Professional Documents
Culture Documents
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trên thế
giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử
trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái
nôi của văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, văn
minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng
đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế giới.
Trong số các học thuyết triết học lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo.
Nho gia, Nho giáo là những thuật ngữ bắt nguồn từ chữ “nhân” (người), đứng cạnh
chữ “nhu” (cần, chờ, đợi). Nho gia còn được gọi là nhà nho, người đã đọc thấu sách
thánh hiền được thiên hạ trọng dụng dạy bảo cho mọi người sống hợp với luân
thường đạo lý. Nho giáo xuất hiện rất sớm, lúc đầu nó chỉ là những tư tưởng hoặc trí
thức chuyên học văn chương và lục nghệ góp phần trị nước. Đến thời Khổng tử đã hệ
thống hoá những tư tưởng và tri thức trước đây thành học thuyết, gọi là nho học hay
“Khổng học” - gắn với tên người sáng lập ra nó.
Ngày nay, chúng ta thường nghe nói “nước có quốc pháp, nhà có gia phong” là những
câu nói răn dạy để giáo dục con người Việt Nam sống có phép tắc, khuôn mẫu đạo
đức nhất định theo tinh thần “Nho giáo”, đồng thời còn là biểu tưởng tự hào về
truyền thống văn hoá dân tộc, là nguyên khí tinh thần độc lập, từ cường của một dân
tộc, là bản sắc riêng về truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu về Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa Việt Nam
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập quốc tế.
B. NỘI DUNG
1.1 Đặc điểm chính trị, xã hội Trung Hoa cổ - trung đại :
a- Địa lý : Nước Trung Hoa chiếm một diện tích rất rộng lớn. Phía Đông giáp bờ Thái
Bình Dương, phía Tây giáp các vùng cao nguyên, núi non hiểm trở như Himalaya, Tây
Tạng, phía Bắc tiếp giáp vùng Xiberia quanh năm lạnh giá, phía Nam giáp các quốc
gia Nam Châu Á. Tổng diện tích nước Trung Hoa chiếm gần 1/3 Châu Á. Thiên nhiên
và điều kiện tự nhiên của nước Trung Hoa thay đổi rất lớn ở những vùng khác nhau.
Phía Bắc là những cao nguyên, bình nguyên rộng lớn, khí hậu khắc nghiệt, phía Nam
có núi sông bao bọc hiểm trở, ở giữa là các đồng bằng rộng lớn của các con sông như
Hoàng Hà, Dương Tử… Chính nhờ sự phong phú của điều kiện thiên nhiên, khí hậu
mà có nhiều chủng tộc sinh sống trên đất nước Trung Hoa dẫn đến nhiều nền văn
minh, tư tưởng khác nhau.
b- Nhân chủng học : Dân cư của Trung Hoa cổ đại phân bố trên các khu vực chính
như sau :
- Phía Bắc : Các chủng tộc Hoa Bắc có cuộc sống chủ yếu là du mục, săn bắn. Do đời
sống du mục họ luôn cố gắng xâm chiếm, thôn tính các dân tộc kém phát triển, đồng
hoá hay du nhập các nền văn hoá khác nhau.
- Phía Nam : Các dân tộc Bách Việt có cuộc sống chủ yếu là nuôi trồng, săn bắn, khai
thác các sản vật thiên nhiên như đánh cá, săn bắt thú… Các dân tộc này sống tương
đối khép kín, yêu chuộng hoà bình, tự do.
- Miền đồng bằng sông Dương Tử, Hoàng Hà : các dân tộc Tam Miêu sống chủ yếu
bằng nghề nông nghiệp, có nền văn hoá phát triển, có kiến thức toán học, khoa học
tự nhiên.
c- Hoàn cảnh lịch sử phát sinh các học thuyết triết học :
Trung Hoa thời cổ có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ thứ III tr.CN kéo dài tới tận
cuối thế kỷ III tr.CN, với sự kiện Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Hoa bằng uy
quyền bạo lực mở đầu thời kỳ Trung Hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm đó,
lịch sử Trung Hoa được phân chia làm hai thời kỳ lớn : 1. Thời kỳ từ thế kỷ IX tr.CN
trở về trước; 2. Thời kỳ từ thế kỷ VIII tr.CN đến cuối thế kỷ III tr.CN.
Trong thời kỳ thứ nhất : những tư tưởng triết học ít nhiều đã xuất hiện, nhưng chưa
đạt tới mức là một hệ thống.
Thời kỳ thứ hai : còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là giai đoạn chuyển biến từ
chế độ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi) sang giai đoạn hình thành
quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân rã làm 7 quốc gia khác nhau : Tần,
Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thuỷ Hoàng - vua nước Tần đã tiêu diệt 6 nước
thống nhất giang sơn hình thành nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên. Dưới thời
thịnh vượng của nhà Chu, đất đai thuộc về nhà Vua thì nay quyền sở hữu tối cao về
đất đai ấy bị một tầng lớp mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tư hữu. Một sự phân hoá
sang hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức
đảo lộn. Sự tranh giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa
cổ đại vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó, một loạt học
thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hướng giải
quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều đó trở thành nét
đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời kỳ loạn lạc này đã
xuất hiện những nhà tư tưởng vĩ đại, hình thành nên những hệ thống triết học khá
hoàn chỉnh, được tồn tại và phát triển theo suốt bề dầy lịch sử phát triển của đất
nước Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề thực
tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết những vấn đề của triết học
như vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người; đặc
biệt là vấn đề tính người, vấn đề sự biến dịch của vạn vật và một số vần đề thuộc lý
luận nhận thức.
1.2 Các đặc điểm cơ bản của triết học Trung Hoa cổ - trung đại :
a- Triết học tập trung chủ yếu vào xã hội và con người, coi trọng hành vi cá nhân,
hướng tới sự thống nhất, hài hòa giữa con người và xã hội.
b- Coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu : hướng vào nội tâm - luôn cố
gắng tìm tòi về bản thân con người và mối quan hệ giữa con người và xã hội xung
quanh và ít quan tâm đến khoa học tự nhiên. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự
kém phát triển về nhận thức luận, là nguyên nhân sâu xa của sự kém phát triển kinh
tế, khoa học so với văn minh Phương Tây (hướng ngoại).
c- Đa dạng, phong phú : luôn chú ý các mặt đối lập, thống nhất của vấn đề, coi trọng
sự hài hòa trong xã hội.
d- Phương pháp tư duy : nhận thức trực quan được coi trọng, “Tâm” là gốc rễ của
nhận thức. Tư tưởng triết học không được diễn đạt khúc chiết mà rời rạc thông qua
các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn…
e- Các yếu tố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình, vô thần, hữu thần đan xen lẫn
nhau.
1.3 Các học thuyết có ảnh hưởng đến sự hình thành Nho giáo :
Ở Trung Quốc, những quan niệm triết lý về “Âm - Dương”, “Ngũ hành” đã được lưu
truyền từ trước thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc. Tới thời Xuân Thu - Chiến Quốc,
những tư tưởng về Âm Dương - Ngũ hành đó đã đạt tới mức là một hệ thống các
quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a- Thuyết Âm - Dương :
Âm và dương theo khái niệm cổ sơ không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể
mà là thuộc tính của mọi hiện tượng, mọi sự vật trong toàn vũ trụ cũng như trong
từng tế bào, từng chi tiết. Âm và dương là hai mặt đối lập, mâu thuẫn thống nhất,
trong Âm có Dương và trong Dương có Âm.
Căn cứ nhận xét lâu đời về giới thiệu tự nhiên, người xưa đã nhận xét thấy sự biến
hoá không ngừng của sự vật (thái cực sinh lưỡng nghi, lương nghi sinh tứ tượng, tứ
tượng sinh bát quái. Lưỡng nghi là âm và dương, tứ tượng là thái âm, thái dương,
thiếu âm và thiếu dương. Bát quái là càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn và đoài).
Người ta còn nhận xét thấy rằng cơ cấu của sự biến hoá không ngừng đó là ức chế
lẫn nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau.
Để biểu thị sự biến hoá không ngừng và qui luật của sự biến hoá đó, người xưa đặt ra
"thuyết âm dương".
Âm dương không phải là thứ vật chất cụ thể nào mà thuộc tính mâu thuẫn nằm trong
tất cả mọi sự vật, nó giải thích hiện tượng mâu thuẫn chi phối mọi sự biến hoá và
phát triển của sự vật.
Nói chung, cái gì có tính chất hoạt động, hưng phấn, tỏ rõ, ở ngoài, hướng lên, vô
hình, nóng rực, sáng chói, rắn chắc, tích cực đều thuộc dương.
Tất cả những cái gì trầm tĩnh, ức chế, mờ tối, ở trong, hướng xuống, lùi lại, hữu hình,
lạnh lẽo, đen tối, nhu nhược, tiêu cực đều thuộc âm.
Từ cái lớn như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, đến cái nhỏ như con sâu, con bọ, cây cỏ,
đều được qui vào âm dương.
Ví dụ về thiên nhiên thuộc dương ta có thể kể: Mặt trời, ban ngày, mùa xuân, hè,
đông, nam, phía trên, phía ngoài, nóng, lửa, sáng. Thuộc âm ta có: Mặt trăng, ban
đêm, thu, đông, tây, bắc, phía dưới, phía trong, lạnh nước, tối.
Trong con người, dương là mé ngoài, sau lưng, phần trên, lục phủ, khí, vệ; Âm là mé
trong, trước ngực và bụng, phần dưới ngũ tạng, huyết, vinh.
Âm dương tuy bao hàm ý nghĩa đối lập mâu thuẫn nhưng còn bao hàm cả ý nghĩa
nguồn gốc ở nhau mà ra, hỗ trợ, chế ước nhau mà tồn tại. Trong âm có mầm mống
của dương, trong dương lại có mầm mống của âm.
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ
biến của vạn vật, đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau : Âm và Dương.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi như nguyên lý của sự
thống nhất của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn,
chỉnh thể, cân bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự
thống nhất giữa cái bất biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến
đổi Âm - Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý : Dương tiến
đến đâu thì Âm lùi đến đó và ngược lại, đồng thời “Dương cực thì Âm sinh”, “Âm thịnh
thì Dương khỏi”.
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của
vạn vật, phái Âm - Dương đã đưa ra cái lôgíc tất định : Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm
- Dương); Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương – Thái
Âm) và Tứ tượng sinh Bát quái (Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài);
Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác
phẩm Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời
của vạn vật và nhân sinh, xã hội như : Kiền, Khôn, Bí, Thái, Truân, Ký tế, Vị tế… Sự
chú giải Kinh Dịch không phải của một tác giả mà là của nhiều bậc trí thức ở nhiều
thời đại với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một “tập đại thành” của sự
chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
c- Thuyết Bát quái : Là lý thuyết triết học giải thích thế giới được tạo thành bởi 8
nhóm sự vật, hiện tượng khác nhau.
Tiên thiên Bát quái là 8 quẻ thuộc về Trời, chỉ về Thiên Lý hay Lẽ Trời. Vì lúc đó chưa
có chữ viết, vua Phục Hi sử dụng các vạch để diễn tả.
Sử dụng vạch liền, vạch liên tục, tức vạch Lẽ, gọi là Cơ để tượng trưng cho phần
Dương.
Sử dụng vạch đứt đoạn, tức vạch Chẳn, gọi là Ngẫu để tượng trưng cho phân Âm.
Lưỡng Nghi (Âm Dương) được tượng trưng bằng 2 vạch Dương và Âm gọi là Dương
Nghi và Âm Nghi.
Tứ Tượng : Đặt một vạch Dương lên trên Dương Nghi thì thành Toàn Dương nên gọi
là Thái Dương (Thái có nghĩa là đã lớn). Đặt một vạch Âm lên trên Dương Nghi thì ta
có một Dương làm chủ ở dưới, nên gọi là Thiếu Dương (Thiếu có nghĩa là còn nhỏ).
Đặt một vạch Âm lên trên Âm Nghi thì thành Toàn Âm gọi là Thái Âm. Đặt một vạch
Dương lên trên Âm Nghi thì ta có một Âm làm chủ ở bên dưới gọi là Thiếu Âm.
Tứ Tượng theo đúng thứ tự là Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. Thiếu
Dương đi trước Thái Âm và Thiếu Âm đi trước Thái Dương thể hiện Âm trung hữu
Dương căn, Dương trung hữu Âm căn, nghĩa là trong Âm có mầm Dương. Dương sinh
ở dưới thành ra Thiếu Dương có một vạch Dương mới sinh ở dưới làm chủ. Dương
trưởng ở trên thành ra Thái Dương với hai gạch Dương là Dương đã toàn thịnh. Âm
sinh ở trên cho nên Thiếu Âm có một Âm mới sinh ở dưới làm chủ. Âm trưởng ở dưới
cho nên Thái Âm với hai gạch Âm là Âm đã toàn thịnh.
Bát Quái là 8 Quẻ mỗi Quẻ gồm có 3 vạch (mỗi vạch còn gọi là Hào), còn được gọi là
Quẻ Đơn hay Đơn Quái, dùng để diễn tả 8 hiện tượng chính của hoạt động Âm Dương
trong Vũ Trụ. Việc xếp đặt các vạch để tạo thành Bát Quái được thực hiện theo thứ tự
hoàn toàn theo tự nhiên : Dương trước, Âm sau, tay mặt trước, tay trái sau. Thứ tự
và tên gọi của Bát Quái như sau : Càn, Đoài, Li, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.
Càn : Trời, Thiên. Càn vi Thiên. Dương đã thinh và Âm đã hủy.
Đoài : Đầm, ao. Đoài vi Trạch. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Li : Lửa, hơi nóng. Li vi Hỏa. Dương đã lớn và Âm sắp tàn.
Chấn : Sấm, sét. Chấn vi Lôi. Dương mới sinh và Âm bắt đầu suy.
Tốn : Gió. Tốn vi Phong. Âm mới sinh và Dương bắt đầu suy.
Khảm : Nước, chất lỏng. Khảm vi Thuỷ. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Cấn : Núi non. Cấn vi Sơn. Âm đã lớn và Dương sắp tàn.
Khôn : Đất, Địa. Khôn vi Địa. Âm đã thịnh và Dương đã hủy.
b- Hành đạo:
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính trị.
Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến lớn - trị quốc, và đạt
đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành
động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương châm:
C Nhân trị. Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi
người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân - Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác"
(sách Luận ngữ). Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói:
"Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?"
(sách Luận ngữ).
C Chính danh. Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người
phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không
thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ). Khổng tử nói với vua Tề Cảnh Công:
"Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra
con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo, chúng
được tóm gọi lại trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Và đến lượt
mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết thi, thư, lễ, nhạc.
Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo đức mà không cần phải
có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà không có đạo đức thì được gọi là tiểu
nhân (như dân thường).
2.3- Các giai đoạn phát triển của Nho giáo Trung Hoa, các học giả tiêu biểu :
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của
Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Khổng Tử
(sinh năm 551 tr.CN) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực
truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi ông là người sáng lập ra
Nho giáo.
Cũng giống như nhiều nhà tư tưởng khác trên thế giới như Thích Ca Mầu Ni, Giê-
xu,... người đời sau không thể nắm bắt các tư tưởng của Khổng tử một cách trực tiếp
mà chỉ được biết các tư tưởng của ông bằng các ghi chép do các học trò của ông để
lại. Khó khăn nữa là thời kỳ "đốt sách, chôn Nho" của nhà Tần, hai trăm năm sau khi
Khổng Tử qua đời đã làm cho việc tìm hiểu tư tưởng Khổng Tử càng khó khăn. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu đời sau vẫn cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tư tưởng và
cuộc đời của ông.
a- Nho giáo nguyên thủy : Thời Xuân Thu , Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải
thích bộ Lục kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là
Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn
Luận Ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa
vào lời thầy mà soạn ra sách Đại Học. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp,
còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các
tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh Tử . Từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước
đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái
niệm, Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được
gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Nho giáo, Văn Miếu trở thành
thánh đường và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý chính là các tín điều mà các nhà
Nho cần phải thực hành.
b- Hán Nho : Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung được gộp vào Lễ Ký. Hán Vũ Đế
đưa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ thống nhất đất nước về tư
tưởng. Và từ đây, Nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống bảo vệ chế độ phong
kiến Trung Hoa trong suốt hai ngàn năm. Nho giáo thời kỳ này được gọi là Hán Nho.
Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai
cấp thống trị. Thiên Tử là con trời, dùng "lễ trị" để che đậy "pháp trị".
c- Tống Nho : Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và cùng
với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Lúc đó, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách gối
đầu giường của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ nay được gọi là Tống nho, với các tên
tuổi như Chu Hy (thường gọi là Chu Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ
16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi Nho học nên được gọi là "Trạng Trình"). Phương Tây
gọi Tống nho là "Tân Khổng giáo". Điểm khác biệt của Tống nho với Nho giáo trước
đó là việc bổ sung các yếu tố "tâm linh" (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố "siêu hình"
(lấy từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
3. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRUNG HOA ĐẾN NỀN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA
VIỆT NAM :
Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi phối cao
nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho giáo chưa
sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều lễ giáo, còn
trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo chưa đáng
kể.
Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh của
các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía cạnh
văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy, sự phát
triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở rộng và phát
triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược
của các thế lực phong kiến phương Bắc. Quá trình đó diễn ra nhanh hơn, đồng bộ hơn
việc thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam thời bấy giờ. Nếu không có
sự xâm lược của các thế lực phong kiến đối với Việt Nam thì Nho giáo vẫn du nhập
vào xã hội Việt Nam, nhưng quá trình đó sẽ diễn ra chậm hơn và không đồng bộ. Sự
du nhập Nho giáo Việt Nam cùng với sự xâm lược của các thế lực phương Bắc được
thực hiện bởi các quan đô hộ, bởi chính sách đồng hóa, được chính quyền đô hộ nâng
đỡ, cho nên Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật
giáo. Cho nên, trãi qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc Nho giáo vẫn chưa xác lập được
vị trí độc tôn trong đời sống. Trong suốt hơn một ngàn năm đó nhiều cuộc khởi nghĩa
đấu tranh giành độc lập dân tộc đã nỗ ra, nhưng hầu như không có sự tham gia của
các nhà nho.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm Bắc
thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này, Phật
giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như Ngô,
Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Các nhà sư có vai trò to lớn và quyết
định trong việc gây dựng triều Lý – nhà nước quân chủ tập quyền đầu tiên ở nước ta
và cũng từ khi nhà Lý ra đời, do nhu cầu quản lý nhà nước mà nhà Lý đã bắt đầu
quan tâm đến Nho giáo. Vào thời điểm này sự đóng góp của các nhà sư vào sự ổn
định đất nước là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho giáo dần dần thay thế Phật giáo càng
thấy rõ. Việc Lý Thánh Tông vào năm 1070 cho lập Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng
Tử như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo trên bình diện cả nước.
Sang thời Lê Thánh Tông (1460-1497) Nho giáo được phát triển và cũng từ đó về
sau, Nho giáo thâm nhập vào xã hội Việt Nam ngày càng sâu đậm trên nhiều lĩnh vực
tư tưởng, thơ văn, phong tục, tập quán… qua hệ thống giáo dục, pháp luật, chính
quyền. Cho đến đầu thế kỷ 20 này, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi bỏ, nhưng giáo
dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung còn kéo dài đến đầu thập kỷ 40. Như vậy,
trong thời Lê Nguyễn liên tục gần 600 năm Nho học - Nho giáo không thể không
thắm vào các tầng lớp xã hội. Nó được thường xuyên tái lập và trở thành một trong
những yếu tố văn hóa truyền thống Việt Nam khá sâu đậm.
3.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt Nam :
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19, suốt hai
triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo Trung
Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có những
biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong đời sống
xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt
Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa
dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam.
a- Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam :
- Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các nhà
nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ
thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc
gia.
- Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Khổng Tử là người “học nhi bất
yếm, hối nhân bất nguyện”. Hàng nghìn năm qua, nhà nước Việt Nam đều lấy Nho
học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là
giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa.
Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố
quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn
hóa, sử học, triết học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một
nghề nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong
nhân dân. Hiếu học là đặc điểm của Nho giáo. Hiếu học đã trở thành truyền thống
văn hóa Á Đông trong đó có Việt Nam.
- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng đạo
đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển
văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn, có tôn
tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm mức quốc
gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty
hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan hệ giữa
người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ này, xây dựng
tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung quân mà vẫn đặt ái quốc
lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải trung thành với tổ quốc và trung hậu
với nhân dân.
- Nhân nghĩa trong Khổng giáo là tình cảm sâu sắc, nghĩa vụ thiêng liêng của bề tôi
đối với nhà vua, của con đối với cha, của vợ đối với chồng, nhưng đối với Nguyễn Trãi
và các trí thức Việt Nam thì điều cốt yếu của nhân nghĩa là phải đem lại cho nhân dân
cuộc sống thanh bình, và đội quân chính nghĩa phải nhằm tiêu diệt những quân tàn
bạo.
C. KẾT LUẬN
Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện và
sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định,
có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
Ngày nay cả nước bước vào thời kỳ xây dựng mọi mặt đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, trên con đường tiến tới : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, chúng ta lại thường xuyên đụng đến những vấn đề Nho giáo. Nho giáo
tuy không còn ảnh hưởng nhiều trong đời sống như trước nhưng nó vẫn còn hiện diện
bám sát chúng ta và tiếp tục đem lại cho chúng ta nhiều bài học cả chính diện và
phản diện. Chúng ta cần phải biết chắc lọc, tiếp thu và phát triển những tư tưởng của
Nho giáo để giải quyết những vấn đề về gia đình, về mối quan hệ cá nhân và xã hội,
về quản lý đất nước, về phát triển kinh tế, giáo dục… trong thời kỳ mới, thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
1. Đại cương triết học Việt Nam - PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản Thuận
Hóa
2. Nho giáo Trung Quốc - Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
3. Giáo trình
4. Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại - Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản giáo
dục.
4. Tạp chí Văn hoá - Nghệ thuật, Hà Nội, số tháng 2/2003, bài “Nho giáo trong tương
lai văn hoá Việt Nam”
5. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Chúng ta kế thừa tư tưởng gì ở Nho
giáo” - Minh Anh.
6. Tạp chí Triết học, số 8, tháng 11-2001 bài “Nhân, nhân nghĩa, nhân chính trong
“Luận Ngữ” và “Mạnh Tử”” - Hoàng Thị Bình