Professional Documents
Culture Documents
CHƯƠNG I:
Là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản náh tồn tại xã hội. Do vậy,
cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội, mà trước hết là sự biến đổi của điều kiện
sinh hoạt vật chất và đời sống vật chất, đạo đức cũng biến đổi theo.
Cho đến nay, xã hội loài người vận đồng và phát triển như một quá trình
lịch sử- tự nhiên, từ thấp đến cao qua các hình thái kinh tế-xã hội khác nhau. Phù
hợp với mỗi hình thái kinh tế-xã hội cụ thể có những quan điểm đạo đức tương
ứng như đạo đức của xã hội cộng sản nguyên thuỷ, đạo đức của xã hội chiếm
hữu nô lệm, đạo đức của xã hội phong kiến, đạo đức của xã hội tư bản và đạo
đức của cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Trả lời câu hỏi : Có đạo đức cộng sản hay không? Có luân lý cộng sản hay
không? V.I. Lênin khẳng định rằng: “ Tất nhiên là có. Người ta thường bảo
chúng ta không có đạo đức của chúng ta, và giai cấp tư sản buộc tội những người
cộng sản chúng ta là bác bỏ mọi thứ đạo đức. Đó là một cách đánh lộn sòng các
V.I. Lênin nêu rõ rằng: đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản; đạo đức của chúng ta là từ những lợi ích
của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra. “Đạo đức cộng sản là đạo
đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động
chống mọi sự bóc lột, chống mọi chế độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nho trao
cho một cá nhân thành quả lao động do toàn thể xã hội sáng tạo ra. Ruộng đất
đối với chúng ta là tài sản chung”. Vì vậy, “đối với một người cộng sản, tất cả
đạo đức là nằm trong cái kỷ luật đoàn kết keo sơn đó và trong cuộc đấu tranh tự
giác của quần chúng chống bọn bóc lột… Đạo đức giúp xã hội loài người tiến
lên cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động”
Theo phương pháp biện chứng Mácxít : “ Khi xem xét bất cứ một hiện
tượng xã hội nào trong quá trình phát triển của nó, thì bao giờ người ta cũng tìm
thấy trong đó những vết tích của quá khứ, những cơ sở của hiện tại và những
mầm mống của tương lai” thì đạo đức mới là kết quả của cuộc đấu tranh chống
lại cái cũ, cái lỗi thời để khẳng định cái mới. Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội
thường có những yếu tố của ba loại đạo đức: đạo đức cũ tồn tại như là tàn dư,
đạo đức hiện tại có địa vị thống trị và đạo đức mới là cái đang lớn lên. Đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới, thắng lợi của cái mới, cái tiến bộ là quy luật khách quan
của thế giới vật chất, của mọi sự phát triển nói chung, của đạo đức nói riêng.
Trong điều kiện cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, với sự xác lập địa vị
thống trị của đạo đức xã hội chủ nghĩa, những yếu tố của đạo đức tư sản trở
thành tàn dư và quan hệ đạo đức cộng sản chủ nghĩa ra đời trong lòng xã hội chủ
nghĩa hoạt động chống lại những tàn dư của đạo đức tư sản.
Đồng thời với việc khẳng định đạo đức mới, chủ nghĩa Mác-Lênin phủ
định học thuyết đạo đức nhất thành bất biến, phủ định tính chất tiên thiên, bẩm
sinh của đạo đức, phủ định khả năng tồn tại của một nền đạo đức chung, thống
nhất trong xã hội có giai cấp đối kháng. Bác bỏ cái gọi là “đạo đức do một bề
trên nào đó xác lập ở ngoài xã hội loài người”, V.I.Lênin chỉ ra rằng: “ Tất cả
những thứ đạo đức, xuất phát từ những quan niệm ở ngoài nhân loại, ở ngoài các
giai cấp, chúng ta đều bác bỏ. Chúng ta nói rằng đây chỉ là lừa bịp, dối trá, nhồi
sọ công nhân và nông dân để mưu lợi ích riêng của bọn địa chủ và bọn tư sản”
Chủ nghĩa Mác-Lênin thừa nhận tính giai cấp của đạo đức, khẳng định
những chuẩn mực đạo đức phát sinh và phát triển từ những điều kiện sinh hoạt
vật chất, đời sống vật chất của con người, từ thực tiễn của đời sống xã hội và một
khi những điều kiện sinh hoạt vật chất và đời sống vật chất biến đổi thì những
chuẩn mực đạo đức cũng biến đổi theo. Chủ nghĩa Mác-Lênin một mặt thừa
nhận tính biến đổi lịch sử của đạo đức, mặt khác chứng minh rằng đạo đức của
chủ nghĩa xã hội không xây dựng trên mảnh đất trống mà nó phải kế thừa những
thành tựu đạo đức của các xã hội trước và khắc phục những hạn chế đạo đức của
xã hội đó. Chính nền đạo đức xã hội chủ nghĩa đã kế thừa, lĩnh hội và phát triển
được tất cả mọi nét đặc sắc của đạo đức, những gì ưu tú đã được sáng tạo trong
lịch sử hàng nghìn năm của những người lao động. Đạo đức mới bao hàm những
chuẩn mực đạo đức cơ bản, là sự tổng kết lịch sử phát triển đạo đức của những
người lao động. Vì vậy, đạo đức mới là đỉnh cao của đạo đức xã hội.
Chủ nghĩa xã hội là hình thái vận động lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Ở đó, lần đầu tiên đạo đức mới có tiền đề hiện thực phát triển tương hợp, toàn
diện, đồng đều với bản thân con người như chủ nhân của xã hội văn hoá cao.
Theo các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác thì chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản là xã hội đầu tiên trong lịch sử phát triển nhân loại, ở đó đạo đức
cá nhân tiếp nhận hình thức tồn tại phù hợp với nội dung khách quan của nó, khi
các các nhân phát triển toàn diện. C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, trong chủ
nghĩa cộng sản thì sự chiếm lĩnh thực sự bản chất con người bởi con người và
C.Mác và Ph. Ăngghen, trong lý thuyết về chủ nghĩa xã hội, đã giải thích
cho một cách khoa học mục tiêu đạo đức của chủ nghĩa xã hội làm tiền đề hiện
thực để con người phát triển hài hoà và phong phú. Các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác đã nhìn nhận lịch sử phát triển xã hội trong các mục tiêu đạo đức của nó.
C.Mác và Ph. Ăngghen đã thấy đằng sau những quan hệ xã hội không có tính
người thay thế nhau trong lịch sử trước chủ nghĩa xã hội vẫn hiện lên các vấn đề
đạo đức, đòi hỏi một xã hội thực sự có đạo đức. Xã hội thực sự có đạo đứclà kết
quả hợp quy luật của lịch sử vừa kế thừa, vừa phát triển, vừa khắc phục những
hạn hẹp, phiến diện đạo đức của các xã hội trước đó. Vì thế, nhiệm vụ lịch sử
đầu tiên trong mục tiêu đạo đức của chủ nghĩa xã hội là khắc phục các hạn chế
Xã hội cũ dựa trên cơ sở bất bình đẳng giai cấp và quyền thống trị của
thiểu số đối với đa số, do đó đã tạo nên sự bất bình đẳng về mặt đạo đức. Việc
đem quyền bình đẳng trả lại cho đông đảo nhân dân, huy động nhân dân tham
gia sáng tạo văn hoá là nhiệm vụ lịch sử đầu tiên và là mục tiêu đạo đức quan
trọng của chủ nghĩa xã hội. Xã hội cũ đã để lại rất nhiều dấu vết tiêu cực trong
quan hệ giữa người và người, đặc biệt là trong quan hệ giữa giai cấp thống trị và
quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là đưa đông đảo
nhân dân lao động tham gia vào đời sống chính trị-xã hội. Để thực hiện được
mục tiêu đó, cần phải thay đổi các quan hệ đạo đức, các thành kiến đạo đức, các
lề thói lạc hậu. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “ Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là một cuộc biến đổi khó khăn nhât và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một
xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta
phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ
sâu xa hàng ngàn năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”
Như vậy, mục tiêu xây dựng nền đạo đức mới của chủ nghĩa xã hội là phải
mở rộng, tiếp tục hoàn thành ba cuộc giải phóng : giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội đã được tiến hành và phát động từ đầu cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Việc cải tạo lại các quan hệ đạo đức cũ phải gắn chặt chẽ
với cả ba cuộc giải phóng đó. Việc kế thừa và đổi mới các giái trị đạo đức truyền
thống đã tồn tại hàng ngàn năm trong đời sống mỗi dân tộc cho phù hợp với thực
Đấu tranh xáo bỏ mọi sự khác biệt và đối kháng giai cấp, xây dựng xã hội
công bằng, đan chủ, văn minh-đó là sứ mệnh lịch sử toàn thế giới cảu giai cấp vô
sản. Đạo đức cộng sản phản ánh những lợi ích căn bản của giai cấp vô sản trong
cách mạng vô sản, nó là vũ khí tinh thần mãnh mẽ của giai cấp công nhận trong
suốt quá trình xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là lần đầu tiên và là
lần cuối cùng đạo đức của giai cấ lao động trở thành đạo đức của xã hội. Nó thực
hiện bước phủ định của phủ định; hình thành một vòn khâu phát triển làm nên
Như vậy, khái niện dạo đức cộng sản la hoàn toàn mới trong lịch sử xã
hội, nó đối lập với đạo đức của giái cấp tư sản và các giai cấp bóc lột khác. Đạo
đức cộng sản cũng khác với đạo đức của những người sản xuất nhỏ. Theo V.I.
Lênin, xét về bản chất, đạo đức mới “ là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ
của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung quanh
giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”. Đạo đức
mới là những chuẩn mực của những người cộng sản về chân, thiện, mỹ nhằm
điều chỉnh hành vi ứng xử của những người cộng sản với nhau, với tổ chức và
với thắng lợi bước đầu của cuộc cách mạng vô sản, giai cấp công nhân xác
lập địa vị thống trị về chính trị của mình và dùng địa vị đó xác lập sự thống trị về
Mỗi bước thắng lợi của sự nghiệp xây dựng xã hội mới-xã hội xã hội chủ
nghĩa- là mỗi bước khẳng định địa vị thống trị của giai cấp công nhân về kinh tế,
chính trị, tư tưởng, văn hoá, trong đó có đạo đức. Những thành tựu của nhân dân
lao động các nước xã hội chủ nghĩa trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội
càng lớn bao nhiêu, càng tạo ra cơ sở kinh tế chính trị bền vững cho việc hình
thành nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa thống nhất và có ý nghĩa nhân loại. Đạo
đức cộng sản dần dần khẳng định địa vị thống trị của mình trong đời sống đạo
đức xã hội và là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong quá trình xây dựng
xã hội mới. V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Uy tín tinh thần lớn đạt được trong quá trình
đấu tranh có một ý nghĩa rất quan trọng, uy tín này không một người nào phủ
nhận được, và sức mạnh của nó, tất nhiên, không phải là bắt nguồn từ đạo đức
của người chiến sĩ cách mạng, đạo đức cảu quần chúng cách mạng”. Cụ thể là
Thứ nhất, các lý tưởng và nguyên tắc đạo đức cộng sản là cơ sở để các
đảng mácxít và chính quyền nhà nước vô sản hoạch định chiến lược, sách lược,
chính sách kinh tế, chính trị và văn hoá-tư tưởng. Ở đây, đạo đức và chính trị đều
có chung một mục đích là khẳng định lợi ích của giai cấp công nhân. Kết quả là
đạo đức cộng sản, theo một ý nghĩa nhất định, vừa mang tính chính trị, vừa mang
Thứ hai, đạo đức cộng sản đã nhân đạo hóa một cách phổ biến mọi quan
hệ xã hội nhờ tính phổ biến của các giá trị nhân đạo của mình. Dù trong thời kỳ
đấu tranh giành chính quyền hay trong thời kỳ xây dựng xã hội mới-xã hội xã
hội chủ nghĩa, hành vi của giai cấp vô sản đều nhằm mục đích cao cả là giải
phóng mình và giải phóng cả loài người. Bởi vì, với giai cấp vô sản, muốn giải
phóng mình phải giải phóng cả nhân loại; muốn một người được giải phóng thì
mọi người phải được tự do. Ở đây, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất
về chính trị, tinh thần và đạo đức trong các giai cấp và tầng lớp xã hội là cơ sở
quy định tính phổ biến của các giá trị nhân đạo trong xã hội. Mặt khác, nội dung
nhân đạo của đạo đức cộng sản còn là tư tưởng về con đường và phương thức
của sự khẳng định sự tồn tại, hạnh phúc và phát triển tự do của con người.
Thứ ba, đạo đức cộng sản xâm nhập vào các tầng lớp xã hội, các lĩnh vực
Một là, sự hoàn thiện cấu trúc đạo đức của cá nhân, các tập thể lao động,
Hai là, sự điều chỉnh, điều tiết, đạo đức có tính thống nhất trên phạm vi
toàn xã hội. Sự phản ánh, điều chỉnh đạo đức mang tính tự giác, tự nguyện, tự
Ở đây, Đảng và nhà nước vô sản là người giáo dục, động viên, lãnh đạo
toàn thể nhân dân lao động tham gia vào phong trào cách mạng. Và sự phát triển
của đạo đức mới mang tính tự giác có tổ chức, có kế hoạch và có tính pháp lệnh.
Điều đó bảo đảm cho các giá trị đạo đức mới tồn tại phổ biến trong đời sống xã
hội. V.I.Lênin chỉ ra rằng, có đạo đức cộng sản mới tạo ra “ khả năng làm việc
một cách nhất trí, hợp lý và thực sự có tổ chức… đáp ứng được những yêu cầu
của cách mạng vô sản. Không có lối làm việc có tổ chức nhất trí đó, thì chúng ta
không thể đạt được một thắng lợi nào, cũng không thể vượt được một trong vô
số khó khăn nào, một trong những thử thách gay go nào mà chúng ta đã từng
nếm trải và hiện nay chúng ta còn phải chịu đựng”. Chỉ có đạo đức cộng sản mới
thực hiện được sự đoàn kết những người lao động trong cuộc đấu tranh lật đổ
bọn áp bức để xây dựng xã hội mới. “Sự đoàn kết đó,… chỉ có giai cấp vô sản
được huấn luyện và được thức tỉnh… mới có thể tạo ra được…Chỉ có giai cấp vô
sản mới có thể sáng tạo ra một sức mạnh đoàn kết để lôi kéo theo nó giai cấp
nông dân phân tán và tản mạn, và sức mạnh đó đã chống lại tất cả các cuộc tấn
công của bọn bóc lột. Chỉ có giai cấp đó mới có thể giúp quần chúng lao động
đoàn kết nhau lại, thắt chặt hàng ngũ, triệt để bảo vệ, triệt để củng cố, triệt để
Nội dung những nguyên tắc của đạo đức mới(đạo đức cộng sản) mang tính
khách quan, được quy định bởi địa vị và vai trò của giai cấp vô sản trong nền sản
xuất vật chất xã hội, bởi sứ mệnh lịch sử thế giới, bởi bản chất cách mạng và
nhân đạo của giai cấp vô sản. Đây là những chuẩn mực khuyến khích, định
hướng căn bản cho đạo đức cộng sản, do đó chúng đòi hỏi cao đối với chủ thể
đạo đức. Trong thực tiễn đạo đức, các chủ thể đạo đức phải nhận thức một cách
sâu sắc, nỗ lực vươn lên để đáp ứng những đòi hỏi của chúng. Đạo đức cộng sản
Tập thể là một cộng đồng người (một nhóm người) được tổ chức trên cơ
sở phân công và hợp tác cùng hoạtd động nhằm mục đích chung, qua đó đem lại
lợi ích cho cộng đồng, cho từng thành viên trong cộng đồng, cho từng thành viên
Một tập thể chân chính phải có các đặc trưng sau
Một là, phải có mục đích đúng đắn, nghĩa là lợi ích tập thể thống nhất với
Hai là, phải có tổ chức nhất định và bộ máy phải thực sự hoạt động.
Ba là, các lợi ích tập thể, cá nhân, xã hội, phải được tôn trọng, và phải
được xử lý một cách hài hoà. Khi gặp mâu thuẫn, xung đột thì thứ tự của giải
quyết mâu thuẫn phải được sắp xếp ưu tiên: lợi ích xã hội-lợi ích cộng đồng-lợi
ích cá nhân.
Tính tập thể, tính cộng đồng của con người xuất hiện rất sớm, do nhu cầu
lao động sản xuất tạo ra vật phẩm nuôi sống con người. Và chính trong lao động,
nhờ lao động mà con người càng phát triển, hoạt động của con người ngày phong
phú. Xét cho cùng, mọi giá trị vật chất, tinh thần đạo đức được bắt nguồn từ hoạt
động lao động của con người. Tính tập thể của con người không chỉ biểu hiện ở
những hoạt động cộng đồng có tính xã hội trực tiếp, mà ở ngay cả những hoạt
động độc lập, có tính chất cá nhân. Tinh thần tập thể một khi được thừa nhận là
một giá trị cao đẹp, được coi như là một triết lý sống, một nguyên tắc sống thì
Chủ nghĩa tập thể là sự thống nhát tự giác giữa những cá nhân vì những lý
tưởng cao quý của con người. Đó là sự thống nhất của tình đồng chí, tinh thần
trách nhiệm, thái độ tôn trọng, tinh thần hợp tác, tương trợ và tận tình chăm sóc
lẫn nhau, nhằm bảo đảm cho các cá nhân phát triển cao nhât, phục vụ lợi ích xã
hội.
Chủ nghĩa tập thể là nguyên tắc, là cơ sở khoa học và là trung tâm của đạo
đắc mới. Ở đây, con người không chỉ nghĩ và hànhd động vì mình mà còn vì
người khác, Tập thể ở đây vừa là mục đích, vừa là phương tiện, vừa là hình thức
Chủ nghĩa tập thể là kết quả của sự phát triển hợp quy luật của lịch sử loài
người. Quan hệ đạo đức, cũng như các quan hệ khác, phát triển qua từng giai
đoạn lịch sử, mỗi giai đoạn lịch sử đòi hỏi phải có kiểu người thích hợp với nó.
Phương thức sản xuất là ngọn nguồn của mỗi kiểu đạo đức và tính tồn tại trong
lịch sử.
Theo C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, nguyên tắc đạo
đức cơ bản trong chủ nghĩa xã hội phải thống nhất các lợi ích của cộng đồng.
Trong chủ nghĩa xã hội, vẫn tồn tại ba nhóm lợi ích: lợi ích tập thể, lợi ích cá
nhân, và sự hội nhập giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Trong chủ nghĩa xã
hội, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội là thước đo đạo đức của cá nhân và nhất
định lợi ích tập thể phải đặt trên lợi ích cá nhân. Lợi ích của xã hội là tính thứ
nhất trong các quan hệ đạo đức, bởi vì trong chủ nghĩa xã hội, chũng là phương
tiện thoả mãn nhu cầu và phát triển tài năng của các cá nhân. Vì thê, mục tiêu
văn hoá của chủ nghĩa xã hội lấy thước đo đạo đức tập thể làm chuẩn mực của
Lợi ích xã hội là một tồn tại khách quan có cơ sở từ nền tảng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội. Nó đảm bảo thoả mãn các nhu cầu khác. Việc xem lợi ích cộng
đồng là lợi ích cộng đồng là lợi ích chung của toàn xã hội sẽ bảo đảm cơ chế vận
hành của một mục tiêu lý tưởng nhất quán về một xã hội nhân đạo hiện thực mà
chủ nghĩa xã hội theo đuổi. Tuy nhiên, bên ngoài lợi ích xã hội, trong chủ nghĩa
xã hội cũng tồn tại lợi ích chân chính của cá nhân. Lợi ích chân chính của cá
nhân đảm bảo cho đời sống đạo đức được vận hành đa dạng và phong phú.
Không có lợi ích chân chính của cá nhân, quan hệ đạo đức trong chủ nghĩa xã
hội sẽ thiếu sức sống. Song, lợi ích cá nhân khôn gphả là mục tiêu văn hoá của
sự phát triển xã hội chủnghĩa, Chính sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích xã hội mới là mục tiêu văn háo của sự phát triển xã hôi chủ nghĩa. Bởi vì,
nếu chỉ quan tâm tới lợi ích cá nhân, các quan hệ đạo đắc trong chủ nghĩa xã hội
sẽ tiếp tục theo vết xe đạo đức vị kỷ của chủ nghĩa tư bản. Lợi ích cá nhân trong
chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa cá nhân tư sản. Trong lý tưởng đạo đức của
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cá nhân là một hiện tượng phản văn hoá. Tâm lý của
chủ nghĩa cá nhân là lấy sự cá nhân hoá, nâng lợi ích riêng thành lợi ích vị kỷ và
đối lập với lợi ích xã hội. Trong chủ nghĩa xã hội không chấp nhận hiện tượng
con người phá hoại nhau và thù địch nhau. Mỗi người tự do phát triển nhưng
không phản lại tự do của người khác. Mục tiêu văn hoá của chủ nghĩa xã hội là
Như vậy, dưới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tập thể trở thành quan hệ xã
hội phổ biến, thể hiện trong quan hệ xã hội và trong mọi hình thức của đời sống
xã hội. Bằng những hình thức thích hợp, chủ nghĩa tập thể quy định tính chất
hoạt động của người lao động. Con người không chỉ nghĩ về mình mà còn vì
người khác, tức là phục vụ con người, phục vụ tập thể và phục vụ toàn xã hội với
một tinh thần trách nhiệm, chăm sóc lẫn nhau, thực hiện mục tiêu chung phù hợp
với sự tiến bộ xã hội, vì thế nó là cơ sở của chủ nghĩa nhân đạo cao nhất.
Chủ nghĩa tập thể đòi hỏi phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ
nghĩa phường hội chẳng qua chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa cá nhân. Động
cơ hành động của người cá nhân chủ nghĩa khát vọng cá nhân được đàng hoàng
2. Lao động tự giác, sáng tạo là cội nguồn của đạo đức mới
Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, “ là lực lượng bản chất của
con người”, dùng để cải biến tự nhiên, xã hội và chính mình phù hợp với nhu
cầu, lợi ích của con người, vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Động vật tồn tại nhờ vào những thứ sẵn có trong tự nhiên. Trái lại, con
người vì cuộc sống của nình phải tiến hành lao động sản xuất, chủ động biến đổi
giới tự nhiên theo hướng thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân.
Đó là quá trình con người dùng công cụ tác động vào thế giới xung quanh, tạo ra
những thứ khác với dạng tồn tại sẵn có trong thế giới tự nhiên. Lao động là hoạt
động đặc trưng của con người. Nếu không có lao động thì con người không thể
tồn tại được. Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự
phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh
hoạt của mình- đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản
Như vậy, trong lịch sử, con người bắt đầu sự tồn tại của mình bằng lao
động. Và hiện nay, con người đang khẳng định sự tồn tại của mình cũng bằng lao
động. Lao động là một hiện tượng xã hội, là một hoạt động có ích cho xã hội.
Người nào lao động, người ấy chẳng những tồn tại không gây trở ngại cho người
khác, mà còn giúp đỡ cho người khác tồn tại, giúp đỡ cho người khác được hạnh
phúc. Đây là lý tưởng đạo đức cao nhất của con người. Giá trị đạo đức tích cực,
cái thiện, tức là đạo đức đích thực, biểu hiệnở chỗ con người giúp đỡ, thông cảm
và đem lại sự thích thú cho người khác. Trong cuộc sống, người ta có nhiều
chuẩn mực để đo phẩm giá của con người. Chẳng hạn: lương tâm trong sáng,
động cơ hành vi hợp đạo đức, có nhu cầu tinh thần và xã hội phát triển cao, lành
mạnh, thực hiện tốt các chuẩn mực đạo đức, có thái độ đúng đối với lao động.
Trong đó, thái độ đối với lao động là thứoc đo quan trọng, bởi vì, căn cứ vào đó
mà tha đánh giá con người lao động nghiêm túc, trung thực có trách nhiệm hay
dối trá, qua quýt, tiết kiệm, hay hoang phí. Và, người lao động chỉ được được
kính trọng khi có thái độ lao động đúng đắn, biểu hiện cụ thể là:
Thứ nhất, lao động cần cù, khoa học, sáng tạo, lao động với năng suất chất
Thứ hai, chăm lo thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí
Thứ ba, coi trọng lao động trí óc và lao động chân tay
Thứ tư, yêu quý lao động của mình và lao động của người khác.
Xã hội xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sản xuất ra ngày càng nhiều của cải
vật chất, do đó, người lao động phải lao động một cách nhiệt tình, sáng tao với
năng suất, chất lượng cao. Theo V.I.Lênin, chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ chỗ mà
những công nhân bình thường biết quan tâm với một tinh thần hy sinh và không
quản nặng nhọc đến việc nâng cao năng suất lao động. Đây là vấn đề mà
V.I.Lênin cho là quan trọng nhất, căn bản nhất cho thắng lợi của chế độ mới.
Khi so sánh nhiệm vụ chiến đấu để đánh đổ chế độ cũ với nhiệm vụ lao
động để xây dựng chế độ mới, V.I.Lênin cho rằng, nhiệm vụ thứ hai- nhiệm vụ
lao động để xây dựng xã hội mới- khó hơn nhiều vì nhiệm vụ này không thể giải
quyết nhất thời, một hành động nhất thời mà đòi hỏi phải có một tình cảm lâu dài
nhất, bền bỉ nhất, khó khăn nhất của công tác quần chúng hàng ngày.
Thái độ lao động tự giác có kỷ luật, lao động sáng tao thể hiện bản chất
con người lao động cho xã hội, cho mình mà mình làm chủ. Đạo đức của con
người trước hết được thẩm định bằng thái độ lao động, hiệu quả lao động, sự
đóng góp đối với xã hội, lời nói đi đôi với việc làm, động cơ và hiệu quả. Đạo
đức mới hoàn toàn xa lạ với kiểu lao động hình thức, tắc trách, kém hiệu quả, và
vụ lợi. Chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa trừu tượng đánh giá đạo đức con người
tách rời lý tưởng với hiện thực cần phải được phê phán.
3. Chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế.
Lòng yêu nước là tình cảm xã hội tự nhiên của con người với đất nước
mình(tổ quốc). Tổ quốc là một môi trường xã hội, chính trị và văn hoá trong đó
nhân dân sống. Lòng yêu nước là tình cảm đối với tổ quốc thể hiện ở sự tận tâm,
tận lực thực hiện nghĩa vụ của mình trước tổ quốc ở mọi lúc, mọi nơi. Lòng yêu
nước không phải là đặc trưng riêng của một dân tộc nào. Mỗi con người sinh ra
đều có cội nguồn, quê hương, đất nước, dân tộc của mình. Mọi người đều có
quyền yêu cội nguồn, quê hương, dân tộc,(ngôn ngữ, văn hoá, tập quán dân
tộc…) và đất nước mình. Đây là một thuộc tính tự nhiên có ý nghĩa phổ biến.
Gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn của mình, nơi ghi đậm những ấn tượng
vui buộc của tuỏi ấu thơ là một nét tình cảm và tâm lý phổ biến của con người.
Ai cũng có quê hương và luôn có tình yêu đối với quê hương mình. Do đó, dù
chốn quê hương có là đồng khô cỏ cháy, nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá,
nó vẫn có sức gợi nhớ, sức lay động những gì ẩn kín tận đáy tâm hồn của mỗi
người. Người nào cũng tìm thấy nét tự hào về quê hương mình. Song niềm tự
hào chính đáng nhất, cao cả nhất, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhất là niềm tự hào về
truyền thống dân tộc. Chính lòng tự hào dân tộc đem lại cho tình yêu tổ quốc
một nội dung phong phú, sâu sắc ở mỗi con người.
Một khi lòng yêu nước phát triển thành một triết lý nhân sinh, triết lý xã
hội, một lối sống, một trình độ nhận thức sâu sắc và có hệ thống, chi phối một
cách có ý thức mọi hành vi và ứng xử của con người thì trở thành chủ nghĩa yêu
nước. Nó bao hàm cả tư tưởng và tình cảm yêu nước, vừa là nguyên tắc đạo đức,
Chủ nghĩa yêu nước là tình yêu đối với đất nước, lòng trung thành với tổ
quốc và khát vọng phục vụ những lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Thực chất của
chủ nghĩa yêu nước, như V.I. Lênin nhấn mạnh, “ là một trong những tình cảm
sâu sắc nhất, đã được củng cố qua hàng trăm hàng ngàn năm tồn tại của các tổ
Chủ nghĩa yêu nước có quá trình phát triển lâu dài, có tính lịch sử và trong
xã hội có giai cấp nó mang tính giai cấp. Yêu nước theo quan niệm của giai cấp
phong kiến là trung tâm (trung với vua), yêu nước theo quan niệm của giai cấp tư
sản là yêu chế độ tư bản. Chủ nghĩa yêu nước tư sản chứa đựng trong lòng nó
tính bản vị dân tộc và tham vóng thống trị các dân tộc khác, phục vụ cho lợi ích
của giai cấp tư sản. Chính vì thế, cái gọi là lợi ích dân tộc mà giai cấp tư sản vẫn
thường tuyên truyền về thực chất chỉ là lợi ích riêng, ích kỷ của bản thân giai cấp
tư sản. Yêu nước trên lập trường giai cấp công nhân khác hẳn về chất với quan
niện của giâi cấp bóc lột. Nội dung của nó được thể hiện như sau:
Một là, yêu nước là yêu nước xã hội chủ nghĩa, yêu nhân dân lao động. Tổ
uốc xã hội chủ nghĩa là tổ quốc của nhân dân, chứ không phải là tài sản của riêng
cá nhân nào. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là thành quả đấu tranh cách mạng cảu
toàn dân, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là nhà nước đại diện cho sự
công bằng và văn minh nhất. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa và lý tưởng dân tộc là
thống nhất. Yêu nước xã hội chủ nghĩa là lòng tự hào đan tộc, lòng tự hào về sức
sáng tạo trong lao động sản xuất, lòng tự hào về những gương anh hùng bất
khuất bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân, là tinh thần xả thân vì sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của tổ quốc. Như vậy, chủ nghĩa yêu
nước của giai cấp công nhân luôn gắn liền với lợi ích của nhân dân lao động, gắn
liền với mục đích giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi áp bức bóc lột, không
ngừng phát triển kinh tế-xã hội, văn hoá, làm cho người lao động làm chủ thực
sự đất nước.
Hai là, yêu nước trên lập trường chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân biều hiệnbản chất tốt đẹp của giai cấp
công nhân nhằm đoàn kết, giúp đỡ, và giải phóng nhân dân lao động toàn thế
giới khỏi mọi xiềng xích áp bức bóc lột của kẻ thống trị. Thực tế lịch sử cho
thấy, vấn đề dân tộc và giai cấp, dân tộc và quôc tế có quan hệ hữu cơ không thể
tách rời. Muốn hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc phải làm tốt nhiệm vụ
quốc tế. Đồng thời, làm nhiệm vụ quốc tế cũng là để góp phần thúc đẩy sự
nghiêp cách mạng dân tộc. Sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
trở thành một nguyên tắc của việc xây dựng đạo đức mới. Ở đây cần chú ý các
vấn đề sau:
Thứ nhất, cần chống quan điểm của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và các quan
điểm đạo đức khác trái với đạo đức mới. Nếu chỉ yêu tổ quốc minh, chỉ biết lợi
ích của dân tộc mình mà lại thờ ơ với lợi ích của các đân tộc khác, coi thường,
miệt thị các dân tộc khác là trái với bản chất của đạo đức mới. Cho nên, trong
khi bảo vệ độc lập về lãnh thổ, kinh tế, chính trị và văn hoá của dân tộc mình, thì
cũng phải trân trọng dân tộc khác, trân trọng nền độc lập của họ. Đòi hỏi này
nhằm chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa nước lớn, chủ nghĩa chủng tộc,
chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức và tạo nên sự bình đẳng dân tộc mà thực
chất là bình đẳng giữa những người lao động sống ở những quốc gia khác nhau.
Thứ hai, nếu người nào chỉ biết đến những lợi ích của dân tộc hẹp hòi và
xem xét chũng tách rời khỏi những lợi ích xã hội-chính trị của những dân tộc
khác, thì người ấy không thể là một người yêu nước. Cho nên, kết hợp chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chính là yêu tổ quốc, nhân dân mình đồng thời
yêu nhân dân lao động các dân tộc khác. Nếu không yêu nhân dân mình, không
quý trọng văn hoá và truyền thống của nhân đan mình thì không biết tôn trọng
đúng đắn nhân dân lao động nước khác. Yêu nhân dân lao dộng các nước khác
thể hiện ở thái độ trân trọng những tinh hoa trong văn hoá của họ và tiếp thu
những tinh hoa ấy để làm phong phú nền văn hoá của dân tộc mình, chống lại
mọi thành kiến dân tộc, kỳ thị và phân biệt chủng tộc.
Thứ ba, lao động, chiên đấu, hoạt động với tinh thần đạo đức cộng sản để
bảo vệ, xây dựng tổ quốc mình và tôn trọng lợi ích chính đáng của các dân tộc,
chăm lo củng cố tình hữu nghị giữa nhân dân các nước, tích cực đoàn kết, ủng hộ
và giúp đỡ đối với phong trào công nhân, phong trào cộng sản và phong trào giải
Thứ tư, chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa dân tộc tư sản là hai thế
giới quan đối lập nhau, là hai chính sách trái ngược nhau về vấn đề dân tộc.
Đồng thời, đó cũng là hai nguyên tắc đạo đức đối lập giữa dân tộc này với dân
tộc khác và giữa nhân dân các nước. Nếu nguyên tắc dân tộc chủ nghĩa tuyên
truyền tính biệt lập và tính đặc thù đan tộc của một số dân tộc nào đó, sự ngờ vực
các dân tộc khác và sự thù địch giữa các dân tộc với nhau… thì nguyên tắc chru
nghĩa quốc tế vô sản đặt cơ sở cho những quan hệ liên quốc gia của các nước xã
hội chủ nghĩa, cũng như những quan hệ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa
với những người lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, với các dân tộc đang đấu
Chủ nghĩa nhân đạo có nghĩa là thuộc về con người, về tính người, có học
thức. Thái độ tốt và tình yêu với ngưòi lao động, đối vớ người lương thiện, và
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu tư tưởng cảu thời đại
phục hưng, gắn với việc nghiên cứu các di sản cổ đại trong triết học luân lý học,
nghệ thuật và mô tả đặc điểm của nền văn hoá thời kỳ phục hưng.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa nhân đạo là một trào lưu xã hội tiến bộ, là
tổng hợp những quan điểm nhằm bảo vệ phẩm giá, bảo vệ sự tự do và sự phát
triển toàn diện, bảo vệ tính người của các quan hệ xã hội.
Trước C.Mác, tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa đã hình thành 2 xu hướng
Thứ nhất, chủ nghĩa nhân đạo cảu các nhà tư sản tiến bộ thế kỷ XVII-
XVIII dựa trên cơ sở vật chất là chế độ tư hữu, cơ sở đạo đức là chủ nghĩa cá
nhân. Xu hướng này biều hiện lợi ích và hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang
Thứ hai, gắn với chủ nghĩa xã hội không tưởng là chủ nghĩa nhân đạo biểu
hiện lợi ích củ những người lao động, những người nông dân, công nhân, kể cả
giai cấp bình dân thành thị. Họ chống lại hệ tư tưởng phong kiến và giáo quyền,
bảo vệ lợi ích cá nhân. Nhưng trọng tâm của họ là vấn đề các hình thức giao tiếp
và liên hệ giữa ngườ với người. Họ phê phán mọi khuynh hướng phản nhân đạo
của xã hội, chỉ trích những khuyết tật của chính xã hội hiện tồn, đề ra yêu cầu
của mọi người bình đẳng về tài sản, đòi lập một chế độ xã hội công bằng.
Hai khuynh hướng này tuy có khác nhau nhưng quan hệ với nhau, đều
chống phong kiến, chống giáo hội. Song cả hai khuynh hưóng đều có nhược
điểm chung là trừu tượng, kêu gọi tình thương chung chung và không thể thực
Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển xã hội của loài người, chủ nghĩa tư
bản đã tạo được những tiền đề vật chất để phát triển đạo đức của con người bằng
cách hướng đến mục tiêu giải phóng con người. Nhưng, để thực hiện mục tiêu
đó, giai cấp tư sản đã lựa chọn hình thức bóc lột các giá trị thặng dư, quốc tế hoá
sự bóc lột đó bằng các cuộc đấu tranh, thiết lập chủ nghĩa thực dân trên toàn thế
giới. Kết quả là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản ở trong
Sự mâu thuẫn gay gắt toàn diện trong thế giới con người theo cách thức
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa còn tao ra hội chứng vô
đạo đức trầm trọng hơn khi các quan hệ tư bản chủ nghĩa làm bần cùng hoá
nhiều tần lớp xã hội khác, làm cho con người không còn tin tưởng lẫn nhau. Có
thể nó mâu thuẫn toàn diện trong thế giới con người dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo
tiền đề để con người tìm được mục tiêu phát triển đạo đức bằng phương thức sản
xuất xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Để giải phóng con người khỏi những hạn chế đạo đức tư sản, để thiết lập
lại các giá trị đạo đức mới trong thế giới con người, suốt cả thế kỷ XX, nhân loại
đã tiến hành các cuộc đấu tranh rộng lớn giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Các phong trào ấy bao chứa các giải pháp đạo đức của mục tiêu xoá bỏ các hạn
chế tư sản để thiết lập các giá trị đạo đức mới. Mục tiêu của giải phóng giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội có nội dung xuyên suốt là giải phóng con
người.
Cuộc giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội trong thời
đại ngày nay có nội dung đạo đức là giải phóng và phát triển toàn diện con
người. Ba cuộc giải phong đó gắn chặt với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Chỉ có chủ nghĩa xã hội với có thể khắc phục được các hạn chế của đạo đức tư
sản trong hành trình con người tìm kiếm mục tiêu văn hoá nhân đạo cho sự phát
triển xã hội. Chỉ có chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa cộng sản mới có điều
kiện phát huy toàn diện năng lực bản chất của con người, tự do, nhu cầu, khát
Đối lập với chủ nghĩa nhân đạo tư sản là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản la sự kế thừa và phát triển những tinh hoa lý tưởng
nhân đạo trong lịch sử nhân loại. Đây là chủ nghĩa nhân đạo có tính chất hiện
thực và trực tiếp nhằm vào hoạt động, nhằm giải phóng con người chứ không
phải chỉ là những cảm nhận thương xót về thân phận con người.
Như vậy xét về bản chất, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản là lý tưởng nhân
đạo triệt để là giải pháp thực tế nhất, biến mong ước nhân đạo thành hiện thực
phổ biến, tạo lập điều kiện xoá bỏ tận gốc mọi hình thức áp bức, bóc lột và nô
dịch người lao động. Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa nhân đạo triệt để nhất, là
Chủ nghĩa nhân đạo mácxít đề cập tình yêu thương con người lao động,
chứ không nói đến sự cảm thông và tình yêu đối với con người nói chung, không
kể người tốt hay xấu. Đồng thời, chủ nghĩa nhân đạo mácxít tỏ rõ thái độ phẫn
nộ với những thế lực đối địch của người lao động. Chủ nghĩa nhân đạo mácxít
với sự công minh khuyến khích tạo điều kiện cho cái tốt phát triển, phê phán,
trừng trị, loại bỏ cái xấu. Chủ nghĩa nhân đạo ở đây mang tính lích sử cụ thể,
nghĩa là mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp đều đưa vào chủ nghĩa nhận đạo
CHƯƠNG II
HIỆN NAY
I. Những nguyên tắc đạo đức mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh nêu lên những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới trong xã hội
và chính Người đã suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục, động viên cán
- Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi
trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên... là rất quan trọng. Người
yêu cầu, cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em, ông bà làm
gương cho con cháu, lãnh đạo làm gương cho cán bộ, nhân viên...
- Đảng viên phải làm gương trước quần chúng. Người nói: “Trước mặt quần
chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn
nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước” .
- Cùng với việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất
thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu xa, trái với những yêu
cầu của đạo đức mới, đó là "chủ nghĩa cá nhân". Xây đi đôi với chống là muốn
xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
- Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành bằng giáo dục, từ gia đình
đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội. Những phẩm chất chung nhất phải được
cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các
phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã
hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải khơi dậy ý thức đạo đức lành
mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và tự giác thực hiện.
- Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết phải chống chủ nghĩa
cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
- Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào
quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động
cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền,
- Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ mới thành. Người viết: “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” .
- Phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức suốt đời. Người dạy: “Một dân tộc, một đảng
và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
- Tự rèn luyện có vai trò rất quan trọng. Người khẳng định, đã là người thì ai
cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình.
Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con người mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc;
thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để
khắc phục. Tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn,
trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng, trong mọi mối quan hệ của
mình.
II. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam và phương Đông,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới.
- Trung với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước, giữ nước, phát
triển đất nước, làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu". Nước là
của dân, dân là chủ đất nước, trung với nước là trung với dân, vì lợi ích của nhân
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 29 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”...
- Hiếu với dân nghĩa là cán bộ đảng, cán bộ nhà nước “vừa là người lãnh đạo,
- Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng.
Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng,
với nhân dân”, và hơn nữa, phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
- Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy
dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện dân
sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của người làm
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân thể hiện quan điểm của
Người về mối quan hệ và nghĩa vụ của mỗi cá nhân với cộng đồng, đất nước.
Yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Hồ Chí Minh coi yêu thương con người là phẩm chất
đạo đức cao đẹp nhất. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân
- Tình yêu thương con người thể hiện trước hết là tình thương yêu với đại đa số
nhân dân, những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo
khổ, bị áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức
mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có
- Thương yêu con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm
khắc; với người thì khoan dung, độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả
với những người lầm đường, lạc lối, mắc sai lầm, khuyết điểm.
- Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, tốt đẹp hơn.
Vì vậy, phải thực hiện phê bình, tự phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
- Yêu thương con người phải biết và dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con
người.
Đối với những người cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin để thương yêu nhau hơn. Người viết: "Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không
có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được"
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là nền tảng của đời sống mới, là phẩm
chất trung tâm của đạo đức cách mạng trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh,
- Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con người,
như trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng
suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại,
không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không
hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức...”.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác.
+ Liêm là trong sạch, là “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không
xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”; “không tham địa
vị, không tham tiền tài..., không tham tâng bốc mình...”.
+ Chính là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự
cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công
lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ
được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”.
Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.
- Chí công là rất mực công bằng, công tâm; vô tư là không được có lòng riêng,
thiên tư, thiên vị "tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán", đem lòng chí công, vô tư
đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước,
khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn
"chí công, vô tư" phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người "giữ cán cân công lý", không được
- Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư,
một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm,
liêm, chính.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan
niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người
là “người Việt Nam nhất” đồng thời là nhà văn hóa kiệt xuất của thế giới, anh
hùng giải phóng dân tộc, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh thể
- Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải
- Đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung,
- Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội.
- Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân
chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ
II. Vấn đề xây dựng đạo đức trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường
Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam là một mốc lịch sử quan
trọng đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện của nước ta, trong đó có sự đối mới
về kinh tế, cụ thể là sự đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu,
bao cấp sang cơ chế tự hạch toán kinh tế, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất đó là nền kinh tế thị trường, phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vừa cạnh tranh vừa hợp tác và bổ sung cho
nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, lấy thị trường làm đối tượng và căn
cứ quan trọng nhất để phát triển kinh tế.
Cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trong nhiều năm qua đã cho thây, nó
không nhưng không tạo ra được động lực cho sự phát triền kinh tế - xã hội, mà
còn tạo ra nhiều tiêu cực trong xã hội.
Kinh tế thị trường là một cơ chế kinh tế hoàn toàn khác, nó là yếu tố tích
cực thúc đẩy sự năng động và sáng tạo, cổ vũ sự canh tân và phát triển đất nước.
Song, nền kinh tế ấy cũng đã để lại cho chúng ta không ít những tiêu cực của xã
hội, trong đó có cả sự suy thoái đạo đức, mặc dù đó là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường đi liền với cuộc sống hối hả chạy đua, người giàu mải
miết làm ăn, tiền bạc có thể dư thừa nhưng thời gian dành cho gia đình, con cái
lại khan hiếm, sự giáo dục gia đình bị suy giảm, phó thác cho giáo dục nhà
trường và xã hội, người nghèo mải vật lộn kiếm sống, ít nghĩ đến nhân phẩm,
đạo đức.
Trong cơ chế thị trường, tiền bạc được dùng làm thước đo giá trị, người
nào kiếm được nhiều tiền thì càng được coi trọng, do vậy, nếu cha mẹ không
kiếm được nhiều tiền bằng con cái thì cũng rất khó dạy bảo con. Khi tiền bạc trở
thành mục tiêu của cuộc sống thì nhưng định hướng mục đích, lý tưởng của
thanh niên cũng bị phụ thuộc vào đồng tiền, sinh viên chỉ mong kiếm được
những việc làm, ngành nghề hấp dẫn, có thể giúp họ mau chóng trở nên giàu có,
những ngành nghề cao quý hoặc được xã hội trọng vọng nhưng không đưa lại
những cơ hội kiếm được nhiều tiền không còn hấp dẫn thế hệ trẻ...
Như vậy, có thể nói, ngoài vai trò tích cực, kinh tế thị trường còn là một
thách thức, một môi trường tiêu cực đối với đạo đức xã hội. Song, điều đó không
có nghĩa là chúng ta không chấp nhận nó. Kinh tế thị trường là yếu tế quan trọng
và cần thiết để xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ. Chúng ta phải biết thích
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 35 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
ứng với nó và vẫn có thể tìm được một thang giá trị mới cho việc xây đựng một
nền đạo đức tiến bộ. Đó là vấn đề mà chúng tôi muốn trao đổi trong bài viết này.
Theo quan điểm macxít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, một định
chế xã hội thực hiện các chức năng điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức là
những nguyên tắc sông, những quy phạm gắn liền và phù hợp và một hình thái
kinh tế xã hội nhất định, được hình thành từ những điều kiện sinh hoạt vật chất
của xã hội, nhung quy phạm, nguyên tắc, tiêu chuẩn, lý tưởng này có tính chất
nhất thời về lịch sử và mang tính giai cấp rõ rệt. Điều đó cũng có nghĩa rằng, con
người rút ra những quan niệm đạo đức từ chính những quan hệ thực tiễn đang
làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là những quan hệ kinh tế.
Khi phê phán Đuyrinh về sự thừa nhận có một thứ đạo đức vĩnh cửu cho
mọi thời đại thừa nhận những nguyên tắc đạo đức đứng trên lịch sử và trên cả
nhưng sự khác biệt hiện nay về tính cách dân tộc", Ph.Ăngghen đã khẳng định:
"Xét cho đến cùng mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản
phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ", và do vậy "từ dân tộc này
sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác, nhưng quan niệm về thiện
và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”.
Nhấn mạnh quan điểm này, chúng tôi xin lưu ý một vấn đề. Đó là: Nếu
không nhận thức được sự biến đổi của những giá trị đạo đức qua các thời đại lịch
sứ mà cứ khư khư giữ lấy những giá trị đạo đức cũ, chắc chắn chúng ta sẽ trở
nên lỗi thời, lạc lõng và nhiều khi còn trở nên phi đạo đức trong xã hội mới.
Trong xã hội phong kiến, sự bất bình đẳng nam nữ thường được biện hộ
về mặt đạo đức bằng nguyên lý tam tòng tứ đức, người phụ nữ phải thủ tiết thờ
chồng nếu người chồng qua đời, việc tái giá bị xem như một điều phi đạo đức.
Những nguyên lý đạo đức đó cho thấy bản chất của hình thức sở hữu và chiếm
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 36 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
đoạt thản xác, cho thấy nguyên tắc phục tùng thứ bậc. Rằng những chuẩn mực
đạo đức đó được sinh ra chỉ nhằm điều chỉnh hành vi con người theo một thiết
chế xã hôi hà khắc.
Ngày nay, đạo đức xã hội không những không lên án hành vi tái giá của
người phụ nữ, mà còn không coi giá trị đạo đức của người phụ nữ là ở sự phục
tùng và thủ tiết ấy, thậm chí xem nó như một thứ nhân sinh quan hủ bại, ích kỷ
và phản nhân đạo. Các quan niệm về hiếu, đễ và nhiều giá trị đạo đức khác trong
xã hội cũ đã có sự thay đổi. Song, điều đó không có nghĩa là chúng ta phủ nhận
hoàn toàn mọi giá trị đạo đức trong xã hội cũ, cũng không có nghĩa là ngày nay,
đó không còn buộc phải tuân theo những quy phạm, nguyên lý đạo đức đó mà có
thể nói là đạo đức xã hội bị tha hoá.
Những giá trị đạo đức của xã hội cũ nhưng có giá trị tích cực thì trong
điều kiện mới, vẫn có tác đụng thúc đẩy lịch sử, ngược lại, những giá trị đạo đức
hủ bại mà ta lại cố níu giữ, sẽ kìm hăm, trói buộc, cản trở sự đi lên của xã hội.
Song, mọi giá trĩ đạo đức cũ không biến đi một cách tự động khi cơ sở kinh tế
thay đối, vì nhưng giá trị đó được hình thành và phát triển trong một quá trình
lâu dài và đã trở thành thói quen của con người, thậm chí những ý thức đạo đức
đó đã ăn sâu trong tâm thức con người và trong tập quán xã hội mà nhiều khi,
những hành vi thể hiện ý thức đạo đức ấy chỉ như một hành động vô thức của
con người. Do vậy, chúng ta cần phân tích và nhìn nhận một cách khoa học để
phân biệt đúng, sai và để xây dựng những giá trị đạo đức mới, phù hợp và thích
ứng với điều kiện nền kinh tế thị trường.
Mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, mật thiết.
Mỗi một cơ chế kinh tế mới đều trở thành yếu tố làm nảy sinh những hành vi đạo
đức của con người, hay có thể nói, trở thành điều kiện cho những lối sống, phong
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 37 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
tục, tập quán xa lạ xâm nhập vào. Do vậy, để có thể xây dựng được những giá trị
đạo đức tích cực, phù hợp và thích ứng với điều kiện mới thì vấn đề quan trọng
là chúng ta phải tạo ra những "điều kiện mới" cho việc nảy sinh những hành vi
đạo đức tích cực. Chẳng hạn, ngày nay, việc thoả mãn những nhu cầu tinh thần
của con người bằng những phương tiện văn hoá - kỹ thuật tại nhà đã làm giảm
hình thức sinh hoạt tập thể, giao tiếp xã hội trong việc sử dụng thời gian nhàn
rỗi. Việc hình thành các chung cư khép kín thay cho các ngôi nhà riêng và làng
mạc đã sản sinh ra mối quan hệ láng giềng theo kiểu nhà nào biết nhà ấy. Ở đâu
không có những lý tưởng xã hội cao cả, không có tầm rộng của sự giao tiếp thì ở
đó sẽ nảy nở chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, thờ ơ với những gì xung quanh mình và
những gì đang xảy ra với mọi người. Khắc phục tình trạng đó, chúng ta cần tăng
cường xây dựng mô hình sinh hoạt tập thể dưới nhiều hình thức, như mở ra các
câu lạc bộ để tăng cường giáo dục tính tập thể, tình cảm cộng đồng, tính trách
nhiệm, sự quan tâm, giúp đỡ đối với những người xung quanh và trong việc xây
dựng đô thị bắt buộc phải có những giải pháp đáp ứng được yêu cầu phải có
những hình thức liên kết cộng đồng trong phạm vi ở, nghỉ ngơi, tiêu dùng và
sinh hoạt xã hội.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, đời sống vật chất của con
người ngày một nâng cao và theo đó, cũng xuất hiện những điều kiện "thuận lợi"
cho sự "thăng tiến" về đạo đức và tinh thần của con người theo hướng "phú quý
sinh lễ nghĩa cùng với khả năng nảy sinh những giá trị đạo đức tiêu cực. Khi đời
sống vật chất được nâng cao, ở con người để nảy sinh tâm trạng hưởng thụ, tham
lam, làm giàu bằng mọi thủ đoạn... Do vậy, khả năng phát triển đạo đức theo xu
hướng tích cực mà chúng ta nói trên không phải tự nhiên mà có hay được thực
hiện một cách tự động, mà cần phải đấu tranh với những thói hư tật xấu bằng
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 38 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
hình thức pháp luật, bắt mọi cá nhân đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về hành vi đạo đức của mình. Trong nền kinh tế thị trường, mọi mệnh lệnh hành
chính cùng với những lời hô hào đạo đức chung chung đều trở nên vô tác đụng.
Thực tiễn đã cho thây, ngày nay, chứ toà án dư luận không còn uy thế trong xã
hội, ở đâu có sự buông lơi về pháp luật đối với những hành vi vi phạm đạo đức,
vi phạm thuần phong mỹ tục thì ớ đó, các hiện tượng tiêu cực càng tăng lên.
Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đạo đức trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường nhải là sự kết hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức và thi hành luật
pháp. Nếu chỉ áp dụng thuần tuý phương pháp giáo dục, tuyên truyền sẽ không
thắng nổi sức mạnh của tập quán, của sự thờ ơ, coi thường và phớt lờ dư luận.
Nếu không dựa vào những biện pháp pháp luật sẽ không tác động được đến ý
thức công dân, đến lối suy nghĩ của con người trong quá trình xây dựng những
giá trị đạo đức mới và đấu tranh với những hành vi đạo đức đối lập được sinh ra
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, giáo dục đạo đức, giáo
dục văn hoá giao tiếp để làm cho mỗi con người đều phải tuân thủ những chuẩn
mực và quy tắc đạo đức mời một cách tự nhiên và dần dần trở thành thói quen,
trở thành một nhu cầu tinh thần là yếu tố không kém phần quan trọng.
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức của con người,
chúng ta cần quan tâm đến giáo dục đạo đức trong gia đình, trường học và tập
thể lao động. Mỗi một môi trường giáo dục đó thực hiện một chức năng giáo đục
khác nhau và đều cần phải quan tâm đến những yếu tố như tâm lý học lứa tuổi,
tâm lý học cá nhân (nhân cách), trình độ học vấn môi trường lao động và học
tập… bởi tất cả những yếu tố đó đều có tác dụng với những mức độ khác nhau
tới việc hình thành hành vi đạo đức của con người. Ở đây, môi trường xã hội có
tác động lớn đến hành vi đạo đức cá nhân, nhưng môi trường xã hội chỉ có thể
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 39 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
quy định những khả năng khác nhau của hành vi con người, còn việc cá nhân đó
lựa chọn khả năng nào, hành vi nào là hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức chủ quan,
ý chí cá nhân, như C.Mác đã khẳng định, "chính những cơn người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản .thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Do vậy, để
sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới thu được những kết quả như mong muốn
thì việc nâng cao trình độ văn hoá của con người, tăng cường giáo dục con người
là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành hành vi đạo đức tích cực cho
phép cá nhân có được những đánh giá toàn diện về tình huống, nhìn thấy trước
hậu quả của hành vi, lựa chọn phương thức xây dựng chính kiến đạo đức và tinh
thần kiên định đạo đức cho mình.
Cùng với đó, chúng ta phải thường xuyên quan tâm tới việc tăng cường áp
lực xã hội, sự phản ứng của xã hội đối với những hành vi đạo đức cá nhân, hay
nói cách khác, đó chính là toà án dư luận. Sự phản ứng, chê trách, trừng phạt,
khen ngợi hay ủng hộ của xã hội trượt hành vi đạo đức của cá nhân sẽ đẩy quá
trinh hình thành nhân cách đạo đức theo hướng tích cực giúp cho cá nhân đó có
được những đinh hướng đúng trong quá trình tự hoàn thiện nhân cách đạo đức.
Bởi lẽ, đạo đức là một định chế xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi
của con người, nhưng khác với các hình thức điều chỉnh hoạt động của con
người bằng pháp quyền, bằng nhưng quy chế hành chính hay những sắc lệnh nhà
nước, những nguyên tắc của đạo đức được hình thành một cách tự phát, được
củng cố bằng tấm gương, bằng thói quen, phong tục, dư luận xã hội. Những yêu
cầu của đạo đức mang hình thức bổn phận phải làm, không chịu sự ra lệnh,
cương bức của ai cả. Do đó, áp lực xã hội toà án dư luận có vai trò như những
yếu tố khách quan tác động lên ý thức, ương tâm của chủ thể hành động để họ
lĩnh hội, phán đoán, tự nhận định về ý nghĩa xã hội của những nguyên tắc đạo
Häc viªn: §Æng ThÞ Minh Th¶o
- 40 -
TIÓU LUËN TRIÕT HäC
đức và đưa họ đến chỗ tụ nguyện thực hiện những nguyên lý đạo đức xã hội, tự
điều chỉnh hành vi của mình.
Nói tóm lại, việc đẩy nhanh sự phát triển và tiến bộ của xã hội đã đặt ra
trước chúng ta một vấn đề gay gắt là làm sao khắc phục được sự tha hoá của con
người do nhưng cơ cấu xã hội sinh ra. Theo chúng tôi, mọi tiến bộ của xã hội
loài người không tách rời tiến bộ của ý thức đạo đức và có thể nói, tính đạo đức
là phương tiện nâng loài người lên cao nếu không muốn nói nó là lực lượng thứ
nhất, bởi tiến bộ đạo đức không tỷ lệ thuận với tiến bộ trí tuệ và vật chất. Xã hội
giàu có, văn minh không đồng nhất với xã hội có đạo đức, người giàu có, người
thông minh không có nghĩa là người tốt, người có đạo đức.
Với ý nghĩa đó, trong thế giới năng động và biến đổi hiện nay, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
và sự phong phú về đời sống vật chất, con người càng không thể để rơi vào trạng
thái đạo đức tiêu cực được nảy sinh từ cơ cấu kinh tế - xã hội hiện đại, để mất đi
nhân cách chân chính của mình với một ý thức tự hào mình là Con người. Chúng
ta cần phải chủ động tìm ra lối thoát khỏi tình huống đó, chủ động xây dựng
những điều kiện mới cho sự nảy sinh những giá trị đạo đức tốt đẹp, phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội hiện đại, phân tích và nhìn nhận một cách khoa học
những giá trị đạo đức cũ để phân biệt đúng, sai và kế thừa nó trong quá trình xây
dựng những giá trị đạo đức mới, phù hợp vả thích ứng với điều kiện của nền
kinh tế thị trường. Chỉ có trên cơ sở kết hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức
với thi hành luật pháp, tăng cường áp lực xã hội đối với những hành vi đạo đức
cá nhân, chúng ta mới có thể vượt qua những thách thức, những hậu quả tiêu cực
của nền kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội.
III. Những phẩm chất đạo đức cần thiết của con người Việt Nam hiện nay
Xây dựng những phẩm chất đạo đức mới của con người Việt Nam hiện đại
là một nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam và của Đảng ta. Điều trước hết
là phải xác định những phẩm chất đạo đức cần thiết của con ngưòi Việt Nam
hiện nay. Ở đây, cần vừa phải có sự kế thừa những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
của dân tộc, vừa xây dựng những phẩm chất, năng lực phù hợp với giai đoạn
cách mạng mới. Những phẩm chất, năng lực này đảm bảo cho người Việt Nam
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong thời đại mới.
Tại hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Tung ương Khoá VIII, Đảng ta
đã xác định nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với
Một là, “ có tinh thần yeu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc
Lòng yêu nước là một phẩm chất cơ bản của đạo đức mới. Đó cũng là một
trong những tình cảm thiêng liêng nhất của người Việt Nam từ xưa đến nay.
Song, cái mới trong phẩm chất đạo đức này là ở chỗ lòng yêu nước của người
Việt Nam hiện nay không phải trên lập trường của giai cấp công nhân-giai cấp
đứng ở vị trí trung tâm của thời đại. Chỉ có giai cấp công nhân mới là đại diện
chân chính cho những lợi ích của tổ quốc, của nhân loại. Yêu nước ngày này
phải là yêu nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động mới có thể được giải
phóng khỏi mọi ách áp bức bóc lột, có cuộc sống thật sự ấm no, tự do, hạnh
phúc.
Yêu nước ngày nay luôn gắn liền với tinh thần quốc tế của giai cấp công
nhân. Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là biểu hiện bản chất tốt đẹp của
giai cấp công nhân nhằm đoàn kết giúp đỡ và giải phóng nhân dân lao độngtoàn
thế giới khỏi mọi xiềng xích bóc lột của các giai cấp thống trị
Hai là, “ có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung”.
- Đây là một phẩm chất đạo đức mới có cội nguốn sâu xa từ truyền thống
đạo đức của người Việt Nam, những người vốn có tính cộng đồng, đòan kết cao
vì lợi ích chung. Tính cồng dồng và đoàn kết rất cao sẽ dẫn đến hình thành chủ
nghĩa tập thể, đối lập với chủ nghĩa cá nhân. Tính tập thể là một đức tình cần
thiết tất yếu có của con người Việt Nam trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Với đức tính tập thể, mỗi con người đều có điều kiện và khả năng để phát
triển toàn diện cả về đạo đức, tài năng, nhân cách và cùng được hưởng tự do
hạnh phúc.
Ba là, “ có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng, có ý thức
Tính trung thực là một phẩm chất cao quý cần thiết cho mỗi người. Trung
thực là tôn trọng lẽ phải, sự thật và chân lý trong các quan hệ xã hội, dũng cảm
đấu tranh cho cái thiện, cái mới, cái tốt đẹp. Đó là thái độ khách quan, dám nhìn
thẳng vào sự thật, dám nói thẳng, nói thật, dám đấu tranh cho sự thật, thực hiện
tốt nghĩa vụ của bản thân đối với xã hội. Trung thực đối lập với sự dối trá, thói
Bốn là, “ lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội”.
Lao động chăm chỉ kích thích tư duy sáng tạo, chăm chỉ của con người.
Qua lao động chăm chỉ mỗi con người càng hoàn thiện về trí tuệ, tình cảm và
đạo đức. Trong thời đại khoa học- kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, người
lao động cần phải học tập, rèn luyện không ngừng đê có được kỹ năng nghề
nghiệp và trình độ cao cùng với những hiểu biết mới về khoa học kỹ thuât, văn
Năm là, “ thường xuyên học tập nâng cao hiểu biêt, trình độ chuyên môn,
Người Việt Nam vốn hiếu học. Ngày nay đức tính đó càng phải được phát
huy cao hơn nữa, học tập không ngừng, không nghỉ, là một trong những đức tính
cần thiết cho con người hiện đại. Càng ngày học tập càng có vai trò quan trọng
đối với nhân cách mỗi con người cũng như đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia và cả xã hội loài người. Đối với nước ta hiện nay, để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước thì học tập phải trở thành nhu cầu bức xúc, trách
Năm tiêu chuẩn của con người mới Việt Nam do Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương khoá VIII nêu ra chính là năm chuẩn mực giá trị con
người Việt Nam hiện đại. Những chuẩn mực đó có giá trị định hướng cho tất cả
mọi người dân Việt Nam phân đấu tờ thành những công dân tốt. Nhưng chuẩn
mực đó có vai trò làm chuẩn để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, là chỗ dựa
để đánh giá, xây dựng tư tưởng, đạo đức và lối sống đạo đức của mỗi con người
trong gia đình, cũng như trong tập thể và ngoài xã hội.