Professional Documents
Culture Documents
Lớp 10A2
Phân biệt đạo đức với pháp luật và phong tục
tập quán trong sự điều chỉnh hành vi của
con người .
I. Khái niệm:
Đạo đức: là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội , mà nhờ
đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù
hơp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội .
VD: Giúp đỡ mọi người trong công việc cần thiết, lễ phép
chào hỏi người lớn tuổi …
Các xã hội khác nhau thì quy tắc chuẩn mực đạo đức
cũng khác nhau . Nó bị chi phối bởi quan điểm và lợi ích
của giai cấp thống trị .
VD: Tục chào hỏi xã hội phong kiến cúi lậy xã hội hiện nay
dơ tay chào , bắt tay ôm hôn …xã hội phong kiến trọng
nam khinh nữ ngày nay thì nam, nữ bình đẳng …
II. Phân biệt đạo đức với pháp luật và phong tục tập quán trong
sự điều chỉnh hành vi của con người .
Pháp luật :là hệ thống các quy tắc xử xự chung do nhà nước
ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà
nước .
VD: Pháp luật quy định khi tham gia giao thông người tham
gia phải đi đúng phần đường quy định , chấp hành hệ thống
báo hiệu đường bộ đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên mô tô xe
máy …..
VD: Ăn cơm thì mời , chúc tết nhau , thờ cúng tổ tiên …
phong tục tập quán những thuần phong mỹ tục thì chúng ta
giữ gìn . Ngược lại những phong tục tập quán lạc hậu lỗi thời
( hủ tục ) chúng ta cần loại bỏ
VD: Ma chay bói toán , cưới hỏi linh đình …
A.Giống nhau:
Là sản phẩm của con người , điều chỉnh hành vi của con người .
B.Khác nhau:
VD: Con cái có VD: Kinh doanh phải VD: Thờ cúng ông
hiếu với cha mẹ nộp thuế… bà tổ tiên
1. Đạo đức:
Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng
lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách
sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù
hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội .
Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui
tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng
như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền
thống và sức mạnh của dư luận xã hội[1].
Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của
các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của
chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản.
Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã
hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất
công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra
quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức
có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định.
Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại
những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế
thừa của đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất
kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên
quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người.
Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản
bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng,
khiêm tốn... "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến
bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân
loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính
nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình
thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự
xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần
dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô,
đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến
bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư
sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn
chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực
sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về
sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà
trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được mà còn
quên đi sự đối lập giai cấp". Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội
cộng sản chủ nghĩa(Enghen).
Các loại đạo đức
Luật tôn giáo đề cập đến khái niệm hay tài liệu của một hệ
thống tôn giáo được dùng như một nguồn tài liệu pháp luật mặc
dù cách thức áp dụng ở từng nước có khác nhau. Ví dụ, việc sử
dụng bộ luật Halakha của người Do Thái có đặc tính bất biến
ngoại trừ việc được sửa đổi bởi các đạo luật lập pháp của nhà
nước hay được phát triển thông qua các tiền lệ của tòa án; luật
giáo hội của Thiên Chúa giáo giống với dân luật ở chỗ sử dụng
các bộ luật dân sự; và luật Sharia của Hồi giáo dựa trên tiền lệ
pháp và lập luận theo phép loại suy (tương tự luật) (Qiyas) và
nó được xem là tiền thân của thông luật.[1]
Các loại chính của luật tôn giáo gồm có: Sharia ở Hồi giáo,
Halakha ở Do Thái giáo, và luật Canon ở một số quốc gia theo
Công giáo.
Làng - Phường
Nền văn hoá truyền thống Việt Nam được hình thành trên cơ sở
của nền văn minh nông nghiệp. Cuộc sống của mỗi người Việt Nam
đều gắn bó mật thiết với xóm làng, quê hương... Trong xã hội Việt
Nam, dân cư tụ hội thành làng xã ở nơi đồng ruộng và phường, hội
ở nơi thành thị. Làng và phường đã ra đời ngay từ những buổi đầu
trứng nước của dân tộc. Dần dà, các tổ chức này ngày càng ổn
định và chặt chẽ hơn. Trên cơ sở đồng lòng nhất trí, ở làng có luật
của làng, gọi là hương ước, thợ thủ công ở các xóm nghề, phố
nghề thì có phường ước.Tinh thần then chốt của những hương
ước, phường ước xuất phát từ thuần phong mỹ tục của làng,
phường, là những cụ thể hoá phong phú sinh động nằm trong
Giao Thiệp:
Theo phong tục Việt Nam "miếng trầu là đầu câu chuyện" miếng
trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm ý nghĩa, giầu
nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có.Miếng trầu đi đôi với lời
chào, người lịch sự không "ăn trầu cách mặt" nghĩa là đã tiếp thì
tiếp cho khắp. Vì trầu cau là "đầu trò tiếp khách" lại là biểu tượng
cho sự tôn kính, phổ biến trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ
cưới, lễ thọ, lễ mừng...
Tục ăn trầu
Tương truyền có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một chuyện
cổ tích nổi tiếng "chuyện trầu cau". Miếng trầu gồm 4 thứ nguyên
liệu: cau (vị ngọt), lá trầu không (vị cay), rễ (vị đắng) và vôi (vị
nồng). Ăn trầu thể hiện nếp sinh hoạt mang đậm tính dân tộc độc
đáo của Việt . Sách xưa ghi rằng "ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí,
tiêu cơm".
Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng
trầu nhân lên niềm vui, khách đến được mời trầu; tiệc cưới có đĩa
trầu để chia vui; ngày lễ, tết, ngày hội miếng trầu với người lạ để
làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri âm tri kỷ. Miếng
trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm
nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, có buồn được sẻ chia cảm
thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Miếng trầu còn là sự thể hiện
lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nên trên
mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt có trầu cau.
Trong khi đa số giới nữ ăn trầu và miếng trầu là đầu câu chuyện thì
đối với đàn ông, thuốc lào gắn bó với họ lúc vui, buồn thậm trí suốt
cả cuộc đời. Thuốc lào được hút bằng điếu ống, điếu bát, để cho
tiện dụng khi xa nhà lại hút bằng điếu cày (điếu để hút thuốc trong
lúc cày bừa ở đồng ruộng nên gọi là điếu cày).