Professional Documents
Culture Documents
HỌ VÀ TÊN MSSV
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
....................................................................................................
Mục Lục
Danh sách tổ .................................................................................................... 2
Bài 2: Sản Xuất Rượu chưng cất theo phương pháp EnZyme ...... ................. 18
Bài 5: Nấu môi trường dinh dưỡng nấm men ................................ ................. 37
Bài 6: Sản Xuất Nước giải Khát Lên Men ..................................... ................. 40
Bài 9: Sản Xuất nước giải khát pha chế ......................................... ................. 75
1.1.Giới thiệu về bánh men sử dụng trong lên men rượu truyền thống ở Việt
Nam
• Bánh men là hỗn hợp VSV có sự tác động tương hỗ trong quá trình lên
men.
• Các loại bánh men
o bánh men có thuốc bắc
o bánh men không có thuốc bắc
o bánh men lá
• Ở nước ta, mỗi vùng đều có các bài thuốc làm men khác nhau tạo nên nhiều
loại rượu đặc sản của từng vùng, được nhiều người biết đến như rượu Bầu
Đá (Bình Định), rượu Gò Đen (Long An), rượu Làng Vân, rượu cần…
Nấm mốc: Mucor sp, Rhizopus sp, Aspergillus ozyzae, Asp. niger, A.
awamori, Asp. sp, Penicillium sp...
Nấm men: Saccharomyces sp và Candida sp.
Vi khuẩn lactic và VK acetic.
Ngoài ra còn có giả nấm men Endomycopsis.
Aspergillus oryzae
Khả năng sinh enzyme rất mạnh, trong đó chủ yếu là các loại enzyme
amylase, protease, maltase.
Aspergillus niger
Từ một sợi đầu tiên, chúng phân nhánh tạo ra 2-4 nhánh sợi nhỏ. Từ các
nhánh này sẽ phát triển thành những đỉnh bào tử và từ đó sẽ phát triển thành
những bào tử màu đen.
Nấm sợi này có khả năng tạo ra rất nhiều enzyme khác nhau như:
amylase, invertase, maltase, protease, pectinase và cellulase...
Mucor:
Mucor mọc ở các hạt, thức ăn gia súc, thực phẩm… bị ẩm tạo thành một
lớp lông tơ màu xám. Một số loài Mucor có khả năng lên men và oxy hoá.
Chúng được dùng trong sản xuất axit hữu cơ, rượu và các chế phẩm
enzyme
Rhizopus sp
Màu trắng xám, rễ giả màu vàng, bọc bào tử hình cầu, bào tử kín, phân
nhánh.
Endomycopsis
Saccharomyces cerevisae
Là loài nấm men lên men nổi, kỵ khí không bắt buộc. Sinh sản theo kiểu nảy
chồi, phân đôi, bào tử.
Có khả năng lên men nhiều loại đường khác nhau (glucose, saccharose,
fructose, mantose…)
Nhiệt độ tối ưu:25-30oC, nhiệt độ tối thiểu 2-3oC, Ở 40oC ngừng sinh
trưởng và men bị chết.
Vi khuẩn
Chủ yếu là VK lactic và VK acetic thường làm chua môi trường trong
dịch lên men có oxy,
• Hệ VSV trong bánh men tham gia các quá trình chuyển hóa cơ chất.
• Giai đoạn đầu VK phát triển hình thành các acid hữu cơ.
• pH môi trường giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho các loài nấm
mốc phát triển. Nấm men cũng bắt đầu phát triển (tốc độ yếu hơn nấm
mốc).
• Quá trình chuyển hóa tinh bột thành đường: nhờ nấm mốc Aspergillus
sp, Rhizopus sp, Mucor sp, Endomycopsis …. tạo ra amylase (alpha
amylase, glucoamylase).
• Quá trình chuyển hóa đường thành rượu: nhờ các loài nấm men
Saccharomyces, các loài nấm mốc Mucor rouxii, Rhizopus delamar và
các loài thuộc Endomycopsis vừa có khả năng chuyển hóa tinh bột thành
đường, vừa có khả năng chuyển hóa đường để tạo thành cồn.
Thành phần (%) Tinh bột Nước Protein thô Chất béo thô Xơ thô Tro
Lúa gạo 69.2 11 7.3 1.2 0.5 0.9
Gạo
Xử lí
Nấu chín
Ủ 2 ngày, bổ
sung 2l nước
Lên men
Lọc Bã
Chưng cất
Sản phẩm
Nấu chín: phá vở các tế bào của hạt tinh bột, giúp cho en zym amylase tiếp
xúc được với tinh bột, tạo điều kiện đưa tinh bột về trạng thái hòa tan trong dung
dịch. Chú ý: tránh nấu quá nhão hay quá khô và cháy khét giúp tạo môi trường
lên men tốt sau này.
Để nguội: Đánh tơi cơm sau đó để nguội nhằm giảm nhiệt độ của khối hạt
xuống tạo điều kiện thích hợp để rắc men nếu nhiệt độ cao các vi sinh vật trong
bánh men sẽ chết.
Khi nhiệt độ hạ xuống 30-32 o C ta tiến hành rắc men, lượng men giống, tạo
điều kiện thích hợp cho vi sinh vật hoạt động: độ ẩm 80-85%, nhiệt độ : 30-32 o
C, thoáng gió.
• Đối với men ướt : bổ sung 10g/kg tương ứng với 2l nước, sau đó lên men.
• Đối với men khô: bổ sung 10g/kg, trộn đều men rồi tiến hành ủ 2 ngày.
Mục đích ủ: tạo điều kiện cho vi sinh vật có trong nấm men phát triển, tăng
sinh khối, chuyển hóa đường thành rươu.
Biến đổi sau khi ủ: dưới tác dụng của enzym amylase có sẵn trong bánh men
hay do nấm mốc tiết ra chuyển hóa tinh bột thành đường làm cơ chất cho nấm
men sử dụng lên men chuyển hóa đường thành rượu.
Sau khi ủ: Ta bổ sung nước và để yên trong 2,5 đến 3 ngày ở nhiệt độ 25-30 o
C . Đây là quá trình ngâm, trong quá trình này các loại vi sinh vật hoạt động tạo
ra các sản phẩm trao đổi chất: axit hữu cơ, este, rượu, các cấu tử thơm... Tới đây
sản phẩm gồm 2 pha rắn và lỏng:
• Rắn: Vỏ, tinh bột chưa thuỷ phân - > cần loại bỏ
• Lỏng: Rượu etylic, nước, các cấu tử khác: rượu bậc cao, andehyt,
este...
Lên men: tiến hành lên men ở nhiệt độ thường. Thời gian này sẽ có ba quá
trình song song xảy ra, tất nhiên lả mức độ của các quá trình này có khác nhau.
Ba quá trình đó là quá trình tăng sinh khối của vi sinh vật, quá trình đường hóa
và quá trình rượu hóa. Sự kết hợp của ba quá trình này tạo cho rượp màu sắc,
mùi, vị rất đặc trưng.
Quá trình này xảy ra rất nhanh ở giai đoạn đầu lên man, khi ta cho
bánh men vào nguyên liệu. Sư phát triển mạnh của vi khuẩn ở giai
đoạn này kéo theo sự tạo thành một số acid hữu cơ. Kế quả là Ph
môi trường giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho các loải nấm,
mốc phát triển. Song song đó các loài nấm men bắt đầu phát triển,
tuy sự phát triển của chúng có yếu hơn sự phát triển của nấm mốc.
Các loại nấm mốc chỉ phát triển trong giai đoạn đường được tạo
thành hay là cuối giai đoạn nấm mốc phát triển.
Quá trình chuyển hóa đường và các thành phần khác thành các acid
hữu cơ: trong đó có hai quá trình tạo acid hữu cơ cơ bản. Đó là quá
trình tạo acid acetic và quá trình tạo acid lactic. Qúa trình tạo acid
lactic mạnh hơn quá trình tạo acid acetic. Cả hai quá trình này xảy ra
với cường độ không mạnh vì giai đoạn đầu lượng đường trong khối
lên men chưa cao nên vệc chuyển hóa đó xảy ra không mạnh.
Do sự phát triển của nấm mốc và nấm men Endomycopsis, tinh bộ được
chuyển hóa thành đường. Các loài nấm mốc và nấm men này trong quá trình phát
triển tạo ra rất nhiều enzym amylase và glucoamylase. Các enzym này hoạt động
rất thuận lợi trong giai đoạn đầu và được kéo dài suốt thời gian này. Bản chất của
các enzym này là các enzym cảm ứng, do đó nguyên liệu là loại có chứa nhiều tinh
bột, kích thích quá trình sinh tổng hợp rất mạnh mẽ. Điểm quan trọng thứ hai cần
đề cập đến là các enzym này chịu sự điều khi63n bởi sản phẩm cuối cùng là
glucose. Bình thường thì glucose sẽ ức chế quá trình thủy phân tinh bột. Nhưng
các loài nấm mốc Mucor rouxei, Rhizopus delemar, các loại nấm men thuộc
Endomycopsis vừa có khả năng sinh tổng hợp enzym amylase, glucomylase vừa
có khả năng chuyển hóa đường thành cồn. Mặt khá các loài nấm men
Saccharomyces cũng rất tích cực chuyển hóa đường glucse thành cồn. Kế quả là
lượng đường glucose chyển hóa thành bao nhiêu, ngay lập tức được chuyển hóa
thành cồn, một phần phục vụ cho sinh sản và phát triển của chính các loài vi sinh
vật đó. Do đó trong khối lên men này thường không xảy ra cơ chế kìm hãm ngược
bởi glucose.
• Saccharomyces sp.
• Mucor và Rhizoup sp.
• Endomycopsis sp.
• Trong đó các loài nấm men Saccharomyces đóng vai trò cơ bản,
chuyển hóa đường để tạo thành rượu etylic và CO2. CO2 sinh ra
trong quá trình lên men sẽ tạo thành bọt khí bám vào bề mặt nấm
men và làm các tế bào nấm men nổi lên trên, khi lên đến bề mặt, bọt
khí vỡ ra và tế bào nấm men lại chìm xuống tạo ra sự đảo trộn giúp
quá trình lên men được tốt hơn.
• Song song với quá trình này là các quá trình chuyển hóa đường, các acid
hữu cơ thành các sản phẩm phụ khác.
• Điều đặc biệt lưu ý là tất cả các quá trình chuyển hóa được xảy ra xen kẽ,
hỗ trợ nhau và tạo nên một quá trình chung hài hòa., để cuối cùng ta tạo ra
sản phẩm không chỉ có nước và cồn mà là hỗn hợp sản phẩm bao gồm
nhiều thành phần khác nhau.
• Sản phẩm sau quá trình lên men: cồn là chủ yếu ngoài ra còn có aldehyd,
acid lactic, acid acetic, các rượu cao phân tử( propanol, isopropanol...)
Lọc:
Hỗn hợp sau khi lên men tồn tại theo 3 pha: Rắn, lỏng, khí (pha khí chiếm
rất ít, không đáng kể). Mục đích của giai đoạn này là tách pha lỏng (rượu là
chủ yếu, các cấu tử thơm, este, axit hữu cơ, ...) ra khỏi pha rắn (bã, vỏ quả,
vỏ hạt...)
Chưng cất: mục đích thu được rượu có độ cồn cao hơn, loại bỏ tạp chất.
Chưng cất dựa trên nguyên tắc độ bay hơi của các chất khác nhau thì khác nhau.
Đầu tiên là sự bay hơi của aldehyt, este sau đó đến cồn rồi acid hữu cơ và cuối
cùng là các rượu cao phân tử.
3.Kết quả
Ngày pH Độ brix
09/09 5.8 5
10/09 6.05 16,05
11/09 3.3 15.2
12/09 4 15.4
15/09 3.31 7
16/09 3.34 6
Ngày pH Độ brix
11/09 3.25 13.2
12/09 3.58 10.5
15/09 3.67 6
16/09 3.69 6.5
Độ cồn:
4. Nhận xét
• Độ Brix của dung dịch lúc đầu thấp sau đó tăng lên từ từ rồi giảm
xuống. Điều này có thể giải thích do tác dụng của enzym amylase phân
cắt tinh bột thành đường làm cho nồng độ chất khô trong dung dịch tăng
lên, sau là quá trình lên men chuyển hóa đường thành rượu dưới tác
dụng của nấm men nên nồng độ chất khô lại giảm xuống.
• Về pH: lúc đầu pH có xu hướng giảm xuống do sự phát triển mạnh của
vi khuận ở giai đoạn này tạo thành một số acid hữu cơ như acid acetic,
acid lactic dẫn đến kết quả pH giảm xuống tạo điều kiện thuận lợi cho
các nấm men, nấm mốc phát triển. Sau giai đoạn này pH có xu hướng
tăng lên do sự tạo thành rượu.
• Độ Brix của dung dịch lúc đầu cao do chỉ bổ sung men khô không có
nước nên nồng độ chất khô cao, rồi sau đó có sự tạo thành của rượu nên
nồng độ chất khô giảm xuống và sau khi châm nước nồng độ chất khô
ngày càng giảm do sự tạo thành rượu ngày càng nhiều.
• Về pH: trong suốt quá trình đều giảm xuống.
Cacbohydrat 79 g
- Đường 0.12 g
- Xơ tiêu hóa 1.3 g
Chất béo 0.66 g
Protein 7.13 g
Nước 11.62 g
Thiamin (Vit. B1) 0.070 mg 5%
Riboflavin (Vit. B2) 0.049 mg 3%
Niacin (Vit. B3) 1.6 mg 11%
Axít pantothenic (B5) 1.014 mg 20%
Vitamin B6 0.164 mg 13%
Folat (Vit. B9) 8 μg 2%
Canxi 28 mg 3%
Sắt 0.80 mg 6%
Magiê 25 mg 7%
Phốtpho 115 mg 16%
Kali 115 mg 2%
Kẽm 1.09 mg 11%
Các phần trăm là theo
khuyến cáo của Mỹ cho người lớn.
1.1.2. Enzyme
Các enzyme sử dụng trong quá trình đường hóa
- Enzyme α - amylase (enzyme dịch hóa): Enzyme α-Amylase là protein có phân
tử lượng thấp, thường nằm trong khoảng 50.000 đến 60.000 Dal. Có tác dụng lên
nối α - 1,4 glucozit ở vị trí bất kì, nhưng tập trung vào giữa mạch amyloza và
amylopctin. Dưới tác dụng của enzyme, tinh bột chuyển hóa thành dextrin +
maltoza + 1 ít glucoza. Lúc này độ nhớt của tinh bột giảm nhanh.
Nhiệt độ hoạt động của enzyme:
9 α - amylase của vi khuẩn hoạt động tốt ở nhiệt độ tối ưu = 95-100 0C.
9 α - amylase của mầm thóc hoạt động tốt ở nhiệt độ tối ưu = 73-760C.
9 α - amylase của Asp.ozyzae hoạt động tốt ở nhiệt độ tối ưu =50-55 0C.
=> pH của môi trường và nhiệt độ tối ưu cũng phụ thuộc vào nhau: nhiệt độ tăng
thì pH tăng.
t0C pH tối ưu
30-40 4.5-5
50 4.6-5
60 5.2-5.5
70 5.3-5.8
- Enzyme β - amylase (enzyme đường hóa): có tác dụng lên nối α - 1,4 glucozit,
nhưng bắt đầu từ vòng không có nhóm khử và cắt theo hai gốc glucoza một trong
phân tử của amyloza và amylopectin. Sản phẩm tạo thành là maltoza, có khả năng
biến đổi amyloza hoàn toàn thành maltoza, còn với amylopectin chỉ cắt được 50-
55%.
pH tối ưu = 4.8 ( β - amylase của mầm thóc)
- Enzyme glucose amylase: cũng là một exoenzyme, cắt liên kết 1,4-glucoside và
1,6-glucoside, mỗi lần phân cắt tạo một phân tử glucose.
S.cerevisiae có đặc tính riêng về khả năng tạo cồn, chịu sunfit, tổng hợp
các cấu tử bay hơi và các sản phẩm thứ cấp tạo ra cho sản phẩm có mùi vị đặc
trưng riêng biệt.
Ở giai đoạn cuối lên men Saccharomyces cerevisiae kết lắng nhanh và làm
trong dịch rượu.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình lên men các tế bào Saccharomyces
cerevisiae thường bị già, không tiếp tục chuyển đường thành cồn và bị chết rất
nhanh.
1.2. Tổng quan về sản phẩm
Rượu được chiết xuất từ gạo hoặc tinh bột, điều đó sẽ giúp ích cho cuộc
sống của chúng ta và đồng thời cũng giúp ích rất nhiều cho những ứng dụng trong
công nghệ chế biến thức ăn và dược phẩm.
Công nghệ sản xuất rượu đã và đang là một công nghệ chuyên nghiệp lâu
đời ở nhiều nước trên thế giới. Phương pháp truyền thống là dựa vào kinh nghiệm
và kỹ thuật thủ công. Nhưng ngày nay, những thiết bị tự động hoá và sử dụng
enzyme công nghiệp đang dần thay thế và đồng thời kiểm soát được chất lượng
cũng như cải thiện được vấn đề vệ sinh trong quá trình sản xuất.
Do đó mà việc sản xuất rượu sử dụng enzyme được sử dụng trong sản xuất
công nghiệp để tạo ra hiệu suất cao hơn so với sản xuất rượu bằng phương pháp
truyền thống.
Gạo
Xay, nghiền
Hồ hóa
Dịch hóa
18
16
14
12
10 pH
8 Độ Brix
6
4
2
0
1 2 3 4 5 6
Ngày
4. Nhận xét
Qua các ngày theo dõi độ pH và độ brix của sản phẩm ta thấy rằng độ pH và
độ Brix đều giảm. Độ brix giảm là do nấm men trong quá trình lên men đã sử dụng
cơ chất là đường pH giảm là do khi lên men bên cạnh sản phẩm chính là rượu thì
còn có sản phẩm phụ là các axit như axit acetic, lactic, citric, pyruvic… nên sẽ làm
cho pH giảm. Ta cũng nhận thấy rằng những ngày đầu độ brix sản phẩm giảm
nhưng ít chứng tỏ giai đoạn đầu nấm men mới chỉ tiếp nhận lượng đường có trong
dịch, sự lên men xảy ra rất chậm, lượng đường sử dụng lên men không đáng kể.
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn lên men chính, sự phát triển của nấm men và sự
lên men tăng nhanh và đạt cực đại nên độ brix giảm mạnh. Giai đoạn sau thì cơ
chất còn ít nên quá trình lên men xảy ra chậm.
5. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình thực hành Công nghệ sản xuất đồ uống, Trường DHCN TP HCM.
2. Giáo trình Công nghệ đồ uống, trường ĐH Công Nghiệp TP. HCM, 2008.
3. http://vi.wikipedia.org
4. http://www.scribd.com/doc/31969200/Tieu-Luan-Enzym-Amylase
Trong dịch giấm chín ngoài cồn còn có đường sót, tinh bột sót, sản phẩm phụ
của quá trình lên men nên việc xác định độ cồn bằng cồn kế chỉ mang tính tương
đối.
Cách đo độ cồn:
Chưng cất
Đo độ cồn
Chú ý lấy chính xác 100 ml dịch giấm chín rồi thêm 100 ml nước rồi lắp vào
hệ thống chưng cất tiến hành chưng cất. Sau đó lấy chính xác 100 ml dịch cất ( có
thể lấy 80 ml dịch cất và bổ sung thêm nước đến 100 ml vì trong quá trình chưng
cất cũng chỉ được khoảng 80 ml cồn nếu tiếp tục chưng cất cũng chỉ được nước).
Sau đó làm lạch dịch này xuống 200C để đo độ cồn (cồn kế được đo ở 200C)
Cho nước và đường vào nồi gia nhiệt đến sôi (chú ý chỉ sôi nhẹ, nếu sôi mạnh
sẽ có hiện tương đường bám quanh thành nồi gây hao hụt). Sau đó cho acid citric
vào, đậy nắp bắt xuống bếp, giữ nhiệt 85-900C trong 45 phút. Nếu không giữ ổn
định nhiệt sẽ xảy ra tình trạng kết tihnh đường do phần trên giảm nhiệt độ, xuất
hiện lớp ván khi làm nguội.Mục đích cho acid citric vào dung dịch đường: chuyển
saccharose thành đường khử tránh hiện tượng kết tinh đường.
lá chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế biến. Việc
thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn sau khoảng 1 đến 2 tuần.
Một số các biến thể khác nhau của C. sinensis được sử dụng để sản xuất
- Biến thể Assam
Phần lớn chè được sản xuất từ biến thể này (đôi khi nó được gọi là C.
sinensis assamica hay C. assamica). Nó là loại cây nhỏ (thân đơn) với lá to. Trong
tự nhiên, nó cao tới 6 - 20 mét (20–65 ft); trong các khu vực trồng để lấy lá người
ta xén tỉa nó xuống chỉ còn cao trên hông người. Ở những vùng đất trũng, yêu cầu
của nó là có độ ẩm cao (mưa nhiều) nhưng thoát nước tốt. Những cây trồng này
không có khả năng chống chịu được điều kiện quá nóng. Cây chè Assam được
phát hiện năm 1823 (mặc dù nó đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ
uống từ trước đó) là một trong hai cây chè gốc. Tất cả các cây chè Assam và phần
lớn chè Ceylon (Tích Lan, nay là Sri Lanka) có nguồn gốc từ cây này. Chè Assam
tạo ra hương vị ngọt của đồ uống, không giống như hương vị của các loại chè
Trung Hoa khác.
- Biến thể Trung Quốc
Chè Trung Quốc (đôi khi gọi là C. sinensis sinensis) là loài cây lá nhỏ,
nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại chè đầu tiên được phát
hiện, ghi chép lại và sử dụng để sản xuất chè có từ hơn 3000 năm trước, nó dùng
để sản xuất nhiều loại chè nổi tiếng.
- Biến thể Cam pu chia
Chè Cam pu chia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá của chúng về
kích thước nằm giữa kích thước của lá chè Assam và lá chè Trung Quốc; nó là một
loại cây nhỏ với một số thân. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai
ghép của chè Assam và Trung Quốc.
Chè tại Việt Nam
Cây chè tại Việt Nam đến giữa thể kỷ 20 được trồng khắp miền quê ngoài Bắc
và Trung, diện tích lớn nhất ở hai tỉnh Phú Thọ và Quảng Nam. Loại này thân mọc
cao, lá lớn và dầy, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi gọi là chè xanh. Loại thứ
hai là chè đồn điền, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước. Hạng nhất là
chè búp, có khi gọi văn vẻ là "chè bạch mao" hay "chè bạch tuyết" nếu búp có
lông tơ trắng. Hạng nhì là hai lá chè kế. Lá thứ tư, thứ năm là chè hạng ba. Những
lá dưới nữa thì dùng làm chè mạn, rẻ hơn cả.
Thời Pháp thuộc vào thập niên 1930 chè được đem trồng một cách quy mô trên
cao nguyên vùng B'lao và Djiring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa chè.
Tính đến năm 1960, Việt Nam xuất cảng 2.000 tấn chè mỗi năm. Đến năm
2007 thì sản lượng chè của Việt Nam đã vượt một triệu tấn, canh tác trên 125.000
hecta.
Tác dụng của trà xanh
Trà nói chung, và Trà xanh (green tea) nói riêng, không những là một thứ thức
uống để giải khát, mà còn là một y-dược rất hữu ích để bảo vệ sức khỏe của con
người với các công dụng sau:
• Trà xanh có tác dụng điều trị các bệnh viêm khớp và bệnh tim.
• Những chất Polyphennol có trong trà xanh có vai trò quan trọng trong việc
phòng chống bệnh ung thư.
• Catechin hợp chất tạo nên vị đắng của trà xanh có công dụng hữu hiệu
trong việc tiêu diệt hầu hết các những loại vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm
và giải trừ luôn những độc tố do vi khuẩn tiết ra cụ thể đây là độc tố
Veratoxin của Ecoli -157, giảm nguy cơ đột biến gen giảm cholesterol.
• Caffeine giúp bạn tỉnh táo giảm mỗi mệt, buồn ngủ, dùng như chất lợi tiểu.
• Vitamin C giảm stress, ngừa cảm cúm.
• Acid Gama-AminoBityric(GABA) hạ huyết áp.
• Flavomoid tăng cường sức khoẻ thành động mạch, ngừa hôi miệng.
• Polysaccharide ngừa tăng đường máu Fluoride ngừa sâu răng.
• Vitamin E như là chất chống oxy hoá duy trì tuổi xuân
• Theanine tăng cường khẩu vị .
• Giảm bớt rủi ro về đột qụi (Reducing the risk of stroke)
Lượng acid citric tan 190 200 210 225 242 282
được (g/100ml)
Chức năng: điều chỉnh độ acid làm cho sản phẩm nước giải khát có vị chua
hài hòa, chống oxy hóa, tạo phức kim loại.
Có thể nhận được axit citric bằng các phương pháp sau:
- Bằng phương pháp nuôi cấy vi sinh vật : lên men dịch đường do tác dụng
của enzyme chứa trong chủng nấm mốc Aspergillus niger.
khát pha chế…Trong đó nước giải khát trích ly đang là mặt hàng thu hút một
lượng lớn người tiêu dùng ở mọi lứa tuổi do nó tạo cảm giác mát, sảng khoái khi
dùng mà còn có nhiều công dụng phòng chữa bệnh vì được trích ly từ các loại
nguyên liệu tự nhiên.
Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại nước giải khát trích ly như trà
xanh O 0, trà bí đao, nước sâm, rong biển ….Có nhiều phương pháp trích ly khác
nhau nhưng chủ yếu là sử dụng nhiệt.
Trong đó trà là nước giải khát thông dụng của mọi người nhất ở Đông Nam
Á vì những lợi ích của trà mang lại cho sức khỏe con người lẫn về y học. Trà có
thể được trích ly bằng phương pháp đun sôi sau đó được pha chế khá đơn giản với
syrup và acid citric để tạo vị ngọt, chua thích hợp cho sản phẩm theo tỉ lệ thích
hợp. Nước trà xanh được sử dụng nhiều trong những ngày hè nóng bức đem lại sự
mát mẻ, dễ chịu khi thưởng thức.
2. Quy trình công nghệ
2.1 Sơ đồ quy trình
Lá trà xanh
Xử lý
Lọc Bã
Đóng nắp
Thanh trùng
SVTH: Nhóm 3- Tổ 5 http://www.ebook.edu.vn Trang 33
Sản phẩm
Báo Cáo: Thực Hành CNSX Đồ Uống GVHD: Th.S Trần Thị Mai Anh
¾ Thanh trùng : ở nhiệt độ 100 0C trong vòng 40 – 50 ph nhằm mục đích tiêu
diệt vi sinh vật giúp bảo quản sản phẩm được lâu.
3. Kết quả
Khối lượng lá trà xanh ban đầu là 200g → lượng nước trích ly là 4
lít.
Độ Brix ban đầu của dịch trà: 10Bx.
Độ Brix của dịch Syrup: 66 0Bx.
Độ Brix mong muốn của sản phẩm là: 9 0Bx.
Ta có:
1 57
66 8
Mỗi lần pha chế với 100ml dịch trà→ lượng dịch syrup cần sử dụng là:
100 57 100 x8
= ⇒V = = 14,035 ml
V 8 57
Acid citric được pha loãng để phối chế dễ dàng hơn vì chỉ cần một lượng acid
nhỏ, nếu nồng độ quá cao thì rất khó khống chế độ chua của sản phẩm.
Sau nhiều lần pha chế ta có được công thức như sau:
Pha loãng dịch theo tỉ lệ 3:1 (75 ml dịch : 25ml nước) do nước trà đậm đặc,
vị đắng còn nhiều nên pha loãng để giảm bớt. Vì vậy tỉ lệ nước trích ly lúc đầu sẽ
tăng lên 100g nguyên liệu : 2,3 lít nước.
Với 100ml dịch ta phối chế với 13ml dịch syrup + 0,07g Acid citric. Độ
Brix cuối cùng của sản phẩm là 10 0Bx.
4. Nhận xét
¾ Sau khi pha chế ta thấy sản phẩm có màu vàng sáng, trong, vị ngọt, chua
vừa phải, có vị đắng, hơi chát, hương thơm của trà.
¾ Sau 7 ngày ta thử cảm quan lại sản phẩm: nhìn bên ngoài sản phẩm ta thấy
nắp vẫn kín, nước vẫn trong, màu vàng, không có dấu hiệu của sự hư hỏng
chứng tỏ ta không cần sử dụng chất bảo quản vẫn có thể giữ sản phẩm
không bị hư hỏng. Sau khi nếm thử thấy sản phẩm vẫn đạt yêu cầu, có vị
chát, đắng của trà, vị chua, ngọt vừa phải nhưng có thêm vị nấu (do quá
trình thanh trùng ) làm cho sản phẩm có vị khác hơn so với ban đầu ban
đầu.
5. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình thực hành Công nghệ sản xuất đồ uống, Trường DHCN TP HCM.
2. Giáo trình Công nghệ đồ uống, trường ĐH Công Nghiệp TP. HCM, 2008.
3. http://vi.wikipedia.org
4. http://www.vietgiaitri.com/suc-khoe/2009/11/tac-dung-cua-la-che-xanh/
5. http://www.saga.vn/view.aspx?id=689
6. http://www.khoahoc.net/baivo/buithetruong/timhieuvetraxanh.htm
7. http://www.bacninh.gov.vn/Story/XaHoiPhatTrien/SucKhoe/2010/9/22446.html
8. http://vietbao.vn/Suc-khoe/Tac-dung-cua-la-che-xanh/65148425/252/
Nguyên liệu
(matl đại mạch 100g)
Xay, nghiền
0
52-53 C;10 phút
65-630C:30 phút Nấu
72-750C:20 phút (NL/nước:1/5)
76-780C
Lọc
Chỉnh độ Brix
( 14-14,5)
Phân phối
vào dụng cụ
Bao gói
- Malt dược xay, nghiền trước khi nấu nhằm mục đích: tăng bề mặt tiếp xúc
với nước, giúp nước xâm nhập nhanh hơn vào nội nhũ, thúc đẩy quá trình đường
hóa và quá trình thủy phân khác nhanh, triệt để hơn.
- Sau khi xay, matl được phối trộn với nước, tỉ lệ malt/ nước là 1/5. Sau đó
dùng acid lactic để điều chỉnh pH về 5,4 – 5,6. Mục đích của quá trình này là tạo
môi trường pH thích hợp cho các enzym trong malt hoạt động.
- Nấu: quá trình nấu malt được chia thành 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: nâng nhiệt độ nồi malt lên 52-530C và giữ ở nhiệt độ này
trong 10 phút. Đây là nhiệt độ thích hợp cho quá trình đạm hóa nhằm phân hủy
protein thành các acid amin cung cấp chất dinh dưỡng cho nấm men hoạt động sau
này.
+ Giai đoạn 2: nâng nhiệt độ lên 63-650C và giữ trong 30 phút. Mục đích
của quá trình này là tạo điều kiện tốt cho enzym β-amylase hoạt động thủy phân
tinh bột thành đường cho nấm men sử dụng vào hoạt động sống của chúng sau
này.
+ Giai đoạn 3: nâng nhiệt độ lên 76-780C và giữ ở nhiệt độ này trong 20
phút. Đây là nhiệt độ lí tưởng cho enzym α-amylasa trong malt hoạt động để thủy
phân tinh bột trong malt thành đường.
Sau quá trình nấu như trên, tiếp tục nâng nhiệt độ lên 76-780C rồi đem đi
lọc.
- Lọc: nhiệt độ mang đi lọc là 76-780C nhằm mục đích thúc đẩy nhanh quá
trình lọc và đồng thời cũng giúp các enzym trong matl tiếp tục thủy phân tinh bột
sót thành đường. Tuy nhiên nhiệt độ lọc không được quá 800C vì sẽ vô hoạt
enzym.
Sau khi lọc xong sẽ điều chỉnh Brix của dung dịch đến 14-14,5 để tạo điều
kiện thuận lợi cho nấm men hoạt động. Nếu Brix thấp hơn thì không đủ chất dinh
dưỡng cho nấm nmen sử dụng còn nếu cao hơn sẽ ức chế hoạt động của nấm men.
- Phân phối vào dụng cụ chứa: dung dịch sau khi lọc được phân phối vào
hai ống nghiệm, mỗi ống chúa 10 ml và một erlen dung tích 250 ml chứa 100ml
dung dịch.
- Tiệt trùng: các dụng cụ chứa sau khi bao gói được mang đi tiệt trùng
nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các vi sinh vật còn lại trong môi trường, đảm bảo
điều kiện vô trùng để không làm hư hỏng môi trường, giúp cho nấm men hoạt
động tốt sau này. Nhiệt độ tiệt trùng là 1210C trong 20 phút.
- Vitis arizonica một loài nho vùng sa mạc ở miền tây nam Hoa Kỳ, chịu
được sự chênh lệch nhiệt độ lớn. Có thể dùng sản xuất rượu vang.
- Vitis califonica một loài nho quan trọng đối với công nghiệp sản xuất rượu
vang của California vì các thân ghép của chúng có khả năng chịu dịch bệnh và thời
tiết lạnh.
- Vitis vulpina, loài nho chịu sương muối.
Hiện nay, người ta đã tạo ra nhiều giống nho để trồng; chủ yếu là các giống
của V. vinifera.
Nho có vị ngọt, giàu chất dinh dưỡng, dễ chuyển hóa trong cơ thể tạo thành
nhiều loại vitamin. Thông thường, 100g nho có chứa khoảng 4mg vitamin nhóm B
(B1, B2, B3, B5, B9) và các chất khoáng vi lượng cần thiết cho cơ thể như kali,
phosphor, can xi, lưu huỳnh, magne, sắt, natri, cobalt... Nho được coi là loại quả
quý dùng để chế biến nhiều món ăn và đồ uống ngon, có màu sắc và có mùi thơm
hấp dẫn như rượu nho, nước ép nhi, nho khô...
Quả nho ép được 85 – 95% dịch quả. Nho có thành phần hóa học trung bình
như sau:
- Nước : 70 – 80%
¾ Nấm men
Nấm men được dùng trong sản xuất nước giải khát lên men chủ yếu là
Saccharomyces cerevisiae.
Đa số các tế bào có hình ovan, kích thước (3 –
8) x (5 – 12) μ m, sinh sản theo lối nẩy chồi và tạo
thành bào tử. Saccharomyces cerevisiae sinh ra enzyme
invectara có khả năng khử đường sacaroza thành
fructoza và glucoza. Nguồn dinh dưỡng cacbon của
S.cerevisiae là đường, cồn và acid hữu cơ, những tác
nhân sinh trưởng là acid pantotinic, biotin, mezoinozit, thiamin và piridoxin.
S.cerevisiae có đặc tính riêng về khả năng tạo cồn, chịu sunfit, tổng hợp
các cấu tử bay hơi và các sản phẩm thứ cấp tạo ra cho sản phẩm có mùi vị đặc
trưng riêng biệt.
Ở giai đoạn cuối lên men Saccharomyces cerevisiae kết lắng nhanh và làm
trong dịch rượu.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình lên men các tế bào Saccharomyces
cerevisiae thường bị già, không tiếp tục chuyển đường thành cồn và bị chết rất
nhanh.
¾ Enzyme Pectinase
Được bổ sung vào để xử lí pectin, làm tăng lượng dịch thu được, dễ trích ly,
làm giảm độ nhớt của sản phẩm, dễ lọc, làm trong.
¾ Syrup
Là đường Saccharose đã được chuyển về dạng đường khử. Được bổ sung
vào môi trường lên men nhằm điều chỉnh độ đường đạt hàm lượng cần thiết cho
quá trình lên men.
1.2. Tổng quan về sản phẩm
Nước giải khát lên men là sản phẩm của quá trình lên men rượu chưa kết
thúc, là loại đồ uống có cồn được sản xuất bằng phương pháp lên men từ các loại
trái cây không qua chưng cất. Trên cơ sở biến đổi hoá sinh xảy ra trong quá trình
lên men các loại nước quả dưới tác dụng của hệ enzym của nấm nem.
Trong quá trình lên men này, ngoài quá trình lên rượu còn quá trình lên
men axit hữu cơ (mà chủ yếu là chuyển từ các axit hữu cơ thành axit lactic). Nhờ
môi trường dinh dưỡng phong phú nên sản phẩm hình thành ngoài Etanol, còn có
axit hữu cơ, Glyxerin, các chất gây hương làm cho nước giải khát có hương vị đặc
biệt mà các sản phẩm nước giải khát bình thường không có
Các thành phần chính trong nước giải khát len men
Cồn
Ethanol được hình thành trong quá trình lên men đường glucose, saccharose
nhờ nấm menEthanol có mùi thơm, vị hơi ngọt. Ethanol cùng với axit bay hơi,
đường và nhiều thành phần khác có trong nước giải khát lên men tạo nên mùi vị
hấp dẫn riêng biệt của nó. Vị của nước giải khát lên men được tạo lên từ tỷ lệ cân
đối của 4 vị là : Vị chua (axit hữu cơ), vị ngọt (Ethanol, glycerin, đường còn lại),
vị chát (tanin, polyphenol), vị mặn (các muối khoáng).
Độ cồn trong sản phẩm thông thường đạt 0.5-1.5%vol theo % thể tích.
Acid hữu cơ
Nguồn gốc của các axit hữu cơ là từ quả và hình thành trong quá trình lên
men. Axit là một thành phần quan trọng của nước giải khát lên men. Tổng axit
thường được cung cấp từ quả là chính khoảng 4-5 g/l làm cho pH của nước giải
khát từ 2,8 ÷ 3,5.
Vai trò của các axit là tham gia tạo vị (vị chua) và tạo pH thấp từ đó làm ổn
định sản phẩm. Axit hữu cơ trong nước giải khát còn có một tác dụng là ngăn cản
hoạt động của các khuẩn làm hỏng nước giải khát.
Đường
Đường là thành phần còn lại sau lên men trong đó chủ yếu là Glucose,
fructose và phần nhỏ galactose. Ngoài ra còn có các loại đường khác đặc biệt
đường nghịch đảo đã tạo nên mùi thơm dễ chịu cho nước giải khát thành phẩm.
Thành phần đường còn lại cũng là yếu tố tham gia tạo vị cho sản phẩm. Nếu trước
khi lên men bổ sung đường saccharose thì toàn bộ bị thủy phân thành đường khử.
Nồng độ đường trong sản phẩm thường vào khoảng 5-8 % theo khối lượng.
Vitamin
Vitamin trong nước giải khát lên men chủ yếu là do nguyên liệu cung cấp
và một phần được bổ sung từ ngoài vào. Các vitamin gồm: Vitamin nhóm B,
vitamin C, vitamin A và các chất tiền vitamin A. Hàm lượng vitamin trong thành
phẩm phụ thuộc rất lớn vào nguyên liệu, mỗi loại quả khác nhau sẽ có hàm lượng
vitamin khác nhau.
Tro và các chất muối
Trong nước giải khát lên men, tro và các chất muối có được là do nguyên
liệu cung cấp, và một phần được bổ sung vào. Một số chất khoáng như P, S, K,
Na, Ca, Mg, Si, Se, Mn, Br, Cl, I, Al ... các chất khoáng này có thể tồn tại dưới
dạng tự do hoặc có thể ở các dạng muối. Hàm lượng tro trong nước giải khát lên
men thường vào khoảng 1.5-3 g/l.
Vai trò của chất khoáng trong nước giải khát lên men là làm tăng giá trị
dinh dưỡng và giá trị chữa bệnh cho con người. Đồng thời chất khoáng còn có vai
trò quan trọng là tham gia tạo vị đậm đà cho nước giải khát và cùng với vị ngọt, vị
chua, vị chát tạo nên vị hài hòa cho nước giải khát nên men.
Polyphenol
Phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và kỹ thuật sản xuất hàm lượng
polyphenol sẽ khác nhau. Polyphenol có vai trò:
- Tạo màu cho nước giải khát : Trong đó flavonol cho màu vàng, antoxian
cho màu đỏ.
- Tạo vị chát
- Ổn định thành phẩm, kéo dài thời gian bảo quản do các polyphenol và
tanin có khả năng kháng khuẩn mạnh.
Tuy nhiên tanin dễ bị oxi hóa làm cho nước giải khát lên men có màu sẫm
lại, đây là yếu tố không tốt cần phải lưu ý trong quá trình xử lý dịch quả trước khi
lên men. Nếu hàm lượng polyphenol cao sẽ làm cho nước giải khát lên men có vị
chát mạnh, ảnh hưởng không tốt đến mùi vị và làm cho vị bị kém đi. Đồng thời sẽ
tạo nên hàm lượng tanin cao gây kết tủa protein của nước quả làm cho nước giải
khát bị đục .
2. Quy trình công nghệ
Sơ đồ quy trình
Nho
Xử lý
Xay, nghiền
Enzyme Xử lý pectin
pectinase
Lọc bã
Điều chỉnh
dịch
Thanh trùng
Syrup,
nấm men
Làm nguội
luôn cả hạt sẽ làm cho dịch nho có vị đắng và chát, ảnh hưởng tới chất lượng sản
phẩm.
- Nho sau khi được xử lí đem đi xay, nghiền. Đây là quá trình cơ học phá
vỡ tế bào, giải phóng dịch nho. Dịch nho xay không được quá nát sẽ dẫn đến khó
lọc. Trong quá trình xay không bổ sung nước, vì trong bản thân nho nước đã
chiếm tới 85-95%.
- Nho sau khi xay đem đi xử lí pectin bằng cách cho vào 2ml/l (v/v)
enzyme pectinase, 45-500C trong 45 phút. Mục đích của quá trình xử lí pectin là
để cho enzyme pectinase phân hủy pectin, làm tăng lượng dịch thu được, làm giảm
độ nhớt của dung dịch và dễ lọc. Đồng thời góp phần vào ổn định và làm trong sản
phẩm.
- Sau đó dùng vải lọc để lọc loại bỏ xác và thu lấy dịch lọc. Dịch lọc thu
được chỉnh về Bx=20-210Bx bằng syrup 660Bx. Quá trình điều chỉnh này nhằm
điều chỉnh hàm lượng chất khô hòa tan về nồng độ thích hợp để cung cấp cho nấm
men phát triển và lên men.
- Dịch lọc sau khi điều chỉnh được thanh trùng ở 800C trong 15-20 phút.
Nếu thanh trùng ở nhiệt độ cao hơn sẽ làm biến đổi màu của dịch lọc rất nhiều,
màu của dịch lọc sẽ sẫm đi. Sau đó làm nguội nhanh dịch xuống nhiệt độ phòng
28-300C.
- Dịch sau khi làm nguôi được đem đi lên men. Nấm men sử dụng là
Saccharomyces cerevisiae, 0.5g/l, lên men ở trong tủ mát trong 7 ngày. Đây là quá
trình lên men để tạo cồn (lên men lần 1).
- Sau 7 ngày, nếu muốn tạo nhiều CO2 trong sản phẩm, ta lấy một thể tích
nhất định sản phẩm cho vào chai đã được thanh trùng để lên men lần 2. Lúc này ta
cần bổ sung một số dưỡng chất và bổ sung thêm nấm men. Ta bổ sung syrup sao
cho lượng đường đạt 16-20 g/l, và lượng nấm men bổ sung là 0.2mg/l. Sau đó để
lên men ở nhiệt độ bình thường.
3. Kết quả
¾ Khối lượng nho: mnho=2kg
Độ cứng: từ mềm tới trung bình, hàm lượng muối cacbonat <50mg/l, muối
clorua 75-150mg/l, hàm lượng Fe2+
<0.3mg/l, không có sự tồn tại của
muối NO3- , NO2 và khí NH3,Độ pH
=6.5-7, Vi sinh vật <100 tế bào/1cm3
5. Nấm men
nhiệt độ cao 14-16oC, khó lắng, thời gian lên men từ 4-6 ngày.
Giống men chìm (S. carlsbergeis): phát triển ở tầng sâu của thiết bị, ở nhiệt
độ thếp dưới 10oC dễ lắng, dễ lọc tạo điều kiện cho việc thu hồi men tái sản
xuat61m thời gian lên men từ 12-17 ngày.
Tế bào nấm men phải to khỏe,thuần khiết. Mật độ tế bào khoảng 10-12 triệu
tế bào/ml. Tỷ lệ tb chết nhỏ hơn 2%.
chiết cũng rất quan trọng, càng ít chất hợp chất không mong muốn (ví dụ tanin
trong vỏ trấu) càng tốt, ngược lại càng nhiều đường hoặc một số sản phẩm thủy
phân từ protein càng tốt .
Tóm lại mục đích của quá trình đường hóa là tạo ra được càng nhiều chất
chiết và chất lượng dịch càng cao càng tốt. Phần lớn chất chiết được tạo ra nhờ
những phản ứng enzyme, các enzyme hoạt động mạnh tại các nhiệt độ thích hợp.
Bởi vậy, quá trình đường hóa được thực hiện tại những điểm nhiệt độ thích hợp
cho hoạt động của các enzyme.
3.2.2 Các biến đổi trong quá trình nấu
3.2.2.1 Tính chất của các enzym
Tính chất quan trọng nhất của các enzym là chức năng phá hủy các mối liên
kết hóa học trong các cơ chất. Hoạt tính này cùa các enzym phụ thuộc vào nhiều
yếu tố :
- Nhiệt độ : hoạt tính tăng lên khi nhiệt độ tăng, mà đạt cao nhất tại nhiệt độ
thích hợp riêng. Nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tối ưu thì hoạt tính của enzym sẽ giảm
nhanh do giãn nở cấu trúc không gian và bị vô hoạt nhanh chóng khi nhiệt độ tăng
nhanh. Hoạt tính đặc trưng của các enzym tại các khoảng nhiệt độ thích hợp thì sẽ
không thay đổi tính chất, trong khi tại nhiệt độ thấp hầu như không xác định được.
Bảng 6: Nhiệt độ tối thích của các loại enzym
Loại Enzym top( 0C) Sản phẩm chính
α-amylase 70-75 Dextrin
ß-amylsea 60-63 Maltose
Amilophosp 70 Dextrin
hatase
- pH: do cấu trúc của enzym thay đổi theo pH, mỗi loại enzym hoạt động
mạnh nhất khoảng pH nhất định, và giảm ở pH quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh
hưởng tới hoạt tính của enzym. Ảnh hưởng của pH ít hơn so với nhiệt độ.
3. 2.2.2 Sự biến đổi của tinh bột
Trong quá trình nấu nguyên liệu, sự hoạt động của các enzym có sẵn trong
nguyên liệu là rất quan trọng. Để cho các enzym này hoạt động tốt thì trong quá
trình nấu, ta phải kiểm soát các yếu tố nhiệt độ, pH thích hợp cho từng loại enzym
để chúng tiến hành thủy phân nguyên liệu một cách hiệu quả nhất.
Các biến đổi của tinh bột trong quá trình nấu dưới tác dụng của enzym là:
Enzym α – amylase: Hoạt động tốt nhất ở nhiệt độ 70 – 750C, pH khoảng 5,6
– 5,8 tác động lên mạch amylose và amylopectin, cắt đứt liên kết 1,4 – glucozit
của phân tử tinh bột và chuyển thành các destrin, một lượng nhỏ glucose và
maltose.
Enzym β – amylase: Hoạt động tốt ở nhiệt độ 60 – 650C, pH khoảng 5,4 – 5,6
tác động lên mạch amylose và mạch nhánh amylopectin, cắt đứt liên kết 1,4 –
glucozit theo kiểu từng đôi một và sản phẩm tạo thành là các đường maltose và
một lượng nhỏ destrin.
Phương trình tổng quát:
(C6H10O5)n + n H2O Æ nC6H12O6
Khi nhiệt độ lên tới 80 – 850C thì hầu hết các enzym ngừng hoạt động, nhiệt
độ lúc này đóng vai trò hồ hóa tinh bột, hỗ trợ yếu tố công nghệ cho giai đoạn sau.
Khi nhiệt độ lên tới 1000C thì lúc này là lúc nấu chín hoàn toàn các hạt tinh bột.
Quá trình đường hóa tinh bột (hay quá trình thủy phân tinh bột) được diễn
qua 3 giai đoạn chính theo trình tự sau:
* Sự hồ hóa
Khi ngâm nước nóng, một lượng nước thấm vào phân tử tinh bột là tăng thể
tích hạt, dẫn đến trương nở, cuối cùng vỡ tung. Dịch tăng độ nhớt, tùy vào độ hút
nươc của bột malt và loại nguyên liệu thay thế malt được sử dụng. Quá trình phân
hủy này diễn ra không mang tính hóa hoc và gọi là quá trình hồ hóa.
Sau khi hồ hóa, tinh bột không còn liên kết chặt chẽ với nhau nữa, các phân
tử tinh bột được giải phóng tự do vào dung dịch nhớt, tạo thuận lợi cho các enzym
amylaza trong dịch tác động trực tiếp với tinh bột - sự thủy phận tinh bột diễn ra
nhanh hơn.
Nhiệt độ hồ hóa phụ thuộc vào tinh bột của loại hạt và cỡ to của hạt tinh bột,
hạt càng nhỏ thì nhiệt độ hồ hóa càng cao. Tinh bột gạo bị hồ hóa ở 80-850C, đây
là nhiệt độ hồ hóa cao nhất, tinh bột lúa mì bắt đầu hồ hóa ở nhiệt độ 60-850C, tinh
bột khoai tây bị hồ hóa ở 55-600C.
* Sự dịch hóa
Trong phân tử tinh bột có chuỗi mạch dài tạo nên từ các gốc glucoza
(amyloza và amy lopectin) bị phá hủy nhanh chóng bởi α – amylase hình thành các
mạch ngắn hơn, làm độ nhớt dung dịch giảm nhanh. β – amylase chỉ có thể phân
tách từ từ mạch tinh bột từ đầu không khử, nên sự thủy phân tinh bôt nhờ enzyme
này chậm.
Vậy quá trình dịch hóa làm giảm độ nhớt của dịch bột đã hồ hóa. Enzym tác
động dịch hóa thích hợp nhất ở nhiệt độ là 60-700C, pH=4,6 và dễ bị phá hủy ở
nhiệt độ 800C trong thời gian ngắn.
* Sự đường hóa
Sự thủy phân tinh bột diễn ra ở giai đoạn đường hòa chủ yếu là:
- α – amylase: phân cắt các mạch dài thành dextrin ngắn hơn; hoạt động tốt
nhất ở t=70 – 750C và pH=5,6 – 5,8; bị vô hoạt nhanh ở 80oC.
- β – amylase: tạo ra maltoza từ đầu không khử của mạch, nó cũng tạo ra
glucoza và maltotrioza, hoạt động tốt ở t=60-650C và pH=5,4-5,6. Rất nhạy với
nhiệt độ cao hơn và mất hoạt tính ở 70oC.
Sự thủy phân tinh bột cần được theo dõi và kiểm tra liên tục, do nếu tinh bột
và các dextrin mạch dài thủy phân hết sẽ gây đục dịch. Thời gian thủy phân các
phân tử tinh bột cho đến khị không phân tử tinh bột và dextrin mạch dài nữa (sử
dụng phương pháp dùng iot) gọi là thời gian đường hóa.
Các sản phẩm thủy phân tinh bột hình thành trong quá trình đường hóa và sự
liên quan đến hoạt động của nấm men:
- Dextrin: không lên men được.
- Maltotrioza: có thể lên men được bởi một số chủng nấm men nổi S.
cerevisiae, nhưng nó chỉ lên men sau khi maltoza đã lên men hết.
- Maltoza va các disaccarit khác: được nấm men lên mem dễ dàng.
- Glucoza: là loại đường nấm men sử dụng đầu tiên khi bắt đầu lên men.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thủy phân tinh bột trong quá trình đường
hóa là rất quan trọng, các yếu tố chính là: Nhiệt độ, pH dịch hèm, nồng đõ dịch
hèm ban đầu kèm theo, thời gian đường hóa.
- Ảnh hưởng của nhiệt độ: Ở 62-63oC thu được nhiều maltoza nhất và độ lên
men cuối đạt cao nhất, dịch chứa nhiều maltoza sẽ lên men nhanh hơn và nấm men
hoạt động tốt hơn bởi được giữ lơ lửng trong dịch lâu hơn. Ở 62-64oC trong thời
gian dài thu được dịch lên men cuối cao nhất, nếu vượt quá nhiệt độ này tới 72-
75oC trong thời gian dài thì dịch có nhiều dextrin và độ lên men cuối thấp hơn.
Ảnh hưởng của nhiệt độ là rất lớn nên luôn phải giữ ở các khoảng nhiệt độ tối ưu
của enzyme trong suốt quá trình nấu:
+ to tạo ra maltoza = 62-63oC (nhiệt độ tối ưu của β – amylase).
+ to đường hóa ở 72-75oC (nhiệt độ tối ưu của α – amylase)
+ to cuối cùng của quá trình nấu 76-780C.
Nhiệt độ càng càng cao thì độ nhớt giảm, càng dễ lọc dịch. Tuy nhiên, để có
thể đường hóa hết phần tinh bột còn sót trong dịch, cần giữ nhiệt độ dưới 78oC đế
tránh α–amylase bi vô hoạt.
- Ảnh hưởng của thời gian: Trong quá trình đường hóa, các enzyme hoạt
động theo 2 giai đoạn độc lập. Giai đoạn 1: enzyme hoạt động mạnh nhất sau 10-
20 phút, hoạt tính đạt cực đại ở 62-68oC. Giai đoạn 2: sau 40-69 phút hoạt tính
enzyme bắt đầu giảm, tốc độ giảm từ chậm đến nhanh.
- Ảnh hưởng của pH: pH=5,5-5,6 là tối ưu cho cả 2 loại enzyme. Hàm lượng
chất chiết cao hơn khi pH tăng, tạo nhiều đường có thể lên men và độ lên men cao
hơn. Tuy nhiên, pH dịch hèm phụ thuộc thành phần nước nấu và chất lương malt
nên thường có pH cao hơn, khoảng 5,6-5,9; khi đó ta phải làm giảm pH.
- Ảnh hưởng của nổng độ dịch hèm: Với dịch hèm đặc, các chất khó hòa tan
vào dịch và enzym khó bị vô hoạt bởi nhiệt, lượng đường có thể lên men và độ lên
men tăng. So với các yếu tố còn lại thì ảnh hưởng của nồng độ dịch hèm là thấp
hơn.
3.2.2.3 Sự biến đổi của protid
Trong điều kiện nhiệt độ khoảng 50 – 520C, pH khoảng 5,2 – 5,4 các enzym
protease thủy phân protein tạo albumoza, pepton, polypeptid, peptid, acid amin.
Ngoài ra còn có sự phân cách phân tử acid photphoric ra thành amilopepton. Sự
hòa tan các chất malt, gạo và nước tạo chất chiết cho dịch đường, phản ứng giữa
muối của nước và photphat của cháo malt.
3.2.2.4. Độ acid
pH thích nghi của đa số enzym thấp hơn acid thông thường của nước. Vì vậy,
người ta mới acid hóa mẻ nấu đến pH=5.4-5.6, đây là pH thuận lợi nhất cho đạm
hóa và sự hòa tan các phosphat.
3. 2.2.5. Biến đổi hóa lý
Sự tủa lắng protid: Nhiệt độ cao các protid kém nhiệt sẽ bị tủa lắng. Sự kết
tủa này phụ thuộc vào nhiệt độ, thời gian đun nóng và pH của dịch.
Sự tạo thành melanoid: Trong cháo có một lượng đường và lượng acid amin
đáng kể do các quá trình thủy phân tạo thành. Ở nhiệt độ cao, chúng kết hợp với
nhau tạo thành melanoid góp phần quan trọng trong việc tạo màu, mùi, vị và khả
năng tạo bọt cho bia.
Sự hòa tan các thành phần khác của malt: Nhiệt độ càng cao thì khả năng hòa
tan các chất càng tăng do đó khi nấu những chất đắng, chất chát trong vỏ trấu sẽ bị
hòa tan gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng của bia thành phẩm.
3.2.2.6. Các biến đổi khác
- Phosphat hữu cơ mà không bị hòa tan khi lên mầm, cũng hòa tan ít khi nấu.
nhưng phosphat nào hòa tan cũng sẽ gây phân cắt ra thành inositol và phosphat vô
cơ, dưới tác dụng của phytase.
- Khi nấu, phosphate vô cơ điều kết tủa nhiều với Ca với Mg của nước và
malt.
- Chất khoáng cũng hòa tan theo tỉ lệ chất hòa tan.
Nếu sử dụng cánh khuấy quá ngắn gây phân tách khối dịch hèm dẫn đến
chênh lệch nhiệt độ làm giảm hiệu suất chiết. như vậy, cánh khuấy cần phải được
thiết kế phù hợp và vận hành đúng.
- Sự oxy hóa trong quá trình đường hóa: khả năng hòa tan của không khí
tùy thuộc vào nhiệt độ và nồng độ của dịch hèm. Không khí hòa vào dịch
nhiều sẽ làm sẫm màu đường và màu của bia, hương bia kém đi.
Hỗn hợp sau khi đường hóa (hồ malt hay cháo malt) sẽ hình thành hai pha:
9 Pha lỏng: chứa đựng những chất hòa tan cần thu nhận.
9 Pha rắn: chứa rất nhiều các chất không hòa tan (điển hình như vỏ trấu,
tinh bột sống…).
Mục đích của quá trình lọc là tách phần lỏng cháo malt với vỏ và những
những phần nội nhũ của hạt không tan. Ngoài ra ta còn muốn giữ lại cùng với bã
những chất không mong muốn như kim loại nặng, tannin, lipit,… Còn rửa bã
nhằm lấy lại các chất hòa tan còn lại nằm trong hèm. Lưu ý quá trình lọc nước đầu
cần tiến hành nhanh, nhưng rửa bã chậm để đủ thời gian cho đường trích ly ra
dịch. Kết thúc quá trình rửa bã khi nồng độ đường trong nước rửa bã còn khoảng 1
độ.
Quá trình lọc nước malt – rửa bã chia làm 2 giai đoạn:
3.3.3. Giai đoạn 1 – Lọc dịch đầu
Lọc dịch đầu thu được nước nha đầu, đây là giai đoạn tách dịch ra khỏi bã,
trong suốt quá trình lọc bã đóng vai trò như một lớp vật liệu lọc.
Nước nha đầu phải trong suốt và thường có hàm lượng chất hòa tan từ 14 –
16% tùy vào tỷ lệ nước và nguyên liệu nấu ban đầu.
Sau khi tách dịch ra khỏi bã, trong bã còn giữ lại một lượng các chất hòa tan
đặc biệt là đường… Dùng nước nóng rửa bã rồi lọc thu nước nha cuối. Quá trình
chiết rút chất hòa tan ở giai đoạn rửa bã dựa vào sự khuếch tán của các phần tử từ
nơi có nồng độ cao đến nơi có nồng độ thấp.
3.3.5. Một số lưu ý trong quá trình lọc nước malt – rửa bã
9 Áp suất lọc: phải điều chỉnh từ từ, vì áp suất quá cao sẽ làm vải lọc bị bịt
kín gây trở ngại cho quá trình lọc.
9 Phải sử dụng nước rửa có nhiệt độ đúng kỹ thuật (75 – 780C), không dùng
nước nóng hơn vì sẽ làm cho nước nha bị đục, có mùi vị đắng chát làm
giảm chất lượng bia.
9 Khi lắp vải lọc, không được bịt kín lỗ lọc vì sẽ làm dịch không vào lọc
được, gây cản trở cho quá trình lọc.
3.3.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình lọc- Rửa bã
9 Nhiệt độ lọc: Nhiệt độ lọc tăng thì tốc độ lọc cũng tăng do độ nhớt của dịch
cháo giảm. Tuy nhiên, nếu nhiệt độ lọc quá cao thì sẽ xảy ra hiện tượng
biến tính và kết tủa protein, tạo thành kết tủa dẻo gây cản trở cho quá trình
lọc. Đồng thời một số chất đắng, chất chát hòa vào dịch đường gây ảnh
hưởng đến chất lượng của bia.
9 Độ nhớt của dịch đường: Độ nhớt phụ thuộc vào nhiệt độ, nồng độ của dịch
và thành phần riêng của nó. Nếu dịch đường chứa nhiều hydrat cacbon
dạng polyme hoặc hợp chất keo thì độ nhớt tăng lên đáng kể làm giảm tốc
độ lọc.
9 Độ chua của dịch đường: Tốc độ lọc và dịch trong của dịch đường cũng
phụ thuộc vào độ chua.
9 Nhiệt độ rửa bã: Thực hiện bằng nước nóng từ 75 – 780C. Thường xuyên
điều chỉnh nhịêt độ của nước rửa bã đến nhiệt độ này. Nhiệt độ nước rửa
không quá 800C để không làm vô hoạt emzym.
9 Nồng độ dịch đường; việc rửa bã làm loãng dịch đường. Để đạt được nồng
độ dịch đường mong muốn sau quá trình lọc, dịch đầu phải có hàm lượng
chất chiết cao hơn của bia sản xuất 4-6%
9 Lượng nước rửa: Phụ thuộc lượng và nồng độ dịch đầu cần sản xuất thông
thường, đối với bia 12% dùng tỷ lệ sau:
14 1: 0.7
16 1:1
18 1:1.2
20 1:1.5
22 1:1.9
Lượng nước rửa càng nhiều thì thu hồi được càng nhiều chất chiết trong bã,
như vậy hiệu suẩt sẽ cao, bên cạnh đó, nếu lượng nước rửa bã càng nhiều thì quá
trình đun hoa lại phải kéo dài để bay hơi bớt nước để đảm bảo dịch đường thu
được đủ về lượng và nồng độ theo yêu cầu.
Quá trình rửa bã được thực hiện cho đến khi thu đủ lượng dịch và nồng độ
dịch theo yêu cầu kỹ thuật. Đối với những lọai bia có độ cao(11-14%), dịch rửa
cuối cùng có lượng chất chíêt khoảng 0.5-0.6% có thể được sử dụng cho mẻ nấu
tiếp theo. Nhưng đối với các loại bia có độ cao hơn thì không dùng nước rửa bã
nhiều(Bia Bockbier 16-17%), nếu không làm loãng dịch, và dịch rửa bã của lọai
bia này thường dùng cho nấu loại bia thấp độ hơn hoặc dùng cho mẻ nấu tiếp.
Đến đoạn cuối của giai đoạn rửa bã, có một lượng các chất không mong
muốn( Polyphenol và các hợp chất đắng từ vỏ trấu. acid silicic…hòa tan vào dịch.
Nếu các hợp chất mong muốn được hình thành sẽ làm tăng chất lượng bia, ngược
lại phải hạn chế các hợp chất không mong muốn được chiết ra, có nghĩa là không
rửa bã quá lâu. Bởi vậy, cần phải suy xét khi sử dụng dịch rửa cuối cùng đẻ nấu
mẻ bia tiếp theo.
Hàm lượng chất chiết trong dịch lọc đầu và dịch sau khi rửa bã
Thành Phần Hàm lượng chất chiết Hàm lượng chất chíêt
trong dịch đầu(%) trong dịch rửa(%)
kiện cho quá trình lên men, nhờ đó làm ổn định thành phần dịch đường và tạo điều
kiện cho bia có thành phần và tính chất đúng theo yêu cầu kĩ thuật.
Quá trình này trích ly chất đắng, polyphenol, các hợp chất chứa nitơ và các
thành phần khác của hoa houblon vào trong dịch đường, tạo cho bia có mùi thơm
và vị đắng đặc trưng, dễ chịu của hoa houblon. Đồng thời khi hòa tan vào dịch
đường và tồn tại trong bia, các chất đắng trong hoa houblon (humulone,
lupulone…) có hoạt tính sinh học cao tạo ra sức căng bề mặt giúp cho bia thêm
bền vững sinh học và khả năng tạo bọt tốt và giữ bọt lâu. Một trong những phương
pháp thông dụng nhằm chiết chất đắng và dầu thơm của hoa houblon là đun sôi
trực tiếp dịch đường với hoa.
Đồng thời cũng trong lúc này cũng xảy ra một số quá trình khác như sự gia
tăng nồng độ, độ axit, cường độ màu, sự tạo thành các chất khử, độ nhớt giảm
xuống… Thường hỗn hợp dịch đường sau khi lọc và nước rửa bã có nồng độ thấp
hơn nồng độ yêu cầu để sản xuất một loại bia nhất định. Nhờ quá trình đun sôi này
một phần nước sẽ bay hơi, khi đó nồng độ dịch đường sẽ tăng lên. Đây cũng là quá
trình hòa tan các thành phần của hoa vào dịch đường và loại trừ các chất keo
không bền vững.
- Làm keo tụ phần lớn protein bất ổn định và các chất không hòa tan khác
của dịch đường, tạo nên “tủa nóng” và lắng xuống đáy nồi đun sôi. Sự kết
tủa protit cũng góp phần quan trọng cho việc làm trong bia sau này. Tuy
nhiên, những chất chát (tanin) không bị oxi hóa cũng tạo thành phức với
protein, tồn tại trong dịch đường dưới dạng “tủa nguội”. Đây chính là
nguyên nhân làm cho bia thành phẩm bị đục.
Tính toán lượng houblon cho vào dịch nha cho hao hụt của 50%
lượng axit đắng so với sản phẩm tạo thành để thu được bia có 30mg
acid / lít bia
- Ta có dịch nha sau khi lọc thu được thể tích : V=3.5 lít , Bx= 12o.
- Sau khi pha loãng ta được dịch nha có thể tích:V1= 4.2 lít, Bx1= 10o
- Sau khi cô hoa ta được thể tích dịch: V2= 3.2lít, Bx2=13o
- Với tỷ lệ hoa viên: hoa cao=3:2 (18mg:12mg axit đắng) cho 1 lít bia
=>Với 3.37 lít cần 57,6mg axit đắng của hoa viên và 38,6 mg axit đắng của hoa
cao.
=>Tức ta cần (57.6 mg*1.5)/(100*9)= 0.96g hoa viên (cho lượng hao hụt là 50%)
Và cần (38.60mg x 1.5)/(100*30) = 0.0193 ghoa cao (cho lượng hao hụt là 50%)
đường
sôi 10 20 ph Lắng cặn
phút + 30 ph 20ph Làm lạnh nhanh
hoa 8-10oC
cao
¾ Trong khoảng 30phút trước khi kết thúc nấu, đưa nốt phần thứ ba (50%
hoa viên còn lại). Đây là phần hoa houblon thơm nhất giữ lại trong bia
một mùi thơm đặc trưng của hoa houblon
chiết ra như axit đắng và một số chất khác cũng ở dạng keo hòa tan. Khi nhiệt độ
tăng lên sự bền vững keo bị phá vỡ, các phần tử keo dính lại với nhau và xảy ra
hiện tượng keo tụ.Trong tất cả các chất keo có trong dịch đường thì protit là chất
kém bền nhiệt nhất. Sự hình thành những chất hấp phụ giữa và chất chát hay chất
đắng sẽ làm thuận lợi cho sự keo tụ.
Quá trình keo tụ của protit xảy ra theo 2 giai đoạn: đầu tiên chúng mất nước,
sau đó keo tụ. Các phần tử protein sau khi mất nước chúng liên kết lại với nhau,
lúc đầu bé, sau đó lớn dần và từ từ lắng xuống.
4.3.2. Các biến đổi khác về thành phần và tính chất của dịch đường
Ổn định dịch đường:
Về mặt sinh học, dịch đường khi chuyển sang nồi nấu hoa có thể chứa các vi
khuẩn chịu nhiệt. Đun sôi trong vòng 15 phút ở pH = 5,2 cũng đủ để tiệt trùng
dịch đường. Những tính chất kìm hãm vi khuẩn của hoa houblon cũng góp phần
bảo vệ cho dịch đường.
Về mặt hóa sinh, các enzym bị phá hủy, đặc biệt là α-amylase, là một enzym
chính còn hoạt động ở nhiệt độ lọc. α-amylase có nguồn gốc vi khuẩn được sử
dụng trong việc dịch hóa các hạt tinh bột có thể hoạt động ở nhiệt độ tới 900C. Sự
tiêu diệt enzym ở công đoạn nấu tránh sự biến đổi cấu trúc phân tử đường trong
quá trình lên men mà những chất này sẽ cản trở hay tác động xấu tới độ bền sinh
học hay khả năng giữ bọt của bia thành phẩm.
Về mặt bền keo, để cải thiện tính bền keo của bia cần loại bỏ các hợp chất
nitơ bằng cách đông tụ và kết tủa chúng với sự liên kết protein và tanin. Sự đông
tụ này phụ thuộc nhiều yếu tố:
+ Thời gian đun sôi: thường từ 1,5- 2h. Nếu đun sôi kéo dài quá 2h không
tăng thêm được sự kết tủa protein trong cặn đã được hình thành.
+ Cường độ sôi: bọt xuất hiện trong quá trình đun sôi mãnh liệt làm cho keo
tụ được tốt hơn. Các phân tử protein nhỏ bé bị biến tính và được các bọt bóng kéo
lên bề mặt, và chúng kết lại thành khối lớn hơn.
+ Các tác nhân hóa học: sự có mặt của oxi trong dịch đường ức chế quá trình
đông tụ protein. Để cải thiện, người ta thêm các chất khử như các sulfit. Phản ứng
giữa canxi, nước và các photphat làm giảm pH của dịch đường. Điều này có lợi
cho việc đông tụ protein (điểm đẳng điện). pH khoảng 5,2 được coi là tối ưu. Khi
pH không đủ người ta thêm trực tiếp axit khi dịch bắt đầu sôi. Tuy nhiên việc giảm
pH sẽ làm giảm hiệu suất houblon hóa song nó lại cho một vị đắng dễ chịu.
Các tác nhân thường được sử dụng là agar-agar, alginate, axit tanic, gelatin,
bentonit, diatomit.
Tăng màu và mùi
Quá trình đun sôi với hoa houblon làm cho nước nha thay đổi từ nhạt sang
đậm vì hiện tượng caramen hóa các chất đường, sự hình thành các melanoit và vì
các chất có màu trong hoa houblon chuyển vào dịch. Các hợp chất caramen được
hình thành có bản chất keo, vị đắng nhẹ và có màu nâu. Cần phải không chế phản
ứng caramen hóa trong quá trình nấu bia vàng.
Quá trình đun sôi giúp loại bỏ các hợp chất bay hơi không mong muốn như
các hợp chất dimetylsulfit (DMM) và các tiền chất của nó là S.metyl-methionin
xuống dưới ngưỡng phát hiện 100mg/l. Một số các hợp chất được tạo ra từ phản
ứng Maillard như furfurylaldehit, furfurlalcool… gây ra các vị không mong muốn
khi đun sôi dịch đường cũng được loại ra.
Ảnh hưởng đến bọt bia
Các chất nhựa đắng của hoa houblon có ảnh hưởng một cách rõ rệt tới một số
tính chất vật lý của dịch đường và của bia. Chúng không biến đổi nhiều về độ nhớt
song lại làm giảm đáng kể sức căng bề mặt.
Nhờ tính chất hoạt động bề mặt mà nhựa đắng của hoa houblon tập trung lại
tạo màng ở bề mặt, điều này giải thích cho việc hao tổn một phần nhựa đắng dính
trên nắp thiết bị trong lên men chính và tác động chủ yếu tới độ bền bọt là phần
còn lại hòa tan trong bia.
Cô đặc
Sự bay hơi nước cho phép có được dịch đường với nồng độ mong muốn.
Việc rửa bã làm cho nồng độ dịch đường giảm xuống dưới nồng độ cần thiết, do
vậy việc cô đặc dịch đường khi đun sôi cho phép điều chỉnh nồng độ dịch đường
đến mức yêu cầu. Tuy nhiên chi phí cho việc đun sôi dịch lớn rất nhiều so với cái
lợi thu được do tăng hiệu suất. Do đó người ta có xu hướng giảm thời gian đun sôi,
và tận dụng nước rửa bã sau cùng để dùng vào mẻ nấu sau.
Trong dịch đường sau khi đun sôi với hoa houblon có chứa các cặn ở dạng
huyền phù và cặn từ hoa houblon. Để có thể cấy giống nấm men cần thiết phải làm
trong dịch, tách bỏ cặn và làm lạnh đến nhiệt độ lên men.
Nước nha sau khi qua thiết bị lắng cặn có nhiệt độ cao 950C nên cần phải
qua hệ thống làm lạnh nhanh để đưa nước nha về nhiệt độ thích hợp là nhiệt độ 7-
8o nhằm tránh sự xâm nhập của vi sinh vật bên ngòai. Đảm bảo sự hòa tan oxy cần
thiết cho men phát triển trong giai đọan đầu trước khi lên men.
Đảm bảo sự lắng cặn khi làm lạnh dịch đường, chỉ có làm lạnh nhanh thì
những dẫn xuẩt globulin mới lắng xuống được.
Như vậy mụch đích chính của quá trình lắng trong- làm lạnh là:
+ Loại bỏ cặn
+ Làm lạnh dịch đường làm giảm nhiệt độ dịch đường xuống, đưa oxy từ
không khí vào dịch thể và kết lắng các chất bẩn không có lợi.
5.2. Các biến đổi hóa lý xảy ra trong quá trình lắng trong, làm lạnh
Khi bắt đầu làm lạnh, nhiệt độ dịch thể còn cao, trong dịch đường xảy ra
các quá trình oxy hóa các hợp chất hữu cơ như maltoza, glucoza, fructoza. Chất
đắng, các hợp chất chứa nitơ, tanin, xác hoa houblon và các sản phẩm tạo ra như
acid gluconic, muravic…
Nhiệt độ dịch đường giảm dần đồng nghĩa với tốc độ oxy hóa cũng giảm
dần, đến 45oC thì quá trình oxy hóa ngưng hòan toàn. Mỗi một giờ một lít dịch
đường có thể dùng hết 6.4 mg oxy cho quá trình oxy hóa.
Hậu quả của quá trình oxy hóa là dịch đường trở nên sẫm màu hơn, hương
thơm và vị đắng của hoa houblon giảm. Từ nhiệt độ 40oc trở xuống, oxy từ không
khí được hòa tan vào dịch thể
Quá trình làm lạnh hình thành và kết lắng các chất cặn: có thể chia là 2 loại
là cặn nóng và cặn lạnh.
) Cặn nóng là phần cặn chủ yếu hình thành sau quá trình nấu. Việc tách cặn nóng
là rất quan trọng. Nếu một lượng lớn cặn nóng tham gia vào quá trình lên men
sẽ gây ra quá trình lên men bất thường. Khi đó nấm men sẽ kết tủa cùng với
cặn. Kết quả là bia kém chất lượng và còn sinh ra một số acid có hại cho độ
bền của bia
) Cặn lạnh hay cặn mịn: xuất hiện dần dần trong quá trình làm lạnh dịch đường.
Hàm lựơng của cặn phụ thuộc vào tỷ lệ nguyên liệu thay thế và mức độ sôi.
Người ta chỉ mong muốn loại bỏ được 70-80%, nếu nhiều hơn lại ảnh hưởng
tới việc làm giảm hương vị bia và khả năng giữ bọt của bia kém.
9 Cường độ sôi
Loại chế phẩm và hàm lượng hoa houblon(với hoa cánh, lượng cặn nóng sẽ
nhiều hơn).
Bảng thành phần các loại cặn
Lên men chính là quá trình chuyển chất đường và các dextrin có phân tử
lượng thấp thành ethanol, CO2 và một số sản phẩm phụ khác như các acid hữu cơ,
ester, glyceryl, aldehyd... nhằm tạo mùi vị cho bia.
C6H12O6 Æ C2H5OH + CO2 + H2O + Q
- Do sự xúc tác sinh học của các enzyme được hình thành trong quá trình lên men,
một số sản phẩm phụ cũng được hình thành như các axit hữu cơ, các este, các rượu
bậc cao, aldehyt, glyxerin....
6.2. Quá trình lên men chính được phân ra làm 4 giai đoạn
Giai đoạn đầu: (1-2 ngày đầu): Nấm men bắt đầu phát triển, biểu hiện bọt li
ti bám thành thùng và dần phủ kín bề mặt thùng lên men. Bọt trắng, mịn, chất hòa
tan giảm 0.3-0.5%, nhiệt độ tăng khoảng 0.5oC.
Giai đoạn hai (2-3 ngày tiếp theo): lên men mạnh dần, bọt nhiều, bọt đặc,
trắng, chặt bồng lên trên mặt dịch, chất hòa tan giảm 2-2.5%, nhiệt độ tăng 1-
1.5oC.
Giai đoạn ba (2-3 ngày kế tiếp theo): giai đoạn lên men mạnh nhất. Chất hòa
tan giảm 2.5-3% ,nhiệt độ lên men tăng mạnh,
Giai đoạn cuối (các ngày còn lại): cường độ lên men yếu dần: bọt xẹp hết,
trên bề mặt của bia non phủ một lớp bọt màu nâu xám, chất hòa tan giảm 0.8-1%
nhiệt độ giảm 3-4oC, nấm men và nhiều cặn khác bắt đầu lắng xuống, đến đây quá
trình lên men chính kết thúc.
7. Lên men phụ
Mục đích
Tiếp tục lên men phần chất khô còn lại sau khi lên men chính, làm tăng mùi
vụi bia và bão hoà CO2. Ngoài ra, quá trình lên mên phụ còn góp phần ổn định
hương vị và độ trong cho bia thành phẩm. Đưa bia non về nhiệt độ thấp từ 0- 20C
nhằm hạn chế sự xâm nhập, phá hoại của vi sinh vật không mong muốn.
8. Làm trong bia:
9 Làm cho bia có độ trong sáng đúng yêu cầu chất lượng. tách triệt để
các phần tử rắn lắng, khuếch tán trong bia.
9 Làm ổn định, gai tăng độ bền vững sinh hoá học cho bia
9 Lọc bỏ hầu hết các vi sinh vật kể cả nấm men sau khi lên men phụ
vẫn còn gây đục cho bia
Bão hoà là bổ sung lượng CO2 cho đạt hàm lượng cần thiếu làm
tăng chất lượng cảm quan, chống oxi hoá, chống kết lắng và là môi trường tốt
để bảo vệ bia.
Mục đích: giúp cho quá trình vận chuyển bia với số lượng lớn đến các nơi
khác dễ dàng hơn mà vẫn giữ nguyên được chất lượng của Bia.
Mục đích: Đình chỉ sự hoạt động của nấm men bia, tiêu diệt các vi sinh vật
còn sót lại trong bia. Thông thường thanh trùng ở 60-80oC.
Phần 4: Kết quả và cảm quan
Cảm quan: Bia có vị đắng nhất định, màu sắc vàng đạt, độ cồn còn thấp, có vị của
bia.
Kết quả thay đổi độ brix trong suốt quá trình lên men chính.
10
8
Độ Brix
6
độ brix
4
2
0
ngày ngày ngày ngày ngày ngày
1 2 3 4 5 6
ngày
Nước yến ngân nhĩ là một loại nước giải khát phổ biến hiện nay, nhu cầu về
loại thức uống này ngày một tăng cao. Sản phẩm này chứa nhiều vitamin và
khoáng chất giúp bồi bổ cơ thể và làn da mịn màng. Quy trình sản xuất khá đơn
giản, nguồn nguyên liệu sẵn có và có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao nên hiện
nay có rất nhiều nhà sản xuất đầu tư cho sản phẩm này.
Nấm tuyết: còn có tên khác là Ngân nhĩ hay Mộc nhĩ
trắng (danh pháp khoa học: Tremella fuciformis), là một
loài nấm được sử dụng trong ẩm thực của một số nước châu
Á như Trung Quốc, Việt Nam. Người Trung Quốc xem nấm
tuyết như 1 loại thực phẩm quý có thể chữa được bệnh lao,
huyết áp cao và các chứng cảm lạnh thông thường.
Sản
Bộ (ordo): Tremellales
phẩm được bán
Nấm tuyết cũng là loại nguyên liệu truyền thống để sản xuất nước yến ngân nhĩ,
tạo giá trị cảm quan đặc trưng và nâng cao giá trị dinh dưỡng của sản phẩm.
1.3 Agar:
Cấu trúc:
Agar là một hỗn hợp các polysacarit có chung mạch chính gồm 2 thành
phần chủ yếu sau:
- Agarose là thành phần tạo gel chính của gar, có khoảng 1/10 cácđơn vị
galactose bị ester hóa. Hàm lượng agarose đóng vai trò quan trọng đối với điện
tích của toàn phân tử và đối với tính chất của gel như:độ bền, độ đàn hồi, nhiệt độ
tạo gel, nhiệt độ nóng chảy của gel.
- Agaropectin là thành phần không tạo gel, có mứcđộ este hóa lớn hơn
agarose, ngoài ra còn có acid pyruvic. Đây là thành phần tạo nhớt.
Tính chất
- Tính tan
Agar không tan trong nư ớ c lạnh, tan một ít trong ethanol amine và tan
được trong nước nóng. Agar có khả năng hòa tan với lượng nước 30 – 50 lần khối
lượng, lượng agar trong nước trên 10 % sẽ tạo nên một hỗn hợp sệt.
Quá trình tạo gel xảy ra khi l àm lạnh dung dịch agar. Dung dịch agar sẽ tạo
gel ở nhiệtđộ khoảng 40÷ 500C và tan chảy ở nhiệtđộ khoảng 80 -850C. Gel agar
có tính thuận nghịch về nhiệt. Khi đun nóng polymer tạo thành một khối, khi dung
dịch nguội đi các chuỗi sẽ bao lấy nhau và liên kết với nhau từng đôi một bằng
liên kết hydro để tạo thành chuỗi xoắn kép, tạo ra một mạng lưới không gian ba
chiều nhốt các chất khô bên trong do số lượng liên kết hydro rất lớn .
Quá trình hình thành gel và độ ổn định của gel bị nh hưởng bởi hàm lượng
aga và khối lượng phân tử của nó. Kích thước lỗ gel khác nhau phụ thuộc v ào
nồngđộ aga, nồngđộ aga càng cao kích thước lỗ gel càng nhỏ. Khi làm khô gel có
thể tạo thành một màng trong suốt, bền cơ học và có thể bảo quản lâu dài mà
không bị hỏng.
Khả năng tạo gel phụ thuộc vào hàm lượng đường agarose. Sự có mặt của
ion sunfat làm cho gel bị mờ,đục. Do đó tránh dùng nước cứng để sản xuất. Chúng
có khả năng giữ mùi vị, màu, acid thực phẩm cao trong khối gel nhờ nhiệtđộ nóng
chảy cao (85 -900C). Gel agar chịu được nhiệt độ chế biến 1000C, pH 5–8, có khả
năng trương phồng và giữ nước.
Không dùng agar trong môi trường pH < 4 và có nhiều chất oxy hóa mạnh. Agar
có thể tạo đông ở nồng độ thấp, đ ây là tính chất quan trọng được ứng dụng nhiều trong
chế biến thực phẩm.
• Ứng dụng
Agar là một chất tạo gel rất tốt, thông thường agar được sử dụng với hàm lượng
1-1,5% khối lượng so với lượng đường trong hỗn hợp kẹo.
Jellyđược sản xuất từ loại agar có polysaccharid mạch ngắn. Agar khôngđược
hấp thu vào cơ thể trong quá trình tiêu hóa dođó agar được sử dụng sản xuất các loại
bánh kẹo chứa ít năng lượng.
Agar được sử dụng trong sảm phẩm mứt trái cây thay thế cho pectin nhằm làm
giảm hàm lượng đường trong sản phẩm và thay thế gelatin trong một s ố sản phẩm thịt
và cá.
Ngoài ra cònđược sử dụng trong các sản phẩm yoghurt, sữa chocolate, trong
ngành bánh kẹo ….
Agar còn được sử dụng vào môi trường nuôi cấy vi sinh vật
Đây là loại đường dùng rất phổ biến trong công nghệ đồ uống với mục đích tạo
vị cho sản phẩm.
Quá trình nấu syrup để chuẩn bị cho bài thí nghieemj này đã được trình bày trong
những bài trước.
- Nguyên liệu: lựa chọn những nấm tuyết nở đều, hình tròn, màu trắng, ít
cùi
màu vàng.
- Ngâm: Quá trình ngâm nấm tuyết nhằm mụcđích làm cho nấm tuyết mềm
và nở, tạo điều kiện cho quá trình xử lý làm sạch và băm nhỏ nấm tuyết được dễ
dàng hơn.
Trong quá trình này các biếnđổi chủ yếu là vật lý và hóa lý, còn biếnđổi hóa
học, hóa sinh, sinh học không đáng kể.
-Biếnđổi vật lý: có sự hút nước trương nở, làm tăng thể tích của nấm tuyết.
-Biếnđổi hóa lý: có sự khuếch tán nước vào bên trong nấm tuyết cũng như
có sự khuếch tán chất hòa tan trong nấm vào trong nước.
Cách tiến hành: Ngâm nấm tuyết vào thau nhỏ có chứa sẵn nước. Lượng
nước cho vào thau sao cho ngập nấm tuyết. Nước sử dụng có nhiệt độ khoảng từ
25-300C. Nấm tuyết được ngâm trong thời gian khoảng 30 phút.
Chú ý: Khôngđược ngâm thời gian quá lâu vì quá lâu thì nấm tuyết bị nhũn
khó kiểm soát trong quá trình hấp và sản phẩm ra bị nhũn ảnh hưởng đến giá trị
cảm quan của sản phẩm.
- Xử lý – Rửa:
Mụcđích:
Quá trình này nhằm loại bỏ phần cùi màu vàng của nấm tuyết vì sự có mặt
của nó sẽ làm giảm giá trị cảm quan của sản phẩm.
Các biếnđổi xảy ra: Các biếnđổi vật lý, hoá học… xảy ra khôngđáng kể
Sau khi ngâm nấm tuyết thì lúc này nấm đã nở lớn. Dùng tay loại bỏ những
cặn màu đậm dính trong các kẽ nấm. Dùng dao nhỏ cắt bỏ phần gốc ra khỏi nấm
tuyết, đối với phần cùi màu vàng còn dính lại trên phần nấm ta dùng dao nhẹ
nhàng khoét loại bỏ phần cùi màu vàng.
Chú ý:
Thao tác phải khéo léo tránh làm mất lượng nấm tuyết và không ngâm nấm
tuyết trong nước
- Hấp:
-Vật lý: có sự thay đổiđáng kể về hình dạng (nhũn ra), nguyên liệu hơi sẫm
màu
-Hoá học: sự biếnđổi 1 số thành phần hoá học trong nguyên liệu
Đem nấm đã được làm sạch đi hấp (luộc). Hấp ở nhiệt độ 1000C trong 10
phút.
Chú ý:
Không được hấp trong thời gian quá lâu vì như thế nấm tuyết sẽ bị mềm
nhũn quá mứcảnh hường đến chất lượng cảm quan của sản phẩm. Ngược lại, thời
gian ngắn thì nấm tuyết sẽ không chín, không đạt đến độ mềm và nở cần thiết của
sản phẩm.
- Băm nhỏ:
Mục đích: Nhằm cắt nhỏ nấm tuyết thành những phần có kích thước nhỏ
và đồng đều hơn, để những mảnh nấm tuyết dễ dàng lơ lửng trong sản phẩm vì có
sự chênh lệch về tỉ trọng, làm tăng giá trị cảm quan của sản phẩm.
Cho nấm tuyết đã được hấp chín cho ra thớt, dùng dao băm nhỏ lượng nấm
tới kích thước 1x1mm. Sau đó dùng rây rây lại để đảm bảo độ đồng đều về kích
thước.
Chú ý:
Lượng nấm băm nhỏ phải được kiểm soát về kích thước vì khi băm quá nhỏ
thì nấm tuyết sẽ nổi lên trên và ngược lại, sẽ ả n h hưởng đến giá trị cảm quan sản
phẩm.
Mục đích: đưa dung dịch syrup ban đầu có độ Brix cao xuông đo Brix
thâps và nấu với 0,09% agar. Vì agar không tan trong nước lạnh nên phải đun sôi
với syrup để tạo cấu trúc cho sản phẩm
Chú ý:
Ta đun với ngọn lửa vừa, tránh quá to sẽ làm cho dung dịch bị caramel. Khi
đem đi nấu ta phải kiểm soát thể tích của dung dịch vì nó sẽ ả nh hưởng đến tỉ
trọng của nguyên liệu, giá trị cảm quan của sản phẩm. sau khi nấu phải bổ sung
nước vào để đạt thể tích như ban đầu.
Mụcđích:
Nhằm phối trộn nấm với syrup và hương yến thành một hỗn hợp đồng nhất,
đồng thời tăng giá trị cảm quan.
Lấy 25g nấm đã chuẩn bị, 1lít dịch syrup đã nấu và 3ml hương yến
Phối trộn hương yến với syrup (cần ít khuấy trrộn để tránh tổn thất hương)
Cho nấm vào chai đã tiệt trùng và sấy khô rồi đổ hỗn hợp syrup và hương
yến đã chuẩn bị như trên vào. Khi rót, dịch rót cách miệng chai 2.5cm để khi thanh
trùng không bị bật nắp, rót nhẹ nhàng bằng phễu cho chảy theo thành chai để tránh
bọt khí. Nếu có bọt khí sẽ tạo áp suất bên trong chai dễ làm vỡ chai khi tiệt trùng
hoặc t ạo điều kiện cho vi sinh vật hiếu khí hoạt động…
- Đóng nắp:
Mụcđích:
Nhằm làm cho thực phẩm cách li hoàn toàn với môi trường không khí và vi
sinh vật bên ngoài, có tác dụng rất quan trọng đến thời gian bảo quản thực phẩm
và chất lượng của nó.
Dung dịch syrup sau khi rót vào chai sẽ đượcđi đóng nắp.
- Thanh trùng:
Mụcđích:
Nhằm mục đích tiêu diệt các vi sinh vật còn xót lại trong sản phẩm để kéo
dài thời gian bảo quản sản phẩm.
Nước yến sau khi đóng nắp cho vào thiết bị tiệt trùng, thanh trùng ở nhiệtđộ
1000C trong thời gian 20 phút.
- Làm nguội:
Mụcđích:
Nhằm mục đích đưa sản phẩm về nhiệt độ phòng để thuận tiện cho quá
trình bảo quản và vận chuyển. gây sự sốc nhiệt làm cho các bào tử vi sinh vật bị
tiêu diệt nhanh hơn.
Để sản phẩm đã được tiệt trùng ra ngoài không khí để làm nguội và ngày
hôm sau chốc ngược s ản phẩm xuống để tạo c ấu trúc lơ lửng cho sản phẩm.
Chú ý:
Khi làm nguội ta phải làm nguội ngoài không khí không làm nguội nhanh
bằng nước lạnh để tránh làm vỡ chai vì sản phẩm sau khi tiệt trùng sẽ có nhiệt độ
rất cao nếu làm lạnh liền s ẽ có sự thay đổi đột ngột về nhiệt mà bao bì sử dụng lại
làm bằng thuỷ tinh nên rất dễ bị vỡ.
- Sản phẩm có cấu trúc chưa đạt yêu cầu do khi băm nấm tuyêt không đều
tay, chưa đạt tới cấu trúc 1x1mm và không sàng lọc qua rây để tạo kích thước
đồng đều. Các hạt nấm tuyết có xu hướng hướng xuống dưới do kích thước quá to.
- Vị của sản phẩm đạt: vị ngon, vừa uống
- Với lượng hương sử dụng đã cho sản phẩm có thơm vừa phải.
Syrup thành phẩm là đường saccharose thủy phân để đưa về đường khử. Syrup
cho vào rượu mùi để tạo vị ngọt cho sản phẩm.
1.2 Tổng quan về sản phẩm
Rượu pha chế (rượu mùi) (Liquor) là sản phẩm được pha chế từ cồn thực phẩm
với nước, có thể bổ sung thêm đường, dịch chiết trái cây và phụ gia thực phẩm.
¾ Yêu cầu cảm quan của rượu mùi:
1. Hàm lượng etanol (cồn) ở 20 0C, % (V/V) Theo tiêu chuẩn đã được
công bố của nhà sản xuất
3. Hàm lượng etylaxetat trong1 l etanol 1000, mg, Theo tiêu chuẩn đã được
không lớn hơn công bố của nhà sản xuất
Nước
Acid Hạ độ
Siro
Hòa tan Phối trộn
Syrup
Chiết chai
Đóng nắp
Sản phẩm
Thuyết minh quy trình:
Cồn thực phẩm 95%vol, hạ độ bằng nước cất, sau đó phối trộn với một
lượng siro, syrup thành phẩm đã xác định trước và acid citric hòa tan. Thêm nước
cất vào đề đạt dduwowcj thể tích cần pha.
3. Kết quả:
Pha 500ml rượu mùi với 6%vol, Bx=13.20Bx, lượng acid citric=2g/l
- Lượng cồn 94%vol cần:
Sản phẩm có màu đạt yêu cầu ban đầu, ít thơm và độ cồn nhẹ.
Kết quả đó là do khi pha xong, sản phẩm để lâu ngoài không khí nên lượng cồn
trong sản phẩm bị bay hơi, dẫn đến lượng cồn không còn như nồng độ ban đầu. Do
đó cần chú ý khi pha xong phải chiết chai và đóng nắp ngay.
Lượng xiro cho vào ít, sản phẩm ít thơm. Tuy nhiên nếu cho nhiều siro thì để tăng
mùi thơm cho sản phẩm thì cường độ màu sẽ tăng lên.
5. Tài liệu tham khảo
- Giáo trình thực hành công nghệ sản xuất đồ uống, Trường DHCN tp HCM.
- TCVN 7044:2002: rượu mùi, quy định kỹ thuật
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ax%C3%ADt_citric
http://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%8Atanol