Professional Documents
Culture Documents
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một
lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc
sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót
nếu không kể tên "Vội vàng", "Đây mùa thu tới", và "Thơ duyên" trong tuyển tập "Thơ thơ" -
đứa con đầu lòng mà "ông hoàng thơ tình" đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm
tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như
chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi
pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của
cái "TÔI" trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào...thật
đến từng hơi thở!
Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền
bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến
mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ,
thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi
bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng
thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật
táo bạo:
Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu
như trong thơ ca của
những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên
cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân
Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi
xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một
niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống
mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham
muốn "tắt nắng", "buộc gió" trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời,
cảnh vật...muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước
muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng
là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của
một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu,
sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên
đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi
nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân
tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vột vàng" vừa như một mảnh vườn tình
ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa
như một người tình đầy khêu gợi.
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình
bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:
Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt
đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để
cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy
động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và
sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân
sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến
nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo
vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần
tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”,
của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác
quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn
ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp
dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những "món ăn" có sẵn. Những vẻ đẹp
được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ
của Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống.
Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện,
được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở
nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện
đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng
thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài.
Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình
ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách XD: tuần tháng mật,
đồng nội xanh rì ... tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!
Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng,
tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời,
được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa"
gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui
sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và
thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ
“ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ
hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến
cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về
thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng
sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến
thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm
hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của
hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh
của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược
là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những
suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt
của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược
nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức,
đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm
trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu
muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi
xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng "Tôi
không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:
"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"
Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa
lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài "xuất thì bất tái lai". Và là bởi đó là tiếng nói của một
cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng
mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng
khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng
mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai
tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng
ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý
giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?" Con người hiện
đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi mộy
khoảnh khắc qua là mất đi vĩng viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ
quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng "chẳng bao giờ
nữa..." Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi
bật nỗi lòng vừa lo
lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời "thơ thơ"
thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một
con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một
cách chân thành. "Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm." Từng
làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi
vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi.
Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ
xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện
với sự sống:
Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới".
Mới lạ nhưng táo bạo, độc dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm
nhận cuọc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng"
đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng
yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham
muốn mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời
"tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là
để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã
với nhịp đập của thời gian.
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều
mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa
xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ
mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân
chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có
lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say
của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa
sống.
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết
Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,
sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội
vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu
mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về
thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi
mai hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng!
Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp
lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ
này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng
về cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu
lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ
xúc cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm
xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề
mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm
nên cái tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng
cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm
như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày
cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho
triết học. Mà đó chính là minh triết của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm
khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt
vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng.
Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là
thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”,
lập thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu
hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách
ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước
muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm
sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi
mong manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô
bờ đối với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên
đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi
nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân
tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái,
vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa
như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là
hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với
thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân
tình:
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một
cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng
giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng
mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, đắm say.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ
muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương
sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân
thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình
thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của
con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người
cũng chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi,
thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan
niệm này:
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ
bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại
sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh
khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần
hoàn !
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là
ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi
ngậm ngùi thật mới mẻ:
Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân
Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời
gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm
bằng hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho thấy khứu
giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho
thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia
phôi” ! Thì ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó.
Vì sao thời gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân
thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Cái tinh tế của
Xuân Diệu chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện
tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang
diễn ra một cuộc chia tay của thời gian với con người, với không gian và với cả chính thời
gian. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than
vĩnh viễn: than thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ
khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không
thể nào tránh khỏi !
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian,
thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:
Đến đây phần luận giải của tuyên ngôn vội vàng đã đủ đầy luận lý !
Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một
cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có
thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn
của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ
nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của
con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo
nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp
đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một
động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu –
cắn. Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thư pháp
trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại
sao lại thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân
Diệu. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí
của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một
cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu
đời của thi sĩ !
Câu thơ:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến nhấn
mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng
lúc càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ
như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống".
Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác
với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian"
một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến
với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy !
Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
Bài làm
Sau gần 50 năm làm thơ, Xuân Diệu đã để lại cho thơ Việt Nam hàng chục tập thơ với trên
dưới 1000 bài thơ thấm đậm tình yêu cuộc sống nồng nàn. Nếu phải chọn ra một bài thơ tiêu
biểu cho thơ Xuân Diệu thơ tình yêu ấy thì đó sẽ là một bài thơ trong tập thơ Thơ Thơ được
sáng tác trong những năm 18 đôi mươi tươi đẹp của nhà thơ: bài thơ Vội vàng. Đúng như
tên gọi vội vàng là tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ
tự thấy mình phải vội vàng phải gấp gáp nhận lấy.
Xuân Diệu đã mở đầu bài thơ bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn mạnh mẽ như lời
tuyên bố về khát vọng của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Tắt nắng đi ư ? buộc gió lại ư ? đó là những điều ko thể làm được, đó là những khao khát
thật là phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí đối với trái tim nhà thơ, bởi đó là 1 trái tim đầy khát
khao mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ sống, muốn giữ mãi cho mình những hương
những sắc của cuộc đời. Mà cuộc đời thì đẹp đẽ biết chừng nào quý giá đến chừng nào !
trong cuộc sống này tất cả đều kì diệu bởi mỗi sự vật dù có nhỏ bé đến đâu cũng hiến cho
đời cái tuyệt diệu của mình hãy nghe Xuân Diệu kể
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Bướm ong thì có “tuần tháng mật”, đồng nội thì có muôn hoa, cành tơ thì có muôn lá, mắt
người thì có ánh sáng…Những câu thơ của Xuân Diệu nhanh gấp trong 1 nhịp điệu dạt dào.
Không thể nào kể cho hết, đếm cho xuể về vẻ đẹp của cuộc đời. Ai bảo cuộc đời này là
đáng chán ? cuộc đời đáng sống biết bao đẹp đẽ biết bao ! với Xuân Diệu cuộc sống lúc nào
cũng tràn trề niềm vui, người ta gặp niềm vui hết ngày này qua ngày kia. Niềm vui như 1 vị
thần độ lượng ngày nào cũng đến gõ cửa từng nhà:
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Đó là cuộc đời trong khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời đó là mùa xuân. Phải nói rằng,
trong thơ Việt Nam chưa có ai cảm nhận mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần
Có một điều đáng lưu ý bởi đây là 1 đặc điểm thơ của Xuân Diệu. Xuân Diệu không lấy thiên
nhiên làm chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của con người như ta vẫn gặp trong thơ cổ mà lại
lấy vẻ đẹp của con người là chuẩn để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu ta gặp trong
thơ Nguyễn Du vẻ đẹp của Thúy Vân
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Còn Xuân Diệu thì:
Tháng giêng ngon như 1 cặp môi gần
Con người bao giờ cũng là 1 điều tuyệt diệu
Có 1 cuộc sống đẹp đẽ như vậy để sống có những màu sắc tuyệt diệu như vậy để tận
hưởng con người ta sẽ sung sướng biết bao. Tuy vậy đến đây như 1 bản đàn đang cao vút
cao bỗng trùng xuống, những câu thơ của Xuân Diệu cũng trùng xuống. Xuân Diệu nói :
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Xưa nay người ta chỉ tiếc thời gian khi nó đã trôi qua chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở
thành quá khứ chỉ tiếc mùa xuân khi nó đã đã không còn. Ở đây với sự nhạy cảm đến lạ
lùng của nhà thơ, của người yêu cuộc sống đến độ đắm say Xuân Diệu đã tiếc mùa xuân
ngay cả khi mùa xuân đang còn ngay cả khi mùa xuân đang đến. Nhà thơ biết rằng thời gian
sẽ trôi qua nhanh mà hình như với những gì quý giá với những vẻ đẹp nó còn trôi nhanh gấp
bội nhanh đến khủng khiếp. Cái sắp tới rồi sẽ qua đi cái đang non trẻ thắm tươi rồi cũng sẽ
già nua tàn úa. Điều ấy cực kì quan trọng với Xuân Diệu :
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Câu thơ của Xuân Diệu thật buồn bã bởi nhà thơ vừa như phát hiện một điều bi thảm cho
mình: mùa xuân sẽ trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua mà khi tuổi trẻ trôi qua thì cuộc đời nào còn ý
nghĩa gì nữa. Quý giá nhất của cuộc đời của đất trời là mùa xuân quý giá nhất của đời người
là tuổi trẻ
Con người khao khát vô tận nhưng cuộc đời lại có quy luật của nó chặt chẽ vô cùng nghiệt
ngã vô cùng
Lòng tôi rộng nhưng lòng người cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Thời gian thì vô hạn nhưng đời người thì hữu hạn. Trong cái hữu hạn ấy cái hữu hạn của
con người càng nhỏ bé đến tội nghiệp. Có lẽ như bao người ở đời nhà thơ từng lí luận với
mình rằng mùa xuân của cuộc đời là bất tận, mùa xuân đi mùa xuân lại đến. Nhưng tự lí
luận như thế không những người ta không tự an ủi được mình mà chỉ càng xót xa hơn cho
cái hữu hạn nhỏ bé của chính mình
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùa xuân của đất trời đẹp lắm quý giá lắm nhưng mùa xuân chỉ quý giá chỉ đẹp khi con
người ta biết được vẻ đẹp của nó, cảm nhận được mùa xuân ấy. Không có con người hay
con người ko được hưởng thì mùa xuân có mà làm gì ? bởi vậy những câu thơ của Xuân
Diệu chuyển sang 1 giọng buồn bã
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong gió biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
Tất cả đều buồn bã tất cả đều mất hết ý vị chỉ còn rớm vị chia phôi với than thầm tiễn biệt chỉ
còn hờn nỗi phải bay đi chỉ sợ độ phai tàn sắp sửa, trong thơ VN cả phong trào thơ mới
chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian thương tiếc cuộc sống thiết tha đến như vậy. Cũng
những nét ấy mùa xuân ấy âm thanh ấy ở đoạn trên thì náo nức rạo rực là thế mà ở đoạn
này thì buồn thương ngậm ngùi xót xa biết mấy tưởng chừng Xuân Diệu hình dung thấy rõ
ràng mùa xuân đã mất tuổi trẻ đã qua nhà thơ đã kêu lên 1 cách tuyệt vọng :
Chẳng bao giờ ôi chẳng bao giờ nữa
Nỗi đau đớn thật chân thành nên Xuân Diệu mới có tiếng kêu như thế. Còn làm gì được nữa
bây giờ ? thời gian cứ mênh mông như mùa xuân và đời cứ ngắn ngủi. Còn làm gì được
nữa để biến đổi cái hữu hạn của đời người ấy ra thành vô hạn để cùng vô hạn với thời gian
với mùa xuân mãi mãi của đất trời ? Chỉ còn 1 cách đó là biến cái hữu hạn về lượng thành
cái vô hạn về chất nghĩa là phải vội vàng phải hối hả phải đắm say phải mãnh liệt phải sống
thu vào đến độ cao nhất những gì là đẹp đẽ quý giá của đời sống của mùa xuân của tuổi trẻ.
Phải nghĩ ngay đến cái nguy cơ mùa xuân sắp qua tuổi trẻ sắp hết. Xuân Diệu giục giã:
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều
mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 – 1945, mùa
xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các nhà thơ mới. Có thể kể đến một
Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả
một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa
xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái
tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái của Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ hồi viết
Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời,
sống vội vàng, sống cuốn quýt”. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tên Vội
vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu
mình.
Thực ra, cái điệu sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời
gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là một kết cục không tránh khỏi mai
hậu. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao diệu kỳ. Mà sống là phải tận hiến và tận hưởng! Đời
người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy
từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này
được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về
cảm xúc rất “ngại” đi cùng chính luận. Ấy thế nhưng nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập
thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên là loại thơ xúc
cảm. Nhưng đọc kỹ sẽ thấy rằng thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc
làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt
của văn bản thơ, thì dường như yếu tố chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên cái
tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. Vội vàng cũng thế.
Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột cuốn theo bao hình ảnh thi ca như gấm như thêu
của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan
niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh họa cho triết học. Mà đó
chính là minh triết của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bố cục của Vội vàng. Thi phẩm
khá dài nhưng tự nó hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt
vào ba chữ “Ta muốn ôm”. Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sống vội vàng.
Phần dưới là bộc lộ cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lý thuyết, dưới là
thực hành! Điều rất dễ thấy là thi sĩ chọn cách xưng hô cho từng phần. Ở trên, xưng “tôi”, lập
thuyết đối thoại với đồng loại. Ở dưới, xưng “ta”, đối diện với sự sống. Phần luận lí có xu
hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ dào dạt, sôi nổi đã xóa mọi cách
ngăn, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sống động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là cái ước
muốn quay ngược quy luật tự nhiên – một ước muốn không thể:
Muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, thật là những ham muốn kỳ dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm
sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hóa được những thứ vốn ngắn ngủi mong
manh ấy? Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ đối
với cái thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường
trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của
một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái
thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật
đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một
người tình đầy đắm say. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. Ấy là hưởng thụ
thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp
môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng
mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong
nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, đắm say.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ
muốn “tắt nắng”, “buộc gió” chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho trần thế này đây. Hương
sắc là cái sinh khí của nó, là cái vẻ đẹp, cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân
thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình
thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì đối với sự sống và cái xuân thì của
con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, “ngon” nhất là ở độ xuân; còn con người cũng
chỉ hưởng thụ được cái “ngon” kia khi còn trẻ thôi. Mà cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời
gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ
bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống
với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc
qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi trẻ. Tuổi trẻ một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần
hoàn !
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là
ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi
ngậm ngùi thật mới mẻ:
Và đem đến một cảm nhận đầy tính lạ hóa về thời gian và không gian:
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân
Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian
được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng
hương – chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư? Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã
chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm
giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một vị hoàn toàn phi vật chất: “vị chia phôi” ! Thì
ra chữ “rớm” và chữ “vị” này đều từ một hình ảnh ẩn hiện là giọt lệ chia phôi đó. Vì sao thời
gian lại mang cái hương vị - hình thể của chia phôi? Ấy là những cảm giác chân thực hay chỉ
là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép “tương giao”? Cái tinh tế của Xuân Diệu
chính là ở đấy ! Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở
thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang diễn ra một
cuộc chia tay của thời gian với con người, với không gian và với cả chính thời gian. Cho nên
thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than vĩnh viễn: than
thầm tiễn biệt. Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan
sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi !
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì
chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống:
Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những tham muốn mỗi lúc một
cuồng nhiệt , vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể
diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống sung mãn của
mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ
nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của
con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làm sóng ngôn từ đan chéo
nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi
lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một
động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn.
Có thể nói câu thơ “Và non nước, và cây, và cỏ rạng” là không thể có đối với thư pháp trung
đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với thơ xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại
thừa thãi liên từ “và” đến thế ? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu.
Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi
sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực
tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi
sĩ !
Câu thơ:
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ “cho” điệp lại với mức độ tăng tiến nhấn
mạnh các động thái hưởng thụ thỏa thuê: chuếnh choáng – đã đầy – no nê. Sóng cứ càng lúc
càng dâng cao, càng vỗ mạnh, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ
như một tình lang trong cuộc tình chuếnh choáng men say.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ "sống" hay "ham sống" mà ông "say sống".
Sống mãnh liệt, hối hả kẻo nữa lại tiếc nuối - Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. Nó khác
với sự nguội lạnh, hờ hững, lạt lẽo. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước "thanh sắc trần gian"
một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống.
Sống là hạnh phúc. Muốn đạt tới hạnh phúc phải sống vội vàng. Thế là, vội vàng là cách đến
với hạnh phúc, là chính hạnh phúc, và hình như cũng là cái giá phải trả cho hạnh phúc vậy !
Ta hiểu vì sao khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
- Xuân Diệu (1916-1985), tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, bút danh: Trảo Nha.
- Quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bình Định, lớn lên ở Quy Nhơn. Xa gia đình từ nhỏ và sống
ở nhiều nơi. Mỗi miền đất có ảnh hưởng nhất định đến hồn thơ ông.
- Trước cách mạng, Xuân Diệu là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài
Thanh). Sau cách mạng, Xuân Diệu hoà nhập, gắn bó với đất nước, nhân dân và nền văn
học dân tộc.
- Xuân Diệu để lại một sự nghiệp văn học lớn, ông là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào,
mãnh liệt, bền bỉ .
- Tác phẩm:
+ Thơ “Thơ thơ” (1938); “Gửi hương cho gió” (1945); “Riêng chung” (1960); Mũi Cà Mau -
Cầm tay” (1962); “Hai đợt sóng” (1967)…
+ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại, một nhà thơ “mới nhất trong các
nhà thơ mới”.
+ Thơ Xuân Diệu thể hiện một hồn thơ khao khát giao cảm với đời.
+ Hồn thơ Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời cuộc
a) Xuất xứ
- “Vội vàng” được in trong tập Thơ Thơ, xuất bản 1938.
- Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu thể hiện cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi
trong thơ mới nói chung, thơ Xuân Diệu nói rêng, đồng thời in dấu khá đậm hồn thơ Xuân
Diệu (“Thiết tha, rạo rực, băn khoăn”- Hoài Thanh), tiêu biểu cho sự cách tân táo bạo, độc
đáo trong nghệ thuật thơ ông.
c) Bố cục
- Đoạn 1: 13 câu đầu: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
- Đoạn 2: 16 câu tiếp: Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời.
- Đoạn 3: 9 câu còn lại: Khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả.
1. Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.
- 4 câu mở đầu: Thể hiện cái tôi khát vọng muốn núi héo làm ngưng sự vận động của thời
gian, vũ trụ để giữ mãi hương sắc của mùa xuân, tuổi trẻ.
=> Lấy cái tôi chủ quan để thay đổi quy luật tự nhiên. Quả là ý tưởng táo bạo, xuất phát từ
một trái tim yêu cuộc sống đến tha thiết say mê.
- Nhà thơ vui sướng, ngây ngất trước hương sắc của cuộc đời đầy quyến rũ, sự phong phú
và giàu có của thiên nhiên, cuộc sống, tuổi trẻ.
+Cảnh vật hiện lên dưới con mắt của nhà thơ thật phong phú, rực rỡ, tươi đẹp và đầy nhựa
sống.
+ Cảm giác hạnh phúc được nhà thơ thể hiện qua câu thơ táo bạo, so sánh độc đáo”
=> Xuân Diệu đã vật chất hoá thời gian, câu thơ không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả
hương thơm vị ngọt khiến người ta đắm say, ngất ngây.
- Niềm vui sướng như khựng lại khi Xuân Diệu nhận ra giới hạn của thời gian:
Nhà thơ cảm thấy buồn bã, lo sợ, tiếc nối khi ý thức được sự trôi chảy xủa thời gian:
=> Với điệp từ “Xuân” kết hợp với những cặp từ đối lập tạo thành một nỗi day dứt một niềm
tiếc nối khôn nguôi.
- Xuân Diệu biết mùa xuân rồi sẽ tàn phai, tuổi trẻ rồi cũng trôi qua. Cho nên trong cái tươi
đẹp mơn mớn của nó tác giả đã nhìn thấy sự tàn úa.
+ Điệp từ “Nghĩa là” vừa như muốn giải thích nhưng ẩn sau đó là một nỗi lo lắng, hốt hoảng
trước sự trôi chảy của thời gian.
+ Đối lập: làm tăng sự lo lắng khi nhận thấy cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của
thời gian.
+ Cảnh vật như lao nhanh tới sự tàn phá, héo úa và chia phôi. Tâm trạng của nhà thơ có
phần nào đó rơi vào sự tuyệt vọng.
3. Khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả.
- Đang chìm đắm trong đau buồn, tuyệt vọng nhà thơ chợt nhận ra thời gian của tuổi xuân
vẫn còn nên lên tiếng giục giã:
- Tác giả vội vàng, gấp gáp muốn tận hưởng tất cả cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc.
Ta muốn : ôm , riết , say , thâu , cắn vào : non nước , cỏ cây , gió mây , sự sống , xuân hồng
.
+Với nhịp thơ dồn dập, ngắt nhịp linh hoạt, câu mệnh lệnh trực tiếp biểu cảm khát vọng sôi
nổi của trái tim nhà thơ.
+ Hình ảnh phong phú tượng trưng cho thanh sắc của thời gian: sự sống mơn mỡn, mây
đưa gió lượng, cánh bướm tình yêu, mùi thơm ánh sáng…
+Tình yêu nống nàn, khoẻ khoắn cao độ được biểu hiện bằng nhiều động từ liên tiếp: ôm,
riết, say, thâu. Nhiều tính từ: chuếch choáng, no nê, đã đầy…
+ Nhà thơ cảm nhận niềm hạnh phúc bằng tất cả các giác quan, trạng thái say mê, ngây
ngất.
+ Từ ngữ, hình ảnh táo bạo ở câu cuối cho thấy Xuân Diệu rất say mê cuộc sống, khát khao
và muốn tận hưởng tình yêu, hạnh phúc ngay trên chính cuộc đời này.
- Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân sinh quan tích cực của tác giả, lòng yêu cuộc sống, yêu
đời, yêu tuổi trẻ một cách mạnh liệt, cuống nhiệt.
- Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu: Cảm nhận thiên nhiên tinh tế, sử dụng
điệp ngữ so sánh độc đáo, hình ảnh thơ khoẻ khoắn, nồng nàng, từ ngữ gợi cảm, táo bạo.