Professional Documents
Culture Documents
Chương này cung cấp các khái niệm cơ bản và một số quy luật, công cụ phân tích
quan trọng của kinh tế học hiện đại. Với mục tiêu giúp sinh viên có được kiến thức ban
đầu về môn học.
1.1. Khái niệm, những đặc trưng và phương pháp luận nghiên cứu của kinh
tế học.
- Tính hợp lý, thể hiện ở chỗ khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó
cần phải dựa trên những giả thiết nhất định ( hợp lý) về diễn biến của sự kiện kinh tế này.
Ví dụ để giải thích xem doanh nghiệp sản xuất cái gì, bao nhiêu và bằng cách nào? Kinh
tế học giả định là họ tìm cách tối đa hoá thu nhập của mình với những ràng buộc nhất
đình về các yếu tố sản xuất. Tuy nhiên lưu ý rằng tính chất của những giả thiết này chỉ có
ý nghĩa tương đối.
- Kinh tế học là một bộ môn nghiên cứu mặt lượng. Việc thể hiện các kết quả
nghiên cứu kinh tế bằng những con số có tầm quan trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả
của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chưa đủ mà còn
phải xác định xem sự thay đổi đó là bao nhiêu, có ý nghĩa như thế nào?
- Tính toàn diện và tính tổng hợp. Tức là khi xem xét các hoạt động và sự kiện
kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với các hoạt động và các sự kiện khác trên phương
diện một nước, thậm chí trên phương diện nền kinh tế thế giới.
- Các kết quả của kinh tế học là các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác định đươck
ở mức trung bình vì những kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau và
không thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.
- Nền kinh tế thị trường: trong nền kinh tế này, 3 chức năng cơ bản của nề kinh tế
được thực hiện thông qua cơ chế thị trường, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà
kinh doanh tác động lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá cả thị trường,
lợi nhuận,thu nhập…Các doanh nghiệp sẽ sản xuất những mặt hàng (cái gì) đem lại lợi
nhuận cao nhất, bằng những kỹ thuật rẻ nhất (như thế nào) và tiêu dùng của các hộ gia
đình (cho ai) đươc xác định bởi số lượng tiền công có được nhờ lao động và lợi tức thu
được nhờ sở hữu tài sản của mình.
- Nền kinh tế hỗn hợp: Các hệ thống kinh tế hiện đại ngày nay không măng những
hình thức thuần tuý nêu trên mà là sự kết hợp giữa các nhân tố thị trường, chỉ huy và
truyền thống, hay gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền kinh tế hỗn hợp, các thể chế
công cộng và tư nhân đều kiểm soát kinh tế. Thể chế tư nhân kiểm soát thông qua bàn tay
vô hình của cơ chế kinh tế thị trường, còn thể chế công cộng và tư nhân đều kiểm soát
bằng những mệnh lệnh và những tác nhân kích thích về tài chính và tiền tệ của chính
phủ… Để phân tích một cách cụ thể hơn vai trò của các thể chế này, các nhà kinh tế đã
chia tất cả các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm nhằm giải thích hành vi
cà phương thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm, đó là các nhóm:
+ Người tiêu dùng: là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ có ảnh hưởng rất lớn
đối với quyết định về việc sản xuất cá gì trong nền kinh tế thị trường vì họ mua và tiêu
dùng phần lớn sản phẩm của nền kinh tế. Nguyện vọng của người tiêu dùng là thoả mãn
tố đa nhu cầu của họ với số thu nhập có hạn.
+ Các doanh nghiệp
Người sản xuất hàng hoá và dịch vụ tư nhân giữ một vai trò quan trọng trong vấn
đề quyết định sản xuất cái gì và như thế nào. Tầm quan trọng của vai trò này tuỳ thuộc
vào vị trí và quan hệ của các nhà sản xuất tư nhân và Chính phủ trong từng nước. Dù đó
là nông trị gia đình, hộ kinh doanh thương nghiệp hay doanh nghiệp công nghiệp là mục
đích kiếm được lợi nhuận cao nhất. Nguyện vọng này không phải lúc nào cũng đúng với
tất cả các nhà sản xuất nhưng nhìn chung đó là một giả định hợp lý, có thể được dùng là
cơ sở cho phân tích kinh tế hành vi của các nhà sản xuất tư nhân.
+ Chính phủ
Vai trò của Chính phủ có thể được phác hoạ bằng 03 chức năng chủ yếu sau:
> Chức năng hiệu quả
> Chức năng công bằng
> Chức năng ổn định
+ Người nước ngoài; Các doanh nghiệp và Chính phủ nước ngoài tác động đến các
hoạt động kinh tế diễn ra ở một nước thông qua việc mua, bán hàng hoá và dịch vụ, vay
mượn, viện trợ và đầu tư nước ngoài. Ở một số nước có nền kinh tế khá mở thì người nước
ngoài có vai trò quan trọng, vì xuất khẩu, nhập khẩu, vay nợ, viện trợ và đầu tư nước
ngoài tác động đáng kể đến quy mô, cơ cấu và thành tựu kinh tế của những nước này.
Tóm lại, nền kinh tế hỗn hợp là một nền kinh tế trong đó cơ chế thị trường xác
định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực còn Chính phủ thì điều tiết thị trường thông
qua các chương trình thuế, chi tiêu và ban hành các luật lệ. Mô hình “ kinh tế hỗn hợp”
của từng nước có thể khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp của Chính phủ đối với
thị trường.
1.3. Một số khái niệm cơ bản
1.3.1. Các yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất và chi phí cơ hội
1.3.1.1. Các yếu tố sản xuất
Nhìn chung, cái mà con người có là các yếu tố sản xuất, còn cái mà con người cần
là sản phẩm, hàng hoá. Quá trình biến đổi các yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá
trình sản xuất và được phân chia thành ba nhóm:
- Đất đai ( theo nghĩa rộng) bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh tác, xây dựng nhà
ở, đường xá…và tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên thiên nhiên bao gồm nhiên liệu như
than đá, dầu lửa và khoáng sản như quặng sắt, crom…và cây cối để lấy gỗ, làm giấy…
- Lao động là năng lực của con người được sử dụng theo một độ nhất định trong
quá trình sản xuất. Người ta đo lường lao động bằng thời gian của người lao động sử
dụng trong quá trình sản xuất.
- Tư bản là những hàng hoá như máy móc, đường xá, nhà xưởng…được sản xuất
ra để rồi được sử dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích luỹ các hàng hoá tư
bản trong nền kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất.
Hiện nay nhiều nhà kinh tế cho rằng quản lý và công nghệ cũng là đầu vào, một
yếu tố sản xuất.
1.3.1.2.Giới hạn khả năng sản xuất
Đường giới hạn khả năng sản xuất (đường năng lực sản xuất) là một đường biểu thị
lượng hàng hóa tối đa mà nền kinh tế có thể đạt được bằng nguồn lực hiện có.
Các điểm nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất đều coi là có hiệu quả vì đã sử
dụng hết nguồn lực. Những điểm tối ưu phải thỏa mãn hai điều kiện sau:
- Nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
- Thoả mãn tối đa nhu cầu của xã hội và của thị trường.
Các điểm nằm trong đường giới hạn sản xuất là các điểm không hiệu quả vì chưa
tận dụng hết các nguồn lực hiện có.
Các điểm nằm ngoài đường giới hạn sản xuất là các điểm không khả thi vì nó vượt
quá nguồn lực hiện có.
Điểm nào là điểm tối ưu phụ thuộc vào tình hình thực tế của doanh nghiệp, từng
quốc gia và cầu thị trường, mục tiêu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn khác nhau.
- Sự thay đổi công nghệ sẽ làm cho đường PPF dịch chuyển ra ngoài.
Có thể minh họa đường năng lực sản xuất qua ví dụ sau:
Ví dụ: Khả năng sản xuất có thể thay thế nhau (lương thực và quần áo).
Biểu 1.1: Giới hạn năng lực sản xuất
B 1 3,5
C 2 3
D 3 2
E 4 0
Qua đường năng lực sản xuất này ta thấy, điểm hiệu quả nhất là điểm C vì nó nằm
trên đường giới hạn khả năng sản xuất vừa thoả mãn tối đa nhu cầu lương thực và quần
áo. Điểm M là điểm không khả thi vì nó vượt quá nguồn lực hiện có. Điểm G là điểm
không hiệu quả vì chưa tận dụng hết các nguồn lực hiện có. Còn điểm A là điểm chỉ có
lượng quần áo tối đa còn lượng lương thực lại bằng 0, điểm E có lượng lương thực tối đa
còn quần áo lại bằng 0.
Đường giới hạn khả năng sản xuất có chi phí cơ hội không thay đổi tại mọi khả năng.
Ví dụ: Khả năng sản xuất có thể thay thế nhau (lương thực và quần áo).
Biểu 1.2. Khả năng sản xuất có thể thay thế nhau
Phương án Lương thực (tấn) Quần áo (triệu đồng
A 0 4
B 1 3
C 2 2
D 3 1
E 4 0
0 4 Quần áo
1.3.2. Quy luật thu nhập giảm dần và quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng
1.2.2.1. Quy luật thu nhập giảm dần.
Quy luật thu nhập giảm dần là một hiện tượng quan trọng và thường được quang
sat thấy trong kinh tế. Quy luật này nói lên mối liên hệ không phải giữa hai loại hàng hoá
( như thức ăn và quần áo) mà là giữa một đầu vào của quá trình sản xuất với đầy ra của
sản xuất do đầu vào đó tạo ra. Quy luật này cho thấy khối lượng đầu ra cso thêm sẽ ngày
càng giảm khi liên tiếp bỏ thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi (như
lao động) với điều kiện số lượng đầu vào khác (như đất đai) giữ cố định. Sau đây là một
ví dụ minh hoạ quy luật giảm dần. Bảng 1.2 cung cấp các số liệu về số lao động, sản
lượng thóc sản xuất ra trong vòng 1 vụ với điều kiện diện tích gieo trồng cố định là
100ha.
Bảng 1.2: Quy luật thu nhập giảm dần ( một số ví dụ bằng số)
Số lao động Sản lượng thóc (tạ) Sản lượng biên (tạ)
100 2500
101 2520 20
102 2535 15
103 2545 10
Với diện tích gieo trồng ấn định thì 100 lao động có thể tạo ra được 2500 tạ thóc,
101 lao động tại gia được 2520 tạ, do đó sản lượng biên của lao động thứ 101 là 15 tạ và
của lao động thứ 103 là 10 tạ. Sở dĩ như vậy là vì khi giữ diện tích gieo trồng cố định và
tăng đầu vào khác là lao động thì mỗi đầu vào tăng thêm sẽ có ngày càng ít đầu vào có
định để cùng làm việc . Do đó những đầu vào được bổ sung sẽ tạo ra ngày càng ít đầu ra
tăng thêm. Tuy nhiên ta cũng thấy ngay một điều cần lưu ý là quy luật này không phải lúc
nào cũng đúng. Trong nhiều trường hợp, nó chỉ có hiệu lức khi bổ sung một số rất lớn các
lượng bằng nhau của đầu vào biến thiên. Hay nói cách khác, lúc đầu thì đầu vào biến
thiên có thể đem lại thu nhập bổ sung ngày càng tăng (vì chúng có thể hỗ trợ nhau tạo ra
năng suất cao) nhưng rốt cuộc thì quy luật thu nhập giảm dần sẽ xẩy ra.
Cần phân biệt hai trường hợp sau đây với quy luật thu nhập giảm dần:
- Trường hợp thu nhập không đổi theo quy mô: Trường hợp này dùng để chỉ sự
tăng thêm cân đối về quy mô sản xuất – khi tất cả các đầu vào đều tăng theo cùng một tỉ
lệ và cùng một lúc thì đầu ra cũng sẽ tăng theo tỉ lệ đó. Rõ ràng điều này không mâu
thuẫn gì với quy luật thu nhập giảm dần.
- Trường hợp thu nhập tăng theo quy mô. Giả sử chúng ta tăng quy mô sản xuất,
nghĩa là tăng tất cả các đầu vào cùng một lúc và cùng một tỷ lệ. Trong nhiều quá trình
công nghiệp hoá, khi nhân đôi tất cả các yếu tố vào có thể tăng lên hơn gấp đôi. Hiện
tượng này được gọi là thu nhập tăng theo quy mô, và nó gắn với sản xuất hàng loạt, có
phân công lao động chuyên môn hoá cao và sản xuất với quy mô lớn.
1.2.2.1. Quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng
Quay lại hình 1.1 ta thấy khi xuất phát điểm F với 5 tấn lương thực và không có
quần áo, chuyển đến điểm E với 4 tấn lương thực (giảm đi 1 tấn lương thực) và 2.5 nghìn
bộ quần áo. Tiếp tục như vậy ta thấy đến các điểm D, C, B, A thì việc hy sinh 1 tấn
lwong thực chỉ còn đổi được lần lượt là 2; 1.5; 1; 0.5 nghìn bộ quần áo, tức là muốn có
thêm một đơn vị quần áo ta phải hy sinh tương ứng ngày càng nhiều lương thực. Đó
chính là nội dung của quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng. Quy luật này nói rằng để
có thêm một số lượng bằng nhau về một mặt hàng, xã hội phải hy sinh ngày càng nhiều
số lượng mặt hàng khác. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao đường giới hạn khả năg
sản xuất lại là đường cong lồi.
Tại sao như vậy và có phải quy luật này lúc nào cũng đúng không?
Nhìn vào hình 1.1 có thể thấy rằng việc nói để có thêm một đơn vị quần áo, chúng
ta phải hy sinh ngày càng nhiều lương thực, ta phải hy sinh ngày càng nhiều quần áo, tức
là việc hy sinh lần lượt từng đơn vị quần áo sẽ cho ta ngày càng ít lương thực. Giả sử việc
sản xuất quần áo sẽ chủ yếu là dùng đến lao động và hầu như không dùng đến đất đai,
còn việc sản xuất lương thực cần đến cả lao động và đất đai. Giả sử tiếp nũa là đất đai
được coi là cố định. Bắt đầu xuất phát từ điểm A ta thấy rằng việc giảm đi từng đươn vị
khỏi ngành sản xuất quần áo để chuyển sang ngành sản xuất lương thực. Tuy nhiên, do
trong ngành này đất đai là cố định nên theo quy luật thu nhập giảm dần, số lao động như
nhau được bổ sung cho ngành sản xuất lương thực sẽ tạo ngày càng ít lương thực. Tóm
lại việc hy sinh lần lượt từng đơn vị quần áo sẽ cho ta ngày càng ít lương thực và quy luật
chi phí tương đối ngày càng tăng đã được chứng minh.
Từ lập luận trên đây, có thể thấy rằng điều kiện để tồn tại quy luật này là tỷ lệ sử
dụng đầu vào của hai lợi hàng hoá phải khác nhau. Nếu tỷ lệ này như nhau thì đường giới
hạn khả năng sản xuất trở thành đường thẳng và quy luật này không còn đúng nữa.
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
Chương 1 đã cho thấy phạm vi nghiên cứu rộng lớn của kinh tế học. Thế giới ngày
nay giải quyết những vấn đề kinh tế ở các phạm vi và góc độ khác nhau.
Kinh tế học vĩ mô - một phân ngành của kinh tế học – nghiên cứu sự vận động và
những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Nói cách khác, kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia trước
những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp,
xuất nhập khẩu hàng hoá và vốn, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các
thành viên trong xã hội.
Mỗi quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng buộc của
họ về các nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song, sự lựa chọn đúng đắn
nào cũng cần đến những hiểu biết sâu sắc về hoạt động mang tính khách quan của hệ
thống kinh tế. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh
tế đó. Những kiến thức và công cụ phân tích này được đúc kết từ nhiều công trình nghiên
cứu và tư tưởng của nhiều nhà kinh tế học thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngày nay,
chúng càng được hoàn thiện thêm để có thể mô tả chính xác hơn đời sống kinh tế vô cùng
phức tạp của chúng ta.
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học
vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể do L. Walras phát triển
từ năm 1874. Theo phương pháp này, kinh tế học vĩ mô, khác với kinh tế học vĩ mô, xem
xét sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường của các hàng hoá và các nhân tố, xem
xét đồng thời khả năng cung cấp và sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định
đồng thời giá cả và sản lượng cân bằng - những yếu tố quyết định tính hiệu quả của hệ
thống kinh tế.
Ngoài ra, kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ
biến như: Tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình hoá kinh tế. Đặc biệt
trong những năm gần đây và dự đoán trong nhiều năm sắp tới, các mô hình kinh tế lượng
vĩ mô sẽ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong các lý thuyết kinh tế học vĩ mô hiện đại.
- Những tác động từ bên ngoài, bao gồm chủ yếu các biến số phi kinh tế: Thời tiết,
dân số, chiến tranh...
- Những tác động chính sách, bao gồm các công cụ của Nhà nước nhằm điều chỉnh
hộp đen kinh tế vĩ mô, hướng tới các mục tiêu đã định trước.
Các yếu tố đầu ra bao gồm: Sản lượng, việc làm, giá cả, xuất - nhập khẩu. Đó là
các biến do hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô tạo ra.
Yếu tố trung tâm của hệ thống là hộp đen kinh tế vĩ mô, còn gọi là nền kinh tế vĩ
mô (Macroeconomy). Hoạt động của hộp đen như thế nào sẽ quyết định chất lượng của
các biến đầu ra. Hai lực lượng quyết định sự hoạt động của hộp đen kinh tế vĩ mô là tổng
cung và tổng cầu.
Tổng cung phụ thuộc vào giá cả và chi phí. Khi giá cả thấp và chi phí sản xuất
cao, các hãng kinh doanh có thể sản xuất ít hơn sản lượng tiềm năng. Với mức giá cao
hơn, thì ngược lại. Tuy nhiên, các hãng kinh doanh luôn muốn tăng sản lượng của mình
để đạt tới sản lượng tiềm năng. Do vậy, ngoài yếu tố giá cả và chi phí, tổng cung còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố làm tăng sản lượng tiềm năng. Đó là các yếu tố: lao động, tư
bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ.
Tổng mức cầu là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ (tổng sản phẩm quốc dân)
mà các tác nhân trong nền kinh tế sẽ sử dụng tương ứng với mức giá cả, thu nhập và các
biến số kinh tế khác đã cho.
Tổng mức cầu phụ thuộc vào giá cả, thu nhập của công chúng, vào dự đoán của
các hãng kinh doanh về tình hình kinh tế cũng như các biến chính sách khác như thuế, chi
tiêu của Chính phủ, khối lượng tiền tệ và lãi suất.
P
P AS
E
AD
2.1b:
bằng
Hình
tổng
tổng
cầu
Hình 2.2 (b) là đường tổng cung ngắn hạn. Về mặt ngắn hạn, đường tổng cung ban
đầu tương đối thoải, khi vượt qua điểm sản lượng tiềm năng đường tổng cung sẽ dốc
ngược lên. Điều này nói lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ
về giá cả đầu ra sẽ khuyến khích các hãng tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu cầu tăng
lên. Sở dĩ các hãng hành động như vậy vì trong khoảng thời gian ngắn, đứng trước giá
đầu vào cố định, họ có thể đồng thời tăng sản lượng và tăng giá chút ít để thu lợi nhuận.
Về mặt dài hạn, khi chi phí đầu vào đã kịp điều chỉnh thì các hãng không còn động
lực để tăng sản lượng. Giá cả sẽ tăng lên nhanh chóng để đáp ứng với sự thay đổi của
tổng mức cầu. Đường cung dài hạn do đó là đường thẳng đứng.
Mức giá
AS
P AS P
Hình 2.2: Đường tổng cung dài hạn và đường tổng cung ngắn hạn
Nếu ghép lại hai mặt của nền kinh tế - mặt cung và mặt cầu - lại với nhau bằng
Sản lượng thực tế (GNP) Sản lượng thực tế (GNP)
cách đưa hai đồ thị AD và AS vào cùngQmột hệ trục ta sẽ thấy hai đường đó cắt nhauQtại
a) Dài hạn b) Ngắn hạn
một điểm E. Điểm E gọi là điểm cân bằng của nền kinh tế. Tại điểm cân bằng, tổng cung
và tổng cầu đồng thời xác định mức giá cả cân bằng – PO và sản lượng cân bằng – YO.
Điều này được thể hiện trong hình 2.1 b.
Sự dịch chuyển dọc đường AS và AD biểu thị những thay đổi trong tổng mức
cung hoặc tổng mức cầu do giá cả thay đổi.
Sự dịch chuyển toàn bộ đường AS hoặc AD biểu thị những thay đổi của tổng cung
và tổng cầu do sự thay đổi của những biến số khác (ngoài giá cả).
Đường tổng cầu dịch chuyển sang trái hoặc sang phải chủ yếu tuỳ thuộc vào tác
động của các biến chính sách như thuế, chi tiêu của Chính phủ, lãi suất...
Đường tổng cung dịch chuyển sang trái hoặc sang phải phụ thuộc vào các tác động
của lao động, tư bản, tài nguyên, công nghệ và các chi phí đầu vào khác.
Khi nghiên cứu tác động của một yếu tố nào đó đến AD hoặc AS người ta thường
cố định những nhân tố khác, làm cho việc phân tích trở nên dễ dàng hơn.
Sự ổn định kinh tế là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế như lạm
phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn.
Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi giải quyết tốt những vấn đề dài hạn hơn, có liên quan
đến việc phát triển kinh tế.
Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công băng các chính sách kinh tế vĩ
mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
- Đạt được sản lượng thực tế cao tương ứng với các mức sản lượng tiềm năng.
- Hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp (và duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên).
- Hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường tự do.
Một số nước coi mục tiêu phân phối công bằng là một trong các mục tiêu
quan trọng .
Nghiên cứu những mục tiêu trên đây, chúng ta cần lưu ý:
- Những mục tiêu trên đây thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản lượng đạt
ở mức toàn dụng nhân công, lạm phát thấp, cán cân thanh toán cân bằng và tỉ giá hối đoái
là không đổi. Trong thực tế, các chính sách kinh tế vĩ mô chỉ có thể tối thiểu hoá các sai
lệch thực tế so với trạng thái lý tưởng .
- Các mục tiêu trên thường bổ sung cho nhau. Trong chừng mực chung hướng vào
việc đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền kinh tế. Song, trong một số trường hợp có
thể xuất hiện những mâu thuẫn cục bộ. Chẳng hạn giữa các cặp mục tiêu a và e, b và c, b
và d. Lúc đó các nhà hoạch định chính sách cần phải có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên và đôi
khi phải chấp nhận một sự “hi sinh” nào đó trong một thời kì ngắn.
- Về mặt dài hạn thứ tự ưu tiên giải quyết các mục tiêu trên đây cũng khác nhau
giữa các nước. Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng thường có vị trí ưu tiên số 1. Tuy
nhiên nhiều nước đã thành công trong viêc giải quyết đồng thời các mục tiêu kinh tế nêu
trên trong quá trình phát triển của mình.
Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ để hướng
nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tài khoá có hai cộng cụ chủ yếu là chi tiêu của Chính phủ và thuế. Chi
tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp với quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có
thể trực tiếp tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do
đó làm giảm chỉ tiêu của khu vực tư nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản
lượng. Thuế khoá cũng có thể tác động đến đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn.
Trong thời hạn ngắn, 1 đến 2 năm, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng
thực tế và lạm phát, phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Về mặt dài hạn chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế
tới mức sản lượng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là cung ứng tiền tệ và lãi suất. Khi ngân
hàng trung ương thay đổi cung tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc giảm, tác động đến đầu tư tư
nhân, do vậy ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GNP thực tế về mặt ngân hạn, song
do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng đến GNP tiềm năng về mặt dài hạn.
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp (công cụ) mà Chính phủ sử
dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ các công cụ có tính chất cứng rắn
như đông giá, đông lương, những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những
quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương... Đến những công cụ mềm dẻo
hơn như việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập...
Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nền kinh tế mở là nhằm ổn định tỷ giá hối
đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các
quy định về hàng rào thuế quan bảo hộ mậu dịch, và cả những biện pháp tài chính và tiền
tệ khác, tác động vào hoạt động xuất khẩu.
Trên đây là tập hợp các chính sách và công cụ chính sách chủ yếu mang sắc thái lý
thuyết phù hợp với nền kinh tế thị trường đã phát triển.
Trong thực tế biểu hiện và sự vận dụng các chính sách này rất đa dạng, đặc biệt là
ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên đó là đối tượng nghiên cứu của môn học lý thuyết
phát triển. Trong các chương sau, chúng ta sẽ trở lại thảo luận sâu hơn về cơ chế tác động
của các chính sách này trong một nền kinh tế thị trường chuẩn mực.
2.4. Một số khái niệm và mối quan hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô cơ bản
2.4.1. Tổng sản phẩm quốc dân và sự tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là giá trị của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một
quốc gia sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Tổng sản phẩm quốc dân là thước đo cơ bản hoạt động của nền kinh tế.
Tổng sản phẩm tính theo giá hiện hành gọi là tổng sản phẩm danh nghĩa. Tổng sản
phẩm tính theo giá cố định gọi là tổng sản phẩm thực tế.
Tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa thường tăng nhanh hơn tổng sản phẩm quốc
dân thực tế. Sự khác nhau đó là do giá cả hàng hoá và dịch vụ đã tăng lên, nói cách khác
là do có lạm phát. Còn tổng sản phẩm quốc dân thực tế tăng lên là do:
- Số lượng nguồn lực (tư bản, lao động, tài nguyên) trong nền kinh tế đã tăng lên.
Tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế, gọi là tỷ lệ tăng trưởng. Nói cách khác,
khi nói tăng trưởng kinh tế là đã hàm ý tăng tổng sản phẩm quốc dân thực tế (GNP thực tế).
Chu kỳ kinh doanh là sự giao động của GNP thực tế xung quanh xu hướng tăng
lên của sản lượng tiềm năng.
Độ lệch giữa sản lượng tiềm năng và sản lượng thực tế gọi là sự thiếu hụt sản lượng
Thiếu hụt sản lượng = Sản lượng tiềm năng - Sản lượng thực tế
Nghiên cứu sự thiếu hụt sản lượng giúp cho việc tìm ra những biện pháp chống lại
chu kỳ kinh tế - nhằm ổn định kinh tế.
Mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp được lượng hoá
dưới tên gọi quy luật Okun (hay quy luật 2 ½ -1). Quy luật này nói lên, nếu GNP thực tế
tăng 2 ½% trong vòng 1 năm, so với GNP tiềm năng của năm đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm
đi 1%.
Quy luật này mang tính chất gần đúng và chỉ cho một nhận định khái quát về mối
quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp ở những nước có thị trường phát triển.
phát có mối quan hệ như thế nào? Đâu là nguyên nhân? Đâu là kết quả? về vấn đề này,
kinh tế vĩ mô chưa có câu trả lời rõ ràng.
Nhưng điều rõ ràng là muốn giảm lạm phát trong thời kỳ ngắn thì các chính sách
kinh tế đều hướng vào việc thắt chặt chi tiêu, giảm tổng cầu và do đó nền kinh tế phải trải
qua một thời kỳ đình đốn, suy thoái và thất nghiệp.
Ngày nay, các nhà kinh tế cho rằng, trong thời kỳ ngắn thì lạm phát càng cao, thất
nghiệp càng giảm. Điều này đã được mô tả trong đồ thị gọi là đường Phillips. Đường
Phillips là hàm tỷ lệ nghịch, thể hiện mối quan hệ “trao đổi” giữa lạm phát và thất nghiệp.
Đây là mối quan hệ thực nghiệm chưa phải là một quy luật kinh tế.
GNPn GNPn
D = x100 Hay GNPr =
GNPr D
Chỉ tiêu GNPn và GNPr thường được dùng cho các mục tiêu phân tích khác nhau.
Chẳng hạn, khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng, người ta thường
dùng GNPn; khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng GNPr.
thường để đánh vào tài sản thừa hưởng được do người chết để lại, “thuế cộng đồng”
(community charge) đánh vào người dân sống tại 1 địa phương, dùng để chi tiêu cho các
công trình công cộng.
+ Thuế gián thu (Te): Gián tiếp đánh vào thu nhập, người mua hàng là người
chịu thuế.
- Chi tiêu của Chính phủ: Bao gồm chi mua hàng hóa dịch vụ (G) và chi chuyển
nhượng (TR).
+ Chi mua hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ là những khoản chi tiêu của
Chính phủ được đáp ứng lại bằng một lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Thường gồm
2 loại chi cho tiêu dùng (Cg), chi cho đầu tư (Ig)
+ Chi chuyển nhượng: là những khoản chi tiêu của Chính phủ không đòi hỏi bất
cứ lượng hàng hóa hay dịch vụ nào đối lưu trở lại.
Chi chuyển nhượng là các khoản Chính phủ dùng để trả lương hưu, trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp thương binh và gia đình liệt sĩ, trợ cấp học bổng cho sinh viên, trợ cấp
người nghèo, bù lỗ cho các doanh nghiệp quốc doanh,…
- Xuất khẩu (X): Là lượng tiền thu được do bán hàng hóa và dịch vụ ra
nước ngoài.
- Nhập khẩu (IM): Là lượng tiền dùng để mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
Tổng giá trị xuất nhập khẩu gọi là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Tiền lương(W): Là lượng thu nhập nhận được do cung cấp sức lao động.
- Tiền thuê (r): Là khoản thu nhập có được do cho thuê đất đai nhà cửa và các loại
tài sản khác.
Thực chất gồm hai phần: Khấu hao tài sản cho thue và phần lợi tức của chủ sở
hữu tài sản. Tuy nhiên, người ta gộp cả lại vì tách hai phần này rất phức tạp.
- Tiền lãi (i): Là thu nhập nhận được do cho vay tính theo một mức lãi suất
nhất định.
- Lợi nhuận (P - ): Là khoản thu nhập còn lại sau khi trừ đi chi phí.
3.2.2.2. Dòng chu chuyển kinh tế
Thu nhập từ việc cung hàng hóa, dịch vụ
DN Hộ GĐ
* GDP theo phương pháp sản xuất hay giá trị gia tăng
GDP = VAi
Với VAi là suất lượng của DNi - Chi phí trung gian DNi.
* Phương pháp phân phối hay theo luồng thu nhập
GDP = r + W + i + P + De + Te
* Tính theo phương pháp chi tiêu hay luồng sản phẩm
GDP = C + I + G + X- I M
Tóm lại:
- Cả ba phương pháp phải cho cùng một kết quả.
- Nếu kết quả khác nhau là do dữ liệu thu thập không chính xác.
- Một số khó khăn khi tính GDP ở Việt Nam.
+ Một là, hiện tượng trốn thuế - khai báo giảm về kết quả sản xuất.
+ Hai là, Doanh nghiệp quá nhỏ không có hệ thống sổ sách.
+ Ba là, phải ước tính sản phẩm tự cung cấp nên rất khó chính xác.
+ Bốn là, phương pháp thu thập số liệu không tốt và cán bộ thống kê không làm
hết trách nhiệm,...
3.2.2.4. Ý nghĩa của các chỉ tiêu GDP , GNP, mối quan hệ giữa chúng và cách tính GNP
từ GDP
* Ý nghĩa
GDP nói lên hiện thực kinh tế trên lãnh thổ quốc gia, chưa nói đến chủ thể của
hiện thực đó. Qua GDP người ta biết được trên một quốc gia nào đó, thực lực kinh tế có
được bao nhiêu.
Trái lại, GNP nói lên thực thu kinh tế của một nước, khả năng thật về kinh tế của
công dân nước đó, bởi vì GDP không bao gồm kết quả của hoạt động của công dân nước
sở tại tiến hành ở nước ngoài.
Nếu GDP > GNP, có nghĩa là vai trò quốc tế về kinh tế của nước nhà không cao so
với vai trò kinh tế quốc tế tại nước nhà (sức mạnh kinh tế của nước nhà còn yếu).
Nếu GDP < GNP thì ngược lại.
Mối quan hệ GDP và GNP:
GNP = GDP + là thu nhập ròng từ nước ngoài
Thu nhập ròng từ nước ngoài = Thu nhập từ các yếu tố XK - Thu nhập từ các yếu tố
nhập khẩu
Vì GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch về tài sản từ nước ngoài nên GNP
bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về số lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi người
dân của một nước có thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn
về số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.
Điều này giải thích vì sao các thống kê của Ngân hàng thế giới (World Bank) thường đưa
ra các ước tính về GNP, trong khi các nước tính bình quân đầu người lại dùng GDP.
3.3. Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu tổng sản phẩm, thu nhập quốc dân và thu
nhập có thể sử dụng được
3.3.1.Từ tổng sản phẩm quốc dân đến sản phẩm quốc dân ròng (NNP)
- Sản phẩm quốc dân ròng (NNP - Net National Product): Phản ánh phần giá trị
mới sáng tạo, do công dân một nước sản xuất ra.
NNP = GNP - De
Giá trị mới sáng tạo là phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Nó không kể đến giá trị sản phẩm trung gian và khấu hao tài sản cố định được chuyển dịch
vào giá trị sản phẩm, vì phần này được tạo ra từ giai đoạn sản xuất trước đó (Trong hệ thống
tài khoản thu nhập quốc dân, khấu hao được gọi là tiêu hao tư bản cố định (xấp xỉ
10%GNP), vì khấu hao tư bản là chi phí để sản xuất sản phẩm cho nền kinh tế. Do đó, một
số nhà kinh tế cho rằng NNP là chỉ tiêu tốt hơn để phản ánh phúc lợi kinh tế).
( n - 1)
Chỉ tiêu năm cuối
V= 1 x100
Chỉ tiêu ở năm đầu
Đồng nhất thức khác với đẳng thức. Đồng nhất thức có nghĩa là bằng nhau theo
định nghĩa.
ĐẦU TƯ
Hình 3.2 cho thấy các thể chế tài chính ngân hàng phát triển trong nền kinh tế thị
trường thu hút toàn bộ tiết kiệm cho các hãng vay để đầu tư mở rộng sản xuất.
3.4.2. Đồng nhất thức mô tả mối quan hệ giữa các khu vực trong nền kinh tế.
Chúng ta hãy mở rộng hình 3.2 tính tới yếu tố chính phủ và khu vực nước ngoài.
Hình 3.3 ta mở rộng vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô đơn giản, có tính tới cả khu
vực chính phủ và người nước ngoài (xuất - nhập khẩu).
Ở cung dưới, ngoài tiết kiệm (S), thuế thu nhập (IM) cũng là những dòng “rò rỉ”.
Thực vậy, một phần thu nhậơ của dân cư phải làm ngiã vụ với nhà nước dưới dạng thuế thu
nhập (TA). Mặt khác, nhà nước cũng tiến hành trợ cấp cho các gia đình khó khăn (TR).
Nếu sử dụng khái niệm thuế ròng (T) là hiệu số giữa thuế thu nhập và trợ cấp, ta có:
T = TA – TR (3.4)
Thuế ròng là một loại “rò rỉ” ở cung dưới. Một phần khác của thu nhập dùng để
mua hàng tiêu dung nhập khẩu, tạo nên thu nhập cho dân cư nước ngoài, không đóng góp
vào tổng sản phẩm quốc dân. Như vậy tổng số “rò rỉ” ở cung dưới là:
S + T + IM (3.5)
Ở cung trên, chính phủ cũng chi tiêu một phần hàng hoá dịch vụ cuối cùng. Mặt
khác, hàng xuất khẩu được sản xuất ra trong nền kinh tế nhưng không để tiêu dùng trong
nước. Do vậy, tổng số “bổ sung” mới vào luồng sản phầm bằng:
I+G+X (3.6)
Xuất khẩu
Chi tiêu
Đầu tư
Ngân hàng
Tiết kiệm
Chính phủ
Thuế
Nước ngoài
Nhập khẩu
Tổng các “rò rỉ” ở cung dưới phải bằng tổng các “bổ sung” thêm vào cung trên để
đảm bảo cho tổng hàng hoá ở cung trên bảng tổng thu nhậơ ở cung dưới và tổng các tài
khoản quốc gia là cân bằng. Do vậy, ta có:
S + T + IM I+G+X (3.7)
Chuyển về các số hạng tương ứng thu được:
(T – G) = (I – S) + (X – IM) (3.8)
Đồng nhất thức (3.8) là đồng nhất thức thể hiện mối quan hệ giữa các khu vực hay
các tác nhân trong nền kinh tế. Vế trái là khu vực chính phủ, vế phải là khu vực tư nhân
(hãng kinh doanh và hộ gia đình) và khu vực nước ngoài.
Đồng nhất thức cho thấy trạng thái của mỗi khu vực có ảnh hưởng đến các khu
vực còn lại của đát nước như thế nào.
Lấy trường hợp đơn giản để phân tích. Chẳng hạn, nếu khu vực nước ngoài, xuất
bằng nhập (X = IM), nghĩa là cán cân thương mại của đất nước là cân bằng thì ngân sách
của chính phủ bị thâm hụt (G > T), ở khu vực tư nhân, tiết kiệm sẽ lớn hơn đầu tư (S > I).
Nói cách khác, khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số thu đươc, đầu tư của doanh nghiệp sẽ
thấp hơn tiết kiệm của các hộ gia đình.
Ngược lại, nếu đầu tư của doanh nhiệp đúng bằng số tiết kiệm của dân cư (I = S)
thì tổng thâm hụt ngân sách phải được bù đắp bằng thâm hụt cán cân thương mại. Trương
hợp này đất nước lâm vào tình trạng thâm hụt kép: Thêm hụt ngân sách và thâm hụt cán
cân thương mại.
Kết luện rút ra từ phần này là cần phải có những chính sách và biện pháp kinh tế vĩ
mô giữ cho các khu vực kinh tế ở trạng thái cân bằng, để cho toàn bộ nền kinh tế ở trạng
thái cân băng, để cho toàn bộ nền kinh tế là cân bằng.
Để hiểu rõ hơn kết luật vừa nêu trên, chúng ta hãy nghiên cứu lý thuyết cân bằng
kinh tế, bắt đầu từ cân bằng tổng cung - tổng cầu. Các chương tiếp theo, chương 4, 5, 6 sẽ
đi sâu vào vấn đề này.
Tổng cầu (AD- Aggregate Demand) là tổng khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà
các chủ thể kinh tế muốn mua ở mỗi mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định
và trong những điều kiện nhất định.
- Cầu của hộ gia đình: Đó là các vật phẩm và dịch vụ dân dụng.
- Cầu của các doanh nghiệp: đó là TLSX như máy móc, NVL,…
- Cầu của Chính phủ: Các hàng hóa dịch vụ công cộng.
- Cầu của thị trường quốc tế: là tổng giá trị xuất khẩu tính theo thống kê của hải quan.
* Cầu đầu tư
Là nhu cầu hiện vật của toàn xã hội ứng với vốn đầu tư trong nước vào một thời
kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Kết cấu:
Là toàn bộ hàng hoá dịch vụ dân sinh phạm trù định lượng chung về nhu cầu hàng
tiêu dùng của toàn xã hội trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
Kết cấu:
Cầu tiêu dùng = cầu tiêu dùng cá nhân + cầu tiêu dùng công cộng
Tóm lại:
công cộng + cầu tiêu dùng cá nhân + tổng giá trị xuất khẩu
* Xét theo công dụng sinh sống đối với con người
- Cầu khả năng: Còn được coi là nhu cầu, mang tính chất nguyện vọng, nếu có tiền
sẽ mua.
- Cầu tiềm năng: Đó là cầu tối đa trong điều kiện cụ thể của thu nhập quốc dân.
Tổng cầu (AD - Aggregate Demand) là toàn bộ lượng hàng hóa và dịch vụ mà các
hộ gia đình và các doanh nghiệp dự kiến chi tiêu, tương ứng với mức thu nhập của họ.
AD = C + I
AD - tổng cầu.
C = f(Y) phản ánh mối quan hệ giữa tổng tiêu dùng và tổng thu nhập.
C C MPC.Y
C
MPC = (a)
Y
S = C + (1 - MPC)Y
S = - C MPS .Y
MPS - xu hướng tiết kiệm biên hay tiết kiệm biên (Marginal Propensity to
Save): Phản ánh lượng thay đổi của tiết kiệm khi thu nhập khả dụng thay đổi một đơn vị
(0 < MPS < 1)
S
MPS = (b)
Y
Từ công thức (a) và (b) ta có hệ quả: MPC + MPS = 1
Đồ thị:
C C MPC.Y
C
E
S=-
C
45o
Y
-C Y
Hàm đầu tư theo sản lượng I = f(Y) phản ánh sự phụ thuộc của lượng đầu tư dự
kiến sản lượng dự kiến vào sản lượng quốc gia.
- Khi tăng hay giảm đầu tư cũng không ảnh hưởng đến sản lượng quốc gia. Nếu
điều đó đúng thì I = f(Y) là một hàm hằng. Đồ thị nằm ngang như hình a.
I I I = + MPI.Y
I=
MPI
MPI
Y
Y
Hình a: Đầu tư không phụ thuộc vào Hình b: Đầu tư đồng biến với
sản lượng sản lượng
* Hàm đầu tư tổng quát: I = I MPI .Y
MPI (Marginal Propensity to Invest): Khuynh hướng đầu tư biên hay đầu tư biên
I : Đầu tư tự định
Ngoài ra hàm đầu tư còn có dạng phụ thuộc vào sản lượng và lãi suất:
I = I + MPI(Y).Y - MPI(i).i
I= I
4.2.1.3. Hàm tổng cầu và phương pháp xác định sản lượng cân bằng
Hàm tổng cầu theo sản lượng cho biết mức tổng cầu (hay tổng chi tiêu) phụ thuộc
vào sản lượng như thế nào.
Vì : AD = C + I
AD = C MPC.Y I
Hay:
AD = (C + I ) + MPC.Y (*)
Giả định doanh nghiệp có thể và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế.
Lúc này, sản lượng cân bằng sẽ phụ thuộc vào tổng cầu. Nếu tổng cầu giảm, các doanh
nghiệp không thể bán hết sản phẩm mà họ sản xuất ra. Hàng tồn kho không dự kiến sẽ
chất đống. Ngược lại, khi AD tăng, họ phải tung hàng dự trữ ra bán. Hàng tồn kho giảm
dưới mức dự kiến. Do vậy, khi giá cả và tiền công cố định, thị trường hàng hoá và dịch
vụ sẽ đạt trạng thái cân bằng ngắn hạn, khi tổng cầu hoặc tổng chi tiêu dự kiến đúng bằng
sản lượng thực tế sản xuất ra trong nền kinh tế.
Ở trạng thái cân bằng ngắn hạn, lượng hàng tồn kho không dự kiến sẽ bằng 0. Nói
cách khác, trong cân bằng ngắn hạn, sản lượng sản xuất ra đúng bằng sản lượng mà các
hộ gia đình cần để tiêu dùng và các Doanh nghiệp cần để đầu tư. Dự kiến chi tiêu không
bị phá vỡ do thiếu hàng hoá. Ngược lại, các doanh nghiệp cũng không sản xuất nhiều hơn
mức có thể bán được. Vậy, cân bằng ngắn hạn sản lượng cân bằng sẽ là bao nhiêu?
Có 2 cách:
Y = AD (**)
1
Y0 x (C I )
1 MPC
Cách 2: Theo đồ thị:
Để vẽ đồ thị hàm tổng cầu, trước hết vẽ hàm tiêu dùng C, sau đó tịnh tiến đường
này theo chiều thẳng đứng một đoạn đúng bằng I. Đường thẳng thu được là đường biểu
thị hàm tổng cầu AD, đường AD cắt đường 45 0 tại điểm E. Do E nằm trên đường 450, nên
tại E thu nhập trên trục hoành bằng giá trị chi tiêu trên trục tung.
AD = C + I
Chi tiêu E
C = C + MPC.
C 45o
O Yo Y
SL Yo chính là mức sản lượng cân bằng. Nó nằm tương ứng với giao điểm giữa
đường tổng cầu AD = f(Y) với đường 450.
Từ:
1
Y0 .(C I )
1 MPC
Nếu gọi:
1 1
m hay m
1 MPC MPS
Suy ra: Yo = m ( C + I )
m là số nhân chi tiêu (Aggregate Expenditure Multiplier): cho biết sản lượng sẽ
thay đổi bao nhiêu khi có thay đổi một đơn vị trong mức chi tiêu không phụ thuộc vào
thu nhập.
AD = C + I + G
Giả định: G= G
G
G=G
AD = C + I + G = C I G + MPC.Y
1
Yo = (C I G )
1 MPC
Yo =m (C I G )
Điều đó cho thấy, chi tiêu của Chính phủ cũng có số nhân bằng số nhân chi tiêu
của tiêu dùng và đầu tư. Vì vậy, khi G thay đổi một lượng là G thì Y cũng thay đổi:
Y = m . G
YD = Y - t.Y = (1-t).Y
1
Yo =
(C I G )
1 - MPC(1-t)
Yo = m’ (C I G ) (*)
m': số nhân chi tiêu của nền kinh tế đóng, có tính tới yếu tố của Chính phủ.
Từ (*) tiêu dùng, đầu tư và chi tiêu của Chính phủ có cùng một số nhân. Nói
cách khác, trong nền kinh tế đóng, tác dụng của việc tăng chi tiêu của Chính phủ đến sản
lượng cân bằng cũng giống như tác dụng của việc hộ gia đình tăng thêm tiêu dùng và các
doanh nghiệp tăng thêm đầu tư vậy.
AD = C + I
Chi tiêu
E2
AD = C + I + G
E1
Y
Y1 Y2
Tổng cầu và sản lượng cân bằng của nền kinh tế đóng có sự tham gia của
Chính phủ
Gọi: NX = X - IM là cán cân thương mại (còn gọi là giá trị xuất khẩu ròng).
AD = C + I + G + X - IM
Giả định:
IM = MPM .Y
Đồ thị:
M
IM = + MPM.Y
1
Yo = . ( C + I +G + X )
1 - MPC(1-t) + MPM
Yo =m” (C I G X )
Đồ thị:
Chi tiêu
AD = C + I + G
E2
AD = C + I + G + X - IM
E1
X
45o
Y1 Y2 Y
Đồ thị tổng cầu và sản lượng trong nền kinh tế mở có độ dốc nhỏ hơn độ dốc của
nền kinh tế đóng vì hệ số góc của nó nhỏ hơn hệ số góc của đường kia một lượng là MPM.
Chính sách tài chính là hệ thống các tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc xử lý của
Nhà nước đối với các quan hệ tài chính quốc gia thông qua việc sử dụng các công cụ tài
chính cụ thể là thuế và chi tiêu ngân sách.
4.3.1. Chính sách xây dựng và sử dụng ngân sách nhà nước
4.3.1.1. Những kiến thức chung về ngân sách nhà nước
a. Khái niệm
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ quốc gia, dùng để chi tiêu hàng năm cho toàn
bộ hoạt động chung của quốc gia.
Theo luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì:“Ngân sách nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong 1 năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của đất nước”.
Đó là sự phân bố Ngân sách nhà nước thành nhiều cấp theo lãnh thổ. Do cơ cấu
dọc của NSNN trùng hợp với hệ thống chính quyền nhà nước theo lãnh thổ thì mỗi cấp
chính quyền theo lãnh thổ đồng thời là một cấp ngân sách (như ngân sách cấp TƯ, tỉnh
(TP trực thuộc TƯ), thành phố (thị xã), huyện, xã) (Ngân sách Trung ương và ngân sách
địa phương).
-Các khoản thu: Từ thuế, phí, lệ phí, các khoản đóng góp của các tổ chức và cá
nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật, các khoản do
Nhà nước vay để bù đắp bội chi, được đưa vào cân đối Ngân sách nhà nước .
- Các khoản chi: Chi phát triển KT - XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm
hoạt động bộ máy Nhà nước, chi trả nợ của nước ngoài, chi viện trợ và các khoản chi
khác theo quy định của pháp luật.
B=T-G (*)
(1) Thâm hụt ngân sách thực tế: Đó là thâm hụt khi số chi thực tế vượt số thu thực
tế trong một thời kỳ nhất định.
(2) Thâm hụt ngân sách cơ cấu: Đó là thâm hụt tính toán trong trường hợp nếu nền
kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
(3) Thâm hụt ngân sách chu kỳ: Đó là thâm hụt ngân sách bị động do tình trạng
của chu kỳ kinh doanh.
Để dung hoà, một số nhà kinh tế đề nghị áp dụng 1 kiểu ngân sách gọi là “NS cân
đối theo chu ky”. Theo đó, Ngân sách nên thâm hụt trong thời kỳ suy thoái, nhưng tình
trạng thâm hụt phải được khắc phục trong thời kỳ hưng thịnh. Như vậy về lâu dài thì tổng
các khoản thâm hụt và tổng các khoản thặng dư phải bù trừ cho nhau, tạo ra khuynh
hướng cân bằng ngân sách xét trong dài hạn.
Thâm hụt ngân sách theo chu kỳ = Thâm hụt thực tế - Thâm hụt cơ cấu.
* Các xu hướng cơ bản cho xử lý thâm hụt Ngân sách nhà nước , hậu quả của chúng
Coi T = t.Y
B = – G + tY
- Phản ứng thuận chiều: Khi tY < G Nhà nước tăng thuế, giảm G để đảm bảo G
= tY B=0 cán cân ngân sách sẽ cân bằng nhưng đây là cách làm thụ động, tiêu
cực có thể gây ra hậu quả xấu đó là có thể làm cho suy thoái càng trầm trọng hơn do
việc giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ làm giảm AD.
- Phản ứng ngược chiều: Nếu mục tiêu của Chính phủ là giữ cho nền kinh tế luôn
ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ, thì Chính phủ phải thực hiện chính
sách tài khóa ngược chiều (với chu kỳ kinh doanh). Vì vậy, khi tY<G thay vì tăng
thuế suất để bảo đảm thu, Nhà nước lại giảm thuế suất để kích thích đầu tư ( I), thay vì
giảm G thì Nhà nước lại G để AD. Gọi là ngược chiều vì đáng lẽ phải T thì lại T ,
và đáng lẽ phải G thì lại G.
Để có thể phản ứng ngược thì phải có dự trữ quốc gia (vì giảm thuế phải có lượng
bù vào khoản giảm T đó).
* Ảnh hưởng kinh tế của thâm hụt ngân sách (hay Ảnh hưởng kinh tế của thâm hụt ngân
sách nhà nước )
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động gây nên thâm hụt cơ cấu và kéo
theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
Cơ chế tháo lui đầu tư như sau: khi G tăng (hoặc T giảm) GNP sẽ tăng lên theo hệ
số nhân, nhu cầu về tiền tăng theo. Với mức cung tiền cho trước, lãi suất sẽ tăng lên làm
giảm đầu tư. Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao kéo theo
tháo lui đầu tư. Vì vậy, tác động của chính sách tài khoá sẽ giảm đi. Tác động tương tự
cũng có thể xảy ra đối với tiêu dùng.
* Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách
Bằng cách phát hành trái phiếu, công trái của Chính phủ để vay nguồn tiền dự trữ
trong dân chúng.
Có hiệu lực mạnh, bù đắp kịp thời thâm hụt ngân sách và ngăn được ảnh hưởng
tiêu cực. Tuy nhiên, dự trữ ngoại tệ đối với đa số các nước là ít.
Đây là một cách dùng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, điển hình là Việt Nam
những năm 80.
* Các nguyên tắc xử lý thiếu hụt Ngân sách nhà nước có hiệu quả
- Chọn đúng giải pháp cho những thâm hụt ngân sách có nguyên nhân khác nhau.
Có 2 loại nguyên nhân gây nên thâm hụt ngân sách nhà nước là bên trong và bên ngoài.
+ Nếu là do nguyên nhân ở trong nội tại nền kinh tế thì các giải pháp được lựa
chọn phải vừa làm giảm thâm hụt ngân sách phải đồng thời là các giải pháp làm tăng
trưởng kinh tế.
+ Nếu do các nguyên nhân bên ngoài như thiên tai, địch họa, biến động thị trường
quốc tế,… làm tăng đột ngột chi, giảm thu thì cần áp dụng ngay các biện pháp nêu bên trên.
- Chọn đúng giải pháp cho các loại thâm hụt có tính thời hạn khác nhau:
+ Với thâm hụt có tính tạm thời, giải pháp tài trợ sẽ có hiệu quả hơn.
+ Với thâm hụt có quy mô lớn và lâu dài, thì sử dụng giải pháp giảm thiếu hụt,
giải pháp tăng trưởng kinh tế.
Chính sách tài khoá là việc Chính phủ sử dụng thuế khoá và chi tiêu công cộng để
điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.
Bây giờ, hãy xét xem về mặt lý thuyết, Chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài khoá
này như thế nào?
- Khi nền kinh tế suy thoái (Y<Yp): áp dụng chính sách tài khóa mở rộng, Giảm T
và tăng G.
+ Tăng G, tức là tăng tiền mua hàng, trực tiếp làm tăng tổng cầu.
-Khi nền kinh tế bị lạm phát (Y>Yp): áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp: tăng T
và giảm G.
AD nằm tại AD2 Y2 > Yp nền kinh tế bị áp lực LP cao muốn chống lạm
phát phải giảm AD giảm G hoặc tăng T.
+ G giảm AD giảm
+ Tăng T Yd giảm C .
AD2
AD E2 AD
AD1
E1 E0
Y
Y1 Yp Y2
Tuy nhiên, trong thực tế, chính sách tài khoá không có đủ sức mạnh đến như vậy,
đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. Trước khi nghiên cứu những vấn đề áp dụng chính
sách tài khoá trong thực tiễn, hãy xem xét một cơ chế đặc biệt của chính sách này. Đó là
cơ chế ổn định tự động. Cơ chế này bao gồm những nhân tố ổn định tự động mạnh mẽ,
đó là những nhân tố có tác dụng hạn chế phần nào sự dao động của sản lượng như thuế
thu nhập luỹ tiến, trợ cấp thất nghiệp,... Chẳng hạn khi suy thoái, thuế luỹ tiến làm giảm
nguồn thu của Chính phủ nhanh hơn đồng thời trợ cấp thất nghiệp tăng, có tác dụng kìm
hãm sự sụt giảm của tổng cầu, giảm bớt mức độ suy thoái. Khi lạm phát cao thì tình hình
diễn ra ngược lại.
Tuy nhiên, những nhân tố ổn định tự động chỉ có tác dụng làm giảm một phần các
dao động của nền kinh tế, mà không xoá bỏ hoàn toàn dao động đó. Phần còn lại là trách
nhhiệm của Chính phủ.
Trong thực tế, tác động của chính sách tài khoá bị nhiều hạn chế. Do:
- Khó tính toán một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách. Để tính
toán liều lượng, giảm chi tiêu và thuế một cách chính xác, trước hết cần xác định được số
nhân chi tiêu và thuế trong thực tế.
Do có sự khác nhau về quan điểm, cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau trước
các sự kiện kinh tế. Đồng thời có sự không chắc chắn cố hữu trong các quan hệ kinh tế.
- Chính sách tài khoá có độ trễ khá lớn: Độ trễ bao gồm độ trễ bên trong và độ trễ
bên ngoài.
+ Độ trễ bên trong: Đó là thời gian thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra
quyết định.
+ Độ trễ bên ngoài: Bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy tác dụng.
- Chính sách tài khoá thường được thực hiện thông qua các dự án công cộng, xây
dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội. Thực tế cho thấy, ngoài một số
dự án công cộng thực hiện thành công, đa số các dự án tỏ ra kém hiệu quả kinh tế.
- Vấn đề đối tượng thu, thu từ đối tượng nào hoặc từ chủ thể kinh tế nào. Sự phân
biệt đối xử một cách cố ý đối với người chịu thuế thể hiện qua chính sách về đối tượng
chịu thuế.
- Vấn đề mức độ thu, thu nhiều hay ít so với tổng thu nhập quốc dân. Điều đó dựa
trên tỉ lệ tích lũy và tiêu dùng thông qua mức thu thuế là chính sách về tích lũy và tiêu dùng.
5.1. Tiền tệ
5.1.1. Tiền tệ
Tiền là bất cứ một phương tiện nào được thừa nhận chung để thanh toán cho việc
giao nhận hàng hoặc để thanh toán nợ nần.
* Các hình thái của tiền: tiền hàng hóa, tiền quy ước, tiền séc.
* Chức năng của tiền:
- Phương tiện trao đổi
- Cất trữ giá trị
- Chức năng đo lường giá trị
- Phương tiện thanh toán.
- Thanh toán quốc tế.
* Khối tiền tệ (M1)
- Theo quan điểm hẹp trước năm 1980:
M1 = tiền mặt (ngoài Ngân hàng) + tiền gửi không kỳ hạn sử dụng séc.
Tiền mặt (Currency) bao gồm lượng tiền giấy và tiền kim loại nằm ngoài Ngân
hàng. Lượng tiền này được nắm giữ bởi hộ gia đình, doanh nghiệp, Chính phủ và nước
ngoài. Nó không kể đến lượng tiền giấy và tiền kim loại nằm trong Ngân hàng mà sau
này gọi là dự trữ (reserves).
Tiền Ngân hàng (Bank money) là các khoản ký gửi sử dụng séc (checkable
Deposits) hay tài khoản séc (checking account).
Khối tiền M1 còn được gọi là tiền giao dịch (Transaction Money) hay tiền theo
nghĩa hẹp.
- Theo quan điểm mở rộng từ năm 1980 đến nay:
M2 = M1 + tiết kiệm có kỳ hạn
Giới hạn: Khối tiền tệ trong chương trình kinh tế vĩ mô căn bản được hiểu là M1
Tiền cơ sở hay tiền mạnh (Monetary base or High Powered money) Là số lượng
tiền giấy và tiền kim loại lưu hành ở khu vực ngoài NH (gọi là tiền mặt) cộng với số tiền
giấy và tiền kim loại do hệ thống ngân hàng nắm giữ dưới dạng dự trữ. Thực chất đó là
toàn bộ lượng tiền giấy và tiền kim loại đã được phát hành vào nền kinh tế.
Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác nhân kinh tế
giữ lại để chi tiêu và một phần nằm tại các ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ.
Vậy khối lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong các
ngân hàng.
H=U+R
Trong đó: H là tiền cơ sở.
U - tiền mặt lưu hành.
R- tiền dự trữ trong ngân hàng.
* Sự “ tạo tiền ngân hàng” của tiền gửi
Giả định:
- Tỷ lệ dự trữ chung ( bao gồm bắt buộc và tùy ý) là ra=10%
- Mọi người có tiền mặt đều gửi hết vào Ngân hàng.
- Các Ngân hàng trung gian đều cho vay hết số tiền ký thác còn lại sau khi trừ đi
phần dự trữ chung.
Tỷ lệ dự trữ:
R
ra =
D
ra = rbb + rty
R - số tiền dự trữ
D - tiền gửi
Giả sử Ngân hàng ban đầu nhận tiền gửi = D.
NH1 = (1-ra).D
NH2 = (1-ra)2D
..... NHn = (1-ra)nD
Khi đó tổng số tiền tạo ra:
= [(1-ra)+ (1-ra)2 +...(1-ra)n)]D = (1/ra)D (Theo cấp số nhân công bội
q = 1 - ra (Sn = 1/1-qn)
Một khoản tiền gửi đưa vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo thêm một khoản dự trữ mới
(R) và cho phép tạo ra một lượng tối đa khoản cho vay mới. Những khoản cho vay mới
được đưa trở lại hệ thống ngân hàng, lại trở thành những khoản tiền gửi mới (D) bằng
1/R. Kết quả lượng tiền gửi tăng thêm là:
1
D = .R
ra
Đó là cách thức mà Ngân hàng thương mại tạo ra tiền.
Tỷ số 1/ra gọi là số nhân tiền tệ. Tuy nhiên, số nhân này có được từ giả định mọi
người không dùng tiền mặt trong thanh toán. Điều này không có trong thực tế, vì vậy có một
tỷ lệ tiền mặt nằm ở ngoài ngân hàng, do đó phải xác định số nhân tiền tệ theo cách khác.
- Xác định mức cung tiền (MS)
+ Cung về tiền (MS- Money Supply) là toàn bộ khối lượng tiền được tạo ra trong
nền kinh tế.
MS = M1 (M1 - tiền giao dịch)
Tiền cơ sở H
Biểu đồ cho thấy mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt
động “tạo ra tiền” của các NHTM.
Biểu đồ cũng cho biết tiền cơ sở (H) là tiền do NHTƯ phát hành biểu hiện dưới
dạng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ tại ngân hàng. Các khoản tiền gửi là bội số của tiền
dự trữ của ngân hàng.
Xét trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân, số nhân tiền tệ chính là tỷ số giữa
mức cung tiền và lượng tiền cơ sở.
MS
mM =
H
HTTT Kinh tế-46
Kinh tế Vĩ mô Khoa Công nghệ thông tin
mM là số nhân tiền tệ
MS = mM.H
Số nhân tiền tệ 1/ra ở phần trên được giả định là r a = rb. Nhưng trong thực tế, một
phần tiền được công chúng giữ lại dưới dạng tiền mặt và tỷ lệ dự trữ thực tế của các Ngân
hàng thương mại có thể lớn hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Có: MS = U + D
U - tiền mặt lưu hành
D - tiền gửi
U
s=
D
Ra 1+s
Và: ra = mM =
D ra + s
M1
io Mo
LP1
LPo
Khi thu nhập tăng tới Y1 thì LP dịch chuyển đến LP1. Tức là cùng với mức lãi suất
io nhưng cầu về tiền lớn hơn (LP1>LPo) khi thu nhập tăng lên (Y1>Yo).
5.1.2.3. Cân bằng thị trường tiền tệ
- Thị trường tiền tệ cân bằng khi: MS = LP
i LP
MS
Eo
io
M
Mo
i
LPo MS1 MSo
i2 E”
E’
i1
io E LP1
M1 Mo M
Việc kiểm soát tiền tệ thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô là rất khó. Có
hai cách kiểm soát, hoặc là kiểm soát mức cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ lên xuống
bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất (ổn định lãi suất) thì buộc phải để lực lượng
thị trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách đều gặp những khó khăn nhất định như
khi kiểm soát lượng tiền cơ sở H thì vấp phải vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó
khăn cho hoạt động NHTM và các hoạt động giao dịch, khi kiểm soát LS lại gặp khó
khăn trong nhận biết chính xác đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó,…
NHTW điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ
khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ.
Các công cụ quản lý tiền tệ thường dùng của NHTW là:
- Hoạt động của thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTWđược sử dụng để mua bán
trái phiếu kho bạc của Nhà nước.
Hoạt động của thị trường mở (open market operations) là hoạt động của NHTW
trong việc mua bán các loại giấy tờ có giá (chủ yếu là trái phiếu của Chính phủ).
Muốn tăng mức cung tiền NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở.
Kết quả là họ đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách
tăng dự trữ của các NHTM, dẫn đến tăng khả năng cho vay, tăng mức tiền gửi nhờ số
nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng gấp bội so với số tiền mua tín
phiếu của NHTW. Để có kết quả ngược lại, NHTW sẽ bán trái phiếu của Chính phủ.
-Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Tỷ lệ dự trữ thấp, số nhân tiền tệ sẽ lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng tín dụng,
các khoản tiền gửi sử dụng séc sẽ tăng nhiều hơn, tức làm tăng loại tiền Ngân hàng. Nhờ
vậy mà khối lượng tiền M1 gia tăng.
NHTW là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các NHTM.
Tóm lại, muốn tăng khối lượng tiền thì phải giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, muốn giảm
khối lượng tiền thì phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên.
- Lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của NHTW khi họ cho các NHTM
vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các NHTM. Khi lãi suất chiết
khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay thuận lợi, sẽ khuyến khích các
ngân hàng thương mại vay tiền để tăng dự trữ và mở rộng cho vay, dẫn đến mức cung
tiền sẽ tăng lên.
Tác động của lãi suất chiết khấu đến lượng tiền mạnh H:
Lãi suất chiết khấu càng thấp thì càng kích thích các Ngân hàng trung gian
vay tiền của NHTW. Khi lượng tiền vay tăng thì cũng có nghĩa là một lượng tiền mạnh
H được bơm thêm vào nền kinh tế. Và lúc đó khối lượng tiền M1 sẽ tăng thêm mM lần
và ngược lại.
Với chức năng người cho vay cuối cùng, khi NHTW cho vay, mặc dù lãi
suất chiết khấu không đổi những cũng làm tăng lượng tiền mạnh. Do đó cũng sẽ làm tăng
khối lượng tiền gấp mM lần.
U
s=
D
Vì vậy khi lãi suất tiền gửi sử dụng séc tăng thì dân chúng sẽ ít nắm giữ
tiền mặt hơn, tăng tiền gửi sử dụng séc tức D làm s mM tăng M1 cũng tăng theo
và ngược lại.
- Kiểm soát tín dụng chọn lọc:
Khi muốn giảm bớt khối lượng tiền, Chính phủ có thể dùng biện pháp hạn
chế cung cấp tín dụng cho những ngành không cần khuyến khích phát triển. Ngược lại,
khi muốn tăng khối lượng tiền, Chính phủ có thể tăng cung cấp tín dụng, thậm chí với lãi
suất ưu đãi cho các ngành hay các địa phương cần được nâng đỡ để phát triển.
- Ấn định lãi suất cho các NHTG:
Tóm lại, có thể kết luận: NHTW có nhiều khả năng thực tế để ấn định mức
cung tiền (M) theo dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt nó bằng các công cụ điều tiết
của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định.
5.2. Chính sách tài khoá, tiền tệ và sự phối hợp hai chính sách
5.2.1. Mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Mô hình IS - LM trong nền kinh tế đóng
5.2.1.1. Đường IS (Investment equals saving)
- Đường IS là tập hợp các tổ hợp khác nhau giữa sản lượng và lãi suất mà tại đó
thị trường hàng hóa cân bằng.
- Đường IS thể hiện tác động của lãi suất đến sản lượng cân bằng, trong điều kiện
các yếu tố khác không đổi.
5.2.1.2. Cách dựng đường IS
Muốn dựng đường IS ta bắt đầu từ sự thay đổi của i.
Với io thì có I0 ADo SLCB Yo
Khi io i1 thì có I1 AD1 SLCB Y1
Các tổ hợp(io,Yo), (i1,Y1),… cho ta đường IS ( nếu Eo và E1).
Đường IS là đường dốc xuống thể hiện mối quan hệ nghịch biến giữa i và Y.
Đồ thị:
E1 AD1
AD
2 ADo
E0
45
3
o
Yo Y1
Y
Eo
i
io
1 E1
i1
IS
Y
Cũng có thể xây dựng đường IS bằng công thức đường IS:
Cách xây dựng công thức:
Giả sử C = C + MPC (Y - t.Y)
I = I + MPI.Y - d.i
X = X - n.i
G= G
IM = MPM.Y
Khi thị trường hàng hoá cân bằng nên:
Y = C + I + G + X - IM
Thay các yếu tố trên vào phương trình cân bằng
A 1
i = - Y
b b.m'
AC I G X
b=d+n
Trong đó: d và n là các hệ số đo lường quy mô đầu tư và xuất khẩu giảm xuống
khi lãi suất tăng 1% (nếu là nền kinh tế đóng thì b = d).
m” là số nhân chi tiêu của nền kinh tế mở (nếu là nền kinh tế đóng là m’).
* Ý nghĩa đường IS
- Tất cả những điểm nằm trên đường IS, ứng với một mức lãi suất và một mức sản
lượng nào đó, đều là những điểm cân bằng sản lượng. Như vậy, bất cứ mức sản lượng
nào nằm trên đường IS cũng đều thoả mãn phương trình:
Y = C + I + G + X - IM
Hay: S + T + IM = I + G + X
Ngược lại, mọi điểm nằm ngoài đường IS đều là những điểm không cân bằng của
thị trường sản phẩm
- Đường IS dốc xuống, phản ánh mối quan hệ nghịch biến giữa lãi suất và sản
lượng cân bằng.
Câu hỏi đặt ra là các mức lãi suất nằm trên đường IS có phải là lãi suất cân bằng
hay không? Ta biết, lãi suất cân bằng là mức lãi suất mà ở đó cung và cầu về tiền bằng
nhau. Khi xây dựng đường IS, ta cho lãi suất thay đổi mà hoàn toàn không đề cập đến
điều kiện cân bằng của thị trường tiền tệ. Vì vậy, các mức lãi suất đó không nhất thiết là
lãi suất cân bằng.
* Sự dịch chuyển đường IS:
Đường IS được hình thành từ sự thay đổi của lãi suất trong điều kiện các yếu tố
khác không đổi. Do đó, tác động của lãi suất làm thay đổi sản lượng cân bằng được thể
hiện bằng sự di chuyển dọc theo đường IS. Còn tác động của các yếu tố khác với lãi suất
làm thay đổi sản lượng cân bằng sẽ làm dịch chuyển đường IS. Do sản lượng cân bằng
chỉ thay đổi khi AD thay đổi các yếu tố khác với lãi suất làm thay đổi sản lượng cân
bằng thì sẽ làm đường IS dịch chuyển.
Nguyên tắc dịch chuyển của đường IS: Các yếu tố khác với lãi suất làm tăng
tổng cầu thì đường IS dịch chuyển sang phải, làm giảm tổng cầu thì đường IS dịch
chuyển sang trái.
5.2.1.3. Đường LM
L - Liquidity preference - chỉ mức cầu về tiền
M - Money supply - Chỉ mức cung về tiền.
* Khái niệm:
Đường LM là tập hợp các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và sản lượng mà tại đó
thị trường tiền tệ cân bằng với mức cung tiền tệ thực không đổi.
* Cách dựng đường LM:
- Giả sử tăng Yo đến Y1 LP . Lúc này LPo dịch chuyển đến LP1 thị trường
tiền tệ cân bằng tại i lên đến i1.
Sản lượng ban đầu là Yo , ta có đường cầu về tiền LP o do đó thị trường tiền tệ cân
bằng tại i1. Kết hợp io và Y0 ta có (A) là tổ hợp giữa Y và i mà ở đó thị trường sản phẩm
cân bằng.
Kết hợp Y1 với i1 ta được điểm B: là tổ hợp giữa Y và i mà ở đó thị trường tiền tệ
cân bằng.
LP1 MS i
i
i1 B
io
A
LPo Y
Mo Lượng tiền Yo Y1
Đường LM dốc lên, phản ánh mối quan hệ đồng biến giữa Y và i cân bằng.
Cũng có thể xây dựng đương LM bằng công thức:
LP = MS/P
KY - h.i = MS/P
1 MS
i = (kY - )
h P
i A B LM
E
i0
IS
Y1 Y2
Yo Y
5.2.2. Tác động của chính sách tài khoa tới trạng thái cân bằng ngắn hạn của nền
kinh tế
- Chính sách tài khoá mở rộng
Dùng để chống suy thoái, khi sản lượng giảm xuống thấp hơn sản lượng tiềm
năng, tỷ lệ thất nghiệp cao. Chính phủ mở rộng tài khoá bằng cách G và T.
G AD IS dịch chuyển sang phải (i và Y cùng tăng).
T YdC
Giả sử:
Lúc đầu nền kinh tế cân bằng ở E0(Y0,i0), Chính phủ tăng chi tiêu làm cho IS o dịch
chuyển sang đến IS1.
Ở các mức i, sản lượng cân bằng đều tăng lên.
Ở i0 thì nếu Y tăng lên đến Y2 làm cho cầu tiền LP, với mức cung không đổi thì i.
Từ đó, làm IAD và sản lượng cân bằng mới ở i1 và Y1 .
Như vậy:
Tác động của chính sách tài khóa mở rộng là Y đồng thời i (gây ra sự thoái lui
đầu tư)
E1 LMo
i
i1
E2
i0
Eo IS1
IS0
Y
Y0 Y1 Y2
Với đường IS cho trước, chính sách tài khoá mở rộng làm tăng sản lượng nhiều
hay ít được quyết định bởi độ dốc của đường LM. Nếu LM dốc đứng hơn thì mức tăng
của sản lượng ít hơn so với đường LM thoải.
- Chính sách tài khoá thu hẹp:
Khi sản lượng cân bằng cao hơn sản lượng tiềm năng nền kinh tế bị áp lực lạm
phát cao. Muốn giảm áp lực lạm phát, Chính phủ phải thực hiện chính sách tài khoá thu
hẹp
G và T AD IS dịch chuyển sang trái. Kết quả là lãi suất cân bằng và SLCB
cùng giảm. Đưa sản lượng về mức tiềm năng.
YP
E1 LM
i
i1 F
I2
IS1
E2
IS2
Y
Y2 Y1
5.2.3. Chính sách tiền tệ
- Chính sách tiền tệ mở rộng:
Khi nền kinh tế bị suy thoái, sản lượng giảm xuống thấp hơn sản lượng tiềm năng,
thất nghiệp nhiều, NHTW có thể chống suy thoái bằng cách đưa ra chính sách tiền tệ mở
rộng. Mở rộng tiền tệ có nghĩa là làm tăng MS bằng cách: mua chứng khoán của Chính
phủ, giảm rbb, giảm lãi suất chiết khấu, tăng lãi suất tiền gửi sử dụng séc. Khi MS ,
đường LM dịch chuyển xuống dưới (sang phải). Kết quả là sản lượng tăng, lãi suất giảm.
LM1
i
E2 LM2
i1
i2
i3 E3
E1
IS1
Y
Y1 Y2
Giả sư:
- Lúc đầu nền kinh tế cân bằng ở E 1 (Y1, i1). NHTW tăng cung tiền tệ một lượng
LM1 dịch chuyển sang phải đến LM2.
LM1
i LM2
E2
i2
i1 E1
IS
Y
Y2 Y1
Mức độ thay đổi của lãi suất trước hết do mức độ dịch chuyển của hai đường quyết
định. Mà mức độ dịch chuyển nhiều hay ít là do mở rộng tài khoá và tiền tệ nhiều hay ít. Nếu
mở rộng tiền tệ nhiều thì lãi suất có khả năng giảm xuống, mở rộng tài khoá nhiều thì lãi suất
có khả năng tăng lên. Qua đó, chính phủ có thể phối hợp chính sách để điều chỉnh lãi suất
theo ý muốn, trong khi vẫn đưa được sản lượng cân bằng tiến đến sản lượng tiềm năng.
Ngoài ra, sự thay đổi của LS còn phụ thuộc vào độ dốc của hai đường IS và LM.
Mặc dù cùng dịch chuyển như nhau, nhưng nếu đường LM càng nằm ngang thì LS càng
có khuynh hướng giảm xuống, nếu đường IS càng nằm ngang thì LS càng có khuynh
hướng tăng lên.
Chính sách thu hẹp: (Ngược lại)
- Mục tiêu tăng trưởng:
Đây là việc tìm cách gia tăng năng lực sản xuất quốc gia. Yếu tố có ý nghĩa quyết
định làm tăng năng lực sản xuất là vốn đầu tư. Một trong các biện pháp có thể thúc đẩy
đầu tư tư nhân là tác động vào lãi suất.
Giả sử Y = YP, Chính phủ muốn giảm i để khuyến khích I. Muốn cho i giảm thì
phải thực hiện Chính sách mở rộng tiền tệ, tức làm tăng MS LM dịch chuyển sang
phải tạo điểm cân bằng sản lượng mới cao hơn mức sản lượng tiềm năng, làm cho lạm
phát cao. Muốn không có lạm phát cao phải giữ cho sản lượng cân bằng nằm tại mức
tiềm năng. Muốn vậy phải kéo đường IS sang trái sao cho cắt đường LM 2 tại Yp. Nghĩa
là phải thu hẹp tài khoá theo liều lượng thích hợp.
Như vậy, muốn khuyến khích I bằng cách giảm i trong khi vẫn giữ cho sản lượng
cân bằng không đổi thì phải kết hợp mở rộng tiền tệ với thu hẹp tài khoá. Chính sách này
thực chất là chuyển đổi cơ cấu kinh tế: giảm bớt hàng tiêu dùng, gia tăng hàng tư bản để
phục vụ cho nhu cầu đầu tư.
YP LM1
i
E1 LM2
i1
i2
E2 IS1
IS2
Y
Y1 =Y2
AD1
AD
E1
AD ADo
E0
Y = m’’. AD
o
45
Yo Y1 Y
LM
i
E2 LM’
i2
F
i1
Y = m’’. AD
E1
IS
Yo Y’o Y1 Y
chỉnh) bởi khối lượng tư bản, lao động và công nghệ hiện có. Như vậy, nó không phụ
thuộc vào mức giá do đó đường LAS là đường thẳng đứng.
6.1.2.3. Xét theo tính khả thi của AS
- Tổng cung chủ quan: đó là tổng cung mong muốn của các doanh nhân, nó luôn
có xu hướng vươn tới AS tiềm năng.
- AS khả thi (hiện thực): đó là cung có thể được thị trường bao tiêu hết.
- AS hiệu quả: Đó là AS mà doanh nhân có lợi nhất nếu thực hiện.
Khi mức giá càng cao (các yếu tố khác không đổi) thì người bán càng cung cấp
thêm nhiều hàng hoá cho thị trường. Vì vậy đường cung là đường dốc lên.
Khi giá bán tăng (giảm) thì mức cung hàng hoá sẽ di chuyển tăng lên (giảm đi)
dọc theo đường cung.
Các yếu tố làm dịch chuyển đường cung: Chi phí sản xuất của giá cả hàng hoá khác,
khoa học công nghệ, năng suất lao động...
6.1.7.2. Đồ thị đường AS và giá cả sản phẩm dịch vụ
LAS AS
P
Sản lượng
tiềm năng
Q
Ý nghĩa:
- Vị trí ngang của AS miêu tả giới hạn cực tiểu số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ
mà người sản xuất sẽ bán ra trong một số điều kiện nhất định. Khi các điều kiện này thay
đổi AS sẽ dịch sang trái hoặc sang phải.
- Hướng đi lên của đường cong biểu thị số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người
sản xuất sẽ bán ra ở từng mức giá trong điều kiện xác định.
- Đường AS có đặc điểm:
+ Khi Q < Qp: thì AS hơi dốc.
+ Khi Q > Qp: thì AS rất dốc.
Điều này nói lên rằng, ở dưới mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về
giá cả đầu ra sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh sản lượng để đáp ứng nhu
cầu đang tăng lên. Bởi vì, trong ngắn hạn, đứng trước giá đầu vào cố định, họ có thể đồng
thời tăng sản lượng và tăng giá chút ít để thu lợi nhuận.
Chứng tỏ độ dốc đường AS nói lên tương quan giữa tốc độ tăng giá với tốc độ
tăng cung, thể hiện ở công thức sau:
Q
Q
Es
P
P
Tiền công cũng linh hoạt điều chỉnh cho đến khi nào tất cả mọi người muốn làm
việc tại mức tiền công đó đều có việc làm và các doanh nghiệp sử dụng đúng số lượng
nhân công mà họ muốn thuê.
Khi tiền công điều chỉnh linh hoạt thì thị trường lao động luôn luôn ở trạng thái
cân bằng, không có thất nghiệp. Nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng nhân công. Một khi
toàn bộ lực lượng lao động được sử dụng hết, thì không thể gia tăng sản lượng trên mức
hiện có, vì thế tổng cung sẽ cắt trục hoành ở mức sản lượng tiềm năng.
Do nhân công đã được sử dụng hết, các hãng cạnh tranh nhau để giành giật nhân
công, đẩy lương và giá lên cao, đáp ứng nhu cầu đang tăng lên: đường tổng cung vì thế
mà rất dốc và sẽ thẳng đứng tại mức sản lượng tiềm năng.
* Trường phái Keynes
Đường tổng cung theo trường phái Keynes là đường nằm ngang. Đường này ngụ ý
rằng các doanh nghiệp sẵn sàng cung ứng mọi khối lượng sản phẩm cần thiết ở mức giá
đã cho (P*).
Đường tổng cung Keynes dựa trên giả thiết là các thị trường trong đó, đặc biệt là
thị trường lao động không phải lúc nào cũng cân bằng, và trong nền kinh tế luôn có tình
trạng thất nghiệp.
Do luôn có thất nghiệp, các DN có thể thuê mướn bao nhiêu nhân công cũng được
với mức lương đã cho. Do đó, họ cũng có thể cung ứng cho mọi nhu cầu mà không cần
tăng giá.
P AS P
AS
P*
Y Y
Y*
Hầu hết các nhà kinh tế học ngày nay cho rằng thị trường lao động sẽ điều chỉnh
từ từ cho đến khi đạt trạng thái cân bằng. Nói cách khác, giá cả và tiền công không hoàn
toàn linh hoạt và cũng không hoàn toàn cứng nhắc. Đường tổng cung phù hợp với thực tế
hơn là đường có độ dốc nhất định và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
b. Đường tổng cung thực tế ngắn hạn
Đường tổng cung thực tế ngắn hạn được xây dựng trên cơ sở kết hợp ba mối quan
hệ sau, trong thời kỳ ngắn hạn:
- Mối quan hệ giữa sản lượng và việc làm.
- Mối quan hệ giữa việc làm và tiền công.
- Mối quan hệ giữa tiền công và giá cả.
* Mối quan hệ giữa sản lượng và việc làm, hay là giữa sản lượng và lao động, thể hiện
trong hàm sản xuất:
Hàm sản xuất theo lao động phản ánh sự phụ thuộc của sản lượng
(đầu ra) vào lượng lao động được sử dụng (yếu tố đầu vào) trong điều kiện các yếu tố
khác cố định.
Y = f (L,...)
Y - sản lượng thực tế.
L - lao động được sử dụng vào sản xuất.
Y = f (L...)
Y
Đồ thị:
Yo
Lo
Khi tăng dần lượng lao động được sử dụng thì năng suất biên của lao động có
khuynh hướng giảm dần. Do đó, khi lượng lao động sử dụng tăng đều thì sản lượng sẽ
tăng ít dần đi, làm cho đồ thị của hàm sản xuất Y = f(L) có dạng như hình trên.
Trong đó: Năng suất biên của lao động là con số phản ánh mức sản lượng tăng
thêm khi tăng thêm một đơn vị lao động được sử dụng.
MPL = Y/L
* Mối quan hệ giữa việc làm và tiền công
Đến lượt mình, wr trong thị trường lao động vận động để phản ứng lại những mất
CB trong thị trường này. Nếu có thất nghiệp, w r , nếu cần sử dụng nhiều lao động thì
wr. Tuy vậy, cũng không hoàn toàn linh hoạt. Nó được điều chỉnh sau một thời gian.
Đường Phillip đơn giản mô tả mối quan hệ giữa tiền công và thất nghiệp có dạng:
W = W-1(1 -.U) (1)
W - tiền công.
W-1 - tiền công thời kỳ trước.
- Hệ số phản ánh độ nhạy cảm giữa tiền công và thất nghiệp.
U - tỷ lệ thất nghiệp
U = 1 - L/L* (2)
L - Lao động được sử dụng vào sản xuất.
L* - Lao động ở mức toàn dụng.
Mặt khác, giữa lao động và sản lượng cũng có mối quan hệ. Mối quan hệ này được
thể hiện rõ nếu thay L và L* bằng cách:
L = a.Y
L* =a.Y* (3)
a - số giờ công được sử dụng để sản xuất 1 đơn vị sản lượng.
Thay (3, 2) vào (1), có:
W = W-1 1 + (Y/Y* - 1) (4)
Như vậy, sản lượng thực tế càng cao so với sản lượng tiềm năng thì tiền công cũng
càng cao.
* Mối quan hệ giữa chi phí tiền công và giá cả
Các doanh nghiệp sẽ định giá cả cho sản phẩm của họ sao cho có thể bù đắp được
chi phí và có lãi.
Theo cách định giá giản đơn, giá cả của sản phẩm sẽ bằng chi phí cộng thêm phần
lợi nhuận tính trên chi phí, vì vậy:
P = a.W(1+f ) (5)
P - giá cả.
a.W - chi phí tiền công.
f - tỷ suất lợi nhuận ( f = lợi nhuận/chi phí)
Thay (5) bằng (4), có:
P = a.(1 +f )W-11 + (Y/Y* - 1) (6)
Biểu thức 6 cho thấy mối quan hệ giữa giá cả, tiền công và sản lượng.
AS'
P
AS
P-1
AS"
Y
Y*
Đường tổng cung có 3 tính chất sau:
- Độ dốc của đường AS phụ thuộc vào .
- Vị trí của đường AS phụ thuộc vào mức giá tiêu biểu của thời kỳ trước. Nó đi
qua mức sản lượng tiềm năng tại P = P-1.
- Đường AS dịch chuyển theo thời gian, phụ thuộc vào sản lượng. Nếu sản lượng
kỳ này cao hơn sản lượng tiềm năng, thì sau một thời gian tiền lương sẽ và giá cả sẽ
tăng. Đường AS dịch chuyển lên phía trên, đến đường AS’. Ngược lại, đường AS sẽ dịch
chuyển xuống đến AS’’.
6.2. Sự cân bằng AD - AS
P AD AS
Yp
E1
P1
Y
Y1 Y
Khi tổng cung (AS) hoặc tổng cầu (AD) dịch chuyển thì điểm cân bằng sẽ thay
đổi. Hai đường này dịch chuyển khi có các yếu tố khác với giá làm thay đổi tổng cầu
hoặc tổng cung.
P
AS
Eo
Po
AD
Yo
Vị trí Eo phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Vị trí của các đường tổng cung (AS) và tổng cầu (AD). Khi 1 trong 2 đường này,
hoặc cả hai đường cùng thay đổi vị trí, thì điểm Eo sẽ dịch chuyển.
- Độ dốc hai đường AS và AD.
Đồ thị minh họa độ dốc AS và AD:
P
P
AS
AS
P2
AD2 AD
P1
AD1 AD’
Y1 Y2 Y Y*p Y
Hình a Hình b
Trường hợp (a): Đường AS nằm ngang, sự dịch chuyển vị trí của đường tổng cung
chỉ dẫn đến sự thay đổi sản lượng.
Trường hợp (b): Đường AS thẳng đứng, sự thay đổi của tổng cầu chỉ dẫn đến sự
thay đổi giá.
Cần phân biệt giữa cân bằng và cân đối:
- Cân bằng trong kinh tế học thường là cân bằng thị trường
- Cân đối là sự hợp lý của cơ cấu.
AD
AD
Y
Yo Y' Y
Hình a Hình b
Tóm lại:
(1) Quá trình tự điều chỉnh của nền kinh tế trước những sự mở rộng của tổng cầu
và thay đổi tổng cung (thông qua tiền lương và giá cả) diễn ra theo trình tự mở rộng đến
thu hẹp sản lượng. Và sẽ đảo ngược lại nếu có tác động thu hẹp tổng cầu.
(2) Vì quá trình tự điều chỉnh diễn ra chậm chạp và có thể kéo dài, nên mở ra 1
không gian nhất định để Nhà nước can thiệp vào thị trường thông qua chính sách tài khoá
và tiền tệ, nhằm giữ cho nền kinh tế luôn ở mức sản lượng tiềm năng.
6.3. Chu kỳ kinh tế (chu kỳ kinh doanh)
A Yp
B
Đáy(trough)
Yt C
t (thời gian)
Định luật Okun cho biết mức độ thay đổi của tỷ lệ thất nghiệp thực tế khi có sự
thay đổi trong tương quan giữa sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng (Qp).
Ý tưởng cơ bản của định luật này là: Sản lượng thực tế càng thấp hơn Qp thì thất
nghiệp tăng lên càng nhiều.
Như vậy: Sản lượng thực tế từ mức thấp tăng lên với tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng
của Qp thì thất nghiệp sẽ giảm bớt.
Từ ý tưởng này, có hai cách đặt vấn đề:
- Cách thứ nhất: Khi sản lượng thực tế thấp hơn Qp là bao nhiêu % thì thất nghiệp
sẽ tăng thêm 1%.
- Cách thứ hai: Khi tốc độ tăng của sản lượng thực tế cao hơn tốc độ tăng của sản
lượng tiềm năng bao nhiêu % thì thất nghiệp sẽ giảm bớt 1%.
Định luật Okun:
Cách thứ nhất: Theo P.A.Samuelson và W.D. Nordhaus: "Khi Q thấp hơn Qp 2%
thì thất nghiệp sẽ tăng thêm 1% so với thất nghiệp tự nhiên".
Từ đó suy ra: Nếu sản lượng thực tế (Qtt) < Sản lượng tiềm năng (Qp) một lượng
X(%) thì thất nghiệp sẽ tăng thêm một lượng:
X
U =
2
Mà X được xác định bởi:
Qp - Qt
X= x100
Qp
Nên: Qp - Qt
U = x50
Qp
U là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên thêm do sản lượng thấp hơn mức
tiềm năng.
Do tại mức sản lượng tiềm năng đã có thất nghiệp bằng với thất nghiệp tự nhiên.
Cho nên, tỷ lệ thất nghiệp thực tế (Ut) phải bằng thất nghiệp tự nhiên (Un) cộng với U.
Tức là:
Qp - Qt
Ut = Un + x50
Qp
HTTT Kinh tế-77
Kinh tế Vĩ mô Khoa Công nghệ thông tin
AD2
AD
AD
E0 AD1
E1
6.3.5.3. Tác động qua lại giữa số nhân Keynes và nhân tố gia tốcY
Y Yp
1
Thuyết mô hình số nhân - gia tốc (Multiplier-Accelerator model Theory) đề xuất
cách giải thích chu kỳ dựa vào một cú sốc bên ngoài, được lan truyền bởi số nhân cùng
với nhân gia tốc, tạo nên sự dao động lên xuống của sản lượng (Samuelson).
Chúng ta biết, số nhân Keynes là hệ số phản ánh lượng thay đổi của sản lượng khi
tổng cầu thay đổi 1 đơn vị. Một trong các yếu tố năng động làm thay đổi tổng cầu là đầu
tư của tư nhân (I). Theo Samuelson, sự thay đổi trong đầu tư vừa là nguyên nhân vừa là
kết quả của chu kỳ kinh doanh. Là nguyên nhân bởi vì việc gia tăng hay giảm bớt đầu tư
sẽ dẫn đến sự gia tăng hay sụt giảm của sản lượng. Tác động này được thể hiện bằng mô
hình số nhân Y = m’.AD. Là kết quả vì trong các chu kỳ kinh doanh, sản lượng liên
tục tăng lên và giảm xuống. Khi sản lượng thay đổi đầu tư cũng thay đổi theo. Tác động
của sản lượng làm thay đổi đầu tư được gọi là nhân tố gia tốc. Samuelson cho rằng sự
tương tác giữa số nhân và gia tốc tạo ra chu kỳ kinh doanh.
Từ thuyết đó, ngoài những nhân tố tác động đến đầu tư đã nêu trong chương 3,
việc tăng vốn, tăng đầu tư còn xảy ra khi sản lượng tăng. Hơn nữa, sản lượng phải liên
tục tăng cùng nhịp độ mới đảm bảo cho vốn đầu tư không đổi. Kết quả là, khi sản lượng
ngừng tăng, thì đầu tư ròng ( đầu tư tăng thêm vốn tư bản) giảm đến 0 và tổng đầu tư chỉ
bằng đầu tư để duy trì năng lực sản xuất hiện có.
Ngược lại, khi sản lượng giảm, đầu tư sẽ giảm xuống dưới 0 trong thời gian dài.
Cơ chế phối hợp nhân tố gia tốc và mô hình số nhân có thể mô tả
như sau (cơ chế hình thành chu kỳ kinh doanh):
Đầu tư tăng sản lượng tăng (theo mô hình số nhân) đầu tư tăng( theo số
nhân gia tốc) sản lượng tăng,.. đạt đỉnh chu ky.
Tiếp đến:
Sản lượng ngừng tăng đầu tư giảm (theo nhân tố gia tốc) sản lượng giảm
(theo mô hình số nhân) đầu tư giảm ( theo nhân tố gia tốc) sản lượng giảm,... chạm
đáy chu ky. Tiếp đến, đầu tư tăng lên và chu kỳ lại bắt đầu từ đầu.
Hoặc: Là sự tăng theo quy mô sản lượng hay thu nhập bình quân đầu người của
một nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Đó là kết quả được tạo ra
bởi tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ trong nền kinh tế.
Tốc độ tăng hàng năm phản ánh % thay đổi của sản lượng năm sau so với
năm trước.
Chỉ tiêu năm (t) - chỉ tiêu năm (t-1)
Vt = x100
Chỉ tiêu năm (t-1)
Vt là tốc độ tăng của một chỉ tiêu nào đó năm t
Chỉ tiêu năm t và năm (t –1) có thể là GNP hoặc GDP.
6.4.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến mức tăng trưởng Kinh tế quốc dân
6.4.2.1. Tỉ lệ tích lũy và tiêu dùng
- Khi tăng tích lũy, giảm tiêu dùng sẽ hạn chế tăng trưởng.
- Nếu tăng tiêu dùng sẽ tăng sản xuất.
Có: YD = C + S
C
C= C + MPC.Y
E
S= -C + MPS.Y
C
45 Y
o
-C Y
C
i1
Y I (i)
HTTT Kinh tế-80
-C Y Y* I
Kinh tế Vĩ mô Khoa Công nghệ thông tin
i2
Sự tác động của tiết kiệm và đầu tư đến thu nhập và tăng trưởng kinh tế. Tại điểm
E mức tiết kiệm mong muốn bằng mức đầu tư mong muốn.
6.4.4. Các biểu hiện điển hình về kinh tế trong sự tăng trưởng
6.4.4.1. Giá cả tăng do đó lạm phát tăng
P tăng do một số nguyên nhân sau:
- Ngoài những người có việc và thất nghiệp, những người còn lại trong độ tuổi lao
động được coi là những người không nằm trong lực lượng lao động, bao gồm người đi
học, nội trợ gia đình,... và một bộ phận không muốn tìm việc làm vì các lý do khác nhau.
7.1.4. Các chỉ tiêu thể hiện tình trạng thất nghiệp
7.1.4.1. Số người thất nghiệp
Được tính theo 2 cách:
- Thống kê theo các dấu hiệu thất nghiệp, đã nêu ở trên.
- Tính từ lực lượng lao động xã hội và người có việc làm.
Số người thất nghiệp = Tổng lực lượng lao động xã hội – số người trong danh sách lao
động của các đơn vị lao động
7.1.4.2. Tỷ lệ thất nghiệp
Để đo lường mức thất nghiệp trong nền kinh tế chúng ta sử dụng chỉ tiêu “ tỷ lệ
thất nghiệp”:
Số người thất nghiệp
Tỷ lệ thất nghiệp(%) = x100
Lực lượng lao động
7.1.4.3. Thời gian thất nghiệp
Thời gian thất nghiệp bao giờ cũng được hiểu là thời gian trung bình, được tính
theo phương pháp bình quân gia quyền.
7.1.4.4.Tần số thất nghiệp
Là số lần trung bình 1 người lao động bị thất nghiệp trong 1 thời kỳ nhất định
(ví dụ: 1 năm bị thất nghiệp 3 lần).
Tần số thất nghiệp phụ thuộc vào:
+ Sự thay đổi nhu cầu lao động của các doanh nghiệp.
+ Sự gia tăng tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động.
Trong ngắn hạn, khi tổng cầu không đổi nhưng có sự biến động về cơ cấu của nó
và khi có tỷ lệ tăng dân số cao thì tần số thất nghiệp bị đẩy lên nhanh. Tần số thất nghiệp
lớn, có nghĩa là thường xuyên có số thất nghiệp nhiều, tỷ lệ thất nghiệp sẽ cao.
Hạ thấp tỷ lệ tăng dân số và ổn định kinh tế là hướng đi quan trọng giữ cho tần số
thất nghiệp ở mức thấp.
+ Thiếu kỹ năng: có thể do sự thay đổi cơ cấu ngành hoặc do công việc yêu cầu
trình độ cao hơn đối với người lao động.
+ Khác biệt về địa điểm cư tru: Yếu tố chính là do sự phát triển không đồng đều
giữa các vùng, vùng này phát triển nhanh, đang cần nhiều lao động, trong khi vùng khác
phát triển chậm, đang thừa lao động. Tuy nhiên, người lao động không dễ dàng di chuyển
từ nơi này đến nơi khác để có được việc làm.
c. Thất nghiệp chu kỳ ( Cyclical Unemployment - còn gọi là thất nghiệp do thiếu cầu, thất
nghiệp theo thuyết Keynes) Là loại thất nghiệp được tạo ra bởi tình trạng suy thoái nền
kinh tế, sản lượng tụt xuống thấp hơn số lượng thất nghiệp.
Do tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ sụt giảm, buộc các doanh nghiệp phải sản
xuất ít hơn, thậm chí có khi phải đóng cửa. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ phải sa thải công
nhân, tạo nên thất nghiệp hàng loạt. Đặc điểm cơ bản để phần biệt thất nghiệp chu kỳ với
các loại thất nghiệp khác là mức thất nghiệp gần như ở khắp mọi nơi.
d. Thất nghiệp do cơ chế quản lý lao động tiền lương (Còn gọi là thất nghiệp
chờ việc)
Do sự không linh hoạt của tiền lương chủ yếu do việc quy định mức lương tối
thiểu của người lao động.
W LS
Tiền lương
Tiền lương
cân bằng
cân bằng LD
L*
Đường lao động là đường cầu lao động, do nhu cầu lao động của các doanh nghiệp
quyết định. Đường LS là đường cung lực lượng lao động xã hội. Đường LS' là đường
cung bộ phận lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm tương ứng với các mức lương của thị
trường lao động, GF là con số thất nghiệp tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện bao gồm số
người thất nghiệp tạm thời và số người thất nghiệp cơ cấu, vì đó là những người chưa sẵn
sàng làm việc với mức lương tương ứng, còn đang tìm kiếm những cơ hội tốt hơn.
Mức
LS '
lương LS
F
W1
G
* G
W E
LD
LD ' Lượng
lao động
L
Nếu xã hội có chế độ quy định mức lương tối thiểu, giả sử ở w 1 cao hơn mức
lương cơ bản của thị trường lao động (W*).
Ở mức lương W1, cung lao động sẵn sàng chấp nhận việc làm (LS’) sẽ lớn hơn cầu
lao động. Sự chênh lệch này được biểu hiện bằng đoạn AB. Đó chính là số người thất
nghiệp theo “lý thuyết cổ điển” thì đó là bộ phận thất nghiệp tự nhiên, bởi thất nghiệp tự
nhiên bởi xã hội chỉ chấp nhận làm việc tại mức lương cao hơn (W1).
Thất nghiệp không tự nguyện là thất nghiệp do thiếu cầu xảy ra khi tổng cầu sụt
giảm, sản xuất bị đình trệ, mất việc,… ở trên hình trên hình vẽ là đoạn GE.
7.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến thất nghiệp và phương hướng cơ bản nhằm hạn
chế thất nghiệp và tác hại của thất nghiệp
7.1.6.1. Sự đổi mới và nâng cao nhanh chóng tiến bộ khoa học và công nghệ trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân
- Công nghệ hiện đại khi được đưa vào sản xuất sẽ thay thế nhiều lao động thủ
công vào tạo ra thất nghiệp từ bộ phận này.
- CN hiện đại khi được đưa vào sản xuất sẽ làm cho bộ phận lao động cũ trở nên
lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu mới.
- Cách mạng KHCN cùng với hội nhập kinh tế quốc tế thay đổi cơ cấu xã hội
theo hướng chuyên môn hóa xuất hiện nhu cầu về lực lượng lao động mới mà lao
động hiện có không phù hợp.
7.1.6.2. Sự bất đồng giữa tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng trưởng kinh tế
Để giữ cân bằng về việc làm trong điều kiện không đổi về công nghệ sản xuất, tốc
độ tăng trưởng kinh tế phải cao hơn tốc độ tăng trưởng dân số nhiều lần.
Tuy nhiên ở các nước đang phát triển hiện nay chưa thể thực hiện được điều này
bởi vì tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy có nhanh nhưng tốc độ tăng dân số tăng cũng
không kém.
7.1.6.3. Phương hướng cơ bản nhằm làm giảm tỷ lệ thất nghiệp
Đối với thất nghiệp chu ky: dùng chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng để kích
thích sự gia tăng của tổng cầu, kéo sản lượng lên mức sản lượng tiềm năng.
Đối với thất nghiệp tự nhiên:
Trong vài thập niên gần đây, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có khuynh hướng tăng lên
ở một số nước. Có 3 lý do:
- Một là, sự thay đổi cơ cấu dân số theo hướng tăng tỷ trọng thành phần thất
nghiệp cao.
- Hai là, sự thay đổi cơ cấu kinh tế làm tăng thành phần thất nghiệp cơ cấu do
thiếu kỹ năng.
- Ba là, chế độ trợ cấp thất nghiệp ở một số nước làm cho người lao động không
tích cực tìm việc hoặc không chấp nhận công việc có mức lương thấp. Vậy phải chăng
việc giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có vẻ như hoang tưởng? Thực tế không phải như vậy,
các biện pháp tích cực luôn có tác dụng tốt, nếu như không làm giảm thì cũng sẽ hạn chế
được mức độ gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên .
Có thể khắc phục bằng cách tăng cường đào tạo, mở rộng hệ thống thông tin về
việc làm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc di chuyển nơi cư trú,...
7.2. Lạm phát
Tỷ lệ lạm phát phản ánh tốc độ tăng giá ở thời điểm này so với thời điểm trước đó
(có thể tính theo năm, quý,…).
Mức giá chung (General Price) là mức giá trung bình của nhiều loại hàng hóa và
dịch vụ. Mức giá đó được đo bằng chỉ số giá.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI - Consumer Price Index) phản ánh sự biến động giá cả
của một giỏ hàng hoá và dịch vụ tiêu biểu cho cơ cấu tiêu dùng của xã hội. Công thức
tính có thể viết như sau:
G = Gi.fi
Trong đo: G - chỉ số giá chung (có thể viết là CPI)
Gi - chỉ số giá cả từng loại hàng.
fi - tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại, nhóm hàng trong giỏ (với
fi = 1 ). Nó phản ánh cơ cấu tiêu dùng của xã hội.
Gi
gp = ( - 1) x100
Go
gp (nL) - tỷ lệ lạm phát (%)
Gi - chỉ số giá cả của thời kỳ nghiên cứu.
Go - chỉ số giá cả thời kỳ trước đó được chọn làm gốc để so sánh.
7.2.2.2. Quy mô lạm phát
Căn cứ vào mức độ lạm phát có thể chia thành ba loại:
Lạm phát vừa phải ( moderate inflation - một chữ số): tỷ lệ lạm phát dưới 10%
một năm. Giá tăng chậm, đồng tiền tương đối ổn định.
Lạm phát phi mã(galloping inflation - ba chữ số): tỷ lệ 10% - 999%. Khi lạm phát
phi mã ở mức cao thì tiền mất giá nhanh, gây tác động không tốt đối với sản xuất và đời
sống.
Siêu lạm phát ( Hyper inflation - trên ba chữ số): từ 1000% trở lên. Loại này gây
tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế.
Căn cứ vào thời gian lạm phát:
- Lạm phát kinh niên thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát đến 50%
một năm.
- Lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm, với tỷ lệ lạm phát trên 50%
một năm.
- Siêu lạm phát kéo dài trên 1 năm với tỷ lệ lạm phát trên 200%
một năm.
ASLR ASSR
P
E2
P2 AD2
Lạm
phát AD1
P 1 E1
Y1 Y2 Y
7.2.4.2.Lạm phát do cung (lạm phát do chi phí đẩy , Cost - Push inflation)
Xảy ra khi chi phí sản xuất tăng ( đường ASSR dịch chuyển lên trên) hoặc năng lực
sản xuất giảm (đường ASSR dịch chuyển sang trái)(hình b và c).
Cụ thể:
Chi phí sản xuất tăng, có thể do sự gia tăng tiền lương danh nghĩa, giá nguyên
liệu, thuế,…. Lúc đó các doanh nghiệp có khuynh hướng tăng giá bán để bù đắp phần
tăng của chi phí sản xuất. Kết quả là đường AS SR dịch chuyển lên trên. Khi các doanh
nghiệp tăng giá bán, AD sẽ giảm bớt (từ E E2). Vậy ASSR cũng giảm theo (từ
F E2). Kết quả cuối cùng là nền kinh tế cân bằng tại mức mức giá cao hơn và sản
lượng thấp hơn (hình b).
ASSR2
Đồ thị: ASSR2
ASSR1 P
P AD ASLR ASLR ASSR1
F P2
E2
E2 E1
P2
P1
F
AD
P1 E
1
Y
Y2 Y1 Y Y2 Y1
Hình b: Chi phí sản xuất tăng Hình c: Năng lực sản xuất giảm
Năng lực sản xuất giảm, có thể do giảm sút nguồn nhân lực, nguồn vốn; do sự gia
tăng trong tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên; do chiến tranh hay thiên tai nghiêm trọng. Tác động
này làm AS dịch sang trái cùng với mức giảm của sản lượng tiềm năng (Y1 Y2).
Khả năng cung ứng giảm trong khi mức cầu vẫn còn cao, hàng hoá trở nên khan
hiếm (thiếu 1 lượng hàng E1F trên hình 7.3c), P bắt đầu . P làm cho cầu và cung tăng
(di chuyển trên đường cầu và đường cung). Cuối cùng, AD và AS cân bằng tại mức giá
cao hơn.
Tóm lại, cả 2 trường hợp lạm phát do dịch chuyển đường cung lên trên hoặc sang
trái, mặc dù cơ chế tác động hơi khác nhau, nhưng kết quả cuối cùng giống nhau: nền
kinh tế vừa bị lạm phát, vừa bị sụt giảm sản lượng. Tình trạng này thường được gọi là
lạm phát đình đốn. Mức độ lạm phát và đình đốn sản xuất nhiều hay ít phụ thuộc vào độ
dốc đường AD. Nếu AD càng dốc đứng thì tỷ lệ lạm phát càng cao, càng nằm ngang thì
sự đình đốn sản xuất càng trầm trọng.
P ASLR
AD3 ASSR3
AD2 E3
P3 ASSR2
ASSR1
AD1
P2 E 2
P1 E1
Y
Y*
7.2.4.4.Lạm phát và tiền tệ
Trong chương 5 nghiên cứu lý thuyết số lượng tiền tệ và đã biết đẳng thức
(M/P) = LP (i,Y) khi thị trường tiền tệ cân bằng.
Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng,
nghĩa là (i) và (Y) là ổn định (Y đạt tiềm năng = Y P), cầu tiền thực tế là không đổi và do
vậy M/P cũng sẽ không thay đổi. Điều đó có nghĩa là nếu lượng cung tiền danh nghĩa (M)
tăng lên thì giá cả (P) cũng tăng với tỷ lệ tương ứng, nói cách khác tỷ lệ lạm phát sẽ bằng
tỷ lệ tăng tiền. Như vậy, lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.
Điều này xảy ra trong thực tế khi nền kinh tế gặp phải 1 cơn sốc (ví dụ: giá dầu
tăng) làm cho lượng tiền thực tế nhất thời giảm xuống. Chính phủ cần tăng MS n để đảm
bảo nhu cầu tiền thực tế. Nhưng vì sản lượng và việc làm không đổi, chỉ có MS n, giá cả
và tiền lương danh nghĩa tăng lên.
Khi ngân sách thâm hụt lớn, các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trải, lượng
tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát (như lạm phát cầu kéo). Và
một khi giá cả đã tăng lên thì thâm hụt mới lại nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng
tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời
kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, các chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách vay
dân qua việc bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ
lạm phát, nhưng nếu thâm hụt kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến
mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát cao là điều chắc chắn.
7.2.4.5. Lạm phát và lãi suất
Lãi suất thực tế thường ít thay đổi và ở mức mà cả người cho vay và người đi vay
đều có thể chấp nhận được. Nếu khác đi sẽ tạo ra mức dư cầu hoặc dư cung và sẽ đẩy lãi
suất này về mức ổn định. Nhưng lãi suất danh nghĩa lại biến động theo lạm phát. Khi lạm
phát thay đổi thì lãi suất danh nghĩa sẽ thay đổi theo, để duy trì lãi suất ở mức thực tế ổn
định (Vì lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát). Khi tỷ lệ lạm phát tăng
lên, lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ tiền
nhiều càng thiệt.
7.3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp
Khi nói đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, các nhà kinh tế thường đề
cập đến khái niệm “đánh đổi”. Đánh đổi (trade off) có nghĩa là được cái này mất cái kia,
chọn cái này phải bỏ cái kia. A.W. Phillips đã phát hiện ra rằng thất nghiệp giảm thì
lương có khuynh hướng tăng, lương tăng sẽ làm tăng giá. Như vậy, thất nghiệp giảm sẽ
kéo theo tình trạng lạm phát tăng. Phát hiện này đã dẫn đến một luận điểm cho rằng giữa
lạm phát và thất nghiệp có sự đánh đổi với nhau. Vậy thì sự đánh đổi này được thể hiện
như thế nào? có phải luôn xảy ra tình trạng đánh đổi không?
Tỷ lệ
lạm gp
phát
P
C
B u
Tỷ lệ thất nghiệp u*
PC
Hình a: Mối quan hệ giữa lạm Hình b: đường Phillips ban đầu
phát
Đường Phillips gợi cho những người làm chính sách lựa chọn các c/s kinh tế vĩ
và thất nghiệp
mô, đặc biệt là chính sách tài khoá và tiền tệ.
Ví dụ: Giả sử nền kinh tế đang ở tại B trên hình b (suy thoái thất nghiệp). Chính phủ
có thể mở rộng cung tiền nhằm hạ lãi suất, thúc đẩy đầu tư, mở rộng tổng cầu, điều này sẽ
tạo ra việc làm, thất nghiệp giảm. Điểm B sẽ di chuyển theo đường Phillips lên trên.
Đường này cho thấy khi thất nghiệp thực tế bằng thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát
bằng tỉ lệ dự kiến. Nếu thất nghiệp thực tế cao hơn thất nghiệp tự nhiên thì tỷ lệ lạm phát
thấp hơn tỷ lệ dự kiến. Đường này gọi là đường Phillips ngắn hạn ứng với thời kỳ mà tỷ
lệ lạm phát dự kiến chưa thay đổi. Trong thời kỳ này nếu có những cú sốc cầu, giả sử
tổng cầu tăng lên nhanh, nền kinh tế đi dọc đường Phillips lên phía trên, lạm phát tăng và
thất nghiệp giảm.
Nếu không có sự tác động của các chính sách thì vì giá tăng lên thì MS r (do
MSr =MSn/P), lãi suất tăng lên và AD dần dần được điều chỉnh trở lại mức ban đầu
lạm phát và thất nghiệp sẽ quay trở về trạng thái ban đầu. Nhưng khi lạm phát đã được
dự kiến, tiền lương và các chi phí khác cũng được điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát nên giá
cả dừng lại ở tỷ lệ dự kiến và thất nghiệp trở lại mức tự nhiên, đường Phillips sẽ dịch
chuyển từ PC1 PC2. Tại E, gp 0 do gp = gpe.
Riêng các cơn sốt cung (như tăng giá dầu lên) sẽ đẩy chi phí sản xuất và giá cả
lên, sản lượng và việc làm giảm xuống. Như vậy, cả thất nghiệp và lạm phát tăng lên -
không có sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát trong ngắn hạn - đó là thời kỳ đình trệ,
thất nghiệp.
Đồ thị:
gp
PC1
u
u*
PC2
Hình c: đường Phillips mở rộng
Khi chính phủ tăng MS liên tục để giữ cho AD không giảm và mức thất nghiệp
không tăng, nền kinh tế vẫn đạt sản lượng như cũ, nhưng giá cả đã tăng lên theo tỷ lệ tăng
tiền. Như vậy, sự điều tiết bằng chính sách tiền tệ và tài khoá giữ cho nền kinh tế ổn định
sản lượng, khi gặp cơn sốt cũng phải trả giá bằng lạm phát cao hơn.
0 = - (u-u*)
hay: u = u*
Như vậy, tỷ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (xét trong
dài hạn) cho dù tỷ lệ lạm phát thay đổi như thế nào. Vậy trong dài hạn lạm phát và thất
nghiệp không có mối quan hệ với nhau.
ASL ASS
P ASLR AS2
P
R AS1
R
P2 E AD2
E2
P2
2 E3 E1
AD2
AD
P 1 E1 1
P AD1
1
Y Y2 Y
1
Y2 Y1 Y
Trường hợp 2:
Nếu trước đó giá đang trong quá trình gia tăng để chuyển sang điểm cân bằng mới
thì sự dịch chuyển sang trái của đường AD sẽ làm giảm bớt áp lực lạm phát (hình dưới).
Trường hợp này thường xảy ra trong thực tế nhiều hơn. Lý do là khi LP đã xuất hiện thì
rất khó dừng lại. Ví dụ: Lạm phát do cầu chẳng hạn, đường AD dịch chuyển sang phải
không phải một lần mà nhiều lần. Lúc đó biện pháp giảm AD có tác dụng ngăn cản bớt
khuynh hướng gia tăng AD trên thị trường, tức có tác dụng kìm hãm bớt tỷ lệ lạm phát.
Như trên hình vẽ, giả sử lẽ ra theo thị trường thì giá tăng từ P 2P’. Nhưng nhờ chính
sách cắt giảm AD, đường tổng cầu chỉ dịch chuyển từ AD 2 sang AD3, giá cả chỉ tăng lên
đến P3. Giá cả tăng có nghĩa là vẫn còn lạm phát, nhưng tỷ lệ lạm phát thấp hơn so với từ
P1 lên P2.
AS2
P
AS1
AD1
P’
P3
P2 AD3
P 1 AD2
E1
Y1 Y
Kết qủa: Giá không tăng hoặc giảm, sản lượng có thể giảm, thất nghiệp có
thể tăng.
Tác động lên cung:
Có chính sách khuyến khích các doanh ngiệp giảm bớt chi phí, tăng hiệu quả sản
xuất. Do vậy, đường AS sẽ dịch chuyển xuống dưới hoặc sang phải.
Kết quả: Giá không tăng hoặc giảm, sản lượng có thể tăng, thất nghiệp có
thể giảm.
7.3.4.4. Một số giải pháp có tính chất tình thế
- Vay hàng khẩn cấp
- Thực hiện chính sách thu hẹp tiền tệ, bằng cách sử dụng thị trường mở.
- Khuyến khích đầu tư cùng với việc vay hàng tư liệu sản xuất.
- Cắt giảm mạnh chi tiêu ngân sách và kiểm soát có hiệu quả việc tăng lương
bằng tiền.
8.2.3. Thuyết lợi thế tương đối (Comparative Advantage) của David Ricardo
Một nước có lợi thế tương đối so với nước khác nếu sản xuất hàng hoá với giá rẻ
hơn khi so sánh qua loại hàng hoá khác.
(Hay: 1 đất nước có lợi thế so sánh trong việc sản xuất 1 mặt hàng nước đó có chi
phí sản xuấttương đối (hay chi phí cơ hội) về mặt hàng thấp hơn so với nước khác).
G/s:
a1: Là giá thành sản xuất mặt hàng X ở nước 1.
a1 a2
Nếu: b1 < b2
a1 b1
Hoặc: a2 b2
1 2
Px Px
P Py
Hoặc : y <
Thì nước 1 có lợi thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá X và nước 2 có lợi
thế tương đối trong việc sản xuất hàng hoá Y.
Khi có thương mại giữa hai nước thì giá tương đối của hàng hoá X tính theo hàng
hoá Y sẽ ở trong khoảng:
1 2
Px Px
Py Py
1
Px
P
Trong đó: y là giá tương đối của hàng hoá X của nước 1
2
Px
Py
là giá tương đối của hàng hoá Y của nước 2.
Khi so sánh chi phí tương đối – hay là chi phí cơ hội để sản xuất 2 mặt hàng
của
2 nước.
Hao phí LĐ
Sản phẩm
Nước A Nước B
X (Ti vi) 2 (quần áo) 3 (quần áo)
Y(Quần áo) ½ (ti vi) 1/3 (ti vi)
Nước A: Để sản xuất thêm 1 ti vi, phải hi sinh hai bộ quần áo. Ngược lại, để sản
xuất thêm 1 bộ quần áo phải hi sinh ½ ti vi.
Nước B: Để sản xuất thêm 1 ti vi, phải hi sinh 3 bộ quần áo. Ngược lại, để sản
xuất thêm 1 bộ quần áo, phải hi sinh 1/3 chiếc ti vi.
Như vậy, nước A có chi phí cơ hội để sản xuất ti vi thấp hơn nước B, còn nước B
có chi phí cơ hội SX quần áo thấp hơn nước A.
Nguyên tắc lợi thế so sánh chỉ ra rằng, nếu thương mại quốc tế được tiến hành 1
cách tự do thì nước A có thể chuyên môn hoá sản xuất ti vi để đổi lấy quần áo do nước B
sản xuất. Ngược lại, nước B có lợi thế chuyên môn hoá sản xuất quần áo và đổi lấy ti vi
của nước A. Sau khi có thương mại quốc tế , cả 2 nước cùng có lợi, thương mại sẽ làm
tăng khả năng tiêu dùng của mỗi nước và tăng khả năng sản xuấtcủa thế giới.
8.2.4. Giới hạn khả năng sản xuất và lợi ích của thương mại quốc tế
Hình dưới chỉ ra lợi ích của chuyên môn hoá và thương mại quốc tế làm tăng khả
năng tiêu dùng như thế nào thông qua đường PPF.
X X
6 Nước A 6
4 4 Nước B
2 2
0 4 8 12 14 16 Y 4 8 12 Y
Thương mại quốc tế làm tăng khả năng tiêu dùng của đất nước
- Đường bên ngoài thể hiện khả năng tiêu dùng của mỗi nước sau khi có thương
mại quốc tế, với giả định rằng cả 2 nước đều có cùng 1 khối lượng nguồn lực ( như số giờ
lao động) là như nhau và bằng 36 đơn vị.
- Phần gạch chéo cho thấy khả năng sản xuất hoặc tiêu dùng của mỗi nước sẽ tăng
lên như thế nào khi có chuyên môn hoá và thương mại quốc tế .
Như vậy, thương mại quốc tế thúc đẩy phân công lao động và hợp tác 2 bên cùng
có lợi. Thương mại tự do mở cửa tạo điều kiện cho mỗi nước mở rộng khả năng sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, nâng cao sản lượng và mức sống toàn thế giới.
Song trong thực tế, để bảo vệ nền sản xuất nội địa của mỗi nước, chống lại hàng
nhập, tạo thêm việc làm cho dân cư, Chính phủ có thể thực hiện chính sách bảo hộ từ 2
phía: Ngăn chặn nhập khẩu hoặc thúc đẩy xuất khẩu. Công cụ để thực hiện là:
- Thuế quan: Đánh thuế nặng vào hàng nhập khẩu.
- Quota: Kiểm soát lượng hàng hoá được phép nhập khẩu.
- Trợ giá xuất khẩu: Bù lỗ cho công ty xuất khẩu hoặc người sản xuất hàng xuất khẩu.
- Các loại rào cản khác: Dùng biện pháp hành chính để cấm nhập khẩu 1 loại hàng
hoá, đưa ra các tiêu chuẩn kỹ thuật hay tiêu chuẩn vệ sinh hết sức khắt khe đối với hàng
nhập khẩu, đặt ra những thủ tục hải quan gây khó khăn cho nhập khẩu.
8.3. Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế là 1 bản kết toán tổng hợp toàn bộ các luồng buôn bán
hàng hoá và dịch vụ, các luồng chu chuyển vốn và tài sản giữa các công dân và Chính
phủ 1 nước với các nước còn lại trên thế giới.
Hay: Cán cân thanh toán (Balance of Payments) phản ánh toàn bộ lượng tiền giao
dịch giữa 1 nước với phần còn lại của thế giới.
Phương pháp hạch toán trên cán cân thanh toán là: Nếu luồng tiền từ nước ngoài
đi vào trong nước thì ghi bên “có” và ghi dấu “+”; nếu luồng tiền từ trong nước đi ra
nước ngoài thì ghi bên “nợ” và ghi dấu “- ". Chênh lệch giữa luồng tiền đi vào và đi ra
thường được gọi là tài khoản “ròng”.
Cán cân thanh toán có 2 tài khoản chủ yếu: Tài khoản thanh toán vãng lai và tài
khoản tư bản (vốn).
- Tài khoản vãng lai (Current Acount) nhằm ghi lại các luồng thu nhập đi vào và
đi ra khỏi quốc gia. Thu nhập đi vào và đi ra có thể do:
+ XNK hàng hoá ( hữu hình) và dịch vụ (còn gọi là thương mại vô hình – bao gồm
các hoạt động xuất và nhập khẩu dịch vụ vận tải, du lịch, ngân hàng,…): Chênh lệch giữa
xuất khẩu và nhập khẩu được xếp vào mục xuất khẩu ròng (NX).
+ XNK các yếu tố sản xuất (vốn, lao động, bằng phát minh)
Chênh lệch giữa thu nhập từ các yếu tố xuất khẩu và thu nhập từ các yếu tố
nhập khẩu được xếp vào mục thu nhập ròng từ nước ngoài.
+ Chuyển nhượng thu nhập giữa các nước với nhau, bao gồm các khoản như viện
trợ, bồi thường chiến tranh, quà biếu,… chênh lệch giữa thu nhập do nhận chuyển nhượng
và thu nhập chuyển nhượng ra nước ngoài được xếp vào mục chuyển nhượng ròng.
- Tài khoản vốn (Capital Acount) nhằm ghi lại các luồng vốn đi vào và đi ra khỏi
quốc gia.
+ Vốn dùng để mua nhà máy, mua c/phiếu của các công ty được gọi là đầu tư.
Chênh lệch giữa luồng đi vào và đi ra được xếp vào mục đầu tư ròng.
+ Vốn dùng để gửi Ngân hàng và mua công trái của Chính phủ nước ngoài, hay
trực tiếp vay mượn từ bên ngoài được gọi là giao dịch tài chính. Chênh lệch giữa luồng đi
vào và đi luồng đi ra được xếp vào mục giao dịch tài chính ròng.
- Cán cân thanh toán hay kết toán chính thức nhằm tổng kết toàn bộ lượng
ngoại tệ đi vào và đi ra dưới tất cả các hình thức:
Có (+ ) Nợ (-)
1. Tài khoản vãng lai
- Giá trị hàng hoá và dịch vụ xuất - Giá trị hàng hoá và dich vụ nhập
khẩu (X). khẩu (IM)
- Nhận viện trợ của nước ngoài. - Viện trợ ra nước ngoài và đóng góp
- Thu nhập từ nước ngoài. cho ngân sách cho tổ chức quốc tế.
- Chi trả thu nhập cho nước ngoài.
2. Tài khoản vốn (tài khoản tư bản)
- Đầu tư nước ngoài vào trong nước. - Đầu tư ra nước ngoài.
- Vay của chính phủ và tư nhân - Cho chính phủ và tư nhân nước
ngoài vay.
VN vì chi tiêu hàng ngày của họ cũng được thanh toán bằng VNĐ. Tuy nhiên, nếu muốn
mua một máy Photo của Mỹ thì bằng cách nào đó, cuối cùng cũng phải trả bằng USD cho
người Mỹ. Ngược lại, người Mỹ muốn mua Cà phê của Việt Nam thì cuối cùng, bằng cách
nào đó cũng phải trả bằng VNĐ Việc mua bán giữa 2 nước sử dụng 2 loại tiền khác
nhau đòi hỏi phải có sự chuyển đổi loại tiền này sang loại tiền khác. Từ đó hình thành
nên tỷ giá hối đoái.
Khái niệm
Tỷ giá hối đoái (Foreign Exchange Rate) là giá cả của 1 đơn vị tiền tệ của 1 nước
tính bằng tiền tệ của nước khác.
Hoặc Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền trong nước với đồng tiền
nước ngoài.
Thông thường, thuật ngữ “tỷ giá hối đoái” được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền
nội tệ cần thiết để mua 1 đơn vị ngoại tệ.
Giả định xét thị trường trao đổi giữa VND và USD và xác định tỉ giá giữa hai
đồng tiền này. Nguyên lý chung được áp dụng cho các giao dịch khác với nước ngoài,
như vậy USD được coi là ngoại tệ nói chung, và giá trị của USD được tính theo VND
được coi là Tỷ giá hối đoái nói chung.
Vì tiền của một nước được trao đổi với tiền của nước khác trên thị trường ngoại
hối, do đó cầu về ngoại tệ chính là cung về VNĐ, trong khi cung về ngoại tệ chính là cầu
về VNĐ.
Vì lí do này mà một lý thuyết về Tỷ giá hối đoái giữa D USD và SUSD hoặc DVND hoặc
SVND. Tuy nhiên, để tiện cho việc phân tích sẽ xem xét cầu và cung về USD và tỷ giá của
USD tính theo VND.
Ký hiệu:
e - Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo ngoại tệ.
E - Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ.
Ví dụ: Tỷ giá hối đoái của VN tính theo USD là e = 1USD/15.322 VNĐ hay E =
15.322 VNĐ/ USD.
Chẳng hạn từ 15.322 VNĐ/USD lên 16.322 VNĐ/USD, có nghĩa là giá của đồng
USD tăng và giá của đồng VN giảm. Thật vậy, nếu trước đây chỉ cần 15.322 đồng là mua
được 1 USD, thì bây giờ phải cần đến 16.322 VNĐ mới mua được 1 USD, tức đồng USD
tăng giá. Nói ngược lại, trước đây 1 USD chỉ mua được 15.322 VNĐ, thì nay 1 USD có
thể mua được 16.322 VNĐ, tức VNĐ bị giảm giá.
Như vậy, nếu e tăng thì ta nói đồng nội tệ tăng giá hơn trước (appreciation), tức đồng
ngoại tệ giảm giá hơn trước (E giảm). Ngược lại, nếu e giảm thì ta nói đồng nội tệ giảm giá
hơn trước hay mất giá (depreciation), tức đồng ngoại tệ tăng giá hơn trước (E tăng).
* Cách xác định tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối:
@ Cung và cầu về tiền trong các thị trường ngoại hối
Cung về USD (SUSD)
Được sinh ra từ 2 nguồn:
- Lượng hàng hóa, dịch vụ và tài sản trong nước mà người nước ngoài muốn mua.
- Lượng vốn, lượng thu nhập và các khoản chuyển nhượng từ nước ngoài vào
trong nước.
Đường SUSD là đường dốc lên (đồ thị dưới). Điều này biểu thị khi giá USD tăng
(E), Phàng và tài sản của Việt Nam tính bằng USD giảm Người nước ngoài mua nhiều hơn
(X)SUSD tăng.
Khi có sự di chuyển trên đường S USD, nếu xuống phía dưới, thì giá trị của USD
giảm, giá trị của VND tăng. Trong trường hợp ngược lại, VND giảm giá, USD tăng giá.
Cầu về USD (DUSD)
Được sinh ra từ 2 nguồn:
- Lượng hàng hóa, dịch vụ và tài sản của người nước ngoài mà người trong nước
muốn mua.
- Lượng vốn, thu nhập và các khoản chuyển nhượng ra nước ngoài.
Đường DUSD là đường dốc xuống (đồ thị dưới). Điều này biểu thị khi giá USD
giảm (E), Phàng và tài sản của Việt Nam tính bằng USD tăng Người Việt Nam mua nhiều
hàng hóa hơn từ Mỹ (IM)DUSD tăng.
Khi có sự di chuyển trên đường DUSD, nếu xuống phía dưới, thì giá trị của USD
giảm, giá trị của VND tăng. Trong trường hợp ngược lại, VND giảm giá, USD tăng giá.
@ Xác định tỉ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái cân bằng được xác định tại giao điểm của cung và cầu về ngoại tệ,
tại đây cung = cầu ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái trong thực tế khác với tỷ giá hối đoái cân
bằng thì thị trường sẽ được điều chỉnh (tùy theo cách thức can thiệp) để đưa về tỷ giá hối
đoái cân bằng.
8.4.1.2. Các nguyên nhân của sự dịch chuyển của các đường cung và cầu về tiền trên thị
trường ngoại hối
- Cán cân thương mại: Trong các điều kiện khác không đổi, nếu IM của 1 nước
tăng thì đường cầu ngoại tệ sẽ dịch chuyển sang bên phải.
- Tỷ lệ lạm phát tương đối: Nếu tỷ lệ lạm phát của nước A cao hơn tỷ lệ lạm phát
của nước B thì nước A sẽ phải cần nhiều tiền hơn để mua 1 lượng tiền nhất định của nước
B Làm cho đường cầu ngoại tệ dịch sang trái và tỷ giá hối đoái giảm xuống.
- Sự vận động của vốn: Khi lãi suất của 1 nước tăng lên một cách tương đối so với
nước khác, thì các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao hơn và có nhiều người dân nước
ngoài muốn mua các tài sản ấy. Làm cho đường cung ngoại tệ dịch sang phải và làm tăng
tỷ giá hối đoái của nó.
- Dự trữ và đầu cơ ngoại tệ: Tất cả đều có thể gây ra những thay đổi lớn về tiền, đặc
biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại có thể trao đổi hàng tỉ USD giá trị tiền tệ
mỗi ngày.
Ví dụ: Trong điều kiện mọi yếu tố khác không đổi, khi các nhà đầu tư dự báo rằng
trong tương lai tỷ giá hối đoái (e) giảm xuống hay E tăng lên thì hiện tại vốn có khuynh
hướng chạy ra nước ngoài S dịch chuyển về phía phải cầu đối với đồng ngoại tệ đó có
xu hướng tăng lên, và ngược lại.
8.4.2. Vai trò của tỷ giá hối đoái và mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân
thanh toán
Để làm rõ vai trò của tỷ giá hối đoái, ta xét mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán
cân thương mại nói riêng, cán cân thanh toán nói chung.
Có:
NX = X - IM
NX > 0 Cán cân TM thặng dư
NX < 0 Cán cân TM thâm hụt
NX = 0 cân bằng
Tỷ giá hối đoái là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến xuất khẩu ròng (NX). Vì:
- Tỷ giá hối đoái tác động đến khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị
trường quốc tế. Một khi giá cả sản phẩm nội địa rẻ tương đối so với sản phẩm cùng loại
trên thị trường quốc tế, thì khả năng cạnh tranh tăng lên X có xu hướng tăng lên.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế (Real foreign Exchange rate)
là tỷ giá có phản ánh tương quan giá cả hàng hoá giữa hai nước, được tính theo loại tiền
của 1 trong hai nước đó.
Nếu chọn đồng nội tệ để tính thì:
Er = Pnước ngoài tính bằng nội tệ/ Ptrong nước tính bằng nội tệ
= (Pnước ngoài tính bằng ngoại tệ.E)/ Ptrong nước tính bằng nội tệ
Do giá hàng nước ngoài tính bằng nội tệ thì bằng giá hàng nước ngoài tính bằng
ngoại tệ nhân với tỷ giá hối đoái danh nghĩa E.
Hay, khả năng cạnh tranh (về giá cả) của 1 loại sản phẩm của 1 nước so với sản
phẩm cùng loại sản xuất tại nước ngoài được xác định theo công thức:
Khả năng cạnh tranh = Er= E.Po/P
Từ phương trình, ta thấy Er phụ thuộc vào tỷ giá danh nghĩa E và mối quan hệ giữa
giá cả tương đối giữa 2 nước.
Trong đó:
Po - giá sản phẩm nước ngoài tính theo giá nước ngoài (ví dụ: USD)
P - giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội địa (ví dụ: VNĐ)
E - Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được tính bằng số đơn vị nội tệ/1 đơn vị ngoại tệ.
Ví dụ: giá Máy tính của Mỹ tính theo tiền của Mỹ là P o =1000 USD, nếu tỷ giá
danh nghĩa E = 14.000 VNĐ/USD thì giá máy tính của Mỹ theo tiền
VN là:
1.000 USD . 14.000 VNĐ/USD = 14.000.000 VNĐ
Với P và Po không đổi, khi E E.Po. P của sản phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so
với giá sản phẩm trong nước. P của sản phẩm trong nước trở nên rẻ tương đối so với sản phẩm
nước ngoài. Sản phẩm trong nước, do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn Trong ngắn
hạn X, IM.
Mặt khác, ở chương 4, ta có:
AD = C + I + G + NX
NX AD, Ycb và ngược lại.
Vậy, Tỷ giá hối đoái danh nghĩa E thay đổi làm thay đổi cán cân thương mại
(XK ròng) tác động đến sản lượng, việc làm và giá cả.
Mở rộng tác động của tỷ giá hối đoái với cán cân thanh toán (xem xét mối quan hệ
giữa lãi suất i và tỷ giá hối đoái)
Khi i đồng tiền nội địa trở nên có giá hơn E nếu điều kiện tư bản vận
động tự do vốn nước ngoài sẽ tràn vào thị trường trong nước, giả định cán cân TM cân
bằng (NX = 0) cán cân thanh toán sẽ thặng dư. Ngược lại, nếu E cán cân thanh
toán sẽ thâm hụt.
8.4.3. Các hệ thống tiền tệ quốc tế (các loại cơ chế tỷ giá HĐ)
8.4.3.1. Cơ chế tỷ giá cố định ( Fixed Exchange Rate)
Là loại tỷ giá được quy định bởi Chính phủ. Theo cơ chế này, Chính phủ đồng ý
duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước với đồng tiền nước ngoài theo 1 mức tỷ
giá định trước. Và cho dù cung và cầu ngoại tệ thay đổi, vẫn phải đảm bảo tỷ giá không
thay đổi. Như vậy, có thể tỷ giá cố định không phải là mức tỷ giá cân bằng trên thị
trường. Lúc đó, muốn duy trì tỷ giá đã được ấn định thì NHTW phải điều hoà lượng
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Có 2 trường hợp phải can thiệp:
Trường hợp 1: Tỷ giá cố định cao hơn tỷ giá cân bằng
Trong trường hợp này, đồng nội tệ bị đánh giá thấp (e). Hình dưới, với mức tỷ
giá cố định là Ef ta có cầu nhỏ hơn cung gây nên tình trạng thừa ngoại tệ. Lượng ngoại tệ
thừa là đoạn AB.
Sở dĩ thừa ngoại tệ vì: Nếu theo thị trường thì tỷ giá Eo ở mức thấp, nhưng Chính
phủ duy trì mức Ef cao hơn, gây nên tác động giống như sự gia tăng tỷ giá hối đoái, tức
làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước. Một mặt, nước ngoài mua nhiều hàng
hoá trong nước làm cho cung ngoại tệ tăng. Mặt khác, người trong nước lại ít muốn mua
hàng của nước ngoài, làm cho cầu ngoại tệ giảm.
Cung ngoại tệ tăng được thể hiện bằng sự di chuyển dọc theo đường cung từ Ho
đến B; cầu ngoại tệ giảm được thể hiện bằng sự di chuyển dọc theo đường cầu từ H o đến
A. Từ đó cung lớn hơn cầu 1 lượng = AB.
E
A Thừa B Cung ngoại tệ
Ef
E0 Ho
Cầu ngoại tệ
Lượng ngoại tệ
Vì có hiện tượng thừa ngoại tệ nên giá ngoại tệ (tức tỷ giá hối đoái) E có xu hướng
sụt giảm. Muốn duy trì mức tỷ giá cố định, NHTW phải bo nội tệ ra mua ngoại tệ vào.
Điều này một mặt làm tăng dự trữ ngoại tệ, mặt khác làm tăng thêm lượng tiền (nội tệ)
phát hành vào nền kinh tế.
Việc mua ngoại tệ của NHTW làm cho cầu ngoại tệ tăng, đường cầu dịch sang
phải. Nếu lượng ngoại tệ mua vào bằng đoạn AB thì đường cầu dịch sang phải đến điểm
B, mức tỷ giá Ef tiếp tục được duy trì.
E Cầu ngoại tệ
Cung ngoại tệ
E0 Ho
Ef C
Thiếu D
Lượng ngoại tệ
Vì thiếu ngoại tệ nên giá ngoại tệ có xu hướng tăng (E). Muốn ổn định tỷ giá tại
Ef, NHTW phải bán ngoại tệ ra thu nội tệ vào. Hành vi này một mặt làm giảm dự trữ
lượng ngoại tệ, mặt khác làm giảm bớt lượng tiền (nội tệ) phát hành.
Việc bán ngoại tệ của NHTW làm cho cung ngoại tệ tăng, đường cung dịch chuyển
sang phải. Nếu lượng ngoại tệ bán ra bằng đoạn CD thì đường cung dịch chuyển sang
phải đến điểm D, mức tỷ giá Ef tiếp tục được duy trì.
* Tuy nhiên, cơ chế này vấp phải một số khó khăn:
- Dự trữ không tương xứng
- Các cuộc khủng hoảng mang tính đầu cơ: Khi đã rõ ràng rằng 1 đồng tiền được
đánh giá quá cao hoặc quá thấp so với tỷ giá hiện tại của nó, thì các nhà đầu cơ sẽ mua
hoặc bán những lượng tiền lớn theo dự đoán của họ về sự thay đổi tỷ giá hối đoái.
NHTW sẽ phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn nhằm cố gắng duy trì tỷ giá cố định cho
tới khi nó được thay đổi.
8.43.2. Cơ chế tỷ giá thả nổi (Floating Exchange Rate) hay tỷ giá linh hoạt (Flexible
Exchange Rate)
Là loại tỷ giá được quy định bởi cung và cầu trên thị trường. Theo cơ chế này,
Chính phủ không cần phải quan tâm đến việc điều hoà lượng cung và cầu ngoại tệ trên thị
trường, khi cung và cầu về ngoại tệ thay đổi đến đâu, tỷ giá sẽ thay đổi tương ứng đến đó,
theo mức cân bằng trên thị trường.
Ví du: Giả sử do thu nhập tăng, người Việt Nam mua hàng hoá của Mỹ nhiều hơn
hoặc chuyển tiền ra nước ngoài nhiều hơn, làm cho cầu ngoại tệ tăng. Lúc đó đường cầu dịch
chuyển sang phải, tỷ giá tăng từ E1 đến E2 như hình dưới, đồng Việt Nam bị giảm giá.
E D2
S1
D1
E2 B
E1 A
Lượng ngoại tệ
Giả sử nhờ chính sách khuyến khích đầu tư mà các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào
Việt Nam nhiều hơn, hoặc do hàng Việt Nam tốt hơn làm cho người Mỹ mua hàng Việt
Nam nhiều hơn, làm cho cung ngoại tệ tăng. Lúc đó đường cung ngoại tệ dịch chuyển
sang phải, tỷ giá giảm từ E1 E2 như trong hình dưới.
E D1
S1
S2
A
E1
E2 B
Lượng ngoại tệ
Tương tự, khi đường cầu dịch sang trái thì tỷ giá thì tỷ giá giảm, đường cung dịch
chuyển sang trái thì tỷ giá tăng. Còn nếu cả hai đường cùng dịch chuyển thì tỷ giá có thể
tăng, giảm hoặc không đổi tuỳ từng trường hợp.
8.4.3.3. Cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý (không hoàn toàn) - (Flexibility Limited
Exchange Rate)
Là sự kết hợp giữa tỷ giá thả nổi và tỷ giá cố định. Nói cách khác, mức tỷ giá
trong thực tế có thể được quyết định bởi thị trường, cũng có thể do Chính phủ ấn định.
Nói chung, nếu thị trường ít biến động thì tỷ giá được thả nổi theo cung và cầu trên thị
trường ngoại hối. Nhưng khi có sự dao động mạnh và nhanh của tỷ giá thị trường thì
Chính phủ sẽ can thiệp vào bằng cách ấn định tỷ giá cố định.
8.5. Tác động của các chính sách vĩ mô chủ yếu trong điều kiện nền kinh
tế mở
Để cung cấp một khuôn khổ phân tích có khả năng vận dụng cho nhiều tình huống
khác nhau, chúng ta hãy nghiên cứu 2 trường hợp sau:
- Trường hợp hệ thống Tỷ giá hối đoái cố định, với sự vận động hoàn toàn tự do của
vốn (TB).
- Trường hợp hệ thống Tỷ giá hối đoái linh hoạt, với sự vận động hoàn toàn tự do
của vốn (TB).
Do nước ta là nước nhỏ, vì vậy chính sách lãi suất của nước ta không ảnh hưởng
được đến lãi suất chung của thế giới.
Giả định mức lãi suất của thế giới là cho trước (i*)
+ Nếu lãi suất trong nước (i) > (i*) sẽ có nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu
tư vào nước ta để thu được khoản tiền lãi cao hơn sẽ có 1 luồng vốn “chảy” vào nước
ta cho đến khi i =i*.
+ Ngược lại, khi i < i* 1 số vốn trong nước sẽ chảy ra nước ngoài cho đến khi i =i*.
Sử dụng đường CM// trục hoành ở mức lãi suất i =i*, bổ sung vào mô hình IS -
LM .
i
LM
i =i* CM
IS
- IS biểu thị cân bằng của thị trường hàng hoá tương ứng với tổ hợp (i,Y) khác
nhau. Trong nền kinh tế đóng, IS được vẽ cho 1 mức giá nhất định với G và T đã cho
IS dịch chuyển khi G và T thay đổi. Trong nền kinh tế mở, sự dịch chuyển đường IS còn
phụ thuộc vào cán cân thương mại hay sự thả nổi của tỷ giá hối đoái .
- LM biểu thị sự cân bằng của thị trường tiền tệ, tương ứng với mức cung tiền thực
đã cho (MS/P). Khi (MS/P) thay đổi, LM sẽ dịch chuyển. Điều đó xảy ra trong điều kiện
nền kinh tế mở, tư bản chuyển động hoàn toàn tự do.
8.5.1. Tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ trong 1 nền kinh tế mở với hệ thống
TG cố định, tư bản vận động hoàn toàn tự do
Tỷ giá hối đoái được NHTW quy định và giữ ở 1 mức cố định đã công bố. Khi có
sức ép nâng hoặc giảm tỷ giá hối đoái, NHTW sẽ dùng dự trữ ngoại tệ can thiệp, để giữ
cho tỷ giá giữ nguyên mức tỷ giá chính thức.
Tuy nhiên, vì vốn chuyển động hoàn toàn tự do, NHTW sẽ không thể cùng 1 lúc
theo đuổi cả 2 mục tiêu ổn định tỷ giá hối đoái và ổn định mức cung tiền.
Thật vậy, giả sử lãi suất trong nước tăng lên, TB nước ngoài đổ dồn vào trong
nước gây sức ép nâng giá đồng nội tệ (e) NHTW phải đứng ra mua ngoại tệ, tăng dự
trữ vào để tăng cung nội tệ trên thị trường ngoại hối, nhằm giữ cho tỷ giá là không đổi.
Mặt khác, dân chúng trong nước sẽ bán ngoại tệ đổi lấy nội tệ mua tài sản trong nước.
Cả 2 tác động làm cung tiền nội tệ cung tiền tuột khỏi sự kiểm soát của NHTW,
trở thành 1 biến nội sinh.
8.5.1.1. Tác động của chính sách tài khoá
Giả sử nền kinh tế cân bằng ngắn hạn tại A, Chính phủ quyết định tăng G.
- Trong ngắn hạn: P chưa kịp thay đổi AD IS dịch chuyển sang phải đến IS’
nếu nền kinh tế đóng, cân bằng mới thiết lập tại A’.
Trong nền kinh tế mở, tại A’ thì i > i* TB đổ vào trong nước. Khi đó NHTW
can thiệp bằng cách mua dự trữ ngoại hối, đẩy nội tệ vào lưu thông. Dân chúng chuyển từ
tài sản nước ngoài sang tài sản trong nước LM dịch chuyển đến LM’ (do cung tiền
thực tế tăng).
Cân bằng mới được thiết lập tại A” với Y, lãi suất cân bằng trên đường CM
Chính sách tài khoá trong trường hợp này có thể hạn chế thoái lui đầu tư (đáng lẽ phải
xảy ra trong nền kinh tế đóng), khuyến khích tăng Y.
Trong ngắn hạn, tác động của chính sách tài khoá mở rộng trong nền kinh tế
mở mạnh hơn tác động của nó trong nền kinh tế đóng.
- Trong dài hạn: AD P giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong
nước NX Y. Quá trình đó sẽ tiếp tục cho đến khi trạng thái cân bằng cũ (A)
được thiết lập lại. Khi đó, cán cân thương mại thâm hụt.
Tóm lại, trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định, với mức lãi suất của thế giới đã
cho, chính sách tài khóa không thể đạt cùng lúc 2 mục tiêu: cân bằng trong nước và cân
bằng ngoài nước.
A A’’
i =i* CM
IS’
IS
Y
LM
i
LM’
A A’’
i =i* CM
A’
IS
Y
8.5.1.3. Tác động của chính sách phá giá đồng tiền
Trong điều kiện áp dụng Tỷ giá hối đoái cố định, thì tỷ giá hối đoái là 1 biến chính
sách. Tỷ giá chính thức có thể thay đổi tuỳ thuộc quan điểm của Chính phủ thông qua
NHTW.
Phá giá đồng tiền (Devaluation) là chủ động giảm giá đồng nội tệ so với đồng
ngoại tệ (nghĩa làm tăng E, giảm e).
Mục đích: Kích thích XK, hạn chế NK Y, thất nghiệp và cải thiện cán cân
thương mại (chính sách mở rộng)
Biện pháp: NHTW bỏ nội tệ ra mua ngoại tệ vào. Ví dụ, ở hình dưới, giả sử
NHTW mua vào 1 lượng ngoại tệ bằng với đoạn A 1F, làm tăng cầu ngoại tệ, đường cầu
dịch chuyển sang phải đến điểm F, tỷ giá hối đoái tăng từ Eo đến Ef.
E
S
A’’
Ef F
Eo A’
Lượng ngoại tệ
Tác động của chính sách phá giá diễn ra theo hai hướng: Làm thay đổi kim ngạch
XNK và thay đổi lượng cung tiền. Cụ thể:
- Khi phá giá, hàng XK trở nên rẻ 1 cách tương đối trong thị trường nước chủ
nhàX, IM Hàng hoá của nước thực hiện chính sách phá giá trở nên có khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế NX IS dịch sang phải i TB chảy vào
trong nước NHTW phải can thiệp, công chúng muốn giữ nhiều hơn nội tệ so với ngoại
tệ (MS/P) LM dịch chuyển sang phải. Điểm cân bằng mới thiết lập tại A” (hình
trên) như trong trường hợp chính sách tài khoá mở rộng. Nhưng điểm khác là IS ở đây
dịch chuyển do tác động của NX chứ không phải của G.
* Tuy nhiên, về dài hạn, có 1 số nhược điểm sau:
- NXADP xảy ra lạm phát.
- Có thể bị trả đũa bởi các nước lân cận.
8.5.2. Tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ trong nền kinh tế mở, với hệ thống
tỷ giá linh hoạt và TB vận động hoàn toàn tự do
Trong trường hợp này tỷ giá hối đoái không còn là 1 biến số chính sách. Tỷ giá
linh hoạt được xác định trên thị trường ngoại hối và thay đổi theo cung cầu trên thị
trường này. Hơn thế nữa, ở các nước có thị trường phát triển cao phần lớn những thay đổi
của Tỷ giá hối đoái là do tác động của sự vận động TB giữa các nước, chứ không phải chỉ
do sự thay đổi trong cán cân thương mại.
Khi 1 luồng vốn nước ngoài đổ vào trong nước, cầu về đồng nội tệ tăng lên
e bị đẩy lên cao. Sự tăng giá của đồng nội tệ làm ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương
mại. Hàng xuất khẩu trở nên đắt tương đối so với hàng nhập khẩu X, IM Cán cân
thương mại bị thâm hụt Y.
Nếu chính sách tài khoá hoặc tiền tệ dẫn đến việc tăng lãi suất (dẫn đến tháo lui
đầu tư trong 1 nền kinh tế đóng), thì trong nền kinh tế mở, tác động đó làm NX Y.
Nhưng lúc này, Tỷ giá hối đoái sẽ là cơ chế chuyển giao tác động chứ không phải là đầu
tư hoặc tiêu dùng.
8.5.2.1. Tác động của chính sách tài khoá
Giả sử nền kinh tế đang cân bằng tại A. Chính phủ thực hiện chính sách tài khoá
mở rộng AD i và e, EX. Như vậy có sự tháo lui hoàn toàn, không chỉ do
đầu tư trong nước giảm mà còn do lãi suất giảm (hình dưới).
LM
i
A’
A
i =i* CM
IS’
IS
Y
Ảnh hưởng của chính sách tài khoá trong nền kinh tế mở tỷ giá hối đoái linh hoạt
Chính sách tài khoá mở rộng làm dịch chuyển IS đến IS’. Tại điểm cân bằng mới
E’ thì i>i* Tư bản tràn vào trong nước cán cân thanh toán thặng dư e hay đồng
nội tệ lên giá X IS dịch chuyển về vị trí ban đầu A, Y và cán cân thương mại
xấu đi.
8.5.2.2. Chính sách tiền tệ
Hình dưới mô tả tác động của việc tăng cung về tiền của NHTW. (MS/P) LM
dịch chuyển đến LM’. Lãi suất giảm làm e, E. Ngược lại, với tác động của Chính sách
tài khoá, đồng nội tệ giảm giá làm tăng khả năng cạnh tranhNX đường IS dịch
chuyển sang bên phải đến IS’. Lãi suất trở về mức i = i* cân bằng mới được thiết lập
tại A’’ chính sách tiền tệ làm Y.
LM
i
LM’
A A’’
i =i* CM
IS’
A’
IS
Y
Tác động ngắn hạn và dài hạn của việc mở rộng tiền tệ trong nền kinh tế mở
Tuy nhiên, xét trong dài hạn, YP và w cân bằng tiền tệ thực tế giảm
LM’ dịch chuyển dần dần về LM, lãi suất khi đó tăng dần đồng nội tệ lại tăng giá
IS’ dần dịch chuyển lại IS cân bằng được thiết lập ở vị trí cũ.
Tóm lại, chính sách tiền tệ có tác động lớn hơn trong nền kinh tế mở, tỷ giá linh
hoạt, TB chuyển động tự do hoàn toàn. Nhưng tác động đó bị hạn chế trong thời kỳ dài
hạn, lúc mà P tăng, Y trở lại mức bình thường, song w và e đã tăng cùng tốc độ tăng của P.
1.3.1. Các yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất và chi phí cơ hội..............5
1.3.2. Quy luật thu nhập giảm dần và quy luật chi phí tương đối ngày càng tăng. 7
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ.......................................10
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô........................10
2.4.1. Tổng sản phẩm quốc dân và sự tăng trưởng kinh tế...................................16
2.4.2. Chu kỳ kinh doanh và sự thiếu hụt sản lượng.............................................17
2.4.3. Tăng trưởng và thất nghiệp.........................................................................17
2.4.4. Tăng trưởng và lạm phát.............................................................................17
2.4.5. Lạm phát và thất nghiệp..............................................................................18
CHƯƠNG 3. TỔNG SẢN PHẨM VÀ THU NHẬP QUỐC DÂN........................19
3.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)......................................................................19
3.3.1.Từ tổng sản phẩm quốc dân đến sản phẩm quốc dân ròng (NNP)..............24
3.3.2. Thu nhập quốc dân (Y)................................................................................24
3.3.3. Thu nhập khả dụng (YD).............................................................................25
3.3.4. Tốc độ tăng trưởng cao và ổn định.............................................................25
3.4. Các đồng nhất thức kinh tế vĩ mô cơ bản.........................................................25
4.3.1. Chính sách xây dựng và sử dụng ngân sách nhà nước...............................38
4.3.2. Chính sách thuế...........................................................................................43
CHƯƠNG 5: TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ...........................................44
5.1. Tiền tệ...............................................................................................................44
5.2.1. Mối quan hệ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ......................53
5.2.2. Tác động của chính sách tài khoa tới trạng thái cân bằng ngắn hạn của
nền kinh tế...............................................................................................................58
5.2.3. Chính sách tiền tệ........................................................................................59
5.2.4. Phối hợp chính sách tài khoá và tiền tệ......................................................60
5.2.5. Về cơ chế tháo lui đầu tư và cách khắc phục..............................................62
CHƯƠNG 6. TỔNG CUNG VÀ CÁC CHU KÌ KINH DOANH..........................63
6.1. Cung và tổng cung............................................................................................63
8.2.3. Thuyết lợi thế tương đối (Comparative Advantage) của David Ricardo....99
8.2.4. Giới hạn khả năng sản xuất và lợi ích của thương mại quốc tế................101
8.3. Cán cân thanh toán quốc tế.............................................................................102
8.5.1. Tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ trong 1 nền kinh tế mở với hệ
thống TG cố định, tư bản vận động hoàn toàn tự do............................................112
8.5.2. Tác động của chính sách tài khoá và tiền tệ trong nền kinh tế mở, với hệ
thống tỷ giá linh hoạt và TB vận động hoàn toàn tự do........................................114