You are on page 1of 7

2.4.

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng - phê phán đầu thế
kỷ XIX

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã phát triển thành học
thuyết, tiêu biểu là học thuyết về giai cấp, xung đột giai cấp của H.
XanhXimông, quan niệm về “xã hội hài hoà”, “xã hội đảm bảo” của
S.Phuriê và tư tưởng xóa bỏ chế độ tư hữu của R.Ô-oen.

- H.Xanh Xi mông (1769 - 1825). Một trong những nội dung nổi
bật trong tư tưởng của Xanh Xi mông là lý luận giai cấp và xung đột
giai cấp. Theo ông, xã hội đương thời chia thành ba giai cấp: quý tộc,
nhà tư tưởng, nhà công nghiệp, trong đó, giai cấp nhà công nghiệp là
giai cấp trí tuệ, có khả năng quản lý đất nước.

Trong giai cấp nhà công nghiệp ông đã phân biệt thành hai
nhóm: một bên là giai cấp ít ỏi những người sở hữu; một bên khác
đông đảo những người không có của. Ông nhận thấy cuộc đấu tranh
giữa những người không có của và những người sở hữu là điều
không tránh khỏi. Vào cuối đời, Xanh Xi mông đã có ý niệm cho rằng,
cơ sở của xã hội thuộc về giai cấp “những người công nhân làm lao
động thủ công”, do vậy, giải phóng giai cấp cần lao là mục đích cuối
cùng của ông.

Xanh Xi mông có thái độ phê phán đối với cách mạng tư sản
Pháp vì nó chưa triệt để, chưa đem lại quyền lợi cho giai cấp nghèo
khổ nhất và đông đảo nhất, do đó theo ông cần phải có một cuộc
cách mạng mới. Ông phê phán gay gắt xã hội vô chính phủ công
nghiệp Pháp và cho rằng đó là xã hội “lộn ngược”: người nghèo phải
rộng lượng với người giàu; kẻ phạm tội lớn nhất có quyền trừng phạt
những lỗi lầm nhỏ nhất; kẻ không có năng lực, vô đức hạnh lại đi
điều khiển và dạy đức hạnh cho nhân dân... Ông mơ ước xây dựng
một xã hội mới tốt đẹp hơn mà ở đó phân phối của cải phải có lợi
cho đa số.

Tuy nhiên, khi thực hiện mơ ước xây dựng một xã hội mới tốt
đẹp Xanh Xi mông lại chủ trương đi theo con đường hoà bình, vì vậy,
tư tưởng của ông đã trở thành ảo tưởng, không tưởng.
- Sáclơ Phuriê (1772 - 1837)

Ông xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ của nước Pháp. Là
người có khả năng nhận thức đặc biệt, mặc dù thời nhỏ ông không
được học ở trường nhiều. Một trong những tư tưởng đặc sắc của
Phuriê đó là phê phán và lên án xã hội tư sản một cách sâu sắc, vì
theo ông, đó là một “trạng thái vô chính phủ của công nghiệp”, trong
đó “sự nghèo khổ sinh ra chính từ sự thừa thãi”. Ông kịch liệt phê
phán tình trạng cạnh tranh diễn ra trong nền thương nghiệp tư bản
chủ nghĩa mà hậu quả của nó là thị trường rối loạn và người lao
động bị bần cùng hoá.

Phuriê phê phán đạo đức trong xã hội tư sản đương thời vì nó
hạn chế, bắt bẻ, phiền phức đối với người nghèo, trong khi đó nó lại
là mặt nạ để cho người giàu che đậy một âm mưu, hành động tội ác.
Theo ông, trong xã hội tư sản, người nghèo chỉ bình đẳng trên danh
nghĩa, còn trên thực tế họ phải chịu đựng mọi bất bình đẳng và rơi
vào cạm bẫy của người giàu. Ông phê phán gay gắt hôn nhân tư sản
vì thực tế nó là sự giao kèo buôn bán, hợp thức hoá sự sa đoạ làm
cho phụ nữ bị mất quyền. Phuriê coi việc giải phóng phụ nữ là thước
đo mức độ tự do trong mọi xã hội.

Nét đặc sắc trong tư tưởng của Phuriê là ông đã nêu quan niệm
biện chứng về lịch sử. Ông chia lịch sử xã hội loài người thành 4 giai
đoạn: mông muội, dã man, gia trưởng và văn minh. Ông cũng chia
sự phát triển của mỗi chế độ xã hội thành bốn giai đoạn phát triển
tương ứng như bốn giai đoạn của cuộc đời con người: thơ ấu, thanh
niên, trưởng thành và tuổi già. Theo ông, nước Pháp, Anh lúc đó
đang ở giai đoạn văn minh thứ ba và ngả sang giai đoạn tuổi già và
ông hy vọng, sau giai đoạn này, xã hội đi vào một thời kỳ mới - thời
kỳ văn minh của những “bảo đảm xã hội”, tiến lên giai đoạn “xã hội
hài hoà”, trong đó có sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể trên cơ sở tổ chức các hiệp hội làm ăn tập thể mà ông gọi là
phalănggiơ. Ông quan niệm trong xã hội hài hoà tất cả mọi năng lực
của con người sẽ được hoàn thiện, cá nhân con người sẽ được phát
triển tới mức chưa từng thấy.
Tuy nhiên, con đường đạt tới xã hội hài hoà của Phuriê là hoà
bình, nhờ vào sự giúp đỡ của những kẻ có quyền hành và tiền của.
Ông phản đối bạo lực. Do vậy, ông không vượt qua được những bậc
tiền bối của mình khi tìm biện pháp xây dựng xã hội mới và tư tưởng
của ông chỉ dừng lại ở sách vở.

Rôbớt Ô-oen (1771 - 1858)

Ông sinh trong một gia đình thủ công ở thị trấn nhỏ (nước Anh).
Tuổi thơ của ông khá cực nhọc phải đi làm thuê từ lúc 9 tuổi, nhưng
ông có chí khí vươn lên và trở thành người kinh doanh thành đạt.
Cuộc đời của ông gắn liền với sự chăm lo cho những người công
nhân lao động cùng khổ. Ông dã từng hai lần dành toàn bộ của cải
của mình để thực nghiệm mô hình xã hội cộng sản chủ nghĩa (tuy cả
hai lần cuối cùng đều thất bại).

Một trong những nội dung nổi bật trong tư tưởng của R.Ô-oen là
quan niệm của ông khi bàn về bản chất con người. Theo ông, bản
chất con người được hình thành thông qua sự tác động qua lại giữa
con người với con người diễn ra ở môi trường bên ngoài, trong đó
những tác động có tính khách quan đến việc hình thành bản chất con
người có ý nghĩa quan trọng nhất. Xã hội tương lai dựa trên sự hiểu
biết khoa học về các quy luật của bản chất con người, sẽ là một xã
hội hài hoà, một xã hội thực sự là của con người.

Ô-oen là người có khuynh hướng duy vật và tiến bộ hơn so với


những đại biểu không tưởng cùng thời, khi cho rằng sự phát triển
của lịch sử gắn liền với sự thay đổi trong các phương thức sản xuất.
Theo ông, “lực lượng vật chất đang chín muồi trong lòng xã hội, cuối
cùng sẽ dẫn đến sự thay đổi xã hội và đây là nấc thang cần thiết,
chuẩn bị dẫn đến cuộc cách mạng vĩ đại và quan trọng”. Ô-oen lên
án và phủ nhận sâu sắc chế độ tư hữu vì nó làm cho người sở hữu
tài sản trở thành ngu muội, ích kỷ và tính ích kỷ đó tỷ lệ thuận với số
lượng tài sản của họ; nó làm cho con người xa cách nhau, thù hằn
nhau, tàn sát, chém giết lẫn nhau bởi các cuộc chiến tranh tàn khốc.
Nó là nguyên nhân gây ra tất cả các tiêu cực và sự bất hợp lý trong
xã hội. Ô-oen đi tới kết luận phải xoá bỏ chế độ tư hữu.
Để xây dựng xã hội mới theo Ô-oen chỉ còn cách là thay chế độ
tư hữu bằng chế độ công hữu và xây dựng công xã là cơ sở của xã
hội mới, ở đó mọi thành viên sẽ sống như một gia đình. Nguyên tắc
hoạt động của công xã: lao động tập thể, cộng đồng sở hữu, bình
đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa tất cả các thành viên. Công xã sẽ
đảm bảo cho mọi thành viên có điều kiện để phát triển.

Tuy nhiên, về con đường và phương pháp đi tới xã hội mới cũng
giống như Xanh Xi mông, Phuriê, R.Ô-oen cũng cho rằng chỉ có thể
bằng con đường hoà bình, bằng cách tuyên truyền, giải thích những
chân lý cơ bản thì mới có thể hoàn thành được cuộc cách mạng vĩ
đại. Ông trông chờ vào sự thức tỉnh của các chính phủ và ông chủ
trương thuyết phục các chính phủ từ bỏ con đường lầm lạc, tạo điều
kiện thuận lợi để ông thực hiện cuộc cải cách của mình. Chính vì
vậy, tư tưởng tốt đẹp của ông đã rơi vào không tưởng khi đưa ra
thực hiện trên thực tế.

2.5. Giá trị và hạn chế của tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác

Những giá trị:

Tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác có 4 giá trị cơ bản, đó là :

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác ở mức độ khác
nhau đã lên án, phê phán chủ nghĩa tư bản một cách sâu sắc ngay
từ khi nó mới ra đời. Họ đã phần nào nói lên tiếng nói của những
người lao khổ, bênh vực họ trước tình trạng bị đối xử bất công và bị
áp bức trong xã hội. Các ông không chỉ miêu tả những hiện tượng
bất công trong xã hội tư bản mà còn từng bước đi sâu tìm ra những
nghịch lý trong xã hội ấy. Dưới con mắt quan sát của các nhà tư
tưởng xã hội chủ nghĩa lúc đó, chủ nghĩa tư bản được miêu tả như
hiện tượng: "cừu ăn thịt người" của Tômát Morơ (thế kỷ XVI); "bệnh
dịch nguy hiểm" của Campanenla (thế kỷ XVII); "bức tranh lộn
ngược" của Xanh Ximông, "xã hội vô chính phủ công nghiệp" của
Phuriê (thế kỷ XIX)... và do đó, theo các nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, xã hội tư bản cần phải bị loại bỏ và thay thế bằng xã hội khác.
- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đã nêu lên nhiều
luận điểm có giá trị, nhiều dự đoán tài tình về sự phát triển của xã
hội, về một xã hội tương lai tốt đẹp hơn mà sau này các nhà sáng lập
ra chủ nghĩa xã hội khoa học đã kế thừa một cách có phê phán và
luận chứng chúng trên cơ sở khoa học. Tiêu biểu là mô hình "Hòn
đảo không tưởng" của T.Morơ (thế kỷ XVI); "Thành phố Mặt trời" của
Campanenla (thế kỷ XVII) và mô hình "Công xưởng Niulanác" của Ô-
oen (thế kỷ XIX). Trong các mô hình này cũng như trong tư tưởng
của một số nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã nêu lên tư tưởng về
một xã hội tương lai, ở đó: xây dựng chế độ sở hữu chung (công
cộng); phân phối công bằng (có lợi cho đa số); ai cũng phải lao động
và mọi dạng lao động được coi trọng như nhau; không có sự khác
biệt giữa thành thị và nông thôn; trẻ em được giáo dục miễn phí, phụ
nữ được giải phóng; không có chiến tranh; nhà nước sẽ đi tới tiêu
vong...

Ăngghen cho rằng, mặc dù những dự đoán trên đây còn đầy
chất ảo tưởng, nhưng đây là những dự đoán hết sức thiên tài, là
những hạt ngọc lấp lánh mà sau này các nhà sáng lập ra chủ nghĩa
xã hội khoa học đã kế thừa có chọn lọc khi các ông xây dựng mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

- Trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài, với những tư tưởng
tiến bộ và bằng những hoạt động của mình, các nhà tư tưởng xã hội
chủ nghĩa trước Mác đã góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của
quần chúng lao khổ và thúc đẩy lịch sử tiến lên không chỉ về mặt lý
luận mà còn về cải tạo xã hội. Do đó, chủ nghĩa xã hội trước Mác có
giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Một số nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa đã hy sinh địa vị xuất thân, tiền bạc, thậm chí bằng cả tính
mạng nhằm thay đổi chế độ xã hội để giải phóng cho quần chúng lao
động và đấu tranh giành quyền bình đẳng cho họ.

- Với các giá trị nêu trên, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước
Mác, nhất là tư tưởng của xã hội chủ nghĩa đầu thế kỷ XIX của Xanh
Ximông, Phuriê và Ô-oen được Mác - Ăngghen thừa nhận là một
trong ba nguồn gốc lý luận của của học thuyết mà các ông xây dựng
- học thuyết Mác-Lênin và là tiền đề tư tưởng của Chủ nghĩa xã hội
khoa học.

V.I.Lênin đã viết: "Chủ nghĩa xã hội lý luận Đức sẽ không bao


giờ quên rằng nó đứng trên vai của Xanh Ximông, Phuriê và Ô-oen -
mặc dù học thuyết của ba ông còn đầy tính chất ảo tưởng và không
tưởng- đã được liệt vào hàng những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của tất
cả các thời đại, và đã dự kiến một cách tài tình được rất nhiều chân
lý mà ngày hôm nay chúng ta đem khoa học ra chứng minh đều thấy
là đúng"1

Những hạn chế:

+ Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác phê phán chủ
nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bất công, nhưng họ chưa khám phá
ra bản chất và quy luật vận động của xã hội tư bản; không giải thích
đúng được nguyên nhân chủ yếu dẫn tới cảnh bất công, nghèo đói...
là do chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa tạo ra (trừ R.Ôoen).

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa phát hiện
được lực lượng xã hội đang phát triển trong lòng xã hội tư bản, có lợi
ích mâu thuẫn đối kháng với lợi ích của giai cấp tư sản, có khả năng
cải tạo xã hội bất công để xây dựng một xã hội mới không còn áp
bức, bóc lột, bất công, tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô
sản.

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác chưa ai tự đặt
mình là người đại diện cho quyền lợi của giai cấp vô sản và quần
chúng lao động nghèo khổ và đấu tranh giải phóng họ. Các nhà
không tưởng luôn đứng trên lập trường của giai cấp, tầng lớp trên
(quý tộc, tư sản), đứng ngoài xã hội để mưu giải phóng toàn xã hội.
Họ không gắn học thuyết của mình với phong trào đấu tranh của
quần chúng.

- Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác đứng trên quan
điểm duy tâm để cải tạo xã hội. Họ muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp
nhưng bằng con đường cải cách dần dần, bằng giáo dục, bằng thực
nghiệm, bằng cảm hoá giai cấp tư sản và tầng lớp trên của xã hội
chứ không phải bằng con đường đấu tranh giai cấp và cải biến cách
mạng. Đó là "con đường cải lương nửa vời" và không tưởng.

Các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước Mác không thể tự giải
thoát mình khỏi vòng không tưởng. Ngay cả những luận điểm đúng
đắn nhất do các nhà không tưởng nêu ra cũng mới chỉ là những dự
đoán, chưa được luận chứng bởi một cơ sở khoa học và thực tiễn.
Sự diệt vong của xã hội cũ, sự ra đời của xã hội mới vẫn chỉ là
những giấc mơ mang tính viển vông, những mong muốn chủ quan
của con người, chưa có điều kiện vật chất khách quan, do đó nó đều
thất bại khi đưa vào thực tế.

Tóm lại, Chủ nghĩa xã hội không tưởng là những lý luận, những
học thuyết biểu hiện dưới dạng chưa chín muồi nguyện vọng của
quần chúng mong muốn xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột, tình trạng bất
công trong xã hội, mong muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, ở đó
không còn tình trạng đói khổ của những người lao động, mong có
một xã hội tốt đẹp mà quan hệ giữa người và người là quan hệ hữu
ái, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, những mong muốn,
nguyện vọng, những dự án tốt đẹp đó không dựa vào điều kiện thực
tiễn khách quan mà nảy sinh từ đầu óc, từ những mong muốn chủ
quan của một số người, vì vậy không thực hiện được trong thực tế
và nó trở thành ảo tưởng, không tưởng.

V.I.Lênin khẳng định: Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể
vạch ra được một lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản
chất của chế độ nô lệ làm thuê trong chủ nghĩa tư bản, cũng không
phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản chủ
nghĩa và cũng không tìm thấy được lực lượng xã hội có khả năng trở
thành người sáng tạo xã hội mới2.

You might also like