Professional Documents
Culture Documents
M
ôi trường kinh doanh ngày càng mang tính cạnh tranh và phức tạp hơn bao giờ hết. Chất lượng dịch vụ ngày càng trở thành ch
khoá để có thể dẫn tới thành công. Song song với xu thế này, nhu cầu cũng ngày càng gia tăng đối với các dịch vụtruyền thôn
mới, đủ khả năng đáp ứng việc cung cấp dịch vụ hoặc tăng tính cạnh tranh. Trung tâm của những dịch vụ mới làmạng thế hệ
theo (Next Generation Network - NGN).
Cụm từ "mạng thế hệ tiếp theo" (Next Generation Networks- NGN) bắt đầu được nhắc tới từ năm 1998. Đối với nhiều người,
NGN đại diện cho sự định nghĩa lại ngành công nghệ thông tin và viễn thông thế giới; một cuộc cách mạng dẫn tới việc sáp
nhập âm thanh, dữ liệu, truyền tải (tranmission) và tính toán (computing). Trên thực tế, cuối cùng công nghệ mới này có thểkh
nhiều công ty truyền thông không được gọi là các "công ty truyền thông", mà chuyển thành một dạng công ty cung cấp dịch
vụ chưa từng được biết tới trước đó.
M
C
(VnMedia )
ạng thế hệ tiếp theo là gì?
NGN là bước tiếp theo trong lĩnh vực truyền thông thế giới, truyền thống được hỗ trợ bởi 3 mạng lưới: mạng thoại PS
mạng không dây và mạng số liệu (Internet). NGN hội tụ cả 3 mạng trên vào một kết cấu thống nhất để hình thành một
mạng chung, thông minh, hiệu quả cho phép truy xuất toàn cầu, tích hợp nhiều công nghệ mới, ứng dụng mới
và mở đường cho các cơ hội kinh doanh phát triển.
ó thể đề cập tới ba loại hình dịch vụ thúc đẩy sự ra đời của NGN: Dịch vụ truyền thông thời gian thực (real-time service
và phi thời gian thực (non real-time services); dịch vụ nội dung (content services) và các hoạt động giao dịch (transaction
services). Đến lượt mình, NGN tạo điều kiện để các nhà cung cấp dịch vụ tăng cường khả năng kiểm soát, tính bảo mật
và độ tin cậy trong khi giảm thiểu được chi phí vận hành.
Được xây dựng trên tiêu chí mở, các giao thức chuẩn và giao diện thân thiện, NGN đáp ứng được hầu hết các nhu cầu
nhiều đối tượng sử dụng: doanh nghiệp, văn phòng, liên lạc giữa các mạng máy tính v.v... NGN thống nhất mạng hữu
tuyến truyền thống và chuẩn truyền tải âm thanh, hình ảnh, dữ liệu không dây.
Công nghệ mạng NGN chính là chìa khoá giải mã cho công nghệ tương lai, đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu kinh doa
trên với đặc điểm quan trọng là cấu trúc phân lớp theo chức năng và phân tán các tiềm năng trên mạng, làm cho mạng
mềm hoá và sử dụng rộng rãi các giao diện mở đa truy nhập, đa giao thức để kiến tạo các dịch vụ mà không phụ thuộc
quá nhiều vào các nhà cung cấp thiết bị và khai thác mạng.
NGN "xuất đầu, lộ diện" bởi đã có nhiều thay đổi trong những năm qua xét từ 3 giác độ chính: cấu trúc ngành công
nghiệp, công nghệ và mong đợi từ phía người dùng.
Thứ nhất, sự bùng nổ của ngành công nghệ thông tin và viễn thông, một lớp các nhà cung cấp dịch vụ mới dần xuất hi
các nhà cung cấp dịch vụ mang tính cạnh tranh muốn khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Ví dụ, nhiều nhà cung
dịch vụ lựa chọn triển khai các công nghệ mới nhất nhằm giành thế "thượng phong" trong việc tung ra dịch vụ.
Thứ hai, công nghệ đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Đơn cử, công nghệ nhận dạng giọng nói, công nghệchuyển đ
từ chữ sang âm (TTS) v.v.. cũng khiến mạng truyền thống buộc phải nhường đường cho NGN trong việc tích hợp các ứ
dụng cao cấp hơn, vì mục tiêu phục vụ tốt nhất người sử dụng.
Thứ ba, mạng Internet đã "gieo hy vọng" cho đông đảo người dùng rằng họ có thể lấy thông tin ở bất cứ đâu, bất cứ k
nào họ muốn. Xuất phát từ chính nhu cầu này đã nảy sinh xu thế "hội tụ" của các thiết bị đầu cuối cho
hỗtrợ được đầy đủ các tính năng như liên lạc, truy xuất thông tin, giải trí v.v... trong khi vẫn đảm bảo được tính diđộn
Mạng Internet chắc chắn sẽ vẫn đóng vai trò là nguồn cung cấp thông tin chính. Tuy nhiên, mạng truyền tảiđóng vai
trò trung gian chắc chắn sẽ phải là NGN.
Th
Tách thức về chất lượng dịch vụ ích hợp âm thanh, dữ liệu… trong một mạng lưới yêu cầu đảm bảo chất lượngâm
thanh được truyền tải cũng như yêu cầu đặt ra đối với việc truyền tải dữ liệu. Đây thực sự là một thách thức khó khă
về mặt công nghệ vì đơn cử, mạng dữ liệu không được thiết kế dành riêng phục vụ truyền tải âm thanh.
Bộ định tuyến Internet không có nỗ lực đặc biệt nào để đảm bảo rằng các cuộc gọi sẽ đảm bảo tính đồng đều vềmặt ch
lượng truyền tải. Bộ định tuyến chỉ giúp phân luồng các gói tin càng nhanh càng tốt. Chính vì vậy, từng gói tin phải
chịu độ trễ khác nhau, đôi khi thất lạc- ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng âm thanh.
Th
Hiách thức về quản lý
ện tại xã hội con người phụ thuộc rất nhiều vào mạng điện thoại. Chúng ta luôn có cảm giác yên tâm rằng bất cứlúc nà
chúng ta cũng có thể nhấc máy và gọi những số khẩn cấp như chữa cháy hoặc cảnh sát. Tuy nhiên, rất ít người
có đủ "gan" để giao phó tính mạng mình cho mạng Internet. Những trục trặc sẽ không là gì khi xảy ra trong một phạm
hẹp nhưng sẽ trở thành "vấn đề" khi được triển khai áp dụng ở quy mô lớn.
Th
Thách thức trong quá trình chuyển tiếpách thức thực sự nằm ở nhu cầu đảm bảo sự truyển tiếp "êm thấm" từmạng
truyền thống sang NGN. Một trong những trở ngại điển hình là tính tương thích giữa mạng mới ra đời vàmạng đã triể
khai..
Th
Thách thức về bảo mậtách thức về bảo mật xuất phát một phần ngay ở cơ chế phân tầng ứng dụng (layering of
applications), bao gồm thoại, dữ liệu…. Trong mạng PSTN, các câu lệnh được truyền tải trong các mạng tín hiệu riêng
nên dễ kiểm soát. Trong khi đó đối với NGN vì hầu hết các cổng (gateway) đều có khả năng truyền tảiâm thanh và dữ
Bên cạnh đó, về nguyên tắc nội dung được truyền tải trong mạng còn được chia sẻ trên toàn cầu. Chính sự hoà trộn n
khiến công tác bảo mật "gian khổ" hơn nhiều.
Triển khai mạng NGN phát sinh thách thức về mặt kinh tế đối với các nhà cung cấp dịch vụ mà gốc rễ của vấn đềlà sự
giá liên tục của băng thông. Hiện tại, hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ đều khai thác trên mạng đã tồn tại sẵn, một thờ
gian sau khi mạng mới triển khai, việc giao tiếp tốc độ cao - thời gian thực trở nên phổ biến thìngười dùng sẽ đặt ra yê
cầu được sử dụng miễn phí.
Đa phần các nhà cung cấp dịch vụ nhìn thấy xu thế và triển vọng của NGN. Tuy nhiên, họ lại bị trói buộc trước thực tr
nhu cầu thực tại đối với NGN đang là rất thấp. Để có đầu tư, họ phải đảm bảo 2 yếu tố đó là vốn đầu tưdư giả và sự k
trì ("đợi thời"). Nhà cung cấp cũng còn e ngại về độ "chín" của công nghệ sẽ trợ giúp họ trong quá trình chuyển sang
NGN. Trong quá trình chờ đợi, nhà cung cấp buộc phải liên tục nâng cấp công nghệ, thiết bị để đảm bảo tính cạnh tran
Chính vì vậy, khó mà "dốc toàn lực" để chuyển sang NGN.
Gartner Dataquest đã hoàn thành một công trình nghiên cứu toàn diện, đề cập tới nhiều khía cạnh mang tên "State of t
Next-Generation Network" (tạm dịch: Trạng thái của mạng thế hệ tiếp theo). Công trình nghiên cứu các bước chuyển b
mà NGN đã đạt được, xác định những xu thế chính và giới thiệu khá chi tiết về 141 tổ chức phát triển NGN trên thế g
Được giao "trọng trách" đối với ngành công nghiệp mạng trong thế kỷ 21, NGN ngày càng giành được nhiều sựquan t
chú ý và đã được coi là quốc sách tại nhiều quốc gia. Trong bối cảnh đó, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về mạng
thế hệ tiếp theo (Global NGN Summuit) đã diễn ra từ ngày 26 - 28/4/2004 tại Bắc Kinh (Trung Quốc).
Hội nghị lần này mang chủ đề "Joint Efforts to Build the Future Next Generation Network" (tạm dịch: cùng nỗ lực xây dự
mạng thế hệ tiếp theo). Được biết, đây là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên tập trung được số lượng đôngđảo các chuyên
về NGN tới từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Các đại biểu tham dự hội nghị đã thảo luận nhiều vấn đề liên quan tới triển vọng của NGN, tựu trung lại nhằm vào 3
vấn đề chính: xu thế về công nghệ (technology trends), cuộc cách mạng về mạng lưới (network evolution) vàcấu trúc mô
kinh doanh (business modules).
Được biết, nước chủ nhà trước đó cũng đã Trung Quốc đã thử nghiệm mạng Internet thế hệ tiếp theo (China Next
Generation Internet- CNGI) và coi đây là bước phát triển quan trọng tiến tới xây dựng NGN. Dự án có sự tham gia của
tập đoàn viễn thông lớn nhằm xây dựng mang bao phủ 6 tỉnh với băng thông xương sống (backbone) đạt 10 Gbs/s.
Tháng 12/2003, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã lắp đặt xong giai đoạn 1 mạng viễn thông
thế hệ mới - New Generation Network (NGN) và đã đi vào vận hành thành công. Đây là mạng có hạ tầng thông tin duy
dựa trên công nghệ chuyển mạch gói (packet- switch), được VNPT chọn lựa để thay thế công nghệchuyển mạch kênh
(circuit -switch). Đây là mạng sử dụng công nghệ chuyển gói với đặc tính linh hoạt, ứng dụng những tiến bộ của công
nghệ thông tin và công nghệ truyền dẫn quang băng rộng nên tích hợp được dịch vụthoại và dịch vụ truyền số liệu.
Song song với việc thiết lập lớp chuyển tải trục và vùng, VNPT đã và đang gấp rút triển khai lớp truy nhập của mạng N
với các Media Gateway và hệ thống băng rộng công nghệ xDSL hỗ trợ các kết nối ADSL và SHDSL. Với hạ tầng mạng
xDSL này, VNPT đã cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng MegaVNN tại nhi ều tỉnh, thành phố trên cả nước.
Dự kiến đến năm 2005, cả nước sẽ có khoảng 180.000 cổng xDSL.
Được giao trọng trách đối với nghành công nghiệp mạng trong thế kỷ 21, NGN ngày càng giành
được sự quan tâm, chú ý và đã được coi là quốc sách tại nhiều quốc gia. Trong bối cảnh đó, Hội
nghị thượng đỉnh toàn cầu về mạng thế hệ tiếp theo (Global NGN Summit) đã diễn ra tháng 4 năm
2004 tại Bắc Kinh-Trung Quốc với chủ đề “Cùng nỗ lực xây dựng mạng thế hệ tiếp theo“ (Joint
Efforts to Build the Future Next Generation Network). Trước đó, Trung Quốc đã thử nghiệm mạng
Internet thế hệ tiếp theo (China Next Generation Internet - CNGI) và coi đây là bước phát triển quan
trọng tiến tới xây dựng mạng NGN. Dự án có sự tham gia của 5 tập đoàn viễn thông lớn nhằm xây
dựng mạng bao phủ 6 tỉnh với băng thông mạng đường trục là 10Gbit/s.
Công ty Gartner dự báo: bắt đầu từ năm 2005, thị trường cho việc triển khai
NGN sẽ bắt đầu khởi sắc. Trong vòng vài năm tiếp theo, thoại qua giao thức IP và
NGN sẽ có khả năng hỗ trợ tối đa các định dạng giao dịch tốn nhiều băng thông nhất.
Gartner Dataquest đã hoàn thành một công trình nghiên cứu toàn diện, đề cập tới nhiều
khía cạnh mang tên “State of the Next-Generation Network“ (trạng thái của mạng thế
hệ tiếp theo). Công trình nghiên cứu các bước chuyển biến mà NGN đã đạt được, xác
định những xu thế chính và giới thiệu khá chi tiết về 141 tổ chức phát triển NGN trên
thế giới.
Được giao trọng trách đối với nghành công nghiệp mạng trong thế kỷ 21, NGN
ngày càng giành được sự quan tâm, chú ý và đã được coi là quốc sách tại nhiều quốc gia.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về mạng thế hệ tiếp theo (Global NGN
Summit) đã diễn ra tháng 4 năm 2004 tại Bắc Kinh-Trung Quốc với chủ đề “Cùng nỗ lực
xây dựng mạng thế hệ tiếp theo“ (Joint Efforts to Build the Future Next Generation
Network). Trước đó, Trung Quốc đã thử nghiệm mạng Internet thế hệ tiếp theo (China
Next Generation Internet - CNGI) và coi đây là bước phát triển quan trọng tiến tới xây
dựng mạng NGN. Dự án có sự tham gia của 5 tập đoàn viễn thông lớn nhằm xây dựng
mạng bao phủ 6 tỉnh với băng thông mạng đường trục là 10Gbit/s.
NGN xuất hiện bởi vì đã có nhiều thay đổi trong những năm qua, xét từ ba khía
cạnh chính: cấu trúc ngành công nghiệp, công nghệ và sự mong đợi của người sử dụng.
Thứ nhất, sự bùng nổ của ngành công nghệ thông tin và viễn thông, một lớp các nhà cung
cấp dịch vụ mới xuất hiện: các nhà cung cấp dịch vụ mang tính cạnh tranh, muốn khẳng
định vị trí của mình trên thị trường. Hai là, công nghệ đang phát triển với tốc độ chóng
mặt khiến mạng truyền thống buộc phải nhường đường cho NGN trong việc tích hợp các
dịch vụ cao cấp hơn, vì mục tiêu phục vụ tốt nhất cho người sử dụng. Ba là, mạng Internet
tạo cho người sử dụng cảm giác rằng họ có thể lấy thông tin ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào
họ muốn. Xuất phát từ chính nhu cầu này đã xuất hiện xu hướng “hội tụ” của các thiết bị
đầu cuối cho hỗ trợ được đầy đủ các tính năng như liên lạc, truy xuất thông tin, giải trí...
trong khi vẫn đảm bảo được tính di động. Mạng Internet chắc chắn sẽ vẫn đóng vai trò là
nguồn cung cấp thông tin chính. Tuy nhiên, mạng truyền tải đóng vai trò trung gian chắc
chắn sẽ phải là NGN.
Vì NGN hội tụ cả ba mạng thành phần (thoại, không dây và số liệu) vào một kết cấu
thống nhất để hình thành nên hạ tầng thông tin duy nhất, dựa trên công nghệ chuyển mạch
gói nên nó cho phép triển khai các dịch vụ một cách nhanh chóng và đa dạng, đáp ứng sự
hội tụ giữa thông tin thoại, truyền dữ liệu và Internet, giữa cố định và di động... với giá
thành thấp. Với ưu thế cấu trúc phân lớp theo chức năng và sử dụng rộng rãi các giao diện
mở API để kiến tạo các dịch vụ mà không phụ thuộc quá nhiều vào các nhà cung cấp thiết
bị và khai thác mạng.
Ứng dụng NGN cho phép giảm thiểu thời gian đưa dịch vụ mới ra thị trường, nâng
cao hiệu suất sử dụng truyền dẫn. NGN còn cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tăng
cường khả năng kiểm soát, bảo mật thông tin của khách hàng. Nó đáp ứng được hầu hết
các nhu cầu của nhiều đối tượng sử dụng như cá nhân, văn phòng, doanh nghiệp... với các
giao thức chuẩn và giao diện thân thiện. Với tính thông minh của mạng, NGN cũng tạo
tiền đề cho các bước phát triển của công nghệ và các dịch vụ mới trong tương lai.
2. Những thách thức khi đưa mạng NGN vào hoạt động
Sự phát triển mạng NGN tại Việt Nam là một xu thế tất yếu, phù hợp với quá trình
phát triển NGN trên thế giới. Không nằm ngoài xu hướng chung đó, Việt Nam cũng đang
có những bước phát triển mạng NGN của riêng mình. Hiện nay có 6 doanh nghiệp được
phép của Tổng Cục Bưu Điện (nay là Bộ Bưu chính Viễn Thông) cho phép cung cấp các
dịch vụ viễn thông là Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty điện
tử viễn thông quân đội (Viettel), Công ty viễn thông điện lực (VP Telecom), Công ty cổ
phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT), Hà Nội Telecom, Công ty viễn thông
Hàng hải. Trong đó ngoại trừ Công ty viễn thông Hàng hải, các công ty khác đều đang
cung cấp dịch vụ gọi VoIP đường dài trong nước và quốc tế. Phần này sẽ giới thiệu một
cách cụ thể tình hình triển khai mạng NGN của Tổng công ty Bưu chính-Viễn thông
(VNPT) và một số công ty khác, trong đó có công ty thông tin Viễn thông Điện lực
(EVNTelecom).
3.1. Mạng NGN của Tổng công ty bưu chính viễn thông (VNPT)
3.2. Đối với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông khác
Hiện nay Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực EVNTelecom cũng đang tiến
hành xây dựng mạng NGN theo giải pháp SURPASS của Siemens. Trong giai đoạn một
VPTelecom sẽ lắp đặt 14 PoP tại các tỉnh và thành phố, sau khi hoàn thành pha 2 đã có 25
PoP. Về mô hình mạng tương tự VNPT, cũng có khả năng cung cấp mọi dịch vụ mà
VNPT có thể cung cấp. Đối với các công ty khác như Viettel, SPT cũng đang có các định
hướng xây dựng mạng NGN của họ. Điều này làm cho sự cạnh tranh ở thị trường viễn
thông Việt Nam ngày càng sôi động, cung cấp cho khác hàng nhiều các dịch vụ mới với
giá cả hợp lý. Xu hướng phát triển tất cả các dịch vụ viễn thông trên nền mạng NGN là
mục tiêu mà các nhà khai thác đang theo đuổi.
KẾT LUẬN
Với những ưu thế vượt trội như chi phí đầu tư mạng NGN thấp hơn nhiều so với
mạng tổng đài chuyển mạch kênh, đồng thời khi triển khai mạng chuyển mạch mềm sẽ tạo
cơ hội cạnh tranh về mặt cung cấp đa dịch vụ so với mạng PSTN, mạng dữ liệu truyền
thống... Theo dự đoán của nhiều chuyên gia, cùng với sự thu hẹp của thị trường tổng đài
điện tử dung lượng lớn là sự bùng nổ của thị trường softswitch. Đối với thị trường Việt
Nam, các nhà cung cấp dịch viễn thông đang từng bước xây dựng, hoàn thiện hạ tầng
mạng và cung cấp các dịch vụ cho khách hàng. Trong giai đoạn đầu đa số lưu lượng của
mạng NGN là kết nối với mạng PSTN thông qua các Media Gateway, nhưng trong thời
gian sắp tới NGN sẽ có rất nhiều các thuê bao sử dụng các dịch vụ thoại, truy nhập
Internet băng rộng thông qua các Access Gateway, dịch vụ mạng riêng ảo VPN dành cho
các doanh nghiệp... phát triển mạnh.