Professional Documents
Culture Documents
TS. Phạm Đắc Bi, KS. Lê Trọng Bằng, KS. Đỗ Anh Tú.
1. Mở đầu
Thế hệ máy phát số DVB-T ra đời đã khắc phục được các nhược điểm của thế hệ máy
phát tương tự như khả năng mang nhiều chương trình trong một kênh RF, hỗ trợ khả năng thu tín
hiệu đa đường và thu di động...
Về cấu trúc máy phát số DVB-T và máy phát hình tương tự giống nhau nhưng điểm khác
biệt là phần điều chế. Đã có nhiều tác giả viết về DVB-T dựa trên các quan điểm phân tích, đánh
giá khác nhau. Vì vậy bài viết này sẽ chỉ giới thiệu một cách tổng quát và cơ bản về phần điều
chế trong máy phát số DVB-T và các ưu nhược điểm của hệ phát này. Hình 1 biểu diễn sơ đồ
khối của bộ điều chế DVB-T
Chèn IF ⇒ Khuếch
Thích ứng Lọc Lọc
IFFT khoảng RF đại
khung FIR Band Pass
bảo vệ
ΨK (t ) = e jkω Ut
với ωu = 2π/ T , và điều kiện trực giao mà sóng mang phải thoả mãn là:
U
τ + TU
= TU , k = l
- Về ý nghĩa vật lý: khi giải điều chế tín hiệu cao tần này, bộ giải điều chế không nhìn
thấy các tín hiệu cao tần kia, kết quả là không bị các tín hiệu cao tần khác gây nhiễu.
- Về phương diện phổ: điểm phổ có năng lượng cao nhất của một sóng mang rơi vào
điểm bằng không của sóng mang khác. Vì các sóng mang được đặt rất gần nhau nên
tổng cộng dải phổ cũng chỉ như ở điều chế sóng mang đơn - nếu chúng được điều chế
với tất cả dữ liệu và sử dụng bộ lọc cắt đỉnh lý tưởng.
Có nhiều nguyên nhân gây ra sự suy giảm tính trực giao và do đó sẽ gây ra nhiễu tương
hỗ giữa các sóng mang (ICI). Chúng có thể là các lỗi xảy ra trong việc lấy mẫu tần số của máy
thu hay phase-noise trong các bộ tạo dao động nội. Tuy nhiên trong thực tế, những ảnh hưởng
này có thể được giữ ở mức giới hạn có thể chấp nhận được.
2.2. Biến đổi IFFT và điều chế tín hiệu
Kỹ thuật điều chế đa sóng mang phải sử dụng nhiều mạch điều chế cầu phương và các bộ
lọc nhưng chúng ta đã tránh được điều này dựa trên phép biến đổi FFT. Bản chất của quá trình
tạo tín hiệu OFDM là phân tích chuỗi bit đầu vào thành các sóng mang đã được điều chế theo
một kiểu nào đó trong miền thời gian liên tục. Tuỳ thuộc vào kiểu điều chế mỗi tổ hợp bit trong
chuỗi bit đầu vào được gán cho một tần số sóng mang, vì vậy mỗi sóng mang chỉ tải số lượng bit
cố định. Nhờ bộ định vị (Mapper) và điều chế M-QAM, sóng mang sau khi điều chế QAM là
một số phức và được xếp vào biểu đồ chòm sao theo quy luật mã Gray trên 2 trục Re (thực) và
Im(ảo). Vị trí của mỗi điểm tín hiệu (số phức) trên biểu đồ chòm sao phản ánh thông tin về biên
độ và pha của các sóng mang. Quá trình biến đổi IFFT sẽ biến đổi các số phức biễu diễn các
sóng mang trong miền tần số thành các số phức biểu diễn các sóng mang trong miền thời gian rời
rạc. Trong thực tế các thành phần Re và Im được biểu diễn bằng chuỗi nhị phân được bộ điều
chế IQ sử dụng để điều chế sóng mang cũng được biểu diễn bằng một chuỗi nhị phân. Chuỗi nhị
phân sau điều chế IQ được biến đổi DA để nhận được tín hiệu trong băng tần cơ bản.
Quá trình xử lý ở phía thu sẽ thực hiện biển đổi FFT để tạo các điểm điều chế phức của
từng sóng mang phụ trong symbol OFDM, sau khi giải định vị (Demapping) xác định biểu đồ bit
tương ứng các tổ hợp bit được cộng lại để khôi phục dòng dữ liệu đã truyền.
2.3. Lựa chọn điều chế cơ sở
Tại mỗi symbol, mỗi sóng mang sẽ được điều chế bởi một số phức lấy từ tập chòm sao.
Tuỳ thuộc vào kiểu điều chế cơ sở được chọn là QPSK, 16QAM hay 64QAM mỗi sóng mang sẽ
vận chuyển được số bit dữ liệu là 2, 4 hoặc 6 bit. Tuy nhiên với công suất phát cố định, khi có
nhiều bit dữ liệu trong một symbol thì các điểm trong chòm sao càng gần nhau hơn và khả năng
chống lỗi sẽ bị giảm. Do vậy cần có sự cân đối giữa tốc độ và mức độ lỗi.
Với mô hình điều chế không phân cấp luồng số liệu đầu vào được tách thành các nhóm
có số bit phụ thuộc vào kiểu điều chế cơ sở. Mỗi nhóm bit này mang thông tin về pha và biên độ
của sóng mang và tương ứng với một điểm trên biểu đồ chòm sao. Hình 3 biễu diển các chòm
sao của điều chế QPSK(4 QAM), 16-QAM và 64-QAM không phân cấp. Trong mô hình điều
chế phân cấp, hai luồng số liệu độc lập sẽ được truyền trong cùng một thời điểm. Luồng dữ liệu
có mức ưu tiên cao(HP) được điều chế QPSK và luồng có mức ưu tiên thấp được điều chế 16-
QAM hoặc 64-QAM.
64Q A M
000010
16Q A M
4Q A M 0010
00
Hình 3. Biễu diễn chòm sao của điều chế QPSK, 16-QAM và 64-QAM
Hình 4. Biễu diễn chòm sao của điều chế phân cấp 16-QAM với α = 4.
OFDM symbol
time
Channel
Bandwidth
y
enc
OFDM symbol sub-carriers
qu
fre
Hình 5: Phân bố sóng mang của DVB-T (chưa chèn khoảng bảo vệ)
Như vậy trong một symbol OFDM sẽ chứa:
- Các sóng mang dữ liệu (video, audio, ...) được điều chế M-QAM. Số lượng các sóng
mang dữ liệu này chỉ có 6048 với 8K, và 1512 với 2K.
- Các pilot (sóng mang) liên tục: bao gồm 177 pilot với 8K, và 45 pilot với 2K. Các pilot
này có vị trí cố định trong dải tần 8MHz và cố định trong biểu đồ chòm sao để đầu thu
sửa lỗi tần số, tự động điều chỉnh tần số (AFC) sửa lỗi pha.
- Các pilot (sóng mang) rời rạc (phân tán): bao gồm 524 pilot với 8K, và 131 pilot với
2K có vị trí cố định trong biểu đồ chòm sao. Chúng không có vị trí cố định trong miền
tần số, nhưng được trải đều trong dải thông 8MHz. Bên máy thu khi nhận được các
thông tin từ các pilot này sẽ tự động điều chỉnh để đạt được "đáp ứng kênh" tốt nhất và
thực hiện việc hiệu chỉnh (nếu cần).
- Khác với sóng mang các chương trình, các pilot không điều chế QAM, mà chỉ điều chế
BPSK với mức công suất lớn hơn 2,5 dB so với các sóng mang khác. Hình 6 biểu diễn
phân bố sóng mang pilot rời rạc và liên tục với múc công suất lớn hơn các sóng mang
dữ liệu 2,5 dB.
DVB-T Transmission Frame
Boosted pilot
time
Channel
Bandwidth
ncy
que
fre
Sóng mang
dữ liệu
Hình 7. Phân bố các pilot của DVB-T trên biểu đồ chòm sao
4. Chèn khoảng thời gian bảo vệ
Trong thực tế khi khoảng tổ hợp thu được trải dài theo 2 symbol thì không chỉ có nhiễu
giữa các symbol (ISI) mà còn cả nhiễu tương hỗ giữa các sóng mang (ICI). Để tránh điều này
người ta chèn thêm khoảng bảo vệ (Guard Interval duration) Tg trước mỗi symbol để đảm bảo
các thông tin là đến từ cùng một symbol và xuất hiện cố định.
Guard Used
Interval part
duration duration
time
Channel
Bandwidth
cy
uen
OFDM
freq
symbol
duration
Hình 8. Phân bố sóng mang khi chèn thêm khoảng thời gian bảo vệ
Mỗi khoảng symbol được kéo dài thêm vì thế nó sẽ vượt quá khoảng tổ hợp của máy thu
TU. Như vậy đoạn thêm vào tại phần đầu của symbol để tạo nên khoảng bảo vệ sẽ giống với
đoạn có cùng độ dài tại cuối symbol. Miễn là trễ không vượt quá đoạn bảo vệ, tất cả thành phần
tín hiệu trong khoảng tổ hợp sẽ đến từ cùng một symbol và tiêu chuẩn trực giao được thoả mãn.
ICI và ISI chỉ xảy ra khi trễ vượt quá khoảng bảo vệ.
Độ dài khoảng bảo vệ được lựa chọn sao cho phù hợp với mức độ thu đa đường(multi
path) của máy thu. Việc chèn khoảng thời gian bảo vệ được thực hiện tại phía phát. Khoảng thời
gian bảo vệ Tg có các giá trị khác nhau theo quy định của DVB [1]: 1/4TU, 1/8TU, 1/16TU và
1/32TU.
SOFDM(t)
Tín hiệu
chính t
Phản xạ
1 t
Phản xạ
2 t
Nhiễu đồng
kênh t
Tín hiệu thu được
sau khi sửa biên độ t
T Twan
T
g t
Hình 9. Các tia sóng đến trong khoảng
s
thời gian bảo vệ
Khi chênh lệch thời gian của các tia sóng đến đầu thu không vượt quá khoảng thời gian
bảo vệ Tg, thì máy thu hoàn toàn khắc phục tốt hiện tượng phản xạ (xem hình 9). Thực chất,
khoảng thời gian bảo vệ Tg là khoảng thời gian trống không mang thông tin hữu ích, vì vậy, cùng
chế độ phát, Tg càng lớn, thông tin hữu ích sẽ càng ít, số lượng chương trình sẽ giảm. Nhưng Tg
càng lớn khả năng khắc phục các tia sóng phản xạ từ xa đến càng hiệu quả. Với sử dụng kỹ thuật
ghép đa tần trực giao và với thông số khoảng thời gian bảo vệ này tạo tiền đề cho việc thiết lập
mạng đơn tần DVB-T. Các máy phát thuộc mạng đơn tần đều phát cùng một kênh sóng, rất thuận
lợi cho quy hoạch và tiết kiệm tài nguyên tần số(chúng tôi sẽ trình bày kỹ trong kỳ sau).
Máy phát số DVB-T còn một tham số nữa là chế độ phát 2K hoặc 8K. Chế độ phát 2K sử dụng
1705 sóng mang, trong đó có 1512 sóng mang dữ liệu và 193 sóng mang tham số phát và các
pilots. Chế độ phát 8K sử dụng 6817 sóng mang, trong đó có 6048 sóng mang dữ liệu và 769
sóng mang tham số phát và các pilot (xem mục 3). Trong chế độ 8K số lượng sóng mang dữ liệu
gấp 4 lần trong chế độ 2K nhưng thời gian để truyền hết số lượng sóng mang này cũng gấp 4 lần
nên tổng vận tốc dòng dữ liệu cũng bằng chế độ 2K.
6. Đánh giá 3 phương pháp điều chế số của ATSC, ISDB-T và DVB-T
Hệ thống ATSC của Mỹ phát triển từ đầu những năm 1990 và sử dụng kỹ thuật điều chế
“điều biên cụt” của những năm 1980. Điều biên cụt 8VSB (Vestigal Side Band) vẫn bị các
khuyết tật vốn có của nó, không có khả năng cho thu di động, không khắc phục hiện tượng phản
xạ và không thiết lập được mạng đơn tần như giải pháp của hệ ISDB-T và DVB-T.
Hệ ISDB-T của Nhật Bản có điểm tương đồng về mặt kỹ thuật với DVB-T đó là sử dụng
COFDM. Hai hệ này (ISDB-T và DVB-T) cho khả năng thu di động, khắc phục hiện tượng phản
xạ, thiết lập mạng đơn tần. Tuy nhiên, ISDB-T có ba điểm khác biệt so với DVB-T. Một là, sử
dụng ghép xen thời gian, trong khi DVB-T không sử dụng kỹ thuật này. Được chứng minh ở
Brazil, ghép xen thời gian cho phép tăng khả năng chống nhiễu xung. Tuy nhiên, nó lại làm tăng
giá thành do phải tăng độ phức tạp của máy thu và làm tăng thời gian trễ. Ngoài ra, điều này còn
làm tăng giá vận hành do các trạm phát sẽ phải đồng bộ với nhau không chỉ về tần số mà còn cả
về độ dịch thời gian. Dù rằng đem lại một số lợi ích về mặt kỹ thuật nhưng DVB-T vẫn quyết
định không chọn giải pháp kỹ thuật ghép xen thời gian vì các lý do thương mại. Sở dĩ như vậy vì
DVB-T đánh giá rằng đây là một giải pháp không cần thiết, các ảnh hưởng của nhiễu xung có thể
khắc phục được thông qua bộ giải MPEG-2. Và ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho đầu
thu, cho mạng phân phối và cho công tác vận hành. Hai là, phân đoạn (vùng) tần số cho các dịch
vụ khác nhau. Trong ISDB-T, người ta dành 10 khoảng tần số cho dịch vụ hình ảnh và 3 khoảng
cho dịch vụ âm thanh. Việc phân chia này làm tăng giá thành cả về phần cứng và phần mềm, vì
máy thu phải làm việc với các khoảng tần số khác nhau. Việc phân đoạn tần số này còn làm sai
nguyên tắc của một kênh truyền số là một kênh băng rộng trong đó các dịch vụ được đặt ở các
mức khác nhau. Nếu chia kênh thành các đoạn tần số khác nhau cho các dịch vụ khác nhau, khi
một đoạn tần số bị ảnh hưởng, thì toàn bộ dịch vụ nằm trong đoạn đó sẽ bị mất. Đó là một trong
những lý do tại sao các nhà thiết kế DVB-T đã không sử dụng kỹ thuật này. Có một phương
pháp khác cũng có thể đạt được cách phân chia dịch vụ này là sử dụng phương pháp điều chế
phân cấp như được thực hiện trong DVB-T và trong cả ISDB-T. Ba là, ISDB-T không tương
thích với các hệ phát số qua vệ tinh DVB-S và phát số qua cáp DVB-C. Vì vậy, nhiều nước
không quan tâm sử dụng hệ ISDB-T của Nhật.