Professional Documents
Culture Documents
ÑEÀ TAØI:
PHÖÔNGPHAÙPGIAÛI TOAÙN
PHAÛNÖÙNG
COÄNGHIÑROVAØOLIEÂN
KEÁTPI CUÛAHIÑROCACBON
KHOÂNGNO
MỤCLỤC
Đề mục Trang
Việc lựa chọn phương pháp thích hợp để giải bài tập lại càng có ý nghĩa
quan trọng hơn. Mỗi bài tập có thể có nhiều phương pháp giải khác nhau. Nếu
biết lựa chọn phương pháp hợp lý, sẽ giúp học sinh nắm vững hơn bản chất
của các hiện tượng hoá học.
Qua những năm giảng dạy tôi nhận thấy rằng, khả năng giải toán Hóa học
của các em học sinh còn hạn chế, đặc biệt là giải toán Hóa học Hữu cơ vì
những phản ứng trong hoá học hữu cơ thường xảy ra không theo một hướng
nhất định và không hoàn toàn. Trong đó dạng bài tập về phản ứng cộng hiđro
vào liên kết pi của các hợp chất hữu cơ là một ví dụ. Khi giải các bài tập dạng
này học sinh thường gặp những khó khăn dẫn đến thường giải rất dài dòng,
nặng nề về mặt toán học không cần thiết thậm chí không giải được vì quá
nhiều ẩn số. Nguyên nhân là học sinh chưa tìm hiểu rõ, vững các định luật hoá
học và các hệ số cân bằng trong phản ứng hoá học để đưa ra phương pháp giải
hợp lý.
Xuất phát từ suy nghĩ muốn giúp học sinh không gặp phải khó khăn và
nhanh chống tìm được đáp án đúng trong quá trình học tập mà dạng toán này
đặt ra. Chính vì vậy tôi chọn đề tài:
“PHƯƠNG PHÁP GIẢI TOÁN PHẢN ỨNG CỘNG HIĐRO VÀO
LIÊN KẾT PI CỦA HIĐROCACBON KHÔNG NO”.
B. GIẢI QUYẾTVẤNĐỀ
Lê Trọng Trường (GV. THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, ĐăkLăk) Trang 5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - MÔN HOÁ HỌC NĂM 2010
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHƯƠNG PHÁP
Liên kết π là liên kết kém bền vững, nên chúng dễ bị đứt ra để tạo thành
liên kết σ với các nguyên tử khác. Trong giới hạn của đề tài tôi chỉ đề cập đến
phản ứng cộng hiđro vào liên kết π của hiđrocacbon không no, mạch hở.
Khi có mặt chất xúc tác như Ni, Pt, Pd, ở nhiệt độ thích hợp, hiđrocacbon
không no cộng hiđro vào liên kết pi.
Ta có sơ đồ sau:
H®
rocacbon no CnH2n+2
Hi®rocacbon kh«ng no
xóc t¸c, t0
Hçn hî p khÝX gåm Hçn hî p khÝY gåm hi®
rocacbon kh«ng no d
vµ hi®ro (H2)
vµ hi®ro d
Tuỳ vào hiệu suất của phản ứng mà hỗn hợp Y có hiđrocacbon không no
dư hoặc hiđro dư hoặc cả hai còn dư
Dựa vào phản ứng tổng quát [1] ta thấy,
- Trong phản ứng cộng H2, số mol khí sau phản ứng luôn giảm (nY < nX) và
chính bằng số mol khí H2 phản ứng
nH2 ph¶n øng nX - nY [2]
Mặt khác, theo dịnh luật bảo toàn khối lượng thì khối lượng hỗn hợp X bằng
khối lượng hỗn hợp Y (mX = mY).
mY m
Ta có: MY = ; MX = X
nY nX
mX
M n m n n
d X/Y = X = X = X × Y = Y >1 (do nX > nY )
M Y m Y n X mY n X
nY
MX n Y
Viết gọn lại : d X/Y = = [3]
M Y nX
Đặt n Cn H2n = a; n H2 = b
Do đó khi bài toán cho số mol đầu nX và số mol cuối nY ta sử dụng kêt
quả này để tính số mol anken phản ứng.
Nếu 2 anken có số mol a, b cộng hiđro với cùng hiệu suất h, ta có thể
thay thế hỗn hợp hai anken bằng công thức tương đương:
Cn H 2n + H 2
Ni
t0
→ C n H 2n+2 .
Chú ý: Không thể dùng phương pháp này nếu 2 anken không cộng H2 với cùng
hiệu suất
Ta có sơ đồ :
Lê Trọng Trường (GV. THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm, ĐăkLăk) Trang 8
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - MÔN HOÁ HỌC NĂM 2010
CnH2n+2
CnH2n -2
xóc t¸c, t0
CnH2n
Hçn hî p khÝX gåm Hçn hî p Y gåm
H2
CnH2n - 2 d
H2 d
0, 25
H= ×100% = 50% . Chọn C
0,5
Bài 4: (Đề TSĐH KB năm 2009) Hỗn hợp khí X gồm H2 và một anken có khả
năng cộng HBr cho sản phẩm hữu cơ duy nhất. Tỉ khối của X so với H2 bằng
9,1. Đun nóng X có xúc tác Ni, sau khi phản ứng xảy ra hoàn toàn, thu được
Bài giải:
Khối lượng bình dung dịch tăng bằng khối lượng CO2 và khối lượng H2O.
Δm = 0, 27× 44 + 0, 28×18 = 16,92 gam . Chọn C
C. KẾTLUẬN
Trong quá trình thực hiện đề tài này tôi nhận thấy, vận dụng được
phương pháp này đối với bài toán cộng hiđro vào liên kết pi nói chung sẽ giúp
cho quá trình giảng dạy và học tập môn hoá học được thuận lợi hơn rất nhiều
bởi trong quá trình giải toán ta không cần phải lập các phương trình toán học
(vốn là điểm yếu của học sinh) mà vẫn nhanh chóng tìm ra kết quả đúng, đặc
biệt là dạng câu hỏi TNKQ mà dạng toán này đặt ra.
Ngoài việc vận dụng phương pháp giải trên học sinh cần có những tư duy
hoá học cần thiết khác như vận dụng nhuần nhuyễn các định luật hoá học, biết
phân tích hệ số cân bằng của các phản ứng và ứng dụng nó trong việc giải
nhanh các bài toán hoá học thì mơí giúp ta dễ dàng đi đến kết quả một cách
ngắn nhất.
Khi việc kiểm tra, đánh giá học sinh chuyển sang hình thức kiểm tra
TNKQ, tôi nhận thấy, trong quá trình tự học, học sinh tự tìm tòi, phát hiện
được nhiều phương pháp khác nhau trong giải bài tập hoá học. Giúp cho niềm
hứng thú, say mê trong học tập của học sinh càng được phát huy.
Do năng lực và thời gian có hạn, đề tài có thể chưa bao quát hết được các
loại, dạng của phương pháp. Các ví dụ được đưa ra trong đề tài có thể chưa
thực sự điển hình. Rất mong sự đóng góp ý kiến bổ sung cho cho đề tài để thực
sự góp phần giúp học cho việc giảng dạy và học tập môn hoá học trong nhà
trường phổ thông ngày càng tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Krông Păc, ngày 22 tháng4 năm 2010
NGƯỜI VIẾT
Lê Trọng Trường
TÀI LIỆUTHAMKHẢO