Professional Documents
Culture Documents
Nghiên cứu của Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm ở Bắc Kạn cho thấy
trên ruộng bậc thang lúa nước độ phì đất rất ổn định chỉ sau rừng tự nhiên và
vườn thâm canh quanh nhà, hơn nữa các chất lân, kali dễ tiêu và Ca2+ tăng
lên, trong khi Al3+ giảm đi gần hết. Tương tự theo Lê Văn Tiềm (1996) cho
biết ở Yên Châu (Sơn La) chỉ có 2 dạng sử dụng đất là rừng và lúa nước là
bảo vệ được đất.
Cùng với nương rẫy, ở vùng cao phía Bắc Việt Nam còn có một số hệ thống
canh tác cũng được sử dụng như: vườn nhà, vườn rừng, trại rừng, trang trại,
VAC và chăn thả có sự kiểm soát.
Kỹ thuật canh tác nông nghiệp trên đất dốc (SALT) là hệ sinh thái
canh tác nhằm sử dụng đất dốc được bền vững đã được Trung tâm đời sống
nông thôn Minđanao (Philipin) tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ năm
1970, đã có một số mô hình tổng hợp về kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất
dốc bền vững được ghi nhận và ứng dụng tại Việt Nam:
+ Mô hình SALT 1: Mô hình này bố trí trồng những băng cây ngắn
ngày xen kẽ với những băng cây dài ngày sao cho phù hợp với đặc tính và
yêu cầu đất đai của các loài cây đó và đảm bảo thu hoạch đều đặn. Các băng
này được trồng theo đường đồng mức, giữa những băng cây trồng chính
rộng từ 4-6m còn có những băng hẹp trồng cây cố định đạm để giữ đất
chống xói mòn, làm phân xanh hoặc lấy gỗ. Cây cố định đạm được trồng
dày theo hàng đôi, khi cây cao 1m thì cắt bớt cành, lá xếp vào gốc. Cơ cấu
cây trồng trong mô hình thường là 75% cây nông nghiệp, 25% cây lâm
nghiệp (trong cây nông nghiệp thì 50% là cây hàng năm, 25% là cây lâu
năm). Đây là mô hình canh tác đất dốc đơn giản, người nông dân có thể thu
nhập cao hơn gấp 1,5 lần so với cách trồng sắn thông thường. Kỹ thuật này
làm giảm xói mòn 50% so với hệ thống canh tác vùng cao theo tập quán.
+ Mô hình SALT 2- Mô hình kỹ thuật nông súc kết hợp đơn giản: ở
mô hình này người ta bố trí trồng trọt kết hợp với chăn nuôi bằng cách dành
một phần đất trong mô hình để canh tác nông nghiệp cho chăn nuôi. Việc sử
dụng đất dốc được thực hiện theo phương thức nông-lâm-súc kết hợp. ở
Philipin người ta thường nuôi dê để lấy thịt, sữa. Một phần diện tích khác
được dành để trồng cỏ và cây làm thức ăn cho dê.
+ Mô hình SALT 3 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông- lâm kết hợp
bền vững: Mô hình kỹ thuật canh tác này kết hợp một cách tổng hợp việc
trồng rừng qui mô nhỏ với việc sản xuất lương thực, thực phẩm. Cơ cấu sử
dụng đất thích hợp là 40% danh cho nông nghiệp và 60% cho lâm nghiệp.
Bằng cách đó đất đai được bảo vệ có hiệu quả đồng thời cung cấp được
nhiều lương thực, thực phẩm, gỗ củi và các sản phẩm khác, tăng thu nhập
cho nông dân. Thực chất mô hình này cũng là sự điều hoà phối hợp và mở
rộng qui hoạch hợp lý các mô hình trên nhưng có sợ chú trọng đặc biệt tới
phát triển rừng. Mô hình này có thể mở rộng cho một hộ có quĩ đất đai
tương đối rộng (khoảng 5-10ha) trên nhiều dạng địa hình, hay qui mô lớn
hơn cho một nhóm hộ.
+ Mô hình SALT 4 - Mô hình kỹ thuật canh tác nông nghiệp - cây ăn
quả qui mô nhỏ. Trong mô hình này các loài cây ăn quả nhiệt đới được đặc
biệt chú ý do sản phẩm của nó có thể bán để thu tiền mặt và cũng là những
cây lâu năm nên dễ dàng duy trì được sự ổn định và lâu bền hơn về môi
trường sinh thái so với cây hàng năm. Đối với cây ăn quả yêu cầu đất đai
phải tốt hơn, có đầu tư thâm canh cao hơn (về biện pháp làm đất, bón phân,
chọn giống). Do đó, giúp nông dân hiểu biết hơn về khoa học và kỹ thuật.
Mô hình này có ý nghĩa lớn, ngoài lương thực, thực phẩm thu được còn có
sản phẩm của cây cố định đạm chống xói mòn, cải tạo đất, đặc biệt là có
thêm sản phẩm hàng hoá, hoa quả bán thu tiền mặt, mua sắm thêm các vật
dụng cần thiết khác.
Hiện nay đã phát triển một số mô hình cải biên từ các loại mô hình SALT
như:
1) Rừng + Nương + Vườn + Ruộng + Mặt nước
2) Rừng + Nương + Vườn + Ruộng
3) Rừng + Nương + Vườn
Trong đó mô hình thứ nhất hoàn thiện hơn cả vì có rừng bố trí ở đỉnh dốc
hoặc sườn núi dốc rất mạnh. Nương ở sườn dốc vừa, dốc mạnh, vườn có thể
đặt tại chân dốc hoặc nơi dốc nhẹ, ruộng làm tại nơi thấp bằng và mặt nước
ao hồ ở nơi thấp trũng nhất. Mô hình 2 cũng như mô hình 1 nhưng thiếu mặt
nước nên không hoàn thiện bằng. Tuy nhiên tính phổ biến lại cao hơn và
nhiều nơi có thể sử dụng. Mô hình 3 không có ao hồ và đồng ruộng nhưng
lại là mô hình cơ bản nhất do có tính phổ biển cao. Vì vậy đây cũng là mô
hình mà hộ nào cũng có thể áp dụng được.
III. Kết luận và kiến nghị
- Mô hình SALT canh tác trên dất dốc là mô hình có vai trò to lớn
trong bảo vệ đất đồi núi, bảo vệ rừng và xóa bỏ nghèo đói cho người dân
vùng cao góp phần ổn định an ninh địa phương cung như an ninh quốc gia.
- Mô hình SALT canh tác trên dất dốc hợp lý sẽ đem lại sự đa dạng
sinh học góp phần bảo vệ sinh thái đồng thời làm giảm rủi do.