You are on page 1of 28

Ưu điểm của toàn cầu hoá

http://www.knowledgegalaxy.net/advantages_of_globalization/advantages_of_global
ization.html

A Guide to the Advantages of Globalization Hướng dẫn các lợi thế của toàn cầu hoá

As we move further and further into the twenty-first century, the more clearly we are
seeing the advantages of globalization. Khi chúng tôi di chuyển xa hơn và sâu hơn vào
thế kỷ XXI, càng rõ ràng chúng ta đang thấy những lợi thế của toàn cầu hóa. It has
unbounded economic, technical, social and cultural benefits for developing countries. Nó
đã không bị chặn kinh tế, kỹ thuật, lợi ích xã hội và văn hóa cho các nước đang phát
triển. Globalization can mean sharing technological know-how, such as better methods
of farming, or it can mean building roads or a dam to give people access to clean water
or electricity. Toàn cầu hóa có thể có nghĩa là chia sẻ công nghệ, bí quyết, phương pháp
tốt hơn như canh tác, hoặc nó có thể có nghĩa là con đường xây dựng hoặc đập một để
cho người dân tiếp cận nước sạch và điện.

The advantages of globalization are numerous. Những lợi thế của toàn cầu hóa rất nhiều.
Globalization is the answer for raising the standard of living around the world. Toàn cầu
hóa là câu trả lời cho nâng cao mức sống trên toàn thế giới. In fact, over the last thirty
years, the number of people living in the most desperate poverty, those living on under
one dollar a day, has decreased. Trong thực tế, hơn ba mươi năm qua, số người sống
trong nghèo đói tuyệt vọng nhất, những người sống trên dưới một đô la một ngày, đã
giảm. That's not to say there are still not people hungry around the world. Đó không phải
là để nói rằng vẫn còn có không người đang đói trên thế giới. But in its own slow way the
standard of living around the world is getting higher. Nhưng theo cách riêng của mình
chậm tiêu chuẩn sống trên khắp thế giới đang cao hơn.

The advantages of globalization can be seen in the internet. Những lợi thế của toàn cầu
hóa có thể được nhìn thấy trong internet. Now, it is possible to have truly global
communication. Bây giờ, nó có thể có thông tin liên lạc toàn cầu thực sự. Someone in
Africa can talk to someone in Canada in real time. Một người nào đó ở châu Phi có thể
nói chuyện với ai đó ở Canada trong thời gian thực. Or, someone in the United States
can email a friend in India and have it arrive in their mailbox in less than one minute.
Hoặc, ai đó ở Hoa Kỳ có thể gửi email một người bạn ở Ấn Độ và có nó đến hộp thư của
họ trong ít hơn một phút. The transmission of information over the internet is making
people who live in underdeveloped countries aware of what is possible. Việc truyền tải
thông tin qua internet là làm cho những người sống ở các nước kém phát triển nhận thức
được những gì có thể. The advantages of globalization mean that news is transmitted
around the world as it happens. Những lợi thế của toàn cầu hoá có nghĩa là tin tức được
truyền đi trên khắp thế giới như nó xảy ra. It is a lot harder to keep people in the dark
about events in the rest of the world. Nó là rất nhiều khó khăn hơn để giữ người trong
bóng tối về các sự kiện trong phần còn lại của thế giới.

1
The advantages of globalization on the international economy are substantial. Những lợi
thế của toàn cầu hóa về kinh tế quốc tế là đáng kể. Countries can invest in one another,
loan money to one another, and develop trade with other countries. Các nước có thể đầu
tư tiền vay lẫn nhau, với nhau, và phát triển thương mại với các nước khác. Businesses
can open and sell their goods in new foreign markets. Các doanh nghiệp có thể mở và
bán hàng hoá của mình tại các thị trường nước ngoài mới. The more goods that are sold,
the more jobs are created. Even in a faltering economy, the world is a better place
because the global market is more open and free. Hàng hoá được bán nhiều hơn, công
việc nhiều hơn được tạo ra. Ngay cả trong một nền kinh tế sút kém, thế giới là một nơi tốt
hơn bởi vì các thị trường toàn cầu là cởi mở và miễn phí.

The movement of freedom and democracy is another one of the advantages of


globalization. Sự chuyển động của tự do và dân chủ là một một trong những lợi thế của
toàn cầu hóa. The world is becoming more and more one place. Thế giới đang ngày càng
trở nên một nơi. Globalization brings with it the knowledge that all human beings share
the earth with one another. Toàn cầu hóa mang lại với nó sự hiểu biết rằng tất cả con
người chia sẻ trái đất với nhau. It brings about cooperation in trying to make the earth a
better place to live. Nó mang về hợp tác trong các cố gắng để làm cho trái đất một nơi
tốt hơn để sống. The ultimate goal of globalization is the peace of the world--all countries
becoming accepting of one another and the diversity of cultures and beliefs that exists in
the world as a whole. Mục tiêu cuối cùng của toàn cầu hóa là hòa bình của thế giới - tất
cả các nước chấp nhận trở thành của nhau và sự đa dạng của nền văn hóa và tín ngưỡng
tồn tại trên thế giới nói chung.

Globalization makes travel easier whether in very populated or very rural areas. Toàn
cầu hoá làm cho đi du lịch dễ dàng hơn cho dù có rất đông dân cư hoặc các khu vực rất
nông thôn. Food and medical supplies can now quickly reach locations that need them.
Thực phẩm và vật tư y tế có thể nhanh chóng tiếp cận địa điểm cần đến chúng. Countries
get together to play in international competitions, such as the Olympics or for other
world titles, such as in soccer, skiing or baseball. Các nước nhận được với nhau để chơi
trong các cuộc thi quốc tế như Thế vận hội hoặc cho các chức danh trên thế giới khác,
chẳng hạn như trong bóng đá, trượt tuyết hay bóng chày. It is these kinds of instances of
people working together toward one goal that will eventually lead to new understanding
of cultural values and customs. Đó là các loại các trường hợp của những người làm việc
cùng nhau hướng tới một mục tiêu mà cuối cùng sẽ dẫn đến hiểu biết mới về giá trị văn
hóa và hải quan. Countries who can accept each other's cultural values, even without
sharing them, are much less apt to go to war with one another. Các nước có thể chấp
nhận văn hóa của nhau các giá trị, ngay cả khi không chia sẻ chúng, được ít hơn nhiều apt
để đi đến chiến tranh với nhau.

And, one of the biggest advantages of globalization is justice. Và, một trong những lợi
thế lớn nhất của toàn cầu hóa là công lý. You can see it now in world courts, where those
who deny people their rights, and murder countless innocent people can be brought to
justice for the whole world to see. Bạn có thể thấy nó ngay bây giờ tại các tòa án trên thế
giới, nơi những người từ chối các quyền con người của họ, và giết người vô số người dân
vô tội có thể được đưa đến công lý cho toàn thế giới để xem. Globalization can advance

2
the cause of human rights throughout the world. Toàn cầu hóa có thể tạm ứng là nguyên
nhân của các quyền con người trên toàn thế giới.

Globalization can go way beyond economic concerns to address such other issues as the
environment. Toàn cầu hóa có thể đi cách xa hơn mối quan tâm kinh tế để giải quyết các
vấn đề khác như môi trường. Whether it be disappearing forests, global warming, fishing
laws, or helping to save endangered species of animals and birds, people working
together in a global way can have far-reaching consequences. Cho dù đó là biến mất
rừng, sự nóng lên toàn cầu, luật câu cá, hay giúp đỡ để cứu nguy cơ tuyệt chủng các loài
động vật và chim, những người làm việc với nhau một cách toàn cầu có thể có hậu quả
sâu rộng.

Lợi thế của toàn cầu hoá


http://www.buzzle.com/articles/advantages-of-globalization.html

Globalization has several advantages on the economic, cultural, technological, social and
some other fronts. Toàn cầu hóa có một số lợi thế về kinh tế, văn hóa, công nghệ, xã hội
và một số mặt trận khác. Any myths, existing in the mind, regarding these must be
dispelled. Bất kỳ thần thoại, hiện tại trong tâm, về những phải được xua tan.

Globalization means increasing the interdependence, connectivity and integration on a


global level with respect to the social, cultural, political, technological, economic and
ecological levels. Toàn cầu hóa có nghĩa là tăng phụ thuộc lẫn nhau, kết nối và hội nhập
trên một cấp độ toàn cầu đối với các cấp độ xã hội, văn hóa, chính trị, công nghệ, kinh tế
và sinh thái.

Advantages of Globalization Lợi thế của toàn cầu hoá

o Goods and people are transported with more easiness and speed Hàng hoá, người
được vận chuyển với sự yên thân nhiều hơn và tốc độ
o the possibility of war between the developed countries decreases khả năng xảy ra
chiến tranh giữa các nước phát triển giảm
o free trade between countries increases tự do thương mại giữa các quốc gia tăng
o global mass media connects all the people in the world phương tiện truyền thông
đại chúng toàn cầu kết nối tất cả mọi người trên thế giới
o as the cultural barriers reduce, the global village dream becomes more realistic
như là những rào cản văn hóa giảm, ước mơ trở thành ngôi làng toàn cầu thực tế
hơn
o there is a propagation of democratic ideals có một tuyên truyền lý tưởng dân chủ
o the interdependence of the nation-states increases phụ thuộc lẫn nhau của các
quốc gia dân tộc, tăng
o as the liquidity of capital increases, developed countries can invest in developing
ones như tính thanh khoản tăng vốn, các nước phát triển có thể đầu tư trong nước
đang phát triển

3
o the flexibility of corporations to operate across borders increases sự linh hoạt của
Tổng công ty để hoạt động qua biên giới gia tăng
o the communication between the individuals and corporations in the world
increases các thông tin liên lạc giữa các cá nhân và các tập đoàn trong thế giới
tăng
o environmental protection in developed countries increases bảo vệ môi trường ở
các nước đang phát triển tăng

Effects of globalization Ảnh hưởng của toàn cầu hóa

o enhancement in the information flow between geographically remote locations


nâng cao trong dòng chảy thông tin giữa các địa điểm địa lý từ xa
o the global common market has a freedom of exchange of goods and capital thị
trường chung toàn cầu có quyền tự do trao đổi hàng hoá và vốn
o there is a broad access to a range of goods for consumers and companies có một
truy cập đến một loạt các hàng hóa cho người tiêu dùng và các công ty
o worldwide production markets emerge thị trường sản xuất trên toàn thế giới xuất
hiện
o free circulation of people of different nations leads to social benefits miễn phí lưu
thông của người dân của các quốc gia khác nhau dẫn đến lợi ích xã hội
o global environmental problems like cross-boundary pollution, over fishing on
oceans, climate changes are solved by discussions vấn đề môi trường toàn cầu
như ô nhiễm xuyên biên giới, trên đánh cá trên các đại dương, những thay đổi khí
hậu được giải quyết bằng cách thảo luận
o more transborder data flow using communication satellites, the Internet, wireless
telephones etc. dữ liệu xuyên biên giới flow hơn bằng cách sử dụng các vệ tinh
truyền thông, Internet, điện thoại không dây vv
o international criminal courts and international justice movements are launched
Toà án hình sự quốc tế và phong trào công lý quốc tế được đưa ra
o the standards applied globally like patents, copyright laws and world trade
agreements increase các Tiêu chuẩn áp dụng trên toàn cầu như bằng sáng chế luật
bản quyền, và các hiệp định thương mại thế giới tăng
o corporate, national and subnational borrowers have a better access to external
finance khách hàng vay doanh nghiệp, quốc gia và tiểu quốc gia có một truy cập
tốt hơn để tài trợ bên ngoài
o worldwide financial markets emerge thị trường tài chính trên toàn thế giới nổi lên
o multiculturalism spreads as there is individual access to cultural diversity. đa văn
hóa lây lan như không có cá nhân tiếp cận với sự đa dạng văn hóa. This diversity
decreases due to hybridization or assimilation Sự đa dạng này giảm do lai tạo
hoặc đồng hóa
o international travel and tourism increases du lịch quốc tế và du lịch tăng
o worldwide sporting events like the Olympic Games and the FIFA World Cup are
held sự kiện thể thao trên toàn thế giới như Thế vận hội Olympic và World Cup
được tổ chức
o enhancement in worldwide fads and pop culture nâng cao trong những trào trên
toàn thế giới và nền văn hóa pop

4
o local consumer products are exported to other countries sản phẩm tiêu dùng địa
phương được xuất khẩu sang các nước khác
o immigration between countries increases nhập cư giữa các quốc gia tăng
o cross-cultural contacts grow and cultural diffusion takes place địa chỉ liên lạc qua
văn hóa phát triển và phổ biến văn hóa diễn ra
o there is an increase in the desire to use foreign ideas and products, adopt new
practices and technologies and be a part of world culture có sự gia tăng mong
muốn sử dụng những ý tưởng nước ngoài và các sản phẩm, áp dụng các phương
pháp mới và các công nghệ và là một phần của văn hóa thế giới
o free trade zones are formed having less or no tariffs khu thương mại tự do được
hình thành có ít hoặc không có thuế
o due to development of containerization for ocean shipping, the transportation
costs are reduced do sự phát triển của Côngtenơ biển để vận chuyển, chi phí vận
chuyển đang giảm
o subsidies for local businesses decrease trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương
giảm
o capital controls reduce or vanquish kiểm soát vốn làm giảm hoặc vanquish
o there is supranational recognition of intellectual property restrictions ie patents
authorized by one country are recognized in another siêu quốc gia có công nhận
những hạn chế sở hữu trí tuệ như bằng sáng chế ủy quyền của một quốc gia được
công nhận trong một

Advantages of globalization in the developing world Lợi thế của toàn cầu hóa trong
thế giới đang phát triển
It is claimed that globalization increases the economic prosperity and opportunity in the
developing world. Đó là tuyên bố rằng toàn cầu hóa làm tăng sự thịnh vượng kinh tế và
cơ hội trong thế giới đang phát triển. The civil liberties are enhanced and there is a more
efficient use of resources. Các quyền tự do dân sự được tăng cường và có một sử dụng
hiệu quả hơn các nguồn lực. All the countries involved in the free trade are at a profit.
Tất cả các quốc gia tham gia vào thương mại tự do được lời. As a result, there are lower
prices, more employment and a better standard of life in these developing nations. Kết
quả là, có giá thấp hơn, việc làm nhiều hơn và tiêu chuẩn một cuộc sống tốt hơn ở các
nước đang phát triển. It is feared that some developing regions progress at the expense of
other developed regions. Có lo ngại rằng một số khu vực đang phát triển tiến bộ tại các
chi phí của các khu vực khác phát triển. However, such doubts are futile as globalization
is a positive-sum chance in which the skills and technologies enable to increase the living
standards throughout the world. Tuy nhiên, nghi ngờ như vậy là vô ích như toàn cầu hóa
là một cơ hội tích cực, tổng hợp, trong đó các kỹ năng và công nghệ cho phép tăng mức
sống trên toàn thế giới. Liberals look at globalization as an efficient tool to eliminate
penury and allow the poor people a firm foothold in the global economy. Liberals nhìn
vào toàn cầu hóa như một công cụ hiệu quả để loại bỏ sự túng thiếu và cho phép người
nghèo một chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế toàn cầu. In two decades from 1981 to
2001, the number of people surviving on $1 or less per day decreased from 1.5 billion to
1.1 billion. Trong hai thập kỷ 1981-2001, số người còn sống sót trên $ 1 hoặc ít hơn mỗi
ngày giảm 1500000000-1100000000. Simultaneously, the world population also
increased. Đồng thời, dân số thế giới cũng tăng lên. Thus, the percentage of such people

5
decreased from 40% to 20% in such developing countries. Vì vậy, tỷ lệ những người như
vậy giảm từ 40% đến 20% ở các nước đang phát triển như vậy.

Ưu điểm của toàn cầu hoá

http://www.oppapers.com/essays/Advantages-Globalization/59033

People around the world are more connected to each other than ever before. Người trên
thế giới có nhiều kết nối với nhau hơn bao giờ hết. Information and money flow quicker
than ever. Thông tin và dòng tiền nhanh hơn bao giờ hết. Products produced in one part
of a country are available to the rest of the world. Sản phẩm sản xuất trong một phần của
một quốc gia có sẵn cho phần còn lại của thế giới. It is much easier for people to travel,
communicate and do business internationally. Nó là dễ dàng hơn nhiều cho những người
đi du lịch, giao tiếp và làm kinh doanh quốc tế. This whole phenomenon has been called
globalization. Hiện tượng này toàn bộ đã được gọi là toàn cầu hóa. Spurred on in the past
by merchants, explorers, colonialists and internationalists, globalization has in more
recent times been increasing rapidly due to improvements in communications,
information and transport technology. Khích lệ vào trong quá khứ bởi các thương gia,
nhà thám hiểm, thực dân và internationalists, toàn cầu hoá có trong thời gian gần đây đã
tăng lên nhanh chóng do sự cải tiến trong truyền thông, thông tin và công nghệ giao
thông vận tải. It has also been encouraged by trade liberalization and financial market
deregulation. Nó cũng đã được khuyến khích bởi tự do hóa thương mại và bãi bỏ quy
định thị trường tài chính.

Globalization offers a higher standard of living for people in rich countries and is the
only realistic route out of poverty for the world's poor. Toàn cầu hóa cung cấp một tiêu
chuẩn cao hơn của cuộc sống cho người dân ở các nước giàu và thực tế là chỉ có con
đường thoát nghèo cho người nghèo trên thế giới. Pro-globalization groups eg World
Trade Organization and the World Economic Forum believe that globalization helps to
reduce poverty and increase living standards as well as encourage a better cultural
understanding. nhóm Pro-toàn cầu hóa ví dụ như Tổ chức Thương mại Thế giới và Diễn
đàn Kinh tế Thế giới tin rằng toàn cầu hóa sẽ giúp giảm đói nghèo và tăng mức sống
cũng như khuyến khích một sự hiểu biết tốt hơn về văn hóa. Also, due to globalization,
there can be international co-operation to solve environmental and social problems.
Ngoài ra, do toàn cầu hóa, có thể có hợp tác quốc tế để giải quyết vấn đề môi trường và
xã hội.

Technology has now created the possibility and even the likelihood of a global culture.
Công nghệ đã tạo ra khả năng và thậm chí cả khả năng của một nền văn hóa toàn cầu.
The Internet, fax machines and satellites have swept away the old national cultural
boundaries. Internet, máy fax và các vệ tinh đã quét sạch mọi ranh giới quốc gia văn hóa
cũ. Global entertainment companies now seem to shape the understandings and dreams of
ordinary citizens, wherever they live. công ty giải trí toàn cầu hiện nay dường như hình
thành sự hiểu biết và ước mơ của công dân bình thường, bất cứ nơi nào chúng sinh sống.
Globalization leads to better cultural understanding and tolerance. Toàn cầu hóa dẫn đến
sự hiểu biết văn hóa tốt hơn và khoan dung. Because of improvements in travel, more

6
and more people are traveling to different countries, thereby spreading their culture to
other parts of the world. Do cải tiến trong du lịch, càng nhiều người đi du lịch đến quốc
gia khác nhau, do đó lây lan văn hóa của họ đến các bộ phận khác trên thế giới.

The beauty of globalization is that it can free people from the tyranny of geography. Vẻ
đẹp của toàn cầu hóa là nó có thể miễn phí người dân từ các chuyên chế của địa lý. Just
because someone was born in France does not mean they can only speak French, eat
French food, read French books, enjoy French entertainment etc. A Frenchman -- or
anyone for that matter -- can take holidays anywhere in the world, eat sushi,... Nếu một ai
đó được sinh ra ở Pháp không có nghĩa là họ chỉ có thể nói được tiếng Pháp, ăn thức ăn
Pháp, đọc sách Pháp, hưởng Pháp giải trí vv Một người Pháp - hoặc bất cứ ai cho rằng
vấn đề - có thể lấy ngày nghỉ bất cứ nơi nào trên thế giới, ăn sushi , ...

Lợi thế của toàn cầu hoá


http://www.economywatch.com/economics-theory/globalization/advantages.html

It is the advantages of Globalization which act to bring about economic welfare on


international levels, thereby benefiting the worldwide population. Đây là lợi thế của toàn
cầu hóa mà hành động để mang lại phúc lợi kinh tế về mức độ quốc tế, do đó số dân
được hưởng lợi trên toàn thế giới.

Mentioned below, are the advantages of Globalization which facilitate the development
of world economies immensely: Đề cập dưới đây, là những lợi thế của toàn cầu hóa mà
tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới vô cùng:

 Free movement of capitals offers access to the foreign investments to many countries
like the United States of America. Miễn phí chuyển động của nguồn vốn cung cấp truy
cập tới các khoản đầu tư nước ngoài sang nhiều nước như Hoa Kỳ.

 The worldwide commercial market becomes so flexible due to the advent of


Globalization, that transactions of the international companies are not restricted to
geographical borders of the countries. Các thị trường thương mại trên toàn thế giới trở
nên linh hoạt do sự ra đời của Toàn cầu hoá, mà giao dịch của các công ty quốc tế không
bị giới hạn biên giới địa lý của các nước.

 Globalization enhances the flow of capital, permitting the investors to invest on the
untapped resources of the developing countries. Toàn cầu hóa tăng cường dòng chảy của
vốn, cho phép các nhà đầu tư để đầu tư vào các nguồn tài nguyên chưa được khai thác
của các nước đang phát triển.

 Globalization of the mass media has reduced the global space substantially, keeping
the people informed about all latest international happenings through different television
channels. Toàn cầu hóa của các phương tiện thông tin đại chúng đã giảm đáng kể không

7
gian toàn cầu, giữ cho người dân thông báo về tất cả các diễn biến mới nhất của quốc tế
thông qua các kênh truyền hình khác nhau.

 Improvement in global communication networks leads to easy flow of important


information not only to individuals but at company levels as well. Cải tiến trong các
mạng truyền thông toàn cầu dẫn đến dòng chảy dễ dàng các thông tin quan trọng không
chỉ cho cá nhân nhưng ở mức công ty như là tốt.

 The democratic thoughts are rapidly spread among countries across the world, owing
to Globalization. Các tư tưởng dân chủ đang nhanh chóng lây lan giữa các
quốc gia trên toàn thế giới, do toàn cầu hóa.

 Globalization stresses on increasing mutual dependence among all the nation-states


across the world. Toàn cầu hoá nhấn mạnh vào tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các tất cả
các quốc gia tiểu bang trên toàn thế giới.

 Globalization lessens the possibilities of warfare among developed countries to


considerable extents. Toàn cầu hoá làm giảm khả năng chiến tranh giữa các nước phát
triển đến mức độ đáng kể.

 The developed countries display a tendency for working towards protecting their
surrounding environments to large extents. Các nước phát triển hiển thị một xu hướng
làm việc hướng tới bảo vệ môi trường của họ xung quanh đến mức độ lớn.

 Globalization enhances free international trades among countries across the world.
Toàn cầu hóa nâng cao nghề miễn phí quốc tế giữa các quốc gia trên toàn thế giới.

 The total output levels of a country increase when productions become competition-
oriented. Sản lượng tổng mức tăng cả nước khi sản xuất thành cạnh tranh theo định
hướng. This means that to compete with the existing world market, the products must be
of best qualities and they also improve the lifestyle of the overall population. Điều này có
nghĩa rằng để cạnh tranh với thị trường thế giới hiện tại, các sản phẩm phải có chất
lượng tốt nhất và họ cũng cải thiện lối sống của dân số nói chung.

 Cheap imports and extensive competition on international level keep a check on the
prices leading to lower inflation rates, which occasionally interrupt the economic growth
and development of a nation. nhập khẩu giá rẻ và cạnh tranh rất lớn vào trình độ quốc tế
giữ một kiểm tra về giá dẫn đến tỷ lệ lạm phát thấp hơn, mà đôi khi gián đoạn tăng
trưởng kinh tế và phát triển của một quốc gia.

 Economic Globalization ushers in the concept of Open Economy, where there is an


extensive promotion of technological growth and inventions. Toàn cầu hóa kinh tế tân
trong khái niệm của nền kinh tế mở, nơi có một khuyến mãi phong phú, tăng trưởng công
nghệ và sáng chế. This requires new topics and concepts to be imported from abroad.
Điều này đòi hỏi các chủ đề và khái niệm mới được nhập khẩu từ nước ngoài.

8
 Employments in the export-oriented industries generally pay its employees
approximately 15% more than the import-oriented jobs in a country. Tuyển dụng trong
các ngành định hướng xuất khẩu lao động thường trả tiền của nó khoảng 15% so với các
công việc nhập khẩu theo định hướng trong một nước.

 One of the positive effects of Globalization is the smooth and speedy transportation
of people and commodities to different corners of the world. Một trong những hiệu ứng
tích cực của toàn cầu hoá là việc vận chuyển trơn tru và nhanh chóng của người dân và
hàng hóa đến các góc khác nhau của thế giới.

 Globalization reduces cultural blockages and differences among nations, by


encouraging fellow-feeling and mutual compassion. Toàn cầu hoá làm giảm tắc nghẽn và
sự khác biệt văn hóa giữa các dân tộc, bằng cách khuyến khích đồng bào-cảm giác và từ
bi lẫn nhau.

Toàn cầu hóa, được và mất


GS. Văn Như Cương
Toàn cầu hóa về bản chất là sự mở rộng thị trường ra ngoài biên giới quốc gia, một mong
muốn hiển nhiên của những quốc gia có nền kinh tế mạnh hơn, sản xuất được nhiều hàng
hóa hơn so với các nước khác. Quy luật muôn đời vẫn là: có thị trướng rộng lớn hơn, có
nhiều khách hàng hơn thì lợi nhuận càng cao hơn.

Vào thời kỳ phát triển ban đầu của mình, các nước tư bản không ngần ngại thực hiện việc
mở rộng thị trường bằng cách xâm chiếm các nước nhược tiểu để làm thuộc địa cho
mình. Không những họ mang được hàng hóa từ chính quốc sang bán ở thuộc địa mà họ
còn khai thác từ thuộc địa các nguồn tài nguyên và nguồn nhân công giá rẻ để phát triển
nền kinh tế của chính quốc. Tuy vậy, họ vẫn tự cho rằng họ đã "khai hóa" cho các nước
thuộc địa, tạo công ăn việc làm cho dân bản xứ và mang văn minh đến cho họ. Cũng có
phần đúng, chẳng hạn nhờ sự khai hóa của thực dân Pháp mà dân ta có việc làm, "được"
làm phu ở các đồn điền cao su, ở các hầm mỏ với đồng lương chết đói, nhờ văn minh do
nước mẹ Pháp truyền bá, dân ta mới biết dùng đèn Hoa Kỳ thay cho đèn dầu lạc biết vứt
cái bút lông đi thay bằng bút chì, một số người được học tiếng Tây, biết đi xe đạp, biết ăn
bánh mỳ, biết uống sữa bò và rượu sâm banh... Hiển nhiên, cái được chẳng bù cho cái
mất: dân ta mất độc lập và tự do.

Sau thế chiến thứ hai, hệ thống thuộc địa hoàn toàn sụp đổ và thế giới được chia làm hai
phe thù địch: phe XHCN và phe TBCN. Khi đó hai phe đóng chặt cửa với nhau về kinh
tế một cách nghiêm ngặt. Người dân Việt Nam chỉ biết đeo đồng hồ Liên xô mà không
biết đồng hồ Thụy Sĩ hay Nhật Bản, chỉ biết đi xe đạp Phượng Hoàng (Trung Quốc),
Xputnhic (Liên Xô) hay Mipha (Đông Đức), cưỡi xe máy Simsơn (Đông Đức) hoặc
Minxcờ (Liên Xô) mà không biết đến loại xe gì khác... Trong hoàn cảnh đó, vấn đề toàn
cầu hóa hiển nhiên không thể đặt ra. Các nước tư bản có nền kinh tế phát triển rất cao,
sản xuất ra nhiều hàng hóa tiêu dùng, đành phải nhìn ngắm cái thị trường to lớn của phe
XHCN một cách thèm muốn. Giá như mỗi người dân Trung Hoa mỗi năm chỉ uống một

9
vài chai Cocacola thôi thì cái hãng sản suất nước ngọt nổi tiếng này chắc chắn sẽ phải
tăng sản lượng lên nhiều phần trăm. Còn các nước XHCN thì cắn răng chịu đựng, cố sản
xuất các hàng hóa như yếu phẩm một cách nhanh, nhiều, tốt, rẻ để phục vụ nhân dân
mình, nếu thiếu quá thì nhờ các nước đàn anh trong phe viện trợ và nhất quyết không
mua hàng của phe kia. Và thế là không có toàn cầu hóa, mà chỉ có "phe hóa" mà thôi, hay
còn gọi là khu vực hóa.

Hiện nay thực tế không còn có hai phe đối kháng nữa (tuy vẫn còn các nước XHCN,
nhưng số này rất ít nên không làm thành một phe, vả lại các nước này đã tiến hành mở
cửa hội nhập với thế giới. Thế là cơ hội hiếm có để quá trình toàn cầu hóa lại được đặt ra
nhưng với mức độ rầm rộ hơn nhiều. Tuy có nơi này nơi kia biểu tình phản đối chiến
lược toàn cầu hóa nhưng nhìn chung đó là một quá trình không cưỡng lại được và mọi
quốc gia đều hy vọng có thể kiếm lợi khi buộc phải gia nhập quá trình đó.

Về lý thuyết, toàn cầu hóa nói chung (mà nòng cốt là toàn cầu hóa về kinh tế) mang lại
lợi ích cho mọi đất nước, kể cả nước phát triển và nước đang phát triển. Chúng ta thử
hình dung như nước ta với trình độ phát triển kinh tế thấp kém, nếu gia nhập quá trình
toàn cầu hóa thì mươi năm nữa sẽ ra sao? Lúc ấy con cái nhà giàu tha hồ đi du học ở các
nước tiên tiến để mua giáo dục ngoại, con em nhà nghèo thì tha hồ đi lao động nước
ngoài, làm thuê đế kiếm tiền, tuy ít ỏi nhưng cũng có thể giúp cho gia đình và đất nước...
Người lao động trong nước thì làm việc trong các công ty xuyên quốc gia đặt ở Việt Nam
và được "bóc lột" nhiều hơn so với các công nhân ở chính quốc. nhưng lương vẫn cao
hơn so với Công ty quốc nội... công nhân có thể bị các ông chủ người nước ngoài đánh
đập nhưng khi đó ta sẽ biểu tình theo đúng pháp luật. Đất đai của ta được bán cho các
Công ty đó hoặc xem như góp vào vốn của họ để chia chác lợi nhuận. Các Công ty trong
nước được tham gia sản xuất các phụ kiện cho các ấn phẩm chính của các Công ty xuyên
quốc gia đó. Người tiêu dùng nước ta có thể mua tại nước mình các hàng hóa cao cấp mà
không phải trả tiền thuế quá cao... Hàng hóa của nước ta có thể tự do trao đổi trên thế giới
miễn là người ta chịu mua với giá mà mình có thể kiếm được lời chút ít... Số người nghèo
ít đi, số người giàu tăng lên, khoảng cách giữa giàu nghèo càng ngày càng tăng...

Về mặt lý thuyết cũng như mọi quan hệ giao lưu quốc tế, quá trình toàn cầu hóa phải
được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi, không ép buộc lẫn nhau
và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tuy nhiên trên thực tế thì nguyên tắc
đó thường xuyên bị vi phạm, thậm chí vi phạm một cách trắng trợn.

Mọi người đều thấy rằng, cái thế giới hiện nay xem ra chẳng có chút bình đẳng nào giữa
các quốc gia, giữa nước lớn và nước bé, giữa nước giàu và nước nghèo, giữa nước mạnh
và nước yếu.

Một cường quốc như Hoa Kỳ, tự cho mình là có nhân quyền nhất trên thế giới thì khi
tham gia Liên hiệp quốc (LHQ) lại không có một chút khát niệm nào về "quốc quyền",
tức là quyền bình đẳng của mọi quốc gia thành viên. Họ khăng khăng giữ lấy cái ghế
trong Hội đồng bảo an LHQ, có quyền phủ quyết mọi quyết định, dẫu cho quyết định đó
chỉ một mình nước Mỹ không ưng. Họ tự cho mình có quyền đánh vào Irắc, một thành
viên của LHQ, bất chấp sự phản đối của tổ chức này, với lý do lrắc có vũ khí hủy diệt

10
như vũ khí hóa học và sinh vật. Trong lúc đó quân đội Mỹ tha hồ dùng chất độc màu da
cam trong chiến tranh Việt Nam trước đây thì họ cho là chuyện bình thường.

Các nước lớn tự cho mình đưa ra những quyết định cực kỳ vô lý và bắt mọi quốc gia khác
phải theo, nếu không thì họ có quyền trừng phạt, kể cả bằng mọi vũ trụ. Một ví dụ: khi họ
đã sản xuất đủ số lượng vũ khí hạt nhân rồi thì họ đòi các nước khác phải ký Hiệp định
không sản xuất và phổ biến vũ khí hạt nhân. Nếu đó là một Hiệp định mang tính bình
đẳng giữa các quốc gia thì phải có hai điều: Một, từ nay không nước nào được sản xuất
vũ khí hạt nhân nữa. Hai. nước nào sản xuất vũ khí ấy rồi thì phải hủy bỏ cho hết mới
thôi.

Thật mỉa mai cho các nước lớn khi họ lờ đi những luật lệ thông thường và đơn giản như
vậy.

Thế giới này có một tổ chức lớn nhất bao trùm lên toàn cầu: Đó là Liên hợp quốc. Tuy
LHQ có làm được nhiều việc nhưng đụng đến những việc động trời thì nó cũng đành chịu
thua các cường quốc. Ông Tổng thư ký có phản đối Mỹ đánh Irắc đi chăng nữa nhưng
vẫn cứ phải ngồi nhìn chiến tranh hủy diệt xảy ra. để rồi sau đó làm được cái việc là kêu
gọi các nước góp phần tái thiết nước bại trận.

Trong bối cảnh như vậy của thế giới hiện nay, người ta có thể đặt câu hỏi: Phải chăng
toàn cầu hóa là Mỹ hóa hoặc chí ít cũng là phương Tây hóa? và phải chăng toàn cầu hóa
sẽ làm sâu sắc hơn cái quy luật "cá lớn nuốt cá bé"?

Toàn cầu hóa về kinh tế sẽ kéo theo toàn cầu hóa về mọi mặt, nhất là về mặt văn hóa.
Thử nhìn ở Việt Nam ta cũng đủ thấy. Chưa hội nhập được bao nhiêu mà chúng ta đã
phải ra sức chống chọi với các sản phẩm của cái trào lưu văn hóa đồi trụy đang tràn ngập.
Tiếp thu kỹ thuật, công nghệ cao thì có khó khăn nhưng tiếp thu trào lưu âm nhạc hiphop,
kể cả mở rộng thị trường thời trang hip-hop thì nhanh chóng hơn nhiều (báo Thanh niên
đã nhận định rằng trong vài năm tới, thời trang hip-hop có thể sẽ bùng nổ ở ta như đang
diễn ra tại Nhật bản và Hàn quốc). Cái bản sắc văn hóa dân tộc mà ta đang muốn nó càng
ngày càng đậm đà thì nói chung rất dễ dàng trở thành nhạt nhòa hoặc biến dạng. Vâng,
toàn cầu hóa là cơ hội của chúng ta và cũng là thách thức đối với chúng ta. Có nghĩa là:
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có cái được và có cái mất... Chỉ mong cho
cái được nhiều hơn cái mất.

Nguồn: Tạp chí Trí tuệ

http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Hanh-
Dong/Toan_cau_hoa_duoc_va_mat/

XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ VÀ QUAN ĐIỂM ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA

Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại.
Đó là quá trình nhất thể hoá nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế và
khoa học- kĩ thuật.

11
Nó làm gia tăng phân công lao động quốc tế, kinh tế thị trường phát triển sâu rộng trên phạm
vi toàn thế giới, nó tác động mẽ đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, rút ngắn khoảng
cách giữa các quốc gia, dân tộc và rộng mở các mối liên hệ quốc tế. Với những biểu hiện đó, toàn
cầu hoá được hiểu trước hết là quá trình phổ biến hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, tri
thức, những hoạt động, những định chế, mô hìnhhhhtheo chiều hướng đi tới sự thống nhất trong
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự đan xen giữa yếu tố khách quan và chủ quan đó đã làm
cho toàn cầu hoá, về bản chất, trở thành quá trình đầy mâu thuẫn, chứa đựng cả mặt tích cực và
tiêu cực đối với từng quốc gia cũng như toàn thế giới. Những mâu thuẫn này đang ngày càng gay
gắt tạo nên mảng tối của bức tranh hai mặt toàn cầu hoá, đó là sự cạnh tranh bất bình đẳng, sự
lũng đoạn của tư bản độc quyền, bất công xã hội, thất nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèooooThậm
chí, mặt trái của toàn cầu hoá còn đe doạ đến các giá trị văn hoá dân tộc của nhiều quốc gia, đặc
biệt là các nước đang phát triển về những nguy cơ bị áp đặt bởi các giá trị phương Tây làm mất
bản sắc truyền thống, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trước những tác động hai mặt đó
của toàn cầu hoá đã buộc các nước phải hoạch định chiến lược phát triển cho phù hợp với những
xu thế thời đại mới đồng thời vượt qua những thách thức, những nguy cơ để hội nhập thành công,
nhất là đối với nhóm các quốc gia đang phát triển, những nước được coi là bị tổn thương nhiều
nhất trong quá trình toàn cầu hoá.

Nằm trong nhóm các nước đang phát triển, Việt Nam sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi
mới đã đạt được những thành tựu vượt trội về các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội. Khởi xướng
và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định phải tiến hành đổi mới đồng
bộ, trong đó có đổi mới tư duy và hoạt động đối ngoại. Khẩu hiệu 'Việt Nam sẵn sàng là bạn, là
đối tác tin cậy của bạn bè quốc tế' như Đại hội IX đề ra là sự khẳng định tư tưởng hội nhập đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại của nước ta. Đường lối đối ngoại đúng đắn, hợp
xu thế thời đại đó của Đảng ta đã giúp Việt Nam đứng vững trong cơn lốc sụp đổ của hệ thống xã
hội chủ nghĩa trên thế giới vào đầu những năm 90 của thế kỉ XX, đồng thời đưa Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay.

Toàn cầu hoá và sự tác động của nó đã được Đảng ta nhận thức từ rất sớm. Trong Văn kiện
Đại hôị IX của Đảng cộng sản Việt Nam, lần đầu tiên đã đề cập đến xu thế toàn cầu hoá trên lĩnh
vực kinh tế, theo đó toàn cầu hoá được quan niệm 'là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị các nước tư bản phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừ
có hợp tác vừa có đấu tranh'( Văn kiện Đại hội IX của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2001,tr.64). Trước sự vận động phát triển của quá trình toàn cầu hoá diễn ra vào đầu thế kỉ XXI,
những quan điểm của Đảng tiếp tục được bổ sung, làm rõ trong Đại hội X(4/2006): 'Toàn cầu hoá
kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn,
thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế- thương
mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệệệệgiữa các
nước ngày càng gay gắt'( Văn kiện Đại hội X của Đảng, NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội, 2006,
tr.73). Từ thực tiễn hội nhập quốc tế, mà hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ thể, Đảng ta luôn
nhận thức rõ tính chất hai mặt 'vừa hợp tác vừa đấu tranh' của tất cả các nước tham gia quá trình
toàn cầu hoá. Hợp tác và đấu tranh để nhằm thực hiện mục tiêu thúc đẩy cạnh tranh đồng thời giữ
vững các nguyên tắc về lợi ích dân tộc. Đây là hai mặt có quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể
tách rời của quá trình hội nhập quốc tế. Nhất quán quan điểm đó, ngay từ Hội nghị TW 3 khoá
VII (1992), Đảng ta đã chỉ rõ một trong bốn phương châm đối ngoại là: 'nắm vững hai mặt hợp
tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế'. Một khi lợi ích trùng hợp thì có thể hợp tác, trái lại thì
phải đấu tranh một cách thích hợp. Trong hợp tác có đấu tranh nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc, thiết
lập quan hệ bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình. Đấu tranh để củng cố, mở rộng hợp tác
phát triển chứ không thủ tiêu hợp tác. Trong giai đoạn hiện nay, trước những diễn biến quốc tế
phức tạp, khó lường do sự đan xen lợi ích giữa các thực thể trong quá trình toàn cầu hoá, Đảng ta

12
vẫn kiên trì mục tiêu đa phương hoá, mềm dẻo, linh hoạt trong các hoạt động đối ngoại đồng thời
giữ vững nguyên tắc mang tính bất biến của lợi ích dân tộc. Đại hội IX của Đảng (2001) đã đưa ra
quan điểm toàn diện của Đảng trong hợp tác quốc tế, đó là ' chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng Xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường'. Nghị quyết 07- NQ/TW (27-11-2001) của Bộ chính trị
về hội nhập kinh tế quốc tế đã làm rõ hơn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ cụ
thể của hội nhập kinh tế quốc tế và đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo thành nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước.

Trên cơ sở thế và lực mới của đất nước được tạo lập qua 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng
(4/2006) đã nêu rõ quan điểm:'Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng
hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác' (Văn kiện Đại hội X của Đảng, NXB chính trị quốc gia,
Hà Nội,2006, tr.112). Đại hội không chỉ nhấn mạnh tính chủ động, mà cả tính tích cực của nước
ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện quan điểm, đường lối đó, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu rất quan trọng. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, hiện nay chúng ta đã có
quan hệ ngoại giao với 174 nước, quan hệ thương mại với 220 nước và vùng lãnh thổ, thu hút hơn
8000 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký hơn 100 tỷ USD. Không chỉ quan hệ với các nhà nước,
Việt Nam còn khai thông mối quan hệ với các tổ chức chính trị, kinh tế, tài chính, tiền tệ thế giới
như các Diễn đàn quốc tế và khu vực, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ
chức hợp tác Châu Á- Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO)...đồng
thời có những đóng góp tích cực trong các tổ chức chính trị quan trọng như Hội đồng Bảo an Liên
Hợp Quốc (với vai trò Uỷ viên không thường trực) và ASEAN( với vai trò Chủ tịch năm 2009-
2010) không ngừng phát huy vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Trên cơ sở tôn trọng xu thế
khách quan của quá trình toàn cầu hoá, bằng sự chủ động, sáng tạo, với bản lĩnh của một Đảng
cầm quyền có bề dày lịch sử gần 80 năm, Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo thành
công sự nghiệp đổi mới, trong đó có đổi mới về quan hệ quốc tế nhằm từng bước đưa nước ta
vượt qua những nguy cơ, đón những thời cơ để hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế quốc tế,
nâng cao tầm vóc Việt Nam.

Ths.UÔNG MINH LONG - Khoa Xây dựng Đảng

http://truongchinhtritohieuhp.edu.vn/vn/index.asp?
menuid=813&parent_menuid=771&fuseaction=3&articleid=5389

Toàn cầu hóa có dẫn tới ngõ cụt?

Toàn cầu hóa mang lại nhiều cơ hội mới nhưng cũng chứa đựng nhiều khó khăn và thách
thức cho mỗi quốc gia, mỗi khu vực. Trong xu thế toàn cầu hóa, văn hóa cũng chịu
những tác động có mặt tiêu cực nhưng cũng có mặt tích cực nếu ta hướng nó vào con
đường nhân văn, đối thoại giữa các nền văn hóa hơn là đối đầu...

Từ những năm 90 thế kỷ trước, hiện tượng toàn cầu hóa đã được khẳng định là chặng
đường mới của chủ nghĩa tư bản, nó kèm theo nhiều tai họa, khó khăn và thách thức chưa
từng có cho nhân loại: Hố giàu nghèo ngày một tăng giữa các quốc gia và trong từng
quốc gia, sự tàn phá môi trường thiên nhiên, sự tài chính hóa cực đoan của kinh tế gây
nên cuộc khủng hoảng ngân hàng thế giới hôm nay. Tình hình bất ổn về mọi mặt là kết
quả một nền văn hóa “đồng tiền là thống soái”.

13
Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ trông xa nhìn rộng, e là với tình trạng này, nhân loại có thể tự
diệt vong (auto destruction) hoặc trở lại sự man rợ (triết gia Pháp trứ danh Edgar Morin).
Chủ nghĩa tiêu thụ khiến con người cạnh tranh nhau ác liệt, bị tha hóa, xã hội chỉ còn là
thị trường.

Việc đánh bom khủng bố ở New York (11/9/2001) làm cho giả thuyết của Huntington
được coi là có lý: Sau chiến tranh lạnh sẽ là các cuộc chiến tranh đụng độ giữa các nền
văn minh. Thực ra, nhất thiết có phải như vậy, nhất thiết toàn cầu hoá chỉ có thể dẫn đến
ngõ cụt?

Nhà luật học Bỉ Thierry Verhelst bác quan điểm bi quan ấy và trả lời là “không!” trong
một bài nghiên cứu của tập san Phát triển và các nền văn minh (số 369 - tháng 12/2008
Lebret Irfed, Paris). Tôi xin tóm lược và trích dịch để các bạn tham khảo.

Theo tác giả, toàn cầu hóa có mặt tiêu cực, nhưng cũng có mặt tích cực nếu ta hướng nó
vào con đường nhân bản, nhấn mạnh vào hướng văn hóa hơn là kinh tế, đối thoại giữa
các nền văn hóa hơn là đối đầu!

Thời đại chúng ta là một thời đại trục (période axiale) đối với nhân loại, y như thời đại đồ
đá mới hay thế kỷ Ánh sáng (thế kỷ 18) châu Âu, khi các giá trị tư duy của thế giới bị
đảo lộn và dẫn đến một kỷ nguyên mới, không dự đoán nổi. Không thể nào ý thức trước
được các thời đại Phục hưng, Đại cách mạng Pháp, sự kết thúc chủ nghĩa Apartheid ở
Nam Phi, sự sụp đổ bức tường Berlin...

Con người ngày nay cảm thấy phải có một sự thay đổi cơ bản về văn hoá, ý nghĩa cuộc
sống. Một cuộc thăm dò dư luận trong 43 nước (70% dân số thế giới) cho biết là những
giá trị cơ bản đang thoái lui, đặc biệt là lòng tin vào khả năng khoa học kỹ thuật có thể
giải quyết được các vấn đề đương đại, sự dấn thân ngày càng mạnh vào các vấn đề xã
hội và môi trường.

Chúng ta phải cố gắng tăng cường quan hệ quốc tế để gạt bỏ khuynh hướng toàn cầu hoá
áp đặt một khuôn mẫu kinh tế và văn hóa duy nhất. “Tương lai thuộc về phía đa dạng và
phong phú các nền văn minh thế giới bằng cách ảnh hưởng nhau về mặt văn hóa và tâm
linh”.

Chính toàn cầu hóa đã tạo điều kiện để tiếp biến văn hóa khác với thời thực dân, gạt bỏ
sự “Tây phương hóa” thế giới. Một sự tiếp biến văn hóa (acculturation) bình đẳng, có lợi
cho cả phương Tây và các xã hội truyền thống, cho cả nước giàu và nước nghèo. Phương
Tây cần lấy cảm hứng ở những nền văn hóa và tôn giáo nước ngoài gần với truyền thống,
mang lại nhiều ý nghĩa về cái đẹp cho cuộc sống hàng ngày. Phương Tây có thể tìm thấy
những giá trị sâu sắc, sự hài hòa và ý thức toàn vẹn. Ngoài ra, phương Tây cũng phải sử
dụng sinh khí, truyền thống của mình, chủ yếu trong Kitô giáo với những yếu tố trực
quan buổi sơ khai, tiền hiện đại để có thể vượt qua cuộc khủng hoảng về văn minh.

Mặt khác, một số xã hội truyền thống có lợi khi lấy cảm hứng ở những nét hiện đại mình
thiếu nhất, trong khi bảo tồn cái đẹp và cái mạnh của mình. Những ảnh hưởng qua lại ấy

14
và sự thực hiện những nét hiện đại tự thân sinh ra có thể giúp cho ta giải quyết những vấn
đề vật chất, mà vẫn giữ được bản sắc. Một cách nhìn mới, không thiên kiến tự tôn dân
tộc, cho phép ta nhìn ra những hình thái xã hội kinh tế mới không chỉ là những bản sao
lệch lạc của khuôn mẫu phương Tây. Không nên coi những khuôn mẫu mới ấy của hiện
đại hóa là thứ hư hỏng, đồi bại. Cần coi chúng như là những thể nghiệm tiếp biến văn hóa
vượt qua cái hiện đại phương Tây. Cách nhìn mới này đòi hỏi tư duy không đi ngược lại
từ tự tôn đến tự ti và đừng lý tưởng hóa đối tác một cách lãng mạn và ảo tưởng. Cần vượt
qua sự giữ truyền thống khô cứng cũng như hiện đại hóa không phương hướng!

Hữu Ngọc

http://suckhoedoisong.vn/20090410055638461p15c77/toan-cau-hoa-co-dan-toi-ngo-
cut.htm

Tác động của toàn cầu hóa đến an ninh các quốc gia và khu vực

Body

An ninh là điều kiện tiền đề để cho loài người tồn tại có trật tự. Một cá nhân muốn sinh tồn thì
phải có điều kiện tự nhiên của an ninh. Một xã hội muốn sinh tồn thì ngoài những điều kiện tự
nhiên tất yếu của nó còn cần phải có cả điều kiện xã hội của an ninh, bao gồm quốc gia có đủ
điều kiện để bảo vệ được mọi thành viên xã hội. Một quốc gia muốn sinh tồn thì ngoài việc cần
phải có đầy đủ các điều kiện trong nước đối với an ninh, còn cần phải có một môi trường an ninh
quốc tế.

Các chuyên gia cho rằng, một quốc gia cần phải hội đủ bốn yếu tố là: phải có một số lượng dân
cư nhất định, một lãnh thổ nhất định, một tổ chức chính quyền nhất định và đồng thời phải có chủ
quyền. Bốn yếu tố này không thể thiếu được đối với an ninh quốc gia. Ba yếu tố cư dân, lãnh thổ,
chính quyền, quốc gia phải bảo vệ bàng được. Vì, nếu một khi quốc gia bị mất đi một trong ba
yếu tố đó thì không còn là quốc gia nữa. Yếu tố chủ quyền cũng giống như ba yếu tố trên, ngoài
những đặc điểm cần có không thể thiếu được, nó còn có thuộc tính riêng tự thân để trở thành
nguyên nhân của việc quốc gia không được an ninh. Không nghi ngờ gì nữa, bảo đảm an ninh là
trách nhiệm quan trọng nhất của quốc gia, đối với khu vực là trách nhiệm của khu vực.

Toàn cầu hóa (Globalization) là "một xu hướng làm các mối quan hệ trở nên ít bị ràng buộc bởi
địa lý lãnh thổ", xuất hiện đầu tiên trong từ điển Anh vào năm 1961 và được sử dụng phổ biến từ
khoảng cuối thập niên 1980 trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện
tượng, một quá trình quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại.

Khu vực hóa là khái niệm được sử dụng để chỉ một hiện tượng hay khuynh hướng hợp tác hoặc
liên kết giữa các nước và hình thành những nhóm hoặc tổ chức khu vực hoạt động trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Khái niệm này đã có từ lâu, đặc biệt được nghiên cứu và viết nhiều sau
Chiến tranh thế giới thứ hai với sự nổi lên của các xu hướng các nước tập hợp thành những

15
nhóm khu vực ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Khu vực hóa là "sự dịch chuyển của hai hoặc nhiều
xã hội theo hướng liên kết chặt chẽ giữa chúng với nhau hơn".

Toàn cầu hóa và khu vực hóa là quá trình hình thành và phát triển các thị trường toàn cầu và khu
vực trước hết về kinh tế, giữa các nước thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hóa và
nguồn lực vượt qua hiên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành các định chế, tổ chức
quốc tế nhằm quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế.

Đánh giá tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế rất là khác nhau giữa các nước,
nhóm nước và nhóm xã hội trong mỗi nước. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế có những
tác động hết sức sâu sắc đến hầu hết mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của từng
nước và toàn bộ các mối quan hệ quốc tế. Tùy thuộc vào nhận thức và lợi ích mà họ được
hướng hoặc mất đi trong quá trình này, những người được lợi thì ủng hộ, những người thua thiệt
thì phản đối.

Các quan điểm khác nhau về toàn cầu hóa. Những người có quan điểm trung dung cho rằng,
toàn cầu hóa là một xu thế phát triển tất yếu của lịch sử, do những nguyên nhân khách quan và
chủ quan, vừa có những tác động tích cực và tiêu cực đối với tất cả các nước. Dù sao cũng
không thể phủ nhận xu thế toàn cầu hóa. Vấn đề đặt ra với các nước là làm thế nào để tận dụng
tết nhất các cơ hội do quá trình này tạo ra và đối phó hiệu quả với những thách thức.

Phái lạc quan ủng hộ toàn cầu hóa cho rằng toàn cầu hóa và hội nhập đã lạo ra những khả năng
mới để nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường cho
hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất. Do vậy, tăng khả năng tiêu thụ và tiếp cận các nguồn
lực cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh (nguyên liệu, vốn, công nghệ...), tạo điều kiện
thuận lợi để thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện mức sống trên loàn thế giới nhờ tăng trưởng
kinh tế và khả năng để mọi người được tiếp cận những hàng hóa, dịch vụ đa dạng phong phú
với giá cả hợp lý hơn. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế không phải là nguyên nhân gây
ra thất nghiệp và phát triển không đồng đều, mà chúng lại giúp tạo khả năng giải quyết những
vấn đề đó.

Những người thuộc trường phái chống toàn cầu hóa cho rằng, quá trình này gây ra nhiều tác
động tiêu cực về kinh tế, chính trị, xã hội đối với các nước và những tầng lớp dân chúng trong xã
hội. Những mặt trái của nó gây nhiều tác hại làm cho nhiều Công ty, Xí nghiệp bị phá sản và
hàng loạt người lao động mất việc làm, ngay cả những người lao động tại các nước đang phát
triển cũng mất việc làm vì sự cạnh tranh cao của lao động giá rẻ ở các nước đang phát triển, làm
gia tăng sự bóc lột và bất công trong mỗi xã hội và giữa các nước, làm khoét sâu hố ngăn cách
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội và giữa các nước phát triển với các nước đang
phát triển, đe dọa nền dân chủ và sự ổn định xã hội, uy hiếp độc lập tự chủ các quốc gia, phá
hoại truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc, phá hủy hoại môi trường và làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên, là nguyên nhân gây khủng hoảng tài chính và kinh tế. Nhiều nhà phân tích

16
cho rằng, các nước đang phát triển chính là các nước phải gánh chịu những thua thiệt và bất lợi
lớn nhất.

Thật khó có kết luận chính xác trong cuộc tranh cãi giữa các quan điểm khác nhau về toàn cầu
hóa. Dựa trên những quan điểm lý luận về kinh tế, xã hội và kết quả của các công trình nghiên
cứu thực tiễn, chúng tôi nêu một số tác động và hệ quả chủ yếu của toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế.

Tác động của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đối với an ninh của các quốc gia.

Quan niệm về an ninh theo ý kiến của Bari Biuđơn thể hiện ở các lĩnh vực sau đây.

An ninh quân sự, liên quan đến cảm nhận về sự tồn tại của các mối đe dọa, tấn công, xâm lược
của các lực lượng quân sự làm tổn hại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

An ninh chính trị liên quan tới sự ổn định chính trị, sự tồn tại các thiết chế chính trị, hệ thống nhà
nước và các ý thức hệ là nền tảng tư tường của quốc gia.

An ninh kinh tế liên quan đến khả năng tiếp cận các nguồn lực, tài chính, thị trường cần thiết bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước,
có thể ngăn ngừa và đối phó có hiệu quả với những biến động của môi trường trong nước và
quốc tế, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị - xã hội và tăng cường khả năng quốc
phòng. An ninh kinh tế bao hàm cả an ninh năng lượng, an ninh lương thực và an ninh tài chính.

An ninh xã hội gắn với sự duy trì và bảo vệ hợp lý và phù hợp với tiến trình phát triển các giá trị
cơ bản của cộng đồng các dân tộc trong mỗi quốc gia, như ngôn ngữ, tôn giáo, truyền thống văn
hóa, bản sắc dân tộc, phong tục tập quán.

An ninh môi trường liên quan đến việc duy trì và bảo vệ hệ thống sinh thái, môi trường bảo đảm
cho con người có thể sống yên ổn và hoạt động bình thường.

An ninh con người liên quan đến sự bảo vệ các quyền của con người chống lại những vi phạm
từ phía nhà nước hay xã hội (Bộ Ngoại giao, Vụ Hợp tác Kinh tế đa phương, tr. 228).

Những tác động đến vấn đề an ninh quốc gia và khu vực.

An ninh quân sự, an ninh kinh điển trong thời đại công nghệ cao.

Bắt đầu từ thập kỷ 70 thế kỷ XX, cuộc cách mạng công nghệ mới lấy công nghệ cao làm trung
tâm, các nước trên thế giới đều lấy công nghệ cao là lực lượng sản xuất trên mặt kinh tế, là sức
mạnh răn đe, là sức mạnh chiến đấu về mặt quân sự, là lực lượng ảnh hưởng về mặt chính trị và
là lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngày nay, các quốc gia phát triển trên thế giới, để tăng trưởng sức

17
mạnh tổng hợp của mình, đã không còn hạn chế ở việc bành trướng quân sự, như đánh thành,
cướp đất, tranh giành phạm vi thế lực hoặc cạnh tranh kinh tế theo ý nghĩa thông thường mà nó
đã hòa trộn trong sự đọ sức của nhiều lĩnh vực lấy công nghệ cao và đồng thời cũng làm cho các
lĩnh vực, kinh tế, quân sự đan xen nhau, tiến hành cạnh tranh mang tính chiến lược toàn cầu, lấy
sức mạnh tổng hợp của quốc gia làm mục tiêu, tạo nên những thay đổi trong mọi lĩnh vực.

Phát triển công nghệ cao sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự: công nghệ cao có đủ các đặc
điểm quần thể hóa, tổ hợp hóa, trí năng hóa, sản nghiệp hóa... nó tràn ngập vào mọi phương
diện xã hội. Trong đó, công nghệ thông tin là nòng cốt của nhóm công nghệ cao và xu thế toàn
cầu hóa của cuộc cách mạng thông tin đang đưa loài người tiến đến xã hội thông tin hóa. Về mặt
quân sự phát triển quân sự vốn rất gắn bó với khoa học công nghệ, nay công nghệ cao làm cỗ
máy cho quân sự phát triển gấp bội.

Phát triển công nghệ cao có nhiều ảnh hưởng lớn đến an ninh quân sự khu vực. Sự phát triển
của khoa học công nghệ và tiến bộ của công nghệ quân sự trực tiếp làm nổ ra các cuộc cách
mạng quân sự mới rộng lớn, làm cho các hoạt động quân sự phải chịu những tác động với mức
độ chưa từng có. Sự ứng dụng công nghệ thông tin một cách rộng rãi trong lĩnh vực quân sự đã
dẫn đến việc phát triển hệ thống vũ khí có sự thay đổi căn bản, thậm chí là có bước nhảy vọt
vượt thời đại. Sự phát triển nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng
làm cho cục diện quân sự thế giới nổi lên một xu thế phát triển vừa đơn cực vừa đa cực, hình
thành một an ninh quân sự kiểu mới "vừa hiệp đồng hợp tác, vừa cạnh tranh đối kháng, trong đó
lấy hợp tác là chủ yêsu" (Vương Dật Châu, 2004). Phát triển của công nghệ cao làm cho cảnh
tượng sắp tới của hòa bình và chiến tranh lẫn lộn với nhau, dẫn đến tình hình tổng thể của an
ninh khu vực và thế giới trong thế kỷ XXI sẽ càng phức tạp và biến hóa đa dạng.

An ninh thị trường

Quá trình toàn cầu hóa có xu hướng thống nhất các thị trường quốc gia thành thị trường khu vực
và toàn cầu, làm cho sự phân công lao động quốc tế trở nên sâu rộng. Do vậy, làm cho các nước
trở nên tùy thuộc lẫn nhau ở mức độ cao hơn. Với sự phát triển đa dạng của các công ty xuyên
quốc gia, thế giới gắn kết chặt chẽ hơn. Thực tế không nước nào phát triển mà không gắn kết
với thị trường, vốn và công nghệ của các nước khác. Sự phát triển về an ninh thị trường của các
quốc gia này càng phụ thuộc vào nhau hơn. Khó có sự phát triển bền vững về an ninh cho một
số hoặc một quốc gia nếu bị thất bại về kinh tế.

An ninh kinh tế và ảnh hưởng của nó đối với an ninh khu vực

Cùng với sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và tri thức hóa kinh tế, ngày càng có nhiều người
nhận thức rõ hơn về mối đe dọa đối với các nước không phải là sự tiến công xâm lược về quân
sự nữa mà chính là sự tụt hậu về phát triển, nghèo đói và kém khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Nước nào có nền kinh tế phát triển bền vững, làm chủ được khoa học công
nghệ, có năng lực cạnh tranh quốc tế cao, hội nhập tết với nền kinh tế thế giới và khu vực, về cơ

18
bản sẽ đạt mức độ an ninh cao. Như vậy, trong một thế giới toàn cầu hóa và tri thức hóa, hầu
như tất cả các nước đều dành ưu tiên hàng đầu cho phát triển kinh tế và đặt vấn đề an ninh kinh
tế là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của chiến lược an ninh quốc gia.

Vấn đề an ninh kinh tế đang thay đổi cục diện chiến lược quốc tế, thay đổi hình thái đối kháng
quốc tế như các thủ đoạn cấm vận kinh tế và thường dễ đi đến kết cục là thỏa hiệp. Vấn đề an
ninh kinh tế đã thay đổi phương thức và mục tiêu hành động. Suy tính từ khía cạnh an ninh kinh
tế, lực lượng an ninh các nước sau chiến tranh lạnh bao gồm quân đội, cơ quan tình báo, đã liên
tiếp có sự điều chỉnh tương đối lớn về phương thức và mục tiêu hành động. Các quan chức của
nhiều nước đã từng công khai tuyên bố cơ quan tình báo của mình phải phục vụ cho lợi ích kinh
tế của mình, lợi ích cho xí nghiệp của mình. Hiện nay, chiến tranh tình báo kinh tế có thể chia
làm hai loại: một là "chiến tranh tình báo vĩ mô", tức là nấm rõ hành động và chính sách lớn liên
quan đến phát triển kỹ thuật và công nghệ toàn cầu và khu vực của quốc gia, hai là "chiến tranh
tình báo vi mô ", nghĩa là tập trung thu thập tình báo kinh tế, khoa học công nghệ để phục vụ cho
xí nghiệp nước mình.

Văn hóa truyền thông và bản sắc dân tộc

Vấn đề gìn giữ văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc ngày càng trở thành mối quan tâm của
các nước và có xu hướng được coi là một nội dung của khái niệm an ninh quốc gia. Bởi quá trình
toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng giao lưu quốc tế và tính đồng nhất trên nhiều
lĩnh vực đời sống xã hội. Các nền kinh tế mạnh ảnh hưởng nhiều đến các nước khác. Nhiều giá
trị vốn dĩ xuất phát từ một nước, thông thường là những nước lớn, có nền kinh tế mạnh, được
thừa nhận và trở thành những giá trị gần như chung của các xã hội khác nhau. Nhiều giá trị riêng
của dân tộc bị xói mòn và mất dần ảnh hưởng. Do vậy, cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội
nhập, cũng đồng thời diễn ra quá trình các nước bị mất dần phong tục tập quán, làm xói mòn dần
bản sắc văn hóa dân tộc Những giá trị chung của con người với khuynh hướng đồng nhất ở góc
độ nào đó hay có thể lai tạp nhiều giá trị của các nền văn hóa khác nhau đã và đang diễn ra ngày
càng rõ.

Vấn đề môi trường

Sự phát triển toàn cầu hóa đã và đang tác động đến môi trướng, nhất là các nước đang phát
triển. Sự phát triển kinh tế và quá trình công nghiệp hóa ở các nước làm cho nguồn tài nguyên
thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, rừng bị tàn phá, không khí và các nguồn nước bị ô nhiễm. Từ đó
trực tiếp hay gián tiếp dẫn đến lũ lụt lớn thường diễn ra ở nhiều nơi, hiện tượng thiếu nước sinh
hoạt, sa mạc hóa đất đai... đe dọa an toàn cuộc sống con người và ảnh hướng xấu đến các hoạt
động kinh tế-xã hội. Từ đó an ninh môi trường là vấn đề cấp thiết cần được quan tâm hàng đầu.

An ninh sinh thái là loại an ninh có tính tập thể, ảnh hường của nó sẽ không hạn chế trong một
quốc gia và trong một khu vực mà nó còn lan rộng sang khu vực khác, thậm chí có tính toàn cầu.
Vì thế, trước những thách thức về môi trường và tài nguyên chỉ có thể là hợp tác quốc tế. Nếu

19
dùng đối kháng thì không những chẳng giải quyết được vấn đề, mà ngược lại sẽ còn làm cho
tình hình thêm xấu đi. Vấn đề môi trường nảy sinh trong một quốc gia những ảnh hưởng đến
toàn cầu, như vấn đề cháy rừng, sinh ra lượng lớn khí cacbonic làm cho trái đất nóng lên... Nếu
môi trường thoái hóa nghiệm trọng do tăng trướng dân số, hoặc do tài nguyên cạn kiệt, dẫn đến
sự di dân ở các quốc gia và khu vực, nhất định sẽ hình thành sự đe dọa đến tính ổn định quốc
tế.

Ngày nay có nhiều nước đặt vấn đề an ninh môi trường lên vị trí quan trọng trong chính sách và
gắn an ninh môi trường với an ninh quốc gia. Bởi kẻ thù bây giờ hoàn toàn khác, nó nằm chính
trong môi trường tự nhiên - xã hội, gắn chặt chẽ với đời sống hoạt động kinh tế - xã hội của mỗi
cộng đồng dân cư. Đối phó với những đe dọa môi trường hoàn toàn khác đối phó quân sự, chính
trị.

Mối quan hệ chủ yếu của vấn đề môi trường với an ninh, các vấn đề nghèo khổ, không công
bằng, thoái hóa môi trường và xung đột tác động lẫn nhau theo phương thức phức tạp và liên
quan chặt chẽ với nhau. Môi trường suy thoái, sức chịu đựng của hệ thống sinh thái xuống cấp
có thể dẫn đến sự thiếu hụt tài nguyên mang tính khu vực. Kết quả là sự thiếu hụt hoặc là sự tiêu
hao dồn nén hoặc là sự tranh giành tài nguyên sẽ nảy sinh ra những xung đột quân sự và hình
thành những thách thức đối với an ninh quốc gia. Các loại xung đột do vấn đề môi trường gây
nên: trong vấn đề quản lý tầng khí quyển, không gian vũ trụ, biển quốc tế, những tài nguyên,
xung đột về ô nhiễm vượt qua biên giới quốc gia, chiến tranh sinh thái... Nói chung, những năm
gần đây, vấn đề môi trường trở thành điểm nóng trong quan hệ quốc tế, làm cho quan hệ quốc tế
nảy sinh những biến đổi sâu sắc.

Vấn đề an ninh con người

Sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa làm cho việc giao lưu giữa các quốc gia cũng như giữa
các công dân của các nước với nhau ngày càng trở nên thuận tiện và chặt chẽ thông qua
phương tiện truyền thông, thư tín, điện thoại, fax, internet, du lịch, làm ăn... Điều này cùng với
quá trình tự do hóa và phát triển kinh tế thị trường bén trong mỗi nước sẽ góp phần làm tăng
nhận thức của mỗi cá nhân về thế giới và xã hội, đặc biệt về vấn đề dân chủ và quyền con
người. Thực tế trên thế giới những năm qua cho thấy, vấn đề an ninh con người được quan tâm
nhiều hơn, thậm chí còn cho rằng vấn đề an ninh con người là mục tiêu hàng đầu về vấn đề an
ninh quốc gia. Suy cho cùng, quan điểm nhấn mạnh an ninh con người là nhấn mạnh dựa trên
sự tôn trọng cá nhân, là thành tố quan trọng nhất của xã hội.

Sự ổn định và trật tự xã hội và cuộc sống yên bình

Sự phát triển của toàn cầu hóa và hội nhập tạo điều kiện cho sự phát triển và lan truyền của
nhiều tệ nạn, như mại dâm, buôn bán và sử dụng ma túy, tội phạm quốc tế, khủng bố quốc tế,
làm tăng mối đe dọa tới sự ổn định và trật tự xã hội và cuộc sống yên bình, an toàn của con
người.

20
Cơ hội và thách thức

Dưới tác động chủ yếu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng hòa bình hợp tác
phát triển và vai trò to lớn của các Công ty xuyên quốc gia, quá trình toàn cầu hóa ngày nay đã
đạt đến một đỉnh cao mới và trở thành xu thế bao trùm trong quan hệ quốc tế Tình hình này có
tác động sâu rộng tới mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong các nước cũng như
quan hệ giữa các quốc gia. An ninh quốc gia và an ninh quốc tế đứng trước những biến chuyển
mới bao gồm cả cơ hội và thách thức. Quá trình toàn cầu hóa làm ra đời và củng cố mạng lười
dày đặc các thiết chế quốc tế, đặc biệt là các tổ chức quốc tế trong mọi lĩnh vực. Vai trò ngày
càng tăng của các tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế góp phần hạn chế và giúp giải quyết
xung đột giữa các nước, duy trì và củng cố hòa bình, an ninh quốc tế. Thông qua các thiết chế và
tổ chức quốc tế này các nước, đặc biệt là các nước vừa và nhỏ, có khả năng bảo vệ tốt hơn lợi
ích quốc gia cũng như an ninh của mình và có vị thế ít bất lợi hơn trong quan hệ với các nước
lớn. Xu thế toàn cầu hóa cũng tạo ra những cơ hội quan trọng như thị trường, vốn, công nghệ,
cạnh tranh nâng cao hiệu quả kinh tế... mà các nước có thể tận dụng để phát triển kinh tế xã hội,
tạo cơ sở để đảm bảo an ninh quốc gia.

Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt các nước trước rất nhiều thử thách đe dọa chính trị, an ninh
của quốc gia nếu bản thân họ không kiểm soát và xử lý tết các vấn đề nảy sinh. Những thách
thức này rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực.

Về kinh tế, thách thức lớn nhất là vấn đề cạnh tranh quốc tế, làm thế nào để nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp trong nước trước các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài trong điều kiện toàn cầu hóa và mở cửa là một bài toán khó. Đặc biệt là các nước
đang phát triển. Để thích ứng với xu thế toàn cầu hóa, các nước đều phải tiến hành các điều
chỉnh và cải cách cần thiết từ cơ cấu kinh tế, đầu tư đến các chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống
luật lệ và thực hiện các chính sách và luật lệ để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thông
thoáng, thuận lợi cho việc thu hút đầu tư và các hoạt động kinh tế, đồng thời phù hợp với luật
chơi chung của thế giới. Đây là vấn đề khó khăn đòi hỏi các nước phải đối mặt. Sai lầm trong
bước đi và phương thức tiến hành có thể dẫn đến những hậu quả tai hại, thậm chí cả những đổ
vỡ về kinh tế, xã hội.

Về chính trị, quá trình toàn cầu hóa đặt ra những vấn đề phải xử lý, liên quan đến độc lập chủ
quyền, đến hệ thống chính trị và các thiết chế xã hội. Tính độc lập của mỗi quốc gia sẽ bị thách
thức bởi sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Thẩm quyền và khả năng hành xử
theo ý chí của riêng mỗi quốc gia bị hạn chế . Sự ổn định của hệ thống chính trị và các thiết chế
xã hội sẽ luôn luôn chịu áp lực của những đòi hỏi mới để phù hợp với quá trình tự do hóa thương
mại và mở cửa. Sự lợi dụng, can thiệp của thế lực bên ngoài vào các nước luôn luôn là vấn đề
có thể xảy ra.

Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế toàn cầu hóa, an ninh thật sự của một quốc gia là
phải đảm bảo kết hợp được sự cải thiện sức mạnh tổng hợp quốc gia với mở cửa ra bên ngoài.

21
Suy cho cùng, an ninh không tách rời vấn đề cùng tham gia và cùng hợp tác, không thể không
gắn liền những đặc điểm của thời kỳ mới. Việc thực hiện an ninh khu vực, an ninh quốc tế càng
phải dựa vào sự xác lập quan niệm an ninh kiểu mới, càng phải dựa vào "ý thức cùng hội cùng
thuyền " giữa các nước trước những vấn đề chung mà nhân loại gặp phải để giải quyết vì hạnh
phúc nhân loại.

http://wto.nciec.gov.vn/Lists/Nghin%20cu%20phn%20tch%20tnh%20hnh%20kinh%20t
%20Vit%20Nam/Attachments/DispForm.aspx?ID=157

Về vấn đề toàn cầu hóa


ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ KHPL SỐ 3/2001

VỀ VẤN ĐỀ “TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ”

NGUYỄN XUÂN TẾ
Tiến sĩ Khoa học chính trị, ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh

1. Bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế

Từ mấy thập kỷ cuối thế kỷ vừa qua, sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất đã phá
vỡ mọi hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người về mọi mặt giữa các quốc
gia.

Điều này đã khiến các nền kinh tế của các quốc gia gắn bó hữu cơ và tùy thuộc vào nhau. Tính
thẩm thấu lẫn nhau của các nền kinh tế đẩy quốc tế hóa kinh tế lên một thời kỳ mới, thời kỳ
toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. Phân công lao động quốc tế dẫn đến phương châm kinh
doanh lấy thế giới làm nhà máy của mình, lấy các quốc gia khác làm phân xưởng của mình
đặng lợi dụng ưu thế kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy
quốc tế hóa sản xuất phát triển nhanh chóng

Căn cứ vào xu thế toàn cầu hóa kinh tế diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc
sống của tất cả các dân tộc trên thế giới, năm 1997, Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đã đưa ra nhận
xét: “Sự tham gia mạnh mẽ hơn của các nước đang phát triển là một trong những nét nổi bật
của quá trình mở rộng thương mại và trao đổi vốn trên thế giới trong mười năm qua”. Thật
vậy, nhịp độ hội nhập của nền kinh tế thế giới thực tế đã tăng nhanh đáng kể trong những
thập kỷ gần đây cùng với những bước phát triển sâu rộng của thương mại trên khắp toàn cầu
trong mọi lĩnh vực, có nghĩa là không chỉ trao đổi hàng hóa mà cả trao đổi dịch vụ và vốn nữa.

Trào lưu này không phải hoàn toàn mới lạ và chúng ta đã từng thấy một hiện tượng tương tự
vào cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, toàn cầu hóa ngày nay tác động sâu sắc đến một số lượng
đông đảo các nước, không chỉ ở Mỹ, ở châu Âu, mà còn ở các nước Đông Á và Đông Nam Á
nữa. Chính quy mô địa lý của trào lưu hiện nay đã thúc giục chúng ta tìm hiểu những đặc điểm
của phong trào này.

Về vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, ở nước ta nhiều nhà nghiên cứu có uy tín cũng đã đề cập và
cùng thống nhất nhận định là trong mấy thập kỷ gần đây sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ hiện đại, nhất là cách mạng về thông tin đã dẫn đến bước phát triển nhảy vọt là
toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế.

Quả vậy, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ thúc đẩy phân công lao động quốc tế ngày
càng sâu rộng, từ phân công theo sản phẩm chuyển dần sang phân công theo chi tiết của sản

22
phẩm. Chẳng hạn hãng Bôinh đã sử dụng 600 công ty ở các nước khác nhau để sản xuất các
chi tiết, linh kiện của máy bay Bôinh 747, hoặc một xe ô tô con của hãng Vônphaghen (Đức)
được lắp ráp bằng các chi tiết do các chi nhánh của nó sản xuất ở 16 nước. Rất rõ ràng là các
nền kinh tế quốc gia quan hệ chằng chịt, đan xen lẫn nhau đến mức tạo ấn tượng rằng kinh tế
thế giới là một “mạng lưới” khổng lồ, rất đa dạng, không thuần nhất, trong đó các nền kinh tế
quốc gia là những điểm nút, vừa bảo vệ tính tự chủ, vừa tác động lẫn nhau và chịu ảnh hưởng
của cả “mạng lưới”.

Thêm vào đó là sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Ở Nhật Bản, nguyên Thủ tướng Obuchi đề ra mục tiêu của phát triển công nghệ
thông tin là đến năm 2005 tạo ra một xã hội trong đó mọi người có thể sử dụng các dịch vụ
Internet và thu thập, xử lý và gửi thông tin một cách tự do tùy ý. Một dẫn chứng nữa là sự
tăng lên nhanh chóng của việc sử dụng điện thoại di động ở Nhật bản, đặc biệt là sự bùng nổ
dữ dội của loại điện thoại di động i-mode do NTT DoCoMo cung cấp. Đây có thể là một điềm
báo trước cho sự kết thúc của một kỷ nguyên, trong đó máy tính cá nhân là một nền móng
thống trị duy nhất đối với những người sử dụng công nghệ thông tin.

Cũng cần phải chú ý là sự phát triển của các công nghệ cao (công nghệ sinh học, công nghệ
thông tin…) đã làm thay đổi chất lực lượng sản xuất của loài người, đã đưa loài người từ văn
minh công nghiệp lên văn minh tin học, đã tạo thành kinh tế tri thức, hình thành mạng tính
toàn cầu. Chính sự phát triển của công nghệ thông tin hiện đại đã rút ngắn đến mức cao các
khoảng cách, thậm chí còn rỡ bỏ các hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian giữa các
vùng trên thế giới. Các thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu hơn. Những sản phẩm của
Nike và Virgin được toàn thế giới biết đến.

Những thành tựu phát triển như mạng Internet đã làm cho thế giới trở thành “một ngôi làng
toàn cầu” trong tương lai gần.

Kết quả thật sự là hàng hóa và dịch vụ có thể được phát triển, được mua, được bán, và trong
nhiều trường hợp, thậm chí còn được giao nhận qua các mạng lưới điện tử. Thương mại điện tử
đem lại nhiều lợi thế về tiết kiệm chi phí, tính hiệu quả và thâm nhập thị trường hơn những
phương pháp mang tính vật lý truyền thống.

Ngoài ra còn phải kể đến sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản độc quyền
xuyên quốc gia, lực lượng chi phối toàn cầu hóa. Các công ty này là kết quả của quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất và tư bản. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các công ty lớn ở Tây
Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc thấy rõ sự khẩn thiết phải sáp nhập nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh trên thị trường.

Trên thế giới hiện nay có 60.000 công ty xuyên quốc gia với khoảng 500.000 chi nhánh ở nước
ngoài có tổng doanh số trên 10.000 tỉ USD, chiếm gần 40% tổng sản phẩm của thế giới, kiểm
soát 60% tổng thương mại thế giới, 80% FDI, 90% thành quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật
và chuyển giao công nghệ trên thế giới. Luân chuyển giữa các công ty xuyên quốc gia và trong
nội bộ các công ty ấy chiếm gần 2/3 tổng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, tài chính quốc tế.
Sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia này nhiều khi có thể làm khuynh đảo cả nền kinh tế
của một quốc gia, thách thức và làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước.

Sau nữa, cũng cần kể thêm vai trò của các tổ chức kinh tế, tài chính, thương mại quốc tế,
trước hết là: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Các tổ chức này có vai trò ngày càng to lớn đối với quá trình toàn cầu hóa. Sự ra
đời của chúng là kết quả của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, do nhu cầu của toàn cầu hóa kinh
tế, nhưng đến lượt mình, chúng lại trở thành nhân tố thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế cả bề rộng
lẫn chiều sâu.

WTO là một thể chế kinh tế toàn cầu chi phối hơn 90% tổng kim ngạch thương mại thế giới.
Chức năng chủ yếu của WTO là điều hành và thực thi các hiệp định thương mại đa phương và

23
hiệp định giữa một số bên cấu thành WTO; hoạt động với tính chất một diễn đàn cho các cuộc
thương lượng mậu dịch đa phương tìm kiếm các giải pháp xử lý tranh chấp thương mại, giám
sát các chính sách thương mại quốc gia, và hợp tác với các thiết chế quốc tế khác liên quan tới
hoạch định chính sách toàn cầu. Nhưng trong thực tế hoạt động của mình, WTO không dừng ở
phạm vi thương mại mà đã can thiệp sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, vượt qua mọi
biên giới quốc gia, áp đặt lên toàn thế giới những luật lệ có lợi cho sự thống trị của chủ nghĩa
tư bản.

Cũng trên phương hướng ấy, IMF và WB cũng can thiệp sâu vào các nước thông qua các luật lệ
của mình về tín dụng, tài chính, đầu tư. Điều đó thể hiện rất rõ qua việc IMF và WB tham gia
giải quyết khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở Thái Lan, Inđônêxia, Hàn Quốc, Liên bang Nga,
Braxin… trong thời gian vừa qua.

Có thể nói IMF, WB và WTO là những tổ chức đặt dưới sự chi phối của chủ nghĩa tư bản do Mỹ
đứng đầu, là những công cụ của các công ty xuyên quốc gia, của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn,
là những công cụ của toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, Maicơn Brâu, Chủ tịch mạng lưới
thông tin thế giới thứ ba đã có lần nói, “WB và IMF được dàn dựng để phục vụ cho chủ nghĩa
bá quyền của Hoa Kỳ”.

2. Về tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế

Theo những nội dung vừa trình bày ở trên, ta thấy toàn cầu hóa là xu thế khách quan đi tới
hình thành nền kinh tế thế giới, trong đó các quốc gia có sự liên kết với nhau, tùy thuộc lẫn
nhau trong sự phân công và hợp tác kinh tế trên phạm vi toàn cầu dưới sự chi phối của những
tập đoàn tư bản đa quốc gia và xuyên quốc gia.

Toàn cầu hóa kinh tế có sức hấp dẫn vì nó làm cho các nền kinh tế, các quốc gia nếu khéo vận
dụng trong hội nhập thì sẽ phát huy được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới,
hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở trong
nước.

Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, toàn cầu hóa chưa phải là công thức tối ưu cho tất cả.
Các quốc gia, các dân tộc khác nhau tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế trước hết vì
muốn tìm kiếm trong đó những lợi ích cho chính mình. Nhưng những lợi ích đó lại rất khác
nhau, đan xen và đầy mâu thuẫn. Vì thế xu hướng toàn cầu hóa diễn ra không êm ả, mà
thông qua quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa hai nhóm nước chính: các nước phát triển
và các nước đang phát triển.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Thúy Anh đã cung cấp cho chúng ta những số liệu cụ thể (Tạp chí
Cộng sản số 6 tháng 3 năm 2000) để chứng rõ về phía các nước đang phát triển, sau một thời
gian tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tình hình kinh tế và vị thế của một số nước
(đặc biệt là những nước có nền kinh tế mới nổi) được cải thiện đáng kể. Các nước đang phát
triển đã thu hút và sử dụng một lượng khá lớn vốn nước ngoài và cùng với nguồn vốn đó, vốn
trong nước cũng được huy động. Nhiều nước đã có đầu tư ra nước ngoài, đầu tư vào các nước
phát triển. Theo báo cáo đầu tư thế giới của UNCTAD năm 1996 (trước khi xảy ra khủng hoảng
tài chính tiền tệ ở châu Á) các nước đang phát triển tiếp nhận 129 tỉ USD FDI và đầu tư ra
nước ngoài 51 tỉ. Đến năm 1999 FDI vào các nước này tăng lên mức kỷ lục: 198 tỉ USD trong
đó 97 tỉ vào Mỹ Latinh (Braxin chiếm 31 tỉ), châu Á: 91 tỉ (Trung Quốc chiếm 40 tỉ). Các nước
đang phát triển nắm giữ 11 công ty xuyên quốc gia của thế giới, trong đó lớn nhất là Petroleos
(Vênêxuêla), có tổng trị giá tài sản 47,1 tỉ USD. Cơ cấu kinh tế đã có nhiều biến đổi theo
hướng giảm tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Trong lĩnh
vực xuất khẩu (chỗ dựa của tăng trưởng kinh tế ở các nước này), cơ cấu hàng xuất khẩu được
cải thiện, chất lượng hàng hóa được nâng cao hướng tới các tiêu chuẩn quốc tế, tỷ trọng thành
phẩm trong xuất khẩu đã tăng từ 5,65 (1980) lên 77,7% năm 1994. Cơ sở hạ tầng về kinh tế
được phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, đời sống được cải thiện trên một số mặt.
Còn nhiều yếu tố khác đưa tới kết quả phát triển ở các nước NIC châu Á, nhưng trong chừng

24
mực nhất định, có thể nói giai đoạn tăng trưởng nhanh của một số nước Đông Á là một thí dụ
về cơ hội và lợi ích mà toàn cầu hóa kinh tế mang lại cho các nước đang phát triển.

Tuy nhiên, trong khi một số nền kinh tế đã biết tận dụng toàn cầu hóa thông qua việc đề ra
các chiến lược phát triển dựa trên quyết tâm mở cửa kinh tế và xuất khẩu như đã thấy trình
bày ở trên thì một số nền kinh tế khác dường như vẫn còn đứng ngoài lề.

Thực tế khác biệt này được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau của toàn cầu hóa (tài
chính và sản xuất kinh doanh). Thí dụ, tỷ trọng của châu Phi trong tổng lượng vốn ròng rót
vào các nước đang phát triển đã liên tục giảm từ những năm 1980 và cụ thể đã từ 27% vào
năm 1990 để rồi chỉ còn chưa đầy 8% vào năm 1996 (IMF. 1998). Đồng thời hiện tượng các
luồng FDI chỉ tập trung đổ mạnh vào một số ít nước ngày thêm rõ nét trong những năm gần
đây, bởi lẽ năm nước tiếp nhận vốn nhiều nhất (Trung Quốc, Braxin, Mêhicô, Xingapo và
Inđônêxia) đã thu hút tới 55% tổng lượng FDI của năm 1998 so với mức 41% vào năm 1990.
Sự tham gia của châu Phi vào quá trình FDI bùng nổ là hết sức hạn chế. Theo UNCTAD, tỷ
trọng của khu vực này trong tổng lượng FDI dành cho các nước đang phát triển đã giảm từ
11% trong giai đoạn 1986 – 1990 xuống còn 5% trong giai đoạn 1991 – 1996, rồi 3,8% vào
năm 1996. Chỉ riêng Malaixia đã tiếp nhận một lượng FDI còn nhiều hơn tổng khối lượng của
cả khu vực châu Phi gộp lại. Mặt khác, ngay trong phạm vi châu Phi, sự phân chia giữa các
nước cũng hết sức khác biệt. Ví dụ, Nigiêria đã thu hút tới 44% tổng lượng FDI rót vào toàn
châu lục. Một cách khái quát hơn, những nước kém phát triển nhất không tham gia vào trào
lưu chung của các luồng FDI gia tăng và tỷ trọng của nhóm nước này trong tổng lượng lưu
thông vốn toàn cầu là dưới 1%.

Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, tình hình cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu. Riêng 12
nước: Achentina, Braxin, Chilê, Mêhicô, Trung Quốc, Hồng Công, Malaixia, Hàn Quốc, Xingapo,
Đài Loan, Thái Lan, Inđônêxia trong khối các nước đang phát triển đã chiếm tới 70% lượng
hàng xuất khẩu của cả khối. Vẫn nhóm nước và lãnh thổ này đã tiếp nhận 80% lượng vốn đầu
tư và hơn 90% lượng vốn kinh doanh chứng khoán rót vào các nước đang phát triển.

Tỷ trọng của châu Phi trong kim ngạch trao đổi hàng hóa và dịch vụ toàn cầu không ngừng
giảm sút từ 5% vào năm 1950 xuống còn 2% vào năm 1998 (WTO 1999). Tỷ lệ kim ngạch
xuất khẩu tính theo GDP cũng giảm xuống. Hơn nữa, xuất khẩu luôn tập trung vào các sản
phẩm sơ đẳng, còn quan hệ mậu dịch thì ngày càng đi xuống. Vấn đề chủ yếu mà các nền kinh
tế châu Phi phải đương đầu chính là cơ cấu sản xuất công nghiệp và mức độ chuyên môn hóa
của họ.

Một thực tế nữa buộc ta phải thừa nhận là trào lưu toàn cầu hóa song hành cùng tình trạng
chênh lệch nghiêm trọng giữa các nước giàu và các nước nghèo vẫn tồn tại dai dẳng. Phát biểu
về vấn đề này, nhà nghiên cứu Francoise Nicolas đã chỉ ra Đông Á là khu vực duy nhất rút
ngắn được khoảng cách về mức sống với các nền kinh tế phát triển: mức thu nhập tính theo
đầu người của khu vực này đã tăng trung bình 6% mỗi năm trong thập kỷ vừa qua (tuy nhiên
cũng nên nhớ rằng, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998, mức thu nhập
tính theo đầu người đã giảm (-1,1%) vào năm 1998), trong khi chỉ số đó ở các nền kinh tế
châu Phi lại giảm cũng trong cùng thời gian (-0,3% mỗi năm trong giai đoạn 1989 – 1998).
Thu nhập trung bình đầu người của khu vực châu Phi vào năm 1998 tính theo giá trị thật gần
như không hề thay đổi so với mức của năm 1970. Trong khối các nước đang phát triển, chỉ có
các nước Ả Rập mới có những chỉ số kinh tế phát triển kém đến như vậy.

Để có một cái nhìn bao quát hơn, có lẽ cũng cần nêu thêm là sau một số năm tham gia toàn
cầu hóa, nợ nần của các nước đang phát triển ngày thêm chồng chất và khoản nợ này quả là
đồ sộ (trên 2000 tỉ USD). Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) về tình hình tài chính
toàn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của Braxin là 24%, Mêhicô: 38%,
Inđônêxia: 65%, Philippin: 53%, Thái Lan: 63%; Malaixia: 51%.

Một điểm sau cùng cần lưu ý là do nền kinh tế chưa đủ sức chịu đựng cái gọi là “chu kỳ kinh
doanh” (các nước có nền kinh tế phát triển cao có thể sử dụng nhiều cơ chế phúc lợi khác

25
nhau để đối phó với thất nghiệp, tỷ lệ xí nghiệp phá sản cao trong thời kỳ kinh tế suy thoái)
hầu hết các nước đang phát triển do thực lực tư bản trong nước và kết cấu của nó còn thấp
kém, chưa thật thích hợp với cơ chế thị trường, lại dựa nhiều vào vốn nước ngoài nên “chu kỳ
kinh doanh” đôi khi có nghĩa là nạn đói, sự thiếu thốn các nhu cầu thiết yếu về lương thực, sự
mất ổn định về an ninh, chính trị, xã hội, thậm chí dẫn tới hỗn loạn, đảo chính, nội chiến.
Chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm 1997 đã làm cho hơn 1000 tỉ USD
sức mua của các nước châu Á bị tàn phá, các khoản tiền tiết kiệm được tung ra để chống đỡ
với những chấn động về tài chính đã kéo lùi tốc độ tăng trưởng của các nước này xuống dưới
số 0. Riêng ở Inđônêxia, một năm sau cuộc khủng hoảng, số người nghèo tăng từ 30 triệu lên
trên 80 triệu người.

Với tương quan như phân tích ở trên về tiềm lực kinh tế, các nước kinh tế phát triển do có
nhiều lợi thế đang muốn thúc đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại; ngược lại các nước
đang phát triển không muốn tốc độ tự do hóa thương mại diễn ra quá nhanh vì nó vượt quá sự
phát triển của nền kinh tế trong nước, do đó sẽ mang lại cho nền kinh tế sự mất mát nhiều
hơn. Bởi vậy các nước này đang cố gắng duy trì chế độ bảo hộ để bảo vệ sản xuất trong nước
và chủ quyền kinh tế. Ở vào thế bất lợi hơn khi tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế, các nước
đang phát triển không thể tránh khỏi các chính sách mang tính áp đặt, hoặc sức ép từ phía các
nước giàu trên nhiều vấn đề.

Do những chính sách và những đòi hỏi bất hợp lý được phát ra từ các nước phát triển, đặc biệt
là từ Mỹ như: tự do đầu tư, tự do cạnh tranh, v.v… đang là những vấn đề gay gắt trong đó ẩn
chứa những nội dung chính trị bất lợi cho lợi ích quốc gia, vai trò điều tiết của Nhà nước, chủ
quyền kinh tế của đất nước mà các nước đang phát triển phải đối mặt, một phong trào chống
toàn cầu hóa đã bùng nổ cách đây trên năm năm, phong trào này nhanh chóng mở rộng và đã
thu hút hàng trăm ngàn người có cảm tình và hoạt động trên quy mô thế giới, từ Xingapo đến
San Francisco.

Phong trào khởi đầu năm 1995 khi các công ty đa quốc gia cùng chính phủ các nước phát triển
và các tổ chức tài chính quốc tế thầm lặng thương lượng một hiệp định đa phương về đầu tư
nhằm tạo ra những quyền hạn cực kỳ rộng rãi cho các tập đoàn đầu tư lớn, gây thiệt thòi cho
những quốc gia muốn bảo vệ môi trường và người lao động, sức khỏe của công dân nước
mình. Nhưng tài liệu bị lộ ra ngoài; lập tức báo động được phát ra, bản dự thảo được công bố
trên Internet. Các nhóm phản đối được hình thành trong nhiều nước, tạo một áp lực mạnh trên
các chính phủ ở châu Âu, buộc họ cuối cùng phải tạm gạt bỏ ý đồ.

Theo báo Thụy Sĩ Die Weltwoche thì những người cầm đầu phong trào phản kháng đó là Susan
George, Chủ tịch “Tổ chức quan sát toàn cầu hóa” được sáng lập năm 1996, có trụ sở tại Paris,
nữ luật sư Mỹ nổi tiếng Lori Wallach, Martin Khor người Malaysia thuộc Third World Network
(Mạng lưới thế giới thứ ba), Naomi Kleir, người Canada, nữ tác giả cuốn “No logo” được xem
như thánh kinh của những người chống toàn cầu hóa cùng nhiều người khác nữa.

Mùa thu năm 1989, khi Bộ trưởng các nước từ khắp thế giới họp hội nghị của WTO ở Seattle,
50.000 người chống toàn cầu hóa đã kéo đến đấy. Tổ chức đứng ra phối hợp hành động là
“Diễn đàn quốc tế về toàn cầu hóa” có trụ sở ở California. Chiến thuật của họ khá mới mẻ và
có hiệu quả: không có biểu tình đông người mà phân tán thành từng toán nhỏ chặn đường ở
các ngã tư, trước cửa các khách sạn có đại biểu đang trú tại đấy, lối vào hội trường nơi diễn ra
hội nghị, khiến cho nhiều đại biểu không đến được hội nghị.

Phong trào đã mang lại một số kết quả. Theo Business Week, 52% người Mỹ được hỏi đã
tuyên bố ủng hộ những hoạt động chống đối ở Seattle. Một số tập đoàn đã phải cải tiến các
điều kiện lao động. Và mưu đồ của nguyên Tổng thống Mỹ Bill Clinton mở rộng vùng tự do
mậu dịch đến châu Mỹ Latinh đã vấp phải sự khước từ mãnh liệt. Các chính phủ châu Âu đã
chống lại việc xem văn hóa phụ thuộc duy nhất vào quy luật thị trường.

Với động cơ có thể rất khác nhau, các nhóm trong phong trào ít nhất cũng nhất trí một điều:
các công ty đa quốc gia và tài chính đang xây dựng một trật tự mới, trong đó một thiểu số

26
giàu có lên trong khi đại đa số nghèo đi. Họ tố cáo những mặt tiêu cực của toàn cầu hóa:
những thụt lùi về xã hội, thất nghiệp hàng loạt, dân chủ bị xói mòn, cảnh khốn quẫn tinh thần,
chiến tranh sắc tộc do đói kém và tài nguyên giảm sút. Họ đòi xóa nợ cho các nước nghèo. Họ
xem WB và IMF là “những tay sai của các tập đoàn”.

Phong trào chống toàn cầu hóa cứ tiếp tục được duy trì cho đến lần họp Diễn đàn kinh tế
Đavốt hồi đầu năm nay. Diễn đàn này, được thành lập từ năm 1971, là một thể chế độc lập với
các tổ chức quốc tế khác, trong đó các chính khách, các nhà kinh doanh, các học giả thảo luận
và đề xuất chính sách đối với những vấn đề kinh tế thế giới và những vấn đề có liên quan.
Ngay sau khi mới ra đời, Diễn đàn kinh tế Đavốt đã nhanh chóng đóng vai trò một động lực
quan trọng thúc đẩy các chính sách tự do hóa thương mại, trở thành nơi tụ họp của hơn 1000
công ty và tập đoàn kinh tế lớn nhất thế giới.

Điều đáng lưu ý là chưa bao giờ tại Hội nghị của Diễn đàn kinh tế Đavốt, vốn được xem là nơi
khởi xướng và thúc đẩy tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa, người ta lại nói nhiều đến mặt
trái của quá trình này nhiều như thế. Cũng chưa bao giờ ở bên ngoài Hội nghị lại diễn ra các
cuộc biểu tình rầm rộ phản đối toàn cầu hóa quyết liệt đến như thế. Tại nơi diễn ra Hội nghị,
có rất nhiều người đã từng xuống đường biểu tình ở Seattle phản đối toàn cầu hóa, nhân Hội
nghị của Tổ chức thương mại thế giới WTO, nay lại có mặt tại Đavốt. Nhưng đáng lưu ý hơn cả
là lần đầu tiên có hẳn cả một “Diễn đàn xã hội” hay còn gọi là diễn đàn chống Đavốt diễn ra
cách đó ¼ vòng trái đất ở Pooctô Alêgri (Braxin). Tuy không có mục tiêu làm đảo lộn chương
trình nghị sự như các cuộc biểu tình trước đây đã làm bên Hội nghị của WTO tại Seattle, nhưng
“Diễn đàn xã hội” lần đầu tiên này lại tỏ ra có hiệu quả hơn nhiều. Nó được đánh giá như mốc
khai sinh của một phong trào quốc tế mới chống lại những bất công do quá trình toàn cầu hóa
gây ra.

Số lượng người tham gia Diễn đàn này đã vượt quá mức dự đoán của những người tổ chức.
Theo dự kiến, sẽ có 2.500 người đến dự Diễn đàn, nhưng trên thực tế đã có tới hơn 10.000 đại
biểu từ 120 nước tham dự cùng hơn 1000 nhà báo. Tuy Diễn đàn xã hội thế giới Pooctô Alêgri
không đưa ra một bản tuyên ngôn quan trọng nào, nhưng đây sẽ là bước khởi đầu của một
giai đoạn mới trong việc khẳng định vai trò của các tổ chức xã hội thế giới trong cuộc đấu
tranh chống mặt trái của quá trình toàn cầu hóa. Mục tiêu đầu tiên của Diễn đàn xã hội thế
giới về cơ bản đã thành công: đó là nâng cao nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về toàn cầu
hóa cũng như phát triển mạng lưới hoạt động chống lại mặt tiêu cực của quá trình này. Diễn
đàn đã nhận được sự hậu thuẫn tích cực của khoảng 500 nghị sĩ đại diện cho hơn 100 quốc gia
từ cả năm châu lục có mặt tại Diễn đàn về quyết định thành lập một mạng lưới nghị viện quốc
tế ủng hộ đối với các phong trào xã hội và quần chúng phản đối toàn cầu hóa.

Tuy nhiên chúng ta cũng cần ghi nhớ kỹ là ngày nay nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, môi trường,
chỉ riêng một quốc gia, cho dẫu quốc gia đó lớn mạnh đến mức độ nào cũng không thể đơn
độc giải quyết được, mà cần phải có sự liên kết của nhiều nước. Trung Quốc với hơn 1,2 tỷ dân
với nhiều nguồn tài nguyên hàng đầu thế giới, với nguồn lao động và các tiềm năng vô cùng
dồi dào về mọi mặt, thế mà khi nói về kinh tế Trung Quốc, Thủ tướng Chu Dung Cơ đã tuyên
bố: “Nền kinh tế của Trung Quốc sẽ không phát triển được nếu không có châu Á, và sự thịnh
vượng kinh tế của châu Á sẽ không được tạo ra, nếu không có Trung Quốc”. Câu nói thật dồi
dào ý nghĩa, khẳng định xu thế toàn cầu hóa hiện nay là hệ quả tất yếu của thời đại bùng nổ
thông tin và tiến bộ khoa học – công nghệ. Do vậy việc nắm bắt một cách thấu đáo và toàn
diện xu thế đó để chủ động tham gia tiếp cận, thích nghi là một đòi hỏi mang tính sinh tồn đối
với vận mệnh tiền đồ của mọi quốc gia.

3. Việt Nam và vấn đề toàn cầu hóa kinh tế

Văn kiện của Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đã nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là
một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số
nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”1 .

27
Như vậy là đã rất rõ ràng, Đảng ta luôn luôn coi hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung
trong đường lối kinh tế, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta; kết hợp nội lực với
ngoại lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp phát triển đất nước. Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng chính là nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích
của quốc gia, đồng thời thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng
của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các nguồn
vốn thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở
rộng thị trường, tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi, làm cho nước ta phát triển ngày càng
nhanh và bền vững hơn.

Nhưng, do xu thế toàn cầu hóa kinh tế đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế
tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng nhiều mâu thuẫn vừa có mặt tích cực vừa có mặt
tiêu cực, nên Đảng đã lưu ý tất cả chúng ta ở mỗi ngành, mỗi cấp là trong hội nhập kinh tế
quốc tế phải nắm vững phương châm chủ động, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết
vừa mềm dẻo, nhằm bảo vệ được lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tranh thủ được các thời
cơ thuận lợi trong hội nhập. Ngoài ra, còn cần thường xuyên đề cao cảnh giác, không mơ hồ
trước những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch muốn lợi dụng quan hệ kinh tế
thương mại để thực hiện “diễn biến hòa bình”, xâm nhập, phá hoại chế độ ta.

Thực hiện một cách nghiêm túc những điều căn dặn trên, chúng ta sẽ vững chắc tiến bước
trên con đường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.64.

http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?
option=com_content&view=article&id=94:tc2001so3vdtch&catid=63:tcso3-2001&Itemid=63

28

You might also like