You are on page 1of 7

Phần II : Thực trạng chi tiêu công ở Việt Nam trong những

năm gần đây:


1. Thực trạng chi tiêu công năm 2008
Đánh giá thực hiện nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước năm 2008
Bội chi NSNN năm 2008 Quốc hội quyết định là 66.900 tỷ đồng, ước cả năm bội chi
NSNN thực hiện là 66.200 tỷ đồng, bằng 4,95% GDP khi xây dựng dự toán. Đến
31/12/2008, dư nợ Chính phủ (bao gồm cả nợ Trái phiếu Chính phủ) bằng 33,5% GDP,
dư nợ ngoài nước của Quốc gia bằng 27,2% GDP, trong giới hạn đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia và ổn định các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
- Công tác điều hành chi NSNN năm 2008 đảm bảo theo đúng chủ trương thắt chặt
chi tiêu để kiềm chế lạm phát; tập trung nguồn lực (tăng thu, tiết kiệm chi) của NSNN để
chủ động phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo thực hiện các
chính sách hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng trợ cấp xã hội.

- Chính sách thuế, phí được điều chỉnh theo hướng khuyến khích xuất khẩu sản
phẩm đã qua chế biến, hạn chế việc xuất khẩu nguyên liệu và khoáng sản thô; tăng cường
kiểm soát nhập khẩu hàng hoá không thiết yếu, giảm nhập siêu trong khuôn khổ phù hợp
với các cam kết WTO, đồng thời, tiếp tục rà soát, bãi bỏ một số loại phí, lệ phí và các
khoản huy động khác để giảm gánh nặng đóng góp của người dân, nhất là nông dân. Đã
thực hiện biện pháp kéo dài, giãn thời hạn nộp thuế đối với các đơn vị sản xuất - kinh
doanh hoạt động chế biến xuất khẩu để hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn,
phát triển sản xuất, xuất khẩu.

- Công tác quản lý, điều hành giá được tổ chức triển khai quyết liệt, đã góp phần
tích cực thực hiện kiềm chế lạm phát. Việc điều chỉnh giá thực hiện theo nguyên tắc đảm
bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, nhân dân và doanh nghiệp, góp phần chống buôn lậu,
khuyến khích sử dụng tiết kiệm; đồng thời, thực hiện hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng
gặp khó khăn khi Nhà nước điều chỉnh giá.

Bên cạnh các kết quả tích cực nêu trên, công tác tài chính - ngân sách năm
2008 còn những khó khăn, tồn tại như:

Về chi đầu tư phát triển:


Tiến độ giải ngân chi đầu tư XDCB năm 2008 là chậm, chủ yếu do sự biến động
của giá nguyên vật liệu đã gây khó khăn cho cả công tác tổ chức đấu thầu và việc xác
định giá bỏ thầu của các nhà thầu; một số chủ đầu tư trì hoãn thời gian đấu thầu để điều
chỉnh tổng mức đầu tư. Tình hình triển khai và giải ngân vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu
Chính phủ cũng chậm. Ước cả năm, tổng vốn Trái phiếu Chính phủ thực hiện khoảng
20.000 tỷ đồng, bằng 70% kế hoạch điều chỉnh.
Về Chi phát triển các sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý hành chính
Tuy đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và tạo được sự đồng thuận trong xã hội
về các giải pháp an sinh xã hội đã đề ra, song quá trình tổ chức thực hiện thời gian đầu
còn một số vướng mắc, lúng túng (một phần do thủ tục giải quyết chưa sát với thực tế;
một phần do là chính sách mới, nên các địa phương cần có thời gian để tập hợp, thống kê
số lượng đối tượng, đảm bảo việc hỗ trợ theo đúng quy định của nhà nước, tránh thất
thoát, khiếu kiện), làm cho một số chính sách triển khai chậm đến với người thụ hưởng.

Tóm lại:

- Thu NSNN tăng, nhưng chưa vững chắc, chủ yếu là do giá dầu thô và thuế xuất
nhập khẩu. Thu NSNN những tháng cuối năm có chiều hướng giảm do sản xuất - kinh
doanh gặp khó khăn.

- Các Bộ, ngành, địa phương đã bám sát điều hành dự toán NSNN được giao
nhưng triển khai vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cả từ nguồn NSNN và nguồn trái phiếu
Chính phủ còn chậm.

- Quản lý chi tiêu ngân sách đã được tăng cường nhưng vẫn còn tình trạng lãng
phí, kém hiệu quả; một số nơi chưa thật sự quán triệt thực hiện triệt để tiết kiệm chi
NSNN.

2.Thực trạng chi tiêu công năm 2009


a) Về dự toán chi 2009:Những điểm đã đạt được và những vấn đề cần có giải
pháp khắc phục trong trong điều hành, cụ thể như sau:

Về những điểm đã đạt được:

Đã bố trí theo hướng cơ cấu lại các khoản chi, tập trung chi cho an sinh xã hội, đầu
tư phát triển con người thông qua giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, đồng thời thực hiện
điều chỉnh tiền lương ở mức cao hơn so với lộ trình đã được duyệt.

+ Bố trí chi cho một số lĩnh vực giáo dục-đào tạo-dạy nghề, khoa học-công nghệ,
văn hoá-thông tin, bảo vệ môi trường, y tế cơ bản đảm bảo yêu cầu theo các Nghị quyết
của Đảng, Quốc hội, tăng chi đầu tư thực hiện Đề án phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn.

+ Đảm bảo thanh toán các khoản nợ trong và ngoài nước đến hạn.

- Về cân đối NSNN: Bội chi NSNN ở mức 4,82% GDP (giảm 3.700 tỷ đồng so với
tính bội chi ở mức 5% GDP) để góp phần kiềm chế lạm phát.

Những vấn đề cần có giải pháp khắc phục trong tổ chức thực hiện

- Về thu NSNN: Dự toán xây dựng vẫn còn chứa đựng các yếu tố rủi ro, chưa
lường hết; trong đó: Thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào
khả năng kiểm soát lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô và phát triển sản xuất kinh doanh.
Thu dầu thô phụ thuộc vào yếu tố sản lượng và đặc biệt là yếu tố giá đang có biến động
khó lường.

- Dự toán chi NSNN đã thực hiện cơ cấu lại để tăng cường an sinh xã hội, nhưng
vẫn còn khó khăn: Dự toán chi đầu tư phát triển NSTW bố trí tăng 10,1% so với dự toán
năm 2008, nhưng vẫn còn thấp so với nhu cầu, đòi hỏi phải rà soát, lựa chọn các công
trình, dự án quan trọng để triển khai thực hiện. Đồng thời phải tăng cường huy động
nguồn lực đầu tư từ các thành phần kinh tế khác để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.

+ Một số nhu cầu chi chưa có khả năng bố trí đủ theo yêu cầu, như chi bù chênh
lệch lãi suất tín dụng ưu đãi, chi thu hồi vốn ứng theo kế hoạch,... Trong quá trình điều
hành, trường hợp có tăng thêm thu NSTW sẽ bổ sung nguồn xử lý.

+ Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, đã bố trí giảm bội chi NSNN, nhưng
mức giảm chưa nhiều do nhu cầu chi an sinh xã hội và đầu tư phát triển còn lớn. Nếu
giảm tiếp bội chi ngân sách thì sẽ phải giảm chi đầu tư phát triển, hiện đang rất khó khăn.

+ Dự toán chi thường xuyên bố trí cho các Bộ, cơ quan Trung ương, các địa
phương ngoài các khoản tăng chi theo chính sách, chế độ và nhiệm vụ mới phát sinh, các
khoản chi còn lại không tăng so với dự toán năm 2008 trong khi giá cả tăng là khó khăn
lớn, đòi hỏi các Bộ, cơ quan Trung ương, các địa phương phải tiếp tục thực hiện triệt để
các biện pháp sử dụng hiệu quả kinh phí và tiết kiệm chi.

- Dự phòng NSNN mới bố trí đạt 2,8% tổng chi NSNN, trong đó dự phòng NSĐP
bằng 3,5%, đảm bảo dự phòng của các địa phương ở mức 3-4%; dự phòng NSTW 2,4%
tổng chi NSTW, mức bố trí này là rất mỏng so với yêu cầu chủ động phòng chống thiên
tai, dịch bệnh và xử lý các nhiệm vụ đột xuất khác phát sinh trong năm.

b) Tình hình thực hiện nhiệm vụ chi NSNN 2009:

Chi NSNN năm 2009 ước thực hiện 584.695 tỷ đồng, tăng 19,0% so với dự toán
đầu năm.
a) Ưu điểm:
- Trong năm 2009, nền kinh tế nước ta chịu tác động lớn của khủng hoảng kinh
tế thế giới, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực của
cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, chúng ta đã sớm vượt qua giai đoạn khó khăn nhất,
ngăn chặn thành công đà suy giảm kinh tế, thực hiện có kết quả nhiều mục tiêu, chỉ tiêu
phát triển kinh tế - xã hội đã đặt ra. Kết quả hoạt động NSNN năm 2009 đã góp phần
quan trọng thúc đẩy sự phục hồi và phát triển hoạt động sản xuất – kinh doanh và xuất
khẩu, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.

- Việc ban hành kịp thời, tương đối đồng bộ và tổ chức triển khai thực hiện tích cực
các giải pháp kích thích kinh tế sử dụng nguồn từ NSNN đã góp phần giúp các doanh
nghiệp ổn định sản xuất - kinh doanh, tạo chuyển biến tích cực trong nền kinh tế. Cụ thể,
trong năm đã thực hiện miễn, giảm, giãn thời hạn nộp thuế cho các doanh nghiệp và cá
nhân; bổ sung chi NSNN và trái phiếu Chính phủ cho nền kinh tế nhằm kích cầu đầu tư,
tạo động lực phát triển: Trong đó, chủ yếu là bổ sung cho các công trình, dự án quan
trọng, cấp thiết phục vụ trực tiếp cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và có khả năng
hoàn thành trong năm 2009, 2010 để tăng năng lực sản xuất xã hội.

- Nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được coi trọng, góp phần ổn định
đời sống nhân dân và đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội. Cụ thể, ngoài các chính
sách an sinh xã hội đã được ban hành và tiếp tục thực hiện, trong năm 2009, đã ban
hành và triển khai thực hiện thêm một số giải pháp mới như: hỗ trợ người nghèo ăn Tết
Kỷ Sửu; trợ cấp khó khăn cho cán bộ công chức có thu nhập thấp; hỗ trợ nhà ở cho hộ
nghèo; thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững ở 62 huyện nghèo; hỗ trợ
khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn; tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng
dầu; hỗ trợ lãi suất vay mua vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn; cho vay học
sinh, sinh viên nghèo; xây dựng nhà ở cho sinh viên; triển khai chính sách xây dựng
nhà ở cho lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp ở đô thị...
Tổng kinh phí NSNN năm 2009 chi cho công tác an sinh xã hội tăng 44,3% so với năm
2008, nhờ đó, đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đối với
người nghèo, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
b) Khó khăn, hạn chế:
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc điều hành NSNN năm 2009 vẫn
còn khó khăn, hạn chế, như: chất lượng công tác dự báo chưa cao; việc triển khai đồng
thời chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ nới lỏng đã làm gia tăng áp lực lạm phát;
mức dư nợ Chính phủ và dư nợ Quốc gia tăng nhanh (tuy vẫn nằm trong giới hạn an
toàn). Đây sẽ là áp lực cho cân đối NSNN những năm tới và gây khó khăn cho việc điều
hành chính sách tài chính, tiền tệ, nhằm tránh nguy cơ tái lạm phát cao trong năm 2010.
- Bên cạnh đó cũng còn những yếu kém như phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư
bổ sung ở một số Bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn chậm hoặc chưa đúng đối
tượng; vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, chất lượng công tác chuẩn bị đầu
tư thấp, năng lực chủ đầu tư và nhà thầu yếu...
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội năm 2009 mặc dù gặp nhiều khó khăn, song
thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, có sự phối kết hợp và nỗ lực phấn đấu
của cả hệ thống chính trị, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2009 đã đạt được những kết
quả quan trọng: thu cân đối NSNN vượt dự toán (13,4%); chi NSNN đảm bảo thực hiện
được tổng mức dự toán chi Quốc hội đã quyết định, đồng thời sử dụng nguồn vượt thu và
tăng bội chi NSNN để tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển nhằm kích thích kinh tế, tăng
kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần
tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, tới suy giảm kinh
tế trong nước, ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an sinh xã hội./.
3.Về dự toán chi năm 2010 đạt được một số yêu cầu theo mục tiêu đề ra
cho năm 2010:
(1) Về thu NSNN, đã xây dựng tích cực tăng 18,1%, trong đó thu nội địa tăng 23%
so dự toán 2009, tỷ lệ động viên NSNN đạt 23,9% GDP, trong đó thu từ thuế, phí đạt
22,4% GDP. Cơ cấu thu được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng từ
59,8% của dự toán năm 2009 lên 63,9% năm 2010, góp phần tăng tính chủ động, ổn định
và bền vững cho NSNN.
(2) Về chi NSNN:
- Đảm bảo nguồn thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã ban hành; thực hiện
điều chỉnh tiền lương tối thiểu; đảm bảo trả nợ trong và ngoài nước.
- Bố trí các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, môi trường, văn hoá, y
tế,...theo đúng Nghị quyết của Đảng, Quốc hội; đảm bảo mức tăng chi cho quốc phòng,
an ninh để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
- Dự toán chi đầu tư phát triển tăng 11,3% so với dự toán năm 2009, cao hơn tốc độ
tăng chi thường xuyên. Tính cả nguồn trái phiếu Chính phủ (dự kiến 56.000 tỷ đồng) và
xổ số kiến thiết (khoảng 7.000 tỷ đồng), thì chi đầu tư phát triển năm 2010 chiếm 29,3%
tổng chi NSNN (Định hướng kế hoạch là 29-30%). Cùng với việc đẩy mạnh xã hội hoá,
thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, thì đầu tư toàn xã hội năm 2010 bằng
khoảng 41% GDP, đáp ứng yêu cầu duy trì phục hồi tăng trưởng kinh tế.
(3) Về cân đối NSNN, mức bội chi NSNN năm 2010 bằng 6,2% GDP, thấp hơn so
với mức bội chi năm 2009 (bằng 6,9% GDP).
(4) Với dự toán thu - chi NSNN nêu trên, hoạt động tài chính - ngân sách 5 năm
2006 - 2010 đã quán triệt thực hiện mục tiêu nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội X và Nghị
quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 đã đề ra:
Tổng thu NSNN 5 năm 2006-2010 ước vượt khoảng 400.000 tỷ đồng (trên 26%) so với
chỉ tiêu 5 năm; tốc độ tăng thu bình quân (loại trừ yếu tố tăng giá) là 13,4%, cao hơn chỉ
tiêu đề ra cho 5 năm (10,8%/năm); quy mô thu NSNN năm 2010 tăng gấp hơn 2 lần so
với năm 2005, tỷ lệ động viên NSNN (loại trừ yếu tố tăng giá) đạt 22,9% GDP (mục tiêu
là 20-21% GDP); cơ cấu thu cải thiện, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN tăng từ
mức 52% năm 2006 lên 63,9% năm 2010, góp phần tăng tính chủ động và ổn định của
NSNN.
Tổng chi NSNN 5 năm 2006-2010 ước tăng 480.000 tỷ so với chỉ tiêu đề ra. Tốc
độ tăng chi bình quân hàng năm đạt trên 20%/năm, cao hơn chỉ tiêu đề ra (tăng
11,2%/năm). Quy mô chi NSNN năm 2010 tăng 2,2 lần so với năm 2005. Đã bố trí tăng
chi các lĩnh vực quan trọng, như giáo dục- đào tạo, văn hoá, khoa học- công nghệ, y tế,
bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh...; cơ cấu chi đang thay đổi theo hướng tăng chi
mạnh hơn cho con người, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Tuy nhiên, cũng còn một số điểm khó khăn:
(1) Chi đầu tư phát triển tăng nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu của các Bộ,
ngành, địa phương để thực hiện các chương trình, dự án đã được phê duyệt. Nhiều nhu
cầu bố trí chưa đủ so với yêu cầu tối thiểu cần thiết như: Bù lãi suất cho vay ưu đãi của
Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam; đầu tư trở lại từ lãi dầu,
khí được chia của nước chủ nhà cho các dự án trọng điểm dầu khí, hỗ trợ kinh phí cấp và
cho vay làm nhà cho hộ nghèo và các dự án đầu tư giao thông, thuỷ lợi,...
(2) Chi thường xuyên tăng thêm chủ yếu để bổ sung thực hiện các chính sách mới
về an sinh xã hội và thực hiện một số nhiệm vụ lớn như điều chỉnh tiền lương, cải cách tư
pháp, quốc phòng, an ninh, y tế, giáo dục đào tạo,... Dự toán chi của các Bộ, cơ quan
Trung ương cơ bản không tăng so với dự toán năm 2009. Do đó, đòi hỏi các Bộ, ngành
phải chủ động sắp xếp lại thứ tự ưu tiên, đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan
trọng, nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi ngân sách.
(3) Dự toán bố trí cho các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 135, dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng cơ bản mới bố trí được ở mức tăng thấp so với dự toán năm
2009. Theo đó, có một số chương trình, dự án chưa bố trí được đủ tổng mức kinh phí đã
được quyết định khi phê duyệt chương trình, dự án. Đòi hỏi trong quá trình thực hiện, nếu
thực sự cần thiết phải bổ sung nguồn sẽ sử dụng dự phòng NSTW, hoặc ứng trước dự
toán 2011 để thực hiện.
(4) Năm 2010, thực hiện điều chỉnh tiền lương tối thiểu mức 730.000 đồng/tháng,
thực hiện từ 1/5/2010. Áp lực NSNN bố trí nguồn điều chỉnh tiền lương năm 2010 và một
số năm tới ngày càng lớn do:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn dẫn đến nguồn thu NSNN giảm so với dự
kiến khi xây dựng Đề án điều chỉnh tiền lương. Khi xây dựng Đề án, thu NSNN được dự
kiến trên cơ sở tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,5-9%/năm; tuy nhiên năm 2008 chỉ đạt 6,2%,
năm 2009 khả năng chỉ đạt 5,2%, năm 2010 phấn đấu đạt khoảng 6,5%, các năm sau tốc
độ tăng trưởng có thể ở mức cao hơn nhưng khả năng không đạt mức tăng trưởng cao
như dự kiến trong Đề án; sản lượng dầu thô giai đoạn trước đã đạt 16-18 triệu tấn/năm,
đến năm 2010 chỉ còn 14,4 triệu tấn. Theo đó, thu NSNN giai đoạn 2010-2012 khó khăn
hơn.
- Chi NSNN tăng nhanh hơn dự kiến, nhất là chi để thực hiện các chính sách an
sinh xã hội. Hai năm 2008-2009, chi cho an sinh xã hội (không kể tăng lương) tăng bình
quân 25-30%/năm, trong khi đó tốc độ tăng thu NSNN bình quân 2 năm 2008-2009 chỉ
khoảng 10-11%/năm. Việc sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các chính sách an sinh xã
hội, kể cả điều chỉnh tiền lương và trợ cấp khó khăn cho các đối tượng chính sách, người
có thu nhập thấp, làm tăng chi NSNN khoảng 82.000 tỷ đồng, trong đó tăng chi để thực
hiện điều chỉnh tiền lương và thực hiện trợ cấp khó khăn (khoảng 43.600 tỷ đồng).
- Vay nợ của Chính phủ tăng lớn, khiến nhu cầu chi trả nợ tăng nhanh, dẫn đến việc
dành nguồn điều chỉnh tiền lương khó khăn hơn.
- Việc tạo nguồn thông qua đổi mới cơ chế tài chính khu vực sự nghiệp công không
đạt mục tiêu, tiến độ đề ra. Nguyên tắc tính đủ tiền lương và từng bước trang trải các chi
phí khác vào giá dịch vụ của các loại hình dịch vụ công chưa thực hiện được[6].
(5) Chưa bố trí kinh phí thực hiện chế độ phụ cấp công vụ (5.200 tỷ đồng), phụ cấp
thâm niên giáo viên, điều chỉnh chuẩn nghèo,...; trong đó:
- Đối với chế độ phụ cấp công vụ: Theo Kết luận của Hội nghị Trung ương 6, từ
năm 2009 thực hiện chế độ phụ cấp công vụ ở mức 10% lương cấp bậc; các năm sau mỗi
năm tăng thêm 10% cho đến khi bằng 50%. Do khó khăn trong cân đối NSNN nên năm
2010 chưa bố trí kinh phí để thực hiện chế độ này.
- Về chế độ phụ cấp thâm niên đối với nhà giáo: Theo Nghị quyết số
35/2009/QH12 của Quốc hội về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính
trong giáo dục và đào tạo, thì từ năm 2010 sẽ thực hiện chế độ này. Tuy nhiên, hiện nay
mới thực hiện phụ cấp thâm niên nghề đối với khối cơ quan, gồm toà án, kiểm sát, kiểm
toán, kiểm tra Đảng, thanh tra, thi hành án dân sự, kiểm lâm.
- Đối với việc điều chỉnh chuẩn nghèo trong năm 2010: Năm 2010, Chính phủ sẽ
chỉ đạo thực hiện điều tra, khảo sát đề xuất phương án điều chỉnh chuẩn nghèo; chuẩn bị
thực hiện từ năm 2011.
(6) Bội chi NSNN vẫn ở mức cao (6,2% GDP). Dư nợ Chính phủ đến hết
31/12/2010 chiếm 44,3% GDP (cuối năm 2009 là 40% GDP).

You might also like