Professional Documents
Culture Documents
Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, đất nước từng bước tiến lên CNXH, đi đôi với việc củng cố, hoàn
thiện QHSX tiên tiến, chúng ta nhất thiết phải phát triển LLSX với năng
suất lao động xã hội ngày càng cao. Không có LLSX hùng hậu với năng
suất lao động xã hội cao thì không thể nói đến CNXH. Mà muốn có
LLSX hùng hậu và năng suất lao động cao thì không thể chỉ dựa vào
nông nghiệp sử dụng lao động thủ công, trái lại phải phát triển mạnh
công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Nói cách khác chúng ta phải tiến hành CNH, HĐH với
phát triển kinh tế tri thức.
B. LÍ LUẬN.
I. Một số khái niệm.
1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế- xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển cao của công nghiệp và sự tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao hơn.
Nó bao gồm 2 nội dung:
- Trang bị kĩ thuật – công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp và các
ngành khác của nền kinh tế quốc dân.
- Tạo lập cơ cấu kinh tế mới mà nòng cốt là cơ cấu công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ hiện đại.
2. Kinh tế tri thức.
a. Khái niệm.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm năm
1995: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử
dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải nâng cao chất lượng cuộc sống”.
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức.
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự
phát triển chưa từng thấy của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội
ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc
hậu. Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ
thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp
phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu
mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều
giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn,
giảm bớt việc khai thác các nguồn tài nguyên hiện hữu.
- KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
KTTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử
dụng công nghệ cao. Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển
của toàn bộ nền kinh tế.
Nó thúc đẩy công nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách
mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học.
- Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng gia tăng hàm lượng khoa
học – kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng
giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại,
tiền tệ… với nhiều hình thức phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời
sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn.
c. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức
- Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất
trong các sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám,
lao động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản
phẩm.
Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là
tri thức. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của
xã hội, thay vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng
tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành.
Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là
thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế.
Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở
thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
- Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri
thức hóa, làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các
ngành đó mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế - kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất
trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất
yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội.
- Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho
năng xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm,
chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm
ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…
sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều
sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành,
có ảnh hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc
tế, đặc biệt giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự
tham gia đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin
sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên giới.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công
nghệ, nhất là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh
chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri
thức hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.
Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ
thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị
thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70%
GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao;
hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công nhân tri thức
trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người.
Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc
trưng của sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
II. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kì đổi mới.
1. Quá trình đổi mới tư duy về công nghiệp hoá.
a. Đại hội VI:
Đánh giá về quá trình CNH từ 1960 đến 1986.
- Sai lầm trong mục tiêu và bước đi: Quá ưu tiên cho công nghiệp
nặng.
- Bố trí cơ cấu kinh tế chua đạt hiệu quả và chưa hợp lý.
- Không thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Đại hội V: Vẫn chưa
thực sự coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, công nghiệp nặng không phục
vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
b. Quá trình đổi mới tư duy về CNH từ Đại hội VI đến Đại hội X:
Đại hội VI đưa ra 3 chương trình mục tiêu: Lương thực – thực phẩm,
hàng tiêu dung và hàng xuất khẩu.
Đại hội VII: gắn CNH với HĐH.
Đại hội VIII: nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới: Nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhiệm vụ chuẩn bị tiền đề cho CNH đã cơ
bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
Đại hội IX và Đại hội X Đảng ta tiếp tục bổ sung và nhấn mạnh một
số điểm mới về CNH:
- Con đường CNH: tiến hành CNH rút ngắn, đi tắt đón đầu, học hỏi
kinh nghiệm.
- Hướng CNH, HĐH ở nước ta: Phát triển nhanh và hiệu quả các sản
phẩm, các ngành, các lĩnh vực có lợi thế đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất
khẩu.
- Đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, tiến hành CNH trong nền kinh tế mở, hướng ngoại.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn hướng vào việc nâng
cao năng suất, chất lượng, sản phẩm nông nghiệp.
2. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng- an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Đại hội X của Đảng xác định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
3. Quan điểm công nghiệp hoá, hiện đai hoá.
- Một là, công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đã tiến hành công nghiệp
hóa. Khi đó công nghiệp hóa được biểu hiện là quá trình thay thế lao động
thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nhưng trong thời đại ngày nay. Ở
đại hội Đảng X đã nhận định: “khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy
vọt. kinh té tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực
lượng sản xuất”. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã tác động
sâu rộng tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh đó xu thế hội nhập
và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách
thức đối với đất nước. Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến
hành công nghiệp hóa theo kiểu rút ngắn thời gian khi biết lựa chọn con
đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Nước ta thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa khi trên thế giới kinh
tế tri thức đã phát triển. Chúng ta không cần thiết phải trải qua tất cả các
bước phát triển rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi thế của các nước
đi sau. Vì vây, đại hội X chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kinh tế tri thức (theo OECD): kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó
sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với
sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Trong
nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển
là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học,
công nghệ. Ví dụ như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao.
- Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.
Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiền hành trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do
đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không phải chỉ là công việc của nhà nước
mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó thành
phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Ở thời kỳ trước đổi mới phương
thức phân bổ nguồn lực để CNH được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch hóa
tập trung, còn ở thời kỳ đổi mới được thực hiện chủ yếu bằng cơ chế thị
trường. CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế thị trường không những khai
thác có hiệu quả mọi nguồn lực của nền kinh tế mà còn sử dụng chúng có
hiệu quả để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước. Bởi vì khi đầu tư vào
lĩnh vực nào, ở đâu, quy mô thế nào, công nghệ gì đều đòi hỏi phải tính toán
cân nhắc kỹ càng, hạn chế đầu tư tràn lan, sai mục đích, kém hiệu quả và
lãng phí thất thoát.
CNH, HĐH nền kinh tế nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công
nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác thị trường thế
giới để tiêu thụ các sản phẩm của nước ta… Sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng khó phát triển.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh, bền vững.
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chúng chỉ có tác dụng khi có
sự tác động của con người. Bởi lẽ con người là nguồn lực duy nhất biết tư
duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại
với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải
tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi
ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong
các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng
nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai
thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực
vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không
chỉ tái sinh mà còn tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng
phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và
khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực
tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận.
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể
hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Mục đích của quá trình CNH là nâng cao năng suất lao động, ứng
dụng khoa học công nghệ. Để thực hiện được phụ thuộc vào chất lượng của
nguồn nhân lực.
Con người là một trong hai yếu tố cần thiết của quá trình CNH. Nếu
không có con người thì quá trình CNH không diễn ra.
- Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất, năng cao lợi thế cạnh tranhvaf tốc độ phát triển
kinh tế nói chung. Nước ta tiến lên chủ nghĩatừ một nền kinh tế kém phát
triển và tiềm lực khoa học, công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh
quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức thì phát triển khoa
học công nghệ là tất yếu và bức xúc phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công
nghệ, mua sáng chế, kết hợp và phát triển công nghệ nội sinh nhất là công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng
kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng CNXH ở Việt Nam thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh. Xã hội công bằng dân chủ văn minh. Để thực hiện
mục tiêu đó, trước hất kinh tế phải phát triển nhanh hiệu quả và bền vững.
Chỉ có vậy mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng…
Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có mối quan hệ chặt chẽ với
bảo vệ môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Môi trường tự
nhiên và sự đa dạng sinh học là môi trường sống và hoạt động kinh tế của
con người. Bảo vệ môi trường tự nhiên chính là bảo vệ điều kiện sống của
con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền vững.
III. Nội dung và định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn
với phát triển kinh tế tri thức.
1. Vì sao phải kết hợp công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát
triển kinh tế tri thức.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau
ở mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng
mười ngàn năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời
tiết... tức là những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai,
lao động thủ công lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện
và phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy
móc cơ khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa
của kinh tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng
hơn nên tri thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm
năng phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm
ngày càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong
bối cảnh đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát
triển bùng nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng
phong phú về thế giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và
thuyết lượng tử. Lực lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực
chủ yếu là tri thức, tạo nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh
mà điển hình là máy tính điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một
hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức,
sự lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực
chủ yếu của tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các
ngành kinh tế. Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức
và tên gọi này hiện nay đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức
của Ngân hàng thế giới. Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ
yếu dựa vào nguồn lực tri thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn
chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là
động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất
và tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức
là một lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX,
dựa trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô,
dẫn tới sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy
móc thông minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức
năng chủ yếu của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất
phức tạp, biết thực hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số
việc..., đóng vai trò chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất
và trong các mạng thông tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri
thức sáng tạo trở thành nguồn lực của các công nghệ cao như: công nghệ
thông tin hoặc công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong đó công nghệ thông tin và truyền
thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ cao là cốt lõi của lực lượng
sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới đã thúc đẩy
hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế kỷ XX.
Như vậy, trong quá trình hình thành và phát triển cho thấy sự hình
thành và xuất hiện nền kinh tế tri thức là một tất yếu lịch sử mang tính khách
quan. Cũng như kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp, kinh tế tri thức
ra đời không phụ thuộc vào ý chí của một nhóm người nào, mà hoàn toàn
tuân theo quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử của xã hội loài người.
2. Nội dung.
- Phát triển mạnh các ngành, sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao
dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử dụng các nguồn vốn tri thức của con
người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi
bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh
tế - xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và
lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các
ngành, lĩnh vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
3. Định hướng.
a. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân:
Một là, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn:
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường.
- Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ: giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Hai là, quy hoạch phát triển nông thôn.
- Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới.
- Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
đồng bộ như thủy lợi, giao thông, điện, đường, trường, trạm…
- Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nền sống văn hóa
nâng cao trình độ dân trí.
Ba là, về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn.
- Chú trọng daỵ nghề, giải quyết việc làm cho nông dân
- Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là
ở vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo.
b. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
Đối với công nghiệp và xây dựng:
+ Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp
chế tác, công nghiệp phần mền và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh,
tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động.
+ Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dung.
+ Khẩn trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào một số dự án quan
trọng như về khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu…
Đối với dịch vụ: Tạo bước phát triển vượt bậc của ngành dịch vụ, nhất
là ngành dịch vụ có chất lượng cao, tiềm năng lơn và sức cạnh tranh, đưa tốc
độ tăng trưởng của ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
+ Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng một số ngành: vận tải,
thương mại, dịch vụ, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông…
+ Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ
công cộng...
c. Phát triển kinh tế vùng.
+ Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát
triển, đồng thời tạo sự liên kết giữa các vùng và nội vùng.
+ Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và
miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các
vùng này có đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển của đất nước.
d. Phát triển kinh tế biển.
+ Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có
trọng tâm, trọng điểm. Sớm đưa đất nước ta thành quốc gia mạnh về kinh tế
biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc
tế.
+ Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển,
vận tải biển, khai thác và chế biến dầu khí, hải sản, dịch vụ biển. Đẩy mạnh
ngành công nghiệp đóng tàu biển và công nghiệp khai thác, chế biến hải sản.