You are on page 1of 8

Tiểu luận: Hệ thống canh tác SALT trên đất dốc

Học viên: Hoàng Văn Quyết

Lớp : KHD K19an


I. Mở đầu
Việt Nam có ¾ tổng diện tích lãnh thổ là đất đồi núi. Đất đồi núi có
mặt trên 41 tỉnh thành của Việt Nam. Vùng đồi núi Việt Nam đóng vai tro
rát quan trọng, nó không chỉ là nguồn tài nguyên quý giá của nền sản xuất
nông lâm nghiệp, mà còn là vị trí xung yếu trong an ninh quốc phòng của
đất nước.
Đặc điểm thuận lợi của của vùng đất đồi núi Việt Nam là rất đa dạng
về các loại hình thổ nhưỡng và phong phú về khả năng sử dụng, nhưng lại có
địa hình chia cắt, dốc nên rất dễ bị thoái hóa. Việc sử dụng đất đồi núi Việt
Nam có lịch sử lâu đời với tập quán xa xưa lạc hậu là du canh du cư, phá
rừng đốt rẫy, trồng lúa nương, hoa màu ngắn ngày. Vì vậy đất đồi núi Việt
Nam bị thoái hóa gia tăng nhanh chóng, đất rừng bị thu hẹp. Đất rừng bị thu
hẹp, đất đồi núi bị thoái hóa đã làm mất đi chức năng phục vụ sinh thái của
rừng và làm giảm khả năng sản xuất nông nghiệp, gây nên đói nghèo, ảnh
hưởng tới an ninh quốc phòng.
Từ những năm của thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ XX đến nay, các
chương trình nghiên cứu đất đồi núi tập trung vào các dự án đánh giá đất và
xây dựng các mô hình sản xuất phù hợp với sản xuất nông lâm nghiệp nhằm
bảo vệ đất đồi núi, bảo vệ rừng và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất nhằm
xóa đói giảm nghèo.
Biện pháp nông lâm kết hợp hình thành dựa trên việc bố trí thích hợp
giữa các hệ thống sử dụng đất với các cây lâm nghiệp theo không gian hoặc
luân canh và có sự tương tác giữa cây, con trong nông nghiệp và cây lâm
nghiệp về mặt sinh thái và kinh tế. Nông lâm kết hợp là hệ thống có ý nghĩa
cho sử dụng và bảo vệ đất có hiệu quả tốt, nhất là trên vùng đất dốc, trong
đó có hệ thống canh tác trên đất dốc SALR.
II. Nội dung
Tổng kết một số mô hình sử dụng đất dốc có hiệu quả thì đều có đăc
điểm chung là chọn một hay một vài hệ thống cây trồng với 2 nhóm cây kiểu
"lấy ngắn nuôi dài":
Một hai cây chính đem lại lợi ích cao và chắc chắn, dù có phải đầu tư
khá và thu lợi chậm;
Một số cây hỗ trợ đi kèm để tận dụng khoảng không, bảo vệ đất, cho
sản phẩm sớm và làm tốt đất.
Khác với các hệ canh tác nông nghiệp truyền thống, các mô hình này đặt ưu
tiên cao cho cây trồng chính là cây hàng hoá, sản phẩm chủ lực để bán. Các
cây trồng chính như sắn, chè, vải nhãn, hồng, quýt, na, mía... Các cây hỗ trợ
như: đậu, lạc, băng phân xanh...
Một số mô hình nông lâm kết hợp cũng được đưa vào sử dụng cho hiệu quả
rất cao về bảo vệ, cải tạo, nâng cao độ phì nhiêu của đất và cho thu nhập cao,
tạo ra những biến đổi lớn lao về kinh tế xã hội như một số mô hình:
Mô hình hồi-trám-rừng tái sinh: Đỉnh đồi để rừng tái sinh. Từ giữa
đồi trở xuống trồng hồi theo mật độ 5mx5m, trám trồng xen với hồi với
khoảng cách 6mx7m. Độ che phủ đạt trên 60%. Mô hình này tương đối lâu
mới cho thu hoạch nhưng có lợi ích lâu dài.
Mô hình trồng chè xen hồi ở Bình Gia, Lạng Sơn. Trong thời kỳ
chăm sóc có thể trồng xen cốt khí làm phân xanh hoặc đậu xanh, đậu Cao
Bằng lấy hạt. Độ che phủ đạt 50-60%.
Sử dụng đất kiểu VAC ở miền đồi núi là một hệ thống liên hoàn hỗ
trợ nhau để cho hiệu quả cao và lâu bền. Bản chất của VAC là vòng tuần
hoàn dinh dưỡng tương đối khép kín các hợp phần, nhờ đó chất hữu cơ được
chu chuyển hợp lý, dinh dưỡng ít bị thất thoát, đất được che phủ tốt hơn.
Nhưng ở vùng miền núi thì mô hình VAC còn có thêm một hợp phần R
(rừng), nên phân bón từ chăn nuôi là thiếu hụt cho cân đối trong chu trình
tuần hoàn dinh dưỡng, mặt khác A (ao, mặt nước) cũng không đủ cho tưới
tiêu cho V và R. Do vậy mô hình này chỉ giới hạn trong khu vực nhỏ hẹp.

Nghiên cứu của Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm ở Bắc Kạn cho thấy
trên ruộng bậc thang lúa nước độ phì đất rất ổn định chỉ sau rừng tự nhiên và
vườn thâm canh quanh nhà, hơn nữa các chất lân, kali dễ tiêu và Ca2+ tăng
lên, trong khi Al3+ giảm đi gần hết. Tương tự theo Lê Văn Tiềm (1996) cho
biết ở Yên Châu (Sơn La) chỉ có 2 dạng sử dụng đất là rừng và lúa nước là
bảo vệ được đất.
Cùng với nương rẫy, ở vùng cao phía Bắc Việt Nam còn có một số hệ thống
canh tác cũng được sử dụng như: vườn nhà, vườn rừng, trại rừng, trang trại,
VAC và chăn thả có sự kiểm soát.
Kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất dốc (SALT) là hệ sinh thái
canh tác nhằm sử dụng đất dốc được bền vững đã được Trung tâm đời sống
nông thôn Minđanao (Philipin) tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ năm
1970, đã có một số mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất
dốc bền vững được ghi nhận và ứng dụng tại Việt Nam:
+ Mô hình SALT 1: Mô hình này bố trí trồng những băng cây ngắn
ngày xen kẽ với những băng cây dài ngày sao cho phù hợp với đặc tính và
yêu cầu đất đai của các loài cây đó và đảm bảo thu hoạch đều đặn. Các băng
này được trồng theo đường đồng mức, giữa những băng cây trồng chính
rộng từ 4-6m còn có những băng hẹp trồng cây cố định đạm để giữ đất
chống xói mòn, làm phân xanh hoặc lấy gỗ. Cây cố định đạm được trồng
dày theo hàng đôi, khi cây cao 1m thì cắt bớt cành, lá xếp vào gốc. Cơ cấu
cây trồng trong mô hình thường là 75% cây nông nghiệp, 25% cây lâm
nghiệp (trong cây nông nghiệp thì 50% là cây hàng năm, 25% là cây lâu
năm). Đây là mô hình canh tác đất dốc đơn giản, người nông dân có thể thu
nhập cao hơn gấp 1,5 lần so với cách trồng sắn thông thường. Kỹ thuật này
làm giảm xói mòn 50% so với hệ thống canh tác vùng cao theo tập quán.
+ Mô hình SALT 2- Mô hình kỹ thuật nông súc kết hợp đơn giản: ở
mô hình này người ta bố trí trồng trọt kết hợp với chăn nuôi bằng cách dành
một phần đất trong mô hình để canh tác nông nghiệp cho chăn nuôi. Việc sử
dụng đất dốc được thực hiện theo phương thức nông-lâm-súc kết hợp. ở
Philipin người ta thường nuôi dê để lấy thịt, sữa. Một phần diện tích khác
được dành để trồng cỏ và cây làm thức ăn cho dê.
+ Mô hình SALT 3 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông- lâm kết hợp
bền vững: Mô hình kỹ thuật canh tác này kết hợp một cách tổng hợp việc
trồng rừng qui mô nhỏ với việc sản xuất lương thực, thực phẩm. Cơ cấu sử
dụng đất thích hợp là 40% danh cho nông nghiệp và 60% cho lâm nghiệp.
Bằng cách đó đất đai được bảo vệ có hiệu quả đồng thời cung cấp được
nhiều lương thực, thực phẩm, gỗ củi và các sản phẩm khác, tăng thu nhập
cho nông dân. Thực chất mô hình này cũng là sự điều hoà phối hợp và mở
rộng qui hoạch hợp lý các mô hình trên nhưng có sợ chú trọng đặc biệt tới
phát triển rừng. Mô hình này có thể mở rộng cho một hộ có quĩ đất đai
tương đối rộng (khoảng 5-10ha) trên nhiều dạng địa hình, hay qui mô lớn
hơn cho một nhóm hộ.
+ Mô hình SALT 4 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp - cây ăn
quả qui mô nhỏ. Trong mô hình này các loài cây ăn quả nhiệt đới được đặc
biệt chú ý do sản phẩm của nó có thể bán để thu tiền mặt và cũng là những
cây lâu năm nên dễ dàng duy trì được sự ổn định và lâu bền hơn về môi
trường sinh thái so với cây hàng năm. Đối với cây ăn quả yêu cầu đất đai
phải tốt hơn, có đầu tư thâm canh cao hơn (về biện pháp làm đất, bón phân,
chọn giống). Do đó, giúp nông dân hiểu biết hơn về khoa học và kỹ thuật.
Mô hình này có ý nghĩa lớn, ngoài lương thực, thực phẩm thu được còn có
sản phẩm của cây cố định đạm chống xói mòn, cải tạo đất, đặc biệt là có
thêm sản phẩm hàng hoá, hoa quả bán thu tiền mặt, mua sắm thêm các vật
dụng cần thiết khác.
Hiện nay đã phát triển một số mô hình cải biên từ các loại mô hình SALT
như:
1) Rừng + Nương + Vườn + Ruộng + Mặt nước
2) Rừng + Nương + Vườn + Ruộng
3) Rừng + Nương + Vườn
Trong đó mô hình thứ nhất hoàn thiện hơn cả vì có rừng bố trí ở đỉnh dốc
hoặc sườn núi dốc rất mạnh. Nương ở sườn dốc vừa, dốc mạnh, vườn có thể
đặt tại chân dốc hoặc nơi dốc nhẹ, ruộng làm tại nơi thấp bằng và mặt nước
ao hồ ở nơi thấp trũng nhất. Mô hình 2 cũng như mô hình 1 nhưng thiếu mặt
nước nên không hoàn thiện bằng. Tuy nhiên tính phổ biến lại cao hơn và
nhiều nơi có thể sử dụng. Mô hình 3 không có ao hồ và đồng ruộng nhưng
lại là mô hình cơ bản nhất do có tính phổ biển cao. Vì vậy đây cũng là mô
hình mà hộ nào cũng có thể áp dụng được.
III. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận:

- Mô hình SALT canh tác trên dất dốc là mô hình có vai trò to lớn
trong bảo vệ đất đồi núi, bảo vệ rừng và xóa bỏ nghèo đói cho người dân
vùng cao góp phần ổn định an ninh địa phương cung như an ninh quốc gia.

- Mô hình SALT canh tác trên dất dốc hợp lý sẽ đem lại sự đa dạng
sinh học góp phần bảo vệ sinh thái đồng thời làm giảm rủi do.

3.2. Kiến nghị


- Mô hình SALT là mô hình áp dụng khá hoàn chỉnh trên đất dốc, tuy
nhiên với từng địa phương cần có nghiên cứu chính xác dụa trên nhu cầu của
người dân với mục tiêu bảo vệ rừng, bảo vệ đất.

You might also like