You are on page 1of 11

Thực trạng chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh

Hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh
(TP.HCM) nói riêng hiện nay bao gồm các hình thức chủ yếu là chuyển giao công nghệ từ
nước ngoài vào Việt Nam, chuyển giao công nghệ trong nước và chuyển giao công nghệ từ
Việt Nam ra nước ngoài. Mặt khác, một số đánh giá khác thì phân chia việc chuyển giao công
nghệ chủ yếu theo hai luồng chính là từ công ty mẹ chuyển giao cho các công ty con trong
các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc trong các công ty liên doanh. Luồng thứ hai là các
hoạt động chuyển giao công nghệ thương mại thuần túy. Và thực tế diễn ra tại Việt Nam nói
chung là các hoạt động chuyển giao công nghệ là theo hình thức thứ nhất. Một số nghiên cứu
trong nước cho kết quả, 90% hợp đồng chuyển giao công nghệ được kí kết với các doanh
nghiệp (viết tắt là DN) có vốn đầu tư nước ngoài. Tại Bộ Khoa học và Công nghệ, đến nay
mới chỉ có trên 200 hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng ký, chiếm phần
rất nhỏ trong số các dự án chuyển giao công nghệ thực thi tại Việt Nam. Theo báo cáo về sức
cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) cho thấy năm 2004 tính trên 104 nền kinh tế
được nghiên cứu, Việt Nam xếp hạng 79 về mức độ sử dụng bằng sáng chế, hạng 99 về mức
sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài.
Bảng 1. Chỉ số xếp hạng về công nghệ của Việt Nam năm 2004
Chỉ số xếp hạng về công nghệ 92
Chỉ số về sáng tạo công nghệ 79
Chỉ số về công nghệ thông tin 86
Chỉ số về chuyển giao công nghệ 66
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2004) “Báo cáo năng lực cạnh
tranh”  http://www.weforum.org/
Nhiều cuộc khảo sát cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất và của các doanh
nghiệp còn lạc hậu. Theo kết quả điều tra về thực trạng DN Việt Nam của Tổng cục thống kê
công bố ngày 11-5-2005, hầu hết các DN nước ta ở quy mô vừa và nhỏ, thậm chí siêu nhỏ, do
đó khả năng trang bị máy móc thiết bị, kỹ thuật công nghệ tiên tiến là rất hạn chế. Mức đầu tư
cho khoa học và công nghệ (KH&CN) tuy đã tăng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và
vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước, chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội,
nhất là từ các doanh nghiệp. Cơ chế, chính sách đầu tư cho khoa học và công nghệ chưa được
tháo gỡ để tạo nguồn lực và động lực cho các tổ chức và các nhà khoa học phát huy tối đa
năng lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng trong thực tế sản xuất kinh
doanh. Công tác hội nhập quốc tế về KH&CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm
kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng
cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội
nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu- sản xuất, kinh doanh; quan hệ hợp tác
giữa các tổ chức KH&CN; chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc
đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
Một số vấn đề về chuyển giao công nghệ trong quá trình hội nhập
Sự phát triển khoa học và công nghệ còn hạn chế
Ngoài một số thành tựu về sinh học thì các chương trình nghiên cứu về công nghệ cao được
Nhà nước thành lập trong khoảng hai mươi năm 20 năm trở lại đây vẫn chưa có thành tựu nào
mang tính đặc thù. Quản lý nhà nước về KH&CN chưa thoát khỏi cơ chế bao cấp, để thích
ứng với nền kinh tế thị trường. Cơ chế quản lý, chính sách phát triển chậm đổi mới, chưa gắn
kết kinh tế với KH&CN để kích cầu cho phát triển các lọai hình công nghệ.
Bảng 2. Xếp hạng về tình trạng phát triển công nghệ của Việt Nam năm 2003 (trên tổng số
104 quốc gia)
Mức độ sử dụng bằng sáng chế công nghệ nước ngoài 99
Hợp tác giữa trường đại học và nghiên cứu công nghiệp 82
Mức độ sẵn sàng về công nghệ 81
ĐTNN và chuyển giao công nghệ 79
Sử dụng bằng phát minh (patent) 79
Chi tiêu DN về nghiên cứu triển khai  71
Nguồn: Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) (2003) “Báo cáo năng lực cạnh
tranh”  http://www.weforum.org/
Nguồn lực cho phát triển doanh nghiệp công nghệ thiếu hụt
Thiếu cán bộ, thiếu tri thức trong việc chuyển sáng kiến thành công nghệ, từ kết quả trong
phòng thí nghiệm thành quy trình sản xuất ngoài thực tế, nguồn đầu tư của Nhà nước đã thấp
lại còn bị phân tán, không dứt điểm và sử dụng không hiệu quả…. Do đó, các nghiên cứu
thường được hoàn thành với chất lượng chưa được cao và còn mang nặng tính lí thuyết. Theo
đánh giá của các chuyên gia: chất lượng nguồn nhân lực đào tạo trong nước còn một số hạn
chế như: đào tạo cao học, một số ít ngành có chương trình, nội dung đào tạo được cập nhật,
còn lại nhiều ngành khác có chương trình, nội dung đào tạo chưa vượt qua các nội dung đào
tạo các chuyên ngành tương ứng ở bậc đại học; vì vậy điều kiện tham gia nghiên cứu khoa
học của học viên cao học rất hạn chế.
Doanh nghiệp là khách hàng, còn thờ ơ với việc nâng cao trình độ công nghệ
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) lớn cũng ít quan tâm đến đổi mới công nghệ vì
thường có vị thế độc quyền nên không chịu sức ép cạnh tranh và có tâm lý dựa dẫm vào sự
bảo hộ của Nhà nước. Ngay cả các DN ngành công nghiệp, ngành được coi là chủ lực hoàn
toàn cũng tương tự. Theo Bộ Công nghiệp, phần lớn giá trị máy móc thiết bị sản xuất chỉ còn
30% so với giá trị ban đầu và đã lạc hậu hơn 30 năm như dệt may có đến 45% thiết bị máy
móc của các DN cần phải đầu tư nâng cấp và 30-40% cần thay thế; mũi nhọn công nghiệp là
cơ khí thì đã lạc hậu hơn 40 năm so với khu vực và 50 năm so với các nước phát triển về
công nghệ và thiết bị sản xuất. Đầu tàu kinh tế của cả nước là TP Hồ Chí Minh cũng chỉ có
25% DN có công nghệ sản xuất tiên tiến, 32% ở mức trung bình, còn lại là dưới trung bình và
lạc hậu, trong đó DN có công nghệ lạc hậu chiếm 20%.
Cơ chế bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghệ còn yếu
Thể chế bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp chưa tạo đủ lòng tin cho các nhà đầu tư thành lập
và phát triển các doanh nghiệp khoa học công nghệ. Điều này liên quan đến hoạt động xây
dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ. Hệ thống luật pháp liên
quan đến lĩnh vực này đang trong quá trình hoàn thiện cho nên khó có thể nói đến tính chuẩn
mực của các qui định pháp luật theo hướng tương thích với các nước trong khu vực và phù
hợp với thông lệ quốc tế.
Khả năng sinh lợi của hoạt động chuyển giao công nghệ còn thấp
Do thị trường của một số lĩnh vực như nông nghiệp và nông thôn chưa phát triển, tình trạng
hàng nông sản được sản xuất ra khó tiêu thụ, bị “rớt giá” vẫn đang có tính chất phổ biến làm
nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước chưa có cơ chế điều tiết hoạt động sản xuất và
cung ứng hàng nông sản phù hợp với nhu cầu của thị trường. Nền kinh tế Việt Nam đang
chuyển dần từ một nền sản xuất tự cấp, tự túc sang nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa,
đổi mới cơ chế quản lý và từng bước chủ động hội nhập vào khu vực và thế giới nên sẽ gặp
phải không ít những khó khăn trong quá trình chuyển đổi.
Chưa có chiến lược chuyển giao công nghệ hữu hiệu
Các đề xuất vẫn còn mang nặng tính định hướng hoặc các giải pháp đưa ra chưa phát huy tác
dụng như mong muốn. Chẳng hạn, các giải pháp để phát triển năng lực nội sinh của công
nghệ giống như kinh nghiệm của các nước đi trước chưa được phát huy tác dụng tốt. Công
tác dự báo, dự đoán sự phát triển của công nghệ trong các lĩnh vực, ngành kinh tế
Việt Nam để làm chỗ dựa cho việc hoạch định các chính sách chưa được coi trọng.
Một số giải pháp và kiến nghị
Từ việc đánh giá như trên, một số kiến nghị và giải pháp có thể được đề xuất để hoạt động
chuyển giao công nghệ có thể đạt hiệu quả cao hơn trong thời gian tới bao gồm:
                    Cần tiến hành tổng kết, đánh giá đầy đủ hơn về hoạt động chuyển giao công nghệ
trong thời gian qua để rút ra những bài học thành công và chưa thành công để nâng cao hơn
nữa những nhận thức về lợi ích và chi phí của hoạt động chuyển giao công nghệ trên nguyên
tắc đôi bên cùng có lợi.
                    Nâng cao nhận thức của các tầng lớp dân cư về việc tiếp nhận công nghệ chuyển
giao thông qua các dự án đầu tư nước ngoài. Điều này đòi hỏi công tác giáo dục, tuyên truyền
về những lợi ích của hoạt động chuyển giao công nghệ đối với từng cá nhân và cộng đồng
cần được thực hiện rộng rãi và kiên trì hơn.
                    Tổ chức các khoá tập huấn để nâng cao kiến thức tiếp nhận công nghệ chuyển giao
trong các lĩnh vực, ngành nghề và phát huy năng lực nội sinh của công nghệ. Từng bước xây
dựng đội ngũ các chuyên gia, các nhà khoa học có đủ khả năng phát triển các loại công nghệ
được chuyển giao phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam.
                    Qui hoạch và chủ động xây dựng các khu công nghệ tập trung, công nghệ cao để tạo
địa bàn cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ một cách thuận lợi đặc biệt là các loại công
nghệ cao và đội ngũ nhân lực chất lượng cao.
                    Phát triển mạnh các hoạt động liên doanh, liên kết để bổ sung những phần kiến thức
về công nghệ trong lĩnh vực mà Việt Nam còn thiếu. Đồng thời cần chú trọng nhiều hơn đến
việc khai thác các thế mạnh về thị trường tiêu thụ, kiến thức quản lý các loại dây chuyền công
nghệ, tiếp nhận các loại tài liệu cũng như quá trình đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá
trình khai thác và sử dụng công nghệ của đối tác nước ngoài để phát huy thế mạnh của Việt
Nam. Quá trình này cần gắn với hoạt động nội địa hóa công nghệ một cách toàn diện.
                    Hoàn thiện cơ chế, chính sách để chuyển đổi các cơ sở nghiên cứu hiện thời sang
hình thức doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu và xây dựng thí
điểm các lọai hình nghiên cứu như ở các trường đại học nổi tiếng trên thế giới.
Thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam trong thời gian qua

2.1 Đặc điểm chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam trong thời gian qua.

Cho đến hết tháng 8/1997 đã có 2137 dự án đầu tư nước ngoài được cấp
giấy phép với tổng số vốn đăng kí là 32.341tỷ USD trong đó có khoảng trên
70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ. kể từ 1/1/2000 đến 15/9/2000
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp 69.000 tỷ đồng cho tổng sản
lượng công nghiệp, tăng 65,38% so với năm 1995 (26.000 tỷ VND ). Như vậy,
vấn đề chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài có vai trò quan
trọng không chỉ ở tầm vi mô mà còn cả ở tầm vĩ mô của nền kinh tế. Trước khi
đi vào đánh giá thực trạng của vấn đề, người ta đã tổng kết lại một số đặc điểm
của chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài như sau:

-Công nghệ đưa vào Việt Nam chủ yếu thông qua hoạt động đầu tư nước
ngoài.

-Nhà đầu tư thường là người chuyển giao công nghệ.

-Công nghệ được sử dụng trong các dự án đầu tư do nhà đầu tư nước
ngoài là bên chuyển giao hoặc giới thiệu.

-Công nghệ trong dự án đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài không nhất
thiết phải chuyển từ công ty chính quốc mà có thể được chuyển giao từ một
công ty khác.

-Đây cũng là cơ sở để đánh giá chung về hoạt động chuyển giao công
nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua
2.2 Những kết quả đạt được.

Kể từ khi nền kinh tế nước ta mở cửa (1986) hội nhập với nền kinh tế
khu vực nói riêng và nền kinh tế toàn cầu nói chung, hoạt động đầu tư nước
ngoài cũng bắt đầu được đẩy mạnh. Hoạt động này đã thúc đẩy nền kinh tế
trong nước phát triển và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Mặc dù còn nhiều
thua kém so với các nước trong khu vực nhưng bước đầu bức tranh về một nền
công nghiệp tồi tàn, lạc hậu đã được cải thiện. Đây là những cơ sở, những định
hướng để chúng ta xây dựng một nền công nghiệp hiện đại trong tương lai.

a. Về trình độ công nghệ:

Chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất. Trong hầu hết các ngành, công
nghệ tiên tiến nước ngoài đã được đưa vào dưới dạng đổi mới đồng bộ hay từng
dây chuyền công nghệ. Thực tiễn “ chiến lược đón đầu công nghệ”- một ưu thế
của kẻ đi sau, các ngành bưu chính viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, đã
tiếp nhận được những công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới. Một số
ngành khác cũng cải thiện được phần lớn dây chuyền sản xuất, phù hợp với điều
kiện sản xuất kinh doanh trong nước như: may mặc, giầy da, chế biến thuỷ
sản..... Ngoài ra còn phải kể đến sự vực dậy của công ty Gang Thép Thái
Nguyên thông qua một loạt các hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án
đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc, Đài Loan.... Như vậy, sự nâng cao
trình độ công nghệ tại một số ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân cũng
như tại các doanh nghiệp trung ương và địa phương đã góp phần nâng cao trình
độ của nền công nghệ Việt Nam thời gian qua.

b. Về trang thiết bị.

Có thể nói công nghệ chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu là phần cứng
của công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới các
công nghệ dưới dạng các trang thiết bị phục vụ sản xuất. So với thế giới, các
công nghệ này có độ lạc hậu ít nhất từ 1- 2 thế hệ. Nhưng so với nền công nghệ
Việt Nam, đây là những trang thiết bị tương đối đồng bộ và có trình độ cơ khí
hoá cao hơn công nghệ trong nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào Việt
Nam các trang thiết bị riêng lẻ có trình độ tự động hoá cao, như các dây chuyền
lắp ráp các bản mạch điện tử, tổng đài kỹ thuật số.... Nhìn chung, các trang thiết
bị khá phù hợp với giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá
đất nước và góp phần tăng thu nhập quốc dân, đổi mới công nghệ sản xuất và
giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.

c. Về chất lượng sản phẩm.

Nhờ quá trình chuyển giao công nghệ, nói chung chất lượng sản phẩm đã
được nâng cao rõ rệt. Người tiêu dùng trong nước bớt đi tâm lý “ sính dùng
hàng ngoại”. Một số sản phẩm đã chiếm được cảm tình của khách hàng trong
nước và ngoài nước như : hàng may mặc, dày da, quạt điện, bánh kẹo, bàn
nghế…Việc đầu tư chuyển giao công nghệ từ nước ngoài đã hạn chế đến mức
tối đa việc nhập khẩu một số lượng lớn các sản phẩm : bia, gạch ốp lát, xi măng,
sắt thép xây dựng…Đồng thời cũng giảm nhập khẩu các bộ phận linh kiện, chi
tiết cho các sản phẩm có công nghệ chế tạo phức tạp ( đèn hình, xe máy, tổng
đài điện tử số….). Đến nay chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt
Nam đã được thế giới biết đến và công nhận thông qua việc cấp chứng chỉ ISO
cho một số doanh nghiệp. Đây là một nhân tố quan trọng giúp sản phẩm của các
doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đặc biệt khi hàng rào
thuế quan được xoá bỏ trong thời gian tới.

d. Về trình độ quản lý của các doanh nghiệp.

Trình độ quản lý là một trong những mặt còn yếu kém của Việt Nam.
Những năm qua, việc tiến hành hợp tác làm ăn với các nhà đầu tư nước ngoài đã
giúp chúng ta tiếp cận với những phương thức quản lý mới. Đó là quản lý kinh
tế trong nền kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất
nước. Đây cũng chính là mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta khuyến
khích trong việc chuyển giao công nghệ.

e. Về bảo vệ môi trường.

Theo thống kê của Bộ khoa học-công nghệ và môi trường, hiện nay có
trên 50% số dự án lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và có trên 520 báo
cáo được thẩm định. So với công nghệ hiện có trong nước, công nghệ chuyển
giao qua các dự án đầu tư nước ngoài có phần nâng cao hiệu quả công tác bảo
vệ môi trường. Đây là một trong những yêu cầu “ Phát triển bền vững” đang
được đặt ra trên phạm vi toàn cầu.

Chuyển giao công nghệ là con đường ngắn nhất để đổi mới công nghệ,
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chúng ta không thể không công nhận
những đóng góp to lớn của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Nó đã góp phần
nâng cao trình độ công nghệ, tăng thu nhập quốc dân, tiếp kiệm chi phí sản
xuất, bố trí lại hợp lý lực lượng lao động và nâng cao trình độ lao động, đưa họ
tiếp cận với trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới.

2.3 Những mặt tồn tại.

Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định nhưng hoạt động chuyển
giao công nghệ qua các dự án đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nhiều
vấn đề đáng phải nghiên cứu, phải tìm biện pháp khắc phục.

a. Công nghệ chuyển giao chưa thuộc loại tiên tiến, hiện đại trong khi đó
giá lại quá cao.

Một cuộc khảo sát công nghệ được chuyển giao tại 42 doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài cho thấy : trong 727 thiết bị và 8 dây chuyền sản xuất
thì có đến 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 50-60, 50% máy móc đá
qua sử dụng. Nhận định trên một lần nữa lại được chứng minh qua kết quả điều
tra, đánh giá trình độ công nghệ trong các ngành công nghiệp nhẹ :
- 46% doanh nghiệp có trình độ công nghệ ở mức trung bình khá có thể
duy trì trong vòng 3-5 năm nếu thị trường ổn đinh.

- 40% doanh nghiệp có trình độ công nghệ trung bình, cần phải được
cải tiến, nâng cao mới đáp ứng được nhu cầu.

- 14% doanh nghiệp có trình độ công nghệ thấp, cần phải đổi mới. Trong
số những công nghệ được khảo sát ở trên có những công nghệ lạc hậu mà thế
giới đã loại bỏ lại được chuyển giao vào nước ta như : công nghệ sản xuất các
chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng DBSA. Một số công nghệ bị thanh lý
ở chính quốc được đưa vào Việt Nam sau khi đã được tân trang cải tiến ít
nhiều(dây chuyền sợi dệt, sản xuất thuốc lá, dây chuyền sơn mái tôn lợp…).

Mặt khác công nghệ chuyển giao lại có giá quá cao so với giá thực tế của
nó. Một phòng tư vấn Thuỵ Sỹ cho biết trung bình các hợp đồng chuyển giao
công nghệ đã tăng từ 10 đến 15%, đôi khi tới 40% so với giá thực tế trên thị
trường quốc tế.

Phần lớn công nghệ chuyển giao có trình độ lạc hậu so với thế giới .
Nhiều dây chuyền sản xuất còn sử dụng nhiều lao động thủ công, có trình độ cơ
khí hoá thấp , trong khi đó nhiều công trình dự toán bị phía nước ngoài nâng
giá lên từ 2 đến 2.5 lần. Vậy đâu là nguyên nhân của sự mâu thuẫn này?

Lợi dụng sự kém hiểu biết của phía Việt Nam, đối tác nước ngoài không
chuyển giao mọi công nghệ hiện đại, chủ yếu nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận
cao và nhanh. Những công nghệ có trình độ tiên tiến thường đắt tiền, thời gian
hoàn vốn lâu.

Ben cạnh đó, phía Việt Nam lại có tâm lý ỷ lại, trông chờ nhiều vào Nhà
Nước, trình độ hiểu biết về công nghệ mới còn rất hạn chế, động cơ trục lợi cá
nhân, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn, thụ động trong việc tìm kiếm công
nghệ và đàm phán, ký hợp đồng. Sự hạn chế này là một phần do những điều
kiện về môi trường kinh tế - xã hội chưa đầy đủ, thiếu hệ thống thông tin về
công nghệ và các dịch vụ hỗ trợ khác, năng lực nghiên cứu , triển khai công
nghệ còn kém, chưa đủ nội lực làm cơ sở cho việc tiếp thu và phát triển công
nghệ được chuyển giao…Hàng loạt các nguyên nhân khách quan và chủ quan
trên cho thấy sự bất cập trong chuyển giao công nghệ tại các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài là một vấn đề đáng được quan tâm thoả đáng.

b. Những công nghệ được chuyển giao chưa tạo được lực đẩy cần thiết
cho việc tiếp tục nâng cao công nghệ va tự đổi mới công nghệ.

Từ thực tế đáng lo ngại: công nghệ được chuyển giao phần lớn có trình
độ yếu kém, lạc hậu so với thế giới thì hậu quả tất yếu sẽ là: chưa tạo được lực
đẩy cần thiết cho việc tiếp tục nâng cao năng lực công nghệ và tự đổi mới công
nghệ . Bởi trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay, đổi mới công
nghệ diễn ra với hai hình thức chủ yếu : Thông qua liên doanh liên kết với nước
ngoài tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới và tự đầu tư để đổi mới công nghệ.
Những năm qua hệ số đổi mới chỉ đạt 7 % một năm( chỉ bằng một nửa mức tối
thiểu của nước khác). Sự chuyển giao công nghệ được thực hiện chủ yếu trong
lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng ( dệt may, giày dép, chế biên lương thực, thực
phẩm … ). Các ngành khác, quá trình chuyển giao công nghệ chưa thực sự
diễn ra sâu rộng . Tại các doanh nghiệp ngành điện tử , công nghệ lắp ráp chiếm
ưu thế ( 80% CKĐ). Tại các doanh nghiệp ôtô , công nghệ hầu như là lắp ráp
( 100% ôtô lắp ráp dưới dạng CKĐ). Tỷ lệ khai thác năng lực máy móc thiết bị
thấp… Không những công nghệ được chuyển giao chủ yếu là phần cứng, trong
các lĩnh vực lắp ráp , gia công, chế biến và chỉ dừng lại ở khâu tiếp nhận , vận
hành. Mặt khác sự tiếp thu công nghệ một cách thụ động đã khiến cho các
doanh nghiệp khó nâng cấp và tự đổi mới công nghệ khi cần thiết. Chuyển giao
công nghệ cũng chưa tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với
nhau và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tiến bộ
kỹ thuật – công nghệ . Đây là điểm yếu của chúng ta nhưng lại là bí quyết
thành công của các nước tiên tiến trên thế giới và ngay cả các nước trong khu
vực như Malaysia, Singapo.

c.Chuyển giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ tẻ , thiếu
quy hoạch và chiến lược thiếu sự gắn kết giữa phương hướng đổi mới chuyển
giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như chiến lược phát triển kinh
doanh.

Trước sức ép của thị trường các doanh nghiệp đua nhau chuyển giao công
nghệ. Phải chăng đây là các “mốt” mà các doanh nghiệp tìm mọi cách để chạy
theo mà không hề chú ý tới công nghệ được chuyển giao có thực sự phù hợp
với bản thân doanh nghiệp không. Có thể kể ra đây một trường hợp điển hình về
việc nhập khâu thiết bị từ FLS, Đan Mạch của nhà máy xi măng Hoàng Thạch.
Quá hiện đại , quá rộng so với yêu cầu của địa phương, thiết bị phải ngừng hoạt
động 6 tháng vì thiếu than đá. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là trình độ công
nghệ mà chính là sự phù hợp của công nghệ với chiến lược phát triển , chiến
lược sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, còn tồn tại tình trạng công nghệ được
chuyển giao phần lớn do nước ngoài giới thiệu chứ không phải do các doanh
nghiệp tự tìm kiếm, tự nghiên cứu và thiết kế. Hơn nữa, nhập máy móc thiết bị
lẻ nhiều hơn là nhập dây chuyền đồng bộ và khép kín…

d. Thực hiện luật pháp trong chuyển giao công nghệ .

Nhiều hoạt động chuyển giao công nghệ qua các đự án đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài được thực hiện không theo quy định của pháp luật về chuyển
giao công nghệ , không lập và ký hợp đồng hay chỉ ký hợp đồng giữa bên giao
và bên nhận mà không trình để phê duyệt , nhiều hợp đồng do bên nước ngoài
soạn thảo với điều kiện có lợi cho họ trái với quy định của pháp luật Việt Nam,
chi phí chuyển giao công nghệ quá cao… Nhà nước ta khuyến khích chuyển
giao công nghệ với phí chuyển giao là 5% giá bán hay 25 % lợi nhuận sau thuế
trong thời hạn 7 năm ( theo quyết định số 49- HĐBT ). Nhưng bên giao tìm
cách không trình duyệt hợp đông chuyển giao công nghệ ( chỉ có dự án đầu tư
nước ngoài có hợp đồng chuyển giao công nghệ trình bộ Khoa học công nghệ
và môi trường xét duyệt theo đúng pháp luật)

e. Sự thiếu đồng bộ, thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong
hoạt động chuyển giao công nghệ.

Công nghệ chuyển giao vào trong nước phải có những điều kiện nhất
định về cơ sở hạ tầng kỹ thuật để chọn lựa cho phù hợp cũng như phát huy tác
dụng. Trong khi đó , sự thiếu đồng bộ thiếu hoàn chỉnh của cơ sở hạ tầng kỹ
thuật hiện nay đã khiến các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn: thiếu thông tin,
thiếu năng lực quản lý, đổi mới, công nghệ … chúng ta đang từng bước xây
dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nhưng vẫn còn nhiều thua kém so với các quốc gia
khác.

f.Bảo vệ môi trường.

Một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình “phát triển bền vững”
đối với mọi quốc gia là yêu cầu bảo vệ môi trường. Cùng với việc chuyển giao
công nghệ cũ , lạc hậu thì nỗi lo về môi sinh cũng được đặt ra. Khảo sát ở một
số cơ sở sản xuất cho thấy : nhà máy phân lân Văn Điển có lượng bụi tới
1100mg/m3 chiếm 90 % lượng chất thải vào không khí. Nhà máy cao su Hà
Nội, hơi xăng có nồng độ cao vượt tiêu chuẩn cho phép 40 lần… Bên cạnh tình
trạng ô nhiễm không khí là sự ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt do các nhà máy
dệt, nhuộm, thuộc da, hoá chất thải ra. Tiếng ồn, độ rung của máy móc thiết bị
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của công nhân lao động và nhân dân.
Chúng ta cần những công nghệ tiên tiến và phù hợp để công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, song không thể trở thành “ bãi thải công nghiệp” của các quốc
gia phát triển

You might also like