE. CPE cũng rời khỏi chế độ tiết kiệm điện năng khi nó
quyết định gửi dữ liệu lên đường truyền hướng lên.
Tuy chế độ tiết kiệm điện năng thích hợp cho kiểu truyền dữ liệu no dồn đói góp (bursty) của
các ứng dụng như duyệt Web chẳng hạn, nhưng nó kém thích hợp đối với các cuộc truyền VoIP,
vốn cũng có những quãng thời gian không tích cực dài nhưng không tiên đoán được giữa hai
nhóm gói liên tiếp. Ở đó, sẽ không có ích gì nếu cứ vào chế độ tiết kiệm điện năng một lát rồi ra
khỏi đó mỗi khi phải gửi hoặc nhận một gói dữ liệu nào đó. Vì vậy, power-saving class 2 qui
định việc truyền dữ liệu chỉ được thực hiện trong những quãng thời gian nhất định cách đều
nhau. Ngoài những quãng thời gian này, CPE có thể tắt đi bộ thu phát sóng của nó. Trong thực
tế, kiểu hoạt động này làm hạn chế thông lượng khả dụng cho thiết bị, điều hoàn toàn chấp nhận
được đối với các ứng dụng VoIP vốn dù sao cũng đòi hỏi ít thông lượng thôi.
Cuối cùng, với power-saving class 3, mạng và CPE có thể thỏa thuận với nhau về một quãng
thời gian ngủ duy nhất nào đó, sau đó đường truyền sẽ tự động tích cực lại.
Trong thực tế, mỗi thiết bị có thể được kích hoạt bởi vài luồng dịch vụ (service flow), mỗi cái
có một địa chỉ IP khác nhau và dành cho những ứng dụng khác nhau. Mỗi luồng dịch vụ đó có
thể ở những chế độ tiết kiệm điện năng khác nhau. Vì thế, bộ thu phát sóng của CPE chỉ được tắt
đi vào những lúc tất cả các luồng dịch vụ đều đã đi vào một trạng thái tiết kiệm điện năng nào
đó.
4.4.6. Chế độ rỗi
Ngay cả trong khi đang ở một chế độ tiết kiệm điện năng nào đó, mỗi CPE cũng cần định kỳ
thức dậy rồi liên lạc với mạng. Trong những lúc không tích cực kéo dài thì điều đó là không
mong muốn, bởi vì nó đòi hỏi các tài nguyên ở phía mạng phải giữ cho một đường truyền luôn
tích cực, và có một ảnh hưởng tai hại lên thời gian tạm dừng tổng thể của CPE. Vì vậy, chuẩn
WiMAX cũng qui định một trạng thái chế độ rỗi (Idle mode), trong đó đường truyền vô tuyến
với mạng bị gỡ bỏ, nhưng thiết bị vẫn giữ (các) địa chỉ IP của nó. Một khi ở trong chế độ rỗi rồi,
CPE có thể tắt đi bộ thu phát sóng của nó và chỉ thỉnh thoảng mới kiểm tra mức độ nhận sóng
của cell hiện tại và các cell kế cận, và quan sát các thông điệp nhắn tin gửi tới, vốn có thể thông
báo về những gói đang đợi ở phía mạng.
Khoảng thời gian nhắn tin thường kéo dài chừng vài giây. Một ưu điểm khác của việc ở chees
độ rỗi là, CPE có thể chuyển (roam) qua lại giữa những cell khác nhau thuộc cùng một nhóm
nhắn tin (paging group) của mạng mà không cần báo cáo sự thay đổi vị trí ấy về cho mạng. Chỉ
khi nào CPE chuyển đến một cell thuộc một paging group khác thì nó mới phải thông báo cho

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 85

mạng vị trí mới của mình, vốn thuộc paging group mới, để sau này mạng có thể gửi các thông
điệp nhắn tin đến paging group mới đó. Bởi vì một thông điệp nhắn tin được gửi qua vài cell,
nên việc cộng tác nhắn tin (paging coordination) thuộc trách nhiệm của máy ASN-GW.

4.5. Các thủ tục báo hiệu cơ bản


Hình 4.8 cho thấy các thủ tục cơ bản để thiết lập một đường truyền với mạng sau khi CPE vừa
được bật điện lên. Ở bước thứ nhất, nó sẽ cố gắng tìm ra mạng đã dùng lần trước, mà các thông
số của nó đã được CPE lưu trong bộ nhớ lâu bền (nonvolatile memory) của mình. Việc dùng
thông tin này có ưu điểm là, CPE có thể đi thẳng đến một tần số đã biết và rất nhiều khả năng sẽ
nhận được ngay một tín hiệu, nếu như người dùng chưa hề di chuyển kể từ khi CPE bị tắt đi. Nếu
người dùng đã di chuyển rồi và CPE không bắt được tín hiệu nào ở tần số đó, nó sẽ bắt đầu một
thủ tục tìm kiếm mạng thông thường. Trước hết, những dữ liệu truyền hướng xuống của một
mạng WiMAX sẽ được CPE nhận ra bằng cách tìm trường Preamble của những khung dữ liệu
nào có một mẫu hình bit đã biết. Sau khi phát hiện được trường Preamble, CPE được đồng bộ
hóa với cấu trúc khung của đường truyền hướng xuống đó, và có thể bắt đầu tiếp nhận và giải mã
thông tin về cell, vốn nằm ngay sau trường Preamble trên khung ấy.

Hình 4.8: Các bước cần thiết để một CPE nối kết với một mạng WiMAX.
Thông tin về cell mô tả vị trí cần tìm khu vực phân loại (ranging area) dựa trên sự ganh đua
giữa các CPE (ngoài ra còn những thứ khác nữa), vốn được dùng ở bước thứ hai để nối kết với
mạng. Sau đó khu vực này, được gọi là kênh truy cập tùy ý (random access channel) trong các
chuẩn khác, được CPE dùng để gửi một thông điệp yêu cầu phân loại (ranging request message)
với một mức công suất phát thấp. Thông điệp ấy bao gồm địa chỉ phần cứng MAC của CPE và
kiểu điều chế và mã hóa mà CPE đề nghị mạng sử dụng để gửi câu trả lời. Nếu CPE không nhận
được câu trả lời nào, thông điệp ấy sẽ được gửi lại với một mức công suất phát cao hơn. Sau khi
mạng đã nhận thành công yêu cầu phân loại kia, nó trả lời bằng một thông điệp hồi đáp phân
loại (ranging response message). Thông điệp đó chứa thông tin về cách thức CPE cần điều chỉnh
mức công suất để truyền thông sau này và thông số đồng bộ hóa của nó. Việc điều chỉnh thông

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 86

số đồng bộ hóa của CPE là cần thiết, bởi vì CPE không biết khoảng cách từ nó tới trạm cơ sở.
CPE càng ở xa trạm cơ sở thì nó càng phải gửi dữ liệu sớm hơn để đến nơi cùng lúc với các gói
của các thuê bao khác, vốn có khoảng cách đến trạm cơ sở ấy khác với nó. CPE sẽ áp dụng
những giá trị này và gửi một yêu cầu phân loại khác đến mạng. Mạng kiểm tra xem các giá trị đó
đã được áp dụng đúng đắn hay chưa, rồi gửi lại một thông điệp hồi đáp phân loại, xác nhận thủ
tục này và kèm theo các mã nhận diện đường truyền (Connection ID _ CID) giúp nhận diện các
gói gửi đến CPE ấy ở hướng xuống, cùng với những thông tin cấp phát dải tần ở hướng lên.
Ở bước thứ ba, CPE gửi một thông điệp yêu cầu khả năng (capability request message) đến
mạng, trong đó chứa thông tin về những khả năng của nó, chẳng hạn như các kiểu điều chế và
mã hóa mà nó hậu thuẫn. Mạng trả lời bằng một thông điệp hồi đáp khả năng (capability
response message), vốn chứa những khả năng của chính nó. Các thông điệp trao đổi khả năng
này không được truyền trong khu vực phân loại, mà bằng CID cơ bản như một phần của khu vực
dữ liệu của khung. Thế có nghĩa là ngay khi mạng gửi xong một thông điệp hồi báo phân loại
cuối cùng, nó cũng bắt đầu phân bổ các tài nguyên truyền hướng lên cho CPE.
Ở bước thứ tư, CPE và mạng xác minh lẫn nhau như đã mô tả trong mục 4.2. Sau đó, CPE
đăng ký với mạng. Sau khi đăng ký xong, bước cuối cùng (thứ sáu) trong Hình 4.8 là thiết lập
một luồng dịch vụ và các CID dành riêng cho dữ liệu người dùng. Thủ tục này có thể được khởi
xướng bởi CPE hoặc mạng, nơi luồng dịch vụ ấy được cung cấp. Bởi vì các giao thức tầng cao
hơn không biết gì về các luồng dịch vụ ấy, nên lúc này không có địa chỉ IP nào được cấp phát cả.
Việc yêu cầu cấp phát địa chỉ IP là một hành động riêng biệt, phải được thực hiện bởi CPE sau
khi luồng dịch vụ kia đã kích hoạt bằng cách gửi một yêu cầu DHCP (Dynamic Host
Configuration Protocol) đến mạng theo cách tương tự như trong các mạng Ethernet cố định và
mạng WiFi hiện nay.

4.6. Tổng kết và so sánh với HSPA và LTE


Khi so sánh các thông số vật lý của WiMAX, LTE và HSPA+, ta thấy rõ là ở dải tần kênh
truyền 5 MHz thì hiệu năng của ba hệ thống này như nhau. Khi độ rộng dải tần vượt quá 5 MHz,
LTE và WiMAX có hiệu năng tương đương nhau, bởi vì cả hai đều dùng kiểu điều chế OFDM
và những thông số vô tuyến khá giống nhau. Khác biệt chính giữa hai hệ thống là, WiMAX lúc
đầu vẫn được triển khai ở chế độ truyền TDD, trong khi LTE sẽ chủ yếu được dùng ở chế độ
FDD vì những lý do lịch sử. Một khác biệt nữa là, LTE sử dụng một kiểu truyền hướng lên khác,
khiến nó hiệu quả về công suất hơn. Tuy nhiên, bao nhiêu khác biệt sẽ được thực hiện trong thực
tế thì vẫn chưa biết, bởi vì LTE vẫn chưa được triển khai đại trà. Những khác biệt khác giữa hai
hệ thống nằm ở những tầng cao hơn trong hệ thống. Trong khi giao tiếp vô tuyến của LTE thừa
hưởng một kiểu tổ chức kênh nghiêm ngặt từ UMTS, thì kiểu thiết kế giao tiếp vô tuyến của
WiMAX đơn giản hơn nhiều và gần gũi hơn với các tầng MAC theo phong cách Ethernet đơn
giản.
Trong thực tế, tốc độ truyền đạt được chỉ là một trong vài thông số quan trọng thôi. Quan
trọng không kém là mỗi hệ thống đó có khả năng xử lý tốt đến mức nào đối với hàng trăm thiết
bị luôn mở trên mỗi cell, mỗi thiết bị liên lạc với hệ thống vài lần một phút, bởi vì các ứng dụng
như VoIP, các đường hầm VPN (Virtual Private Network) mã hóa, và các trình nhắn tin tức thời
liên tục liên lạc với các server của chúng trong mạng để giữ cho các kênh truyền của chúng luôn
mở xuyên qua các firewall và NAT gateway. Điều này đòi hỏi là hệ thống không chỉ được hợp lý
hóa cho những dải tần cao mà còn có khả năng xử lý một số lượng lớn yêu cầu thông lượng mỗi
giây để giữ cho hệ thống nhắn tin luôn hoạt động mà không cần hy sinh độ rộng dải tần và điện
năng của pin. Như có thể thấy với HSPA, giao tiếp vô tuyến luôn được cải tiến để quan tâm đến
cả điều này. Vì thế, vẫn còn phải xem các mạng WiMAX và LTE đầu tiên sẽ tính cước như thế
nào khi xét đến điều này, và sự cải tiến của chúng thích nghi như thế nào với kiểu cách hoạt

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 87

động này của thiết bị. Hệ quả của sự cải tiến liên tục này là, không thể mô tả hệ thống này là tốt
hơn hệ thống kia xét về mặt hiệu năng.

4.7. Các công nghệ mạng này cạnh tranh lành mạnh
Bởi vì LTE cùng với HSPA ở bên này và WiMAX ở bên kia rất tương tự nhau về mặt thông
suất và kịch bản sử dụng, nên nhiều nhà quan sát tự hỏi liệu chúng ta sẽ nhìn thấy một sự cạnh
tranh hủy diệt giống như vào thời các mạng 2G GSM và CDMA hay không. Ở đấy, người dùng
và các nhà cung cấp dịch vụ mạng đã không hưởng lợi lớn từ cuộc cạnh tranh này, bởi vì cả
mạng lẫn các ứng dụng đều nằm trong tay các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Điều này tạo ra nhiều
vấn đề bất tương thích cho người dùng. Một ví dụ là dịch vụ nhắn tin văn bản. Trong khi ở châu
Âu, nhắn tin văn bản đã phát triển thịnh vượng lâu rồi, thì cho tới gần đây nó mới trở nên phổ
biến ở Mỹ. Lý do chính cho sự trái khuấy này là, người dùng của các mạng khác nhau ở Mỹ
không thể trao đổi tin nhắn với nhau. Vì vậy, dịch vụ ấy không cất cánh nổi cho tới khi cuối cùng
người ta tìm ra khả năng thông tác giữa các mạng.
Thế nhưng với HSPA, LTE và WiMAX thì viễn cảnh ứng dụng rất khác biệt. Ở đây, các
mạng và ứng dụng đều phân biệt và không phụ thuộc vào nhau. Các ứng dụng đều dựa trên giao
thức IP và sử dụng bất kỳ hạ tầng mạng nào. Các ứng dụng IP không, và không nên, biết gì về
công nghệ mạng bên dưới cả, điều này cho phép người ta xây dựng các ứng dụng độc lập với
kiến trúc mạng không dây. Một số ứng dụng vẫn sẽ được xây dựng bởi các nhà cung cấp dịch vụ
mạng, nhưng đại đa số còn lại sẽ do các công ty dựa trên Internet cung cấp. Hệ quả của sự tách
rời giữa ứng dụng và mạng này là, sự cạnh tranh giữa các công nghệ không dây khác nhau trở
nên rất có lợi, bởi vì:
 Nó khuyến khích các cuộc triển khai mạng diễn ra nhanh hơn, bởi vì đây là một trong
những yếu tố phân biệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ mạng.
 Nó mang lại khả năng có thêm những tay chơi mới trên thị trường.
 Nó tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất thiết bị.
 Các ứng dụng mới có thể được tạo ra dễ dàng và nhanh hơn nhiều, bởi vì chúng không còn
bắt buộc phải tuân theo một cái sườn chung được kiểm soát chặt bởi nhà cung cấp dịch vụ
mạng nào nữa.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 88

Danh mục các từ viết tắt

3GPP 3rd Generation Partnership Project


AAS Adaptive Antenna System
AES Advanced Encryption Standard
AGCH Access Grant CHannel
ANM Answer Message
ARQ Automatic Retransmission Request
ASN Access Service Network
ASN-GW Access Service Network Gateway
ATM Asynchronous Transfer Mode
AuC Authentication Center
B3G Beyond 3G
BCCH Broadcast Control CHannel
BSC Base Station Controller
BSS Base Station Subsystem
BSSMAP Base Station Subsystem Mobile Application Part
BTS Base Transceiver Station
CA Certification Authority
CDMA Code Division Multiple Access
CDR Call Detail Record
CID Connection ID
COA Care-Of (IP) Address
CQI Channel Quality Index
DCCH Dedicated Control CHannel
DCH Dedicated CHannel
DPCCH Dedicated Physical Control CHannel
DPDCH Dedicated Physical Data CHannel
DSCH Dedicated Shared CHannel
DTCH Dedicated Traffic CHannel
DHCP Dynamic Host Configuration Protocol
DL-MAP DownLink Mobile Application Part
DNS Domain Name Service
DSP Digital Signal Processor

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 89

EDGE Enhanced Data Rates for GSM Evolution


EIR Equipment Identity Register
ETSI European Telecommunication Standards Institute
FACH Forward Access CHannel
FDD Frequency Division Duplex
FDMA Frequency Division Multiple Access
GGSN Gateway GPRS Support Node
GMM GPRS Mobility Management
GMM/SM GPRS Mobility Management and Session Management
GMSC Gateway MSC
GPRS General Packet Radio Service
GTP GPRS Tunneling Protocol
HARQ Hybrid Automatic Retransmission Request
HLR Home Location Register
HSDPA High-Speed Downlink Packet Access
HS-DSCH High-Speed Dedicated Shared CHannel
HS-SCCH High-Speed Shared Control CHannel
HSUPA High-Speed Uplink Packet Access
HTML HyperText Markup Language
HTTP HyperText Transfer Protocol
IEEE Institute of Electrical and Electronics Engineers
IMS IP Multimedia Subsystem
IMSI International Mobile Subscriber Identity
IP Internet Protocol
ITU International Telecommunication Union
LAN Local Area Network
MAC Medium Access Control (layer)
MAN Metropolitan Area Network
MAP Mobile Application Part
MDHO Macro Diversity Handover
MIMO Multiple Input Multiple Output
MM Mobility Management
MS Mobile Station
MSC Mobile Switching Center
OFDM Orthogonal Frequency Division Multiplexing

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 90

OFDMA Orthogonal Frequency Division Multiple Access


PCCH Packet Common CHannel
PCH Paging CHannel
PCU Packet Control Unit
PDP Packet Data Protocol
PRACH Packet Random Access CHannel
PSTN Public Standard Telephone Network
QAM Quadrature Amplitude Modulation
QoSQuality of Service
RACH Radio Access CHannel
RNC Radio Network Controller
RTD Round Trip Delay
SCH Synchronization CHannel
SCP Service Control Point
SGSN Serving GPRS Support Node
SM-MIMO Spatial Multiplexing MIMO
SMS Short Messaging Service
SMSC Short Messaging Service Center
TCP Transfer Control Protocol
TDD Time Division Duplex
TDMA Time Division Multiple Access
TRAU Transcoding and Rate Adaptation Unit
TTI Transmit Time Interval
UDP User Datagram Protocol
UE User Equipment
UMTS Universal Mobile Telecommunications System
URL Universal Resource Locator
UTRAN UMTS Terrestrial Radio Access Network
VLR Visitor Location Register
VoIP Voice over IP
WAP Wireless Application Protocol
WCDMA Wideband Code Division Multiple Access
WiMAX Worldwide interoperability for Microwave Access

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1


Các công nghệ di động Sau 3G 91

Tài liệu tham khảo

1). UMTS Networks and Beyond _ Cornelia Kappler _ John Wiley & Sons, 2009 _ ISBN:
978-0-470-03190-2.
2). HSPA and LTE for Mobile Broadband (2nd Edition) _ Erik Dahlman et al _ Academic
Press, 2008 _ ISBN: 978-0-12-374538-5.
3). WCDMA for UMTS – HSPA Evolution and LTE (4th Edition) _ Harri Holma and Antti
Toskala _ John Wiley & Sons, 2007 _ ISBN: 978-0-470-31933-8.
4). Communication Systems for the Mobile Information Society _ Martin Sauter _ John Wiley
& Sons, 2006 _ ISBN-13: 978-0-470-02676-2; ISBN-10: 0-470-02676-6.
5). Beyond 3G – Bringing Networks, Terminals and the Web Together _ Martin Sauter _ John
Wiley & Sons, 2009 _ ISBN: 978-0-470-75188-6.
6). WiMAX Evolution: Emerging Technologies and Applications _ Tsutomu Ishikawa _ John
Wiley & Sons, 2009 _ ISBN: 978-0-470-69680-4.
7). Fixed, Nomadic, Portable and Mobile Applications for 802.16-2004 and 802.16e WiMAX
Networks _ Senza Fili Consulting on behalf of the WiMAX Forum, 2005.
8). Newton’s Telecom Dictionary (20th Edition) _ Harry Newton _ CMP Books, 2004 _
ISBN:1578203090.

Sinh viên thực hiện: Phạm Hoàng Dũng – Đ06VTK1

You might also like