You are on page 1of 16

PHẦN MỞ ĐẦU

Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã đứng trước
những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc ngoài và những khó
khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...do chế độ thực dân phong kiến để lại.
Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí
mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải
rút vào hoạt động bí mật (dưới hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-
19451), nhưng vẫn duy trì phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo". Vì vậy,
các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có hình thức ban hành nghị quyết phù hợp,
linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ
chính quyền non trẻ. Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình
quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hoà bình, dân chủ thế
giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn
còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc gay go hơn hết ở Đông Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị
nhận định: chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng
đang ở trong tình thế vô cùng gay go, phức tạp, không những phải đối phó với
thực dân Pháp xâm lược mà còn phải đối phó với quân Anh, quân Tưởng, với
bọn phản cách mạng, với nạn đói và các khó khăn về kinh tế, tài chính.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó
khăn của thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây dựng đất
nước ta trong thời kì này, chúng em xin nghiên cứu đề tài: “Chủ trương “kháng
chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25/11/1945”.

KSTN Hóa dầu K54 1


PHẦN NỘI DUNG

I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945.


Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8 - 1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước
ta từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực
lượng tay sai phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân
Đảng) và "Việt cách" (Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam,
quân Tưởng Giới Thạch còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan
Việt Minh, đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai
của chúng. Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông
Dương dưới chế độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải
giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông
Dương. Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh
dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.
Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt
động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi
theo chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và
các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản

KSTN Hóa dầu K54 2


động ở Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt
nhiều thù trong, giặc ngoài như lúc này.Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với
những thách thức nghiêm trọng về kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật,
Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn.
Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính
rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân
hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ
và quan kim gây rối loạn thị trường. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã
hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ
ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".
Tổ quốc lâm nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo
và sáng suốt phân tích tình thế với 2 khả năng:
+ Đành mất chính quyền quay về kiếp sống nô lệ.
+ Củng cố và bảo vệ chính quyền non trẻ
Từ chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng trên thế giới và sức
mạnh mới của dân tộc là cơ sở để vạch ra chủ trương và giải pháp đấu tranh giữ
vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, uy tín và địa vị của Liên Xô được nâng cao
trên trường quốc tế. Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc có điều kiện phát
triển, trở thành một dòng thác cách mạng. Phong trào dân chủ và hòa bình cũng
đang vươn lên mạnh mẽ. ở trong nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đã được kiến lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân
dân lao động đã làm chủ vận mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân
đang phát triển. Toàn dân tin tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ

KSTN Hóa dầu K54 3


Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối
cao của dân tộc, toàn dân, toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc
thống nhất, quyết tâm giữ vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp
bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc. Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi
cơ bản và những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác
định: Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng"(1). Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa
hoàn toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc
trên hết". Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương
nêu rõ "kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung
ngọn lửa đấu tranh vào chúng"(2). Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất
chống thực dân Pháp xâm lược"(3). Mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút
mọi tầng lớp nhân dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành
độc lập - tự do - hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra 4 nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả
nước ta lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân"(4).

II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến
quốc” 25-11-1945.
Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng
Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên
hết, tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.

KSTN Hóa dầu K54 4


Về xác định kẻ thù: Đảng phân tích âm mưu của các nước đế quốc đối với
Đông Dương và chỉ rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược,
phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.
Về phương hướng nhiệm vụ: Đảng nêu lên bốn nhiệm vụ chủ yếu và cấp
bách cần khẩn trương thực hiện là: “ củng cố chính quyền, chống thực dân pháp
xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Đảng chủ trương
kiên kì nguyên tắc thêm bạn bớt thù, thực hiện khẩu hiệu “ Hoa -Việt thân thiện”
đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và “độc lập về chính trị, nhân nhượng về
kinh tế” đối với Pháp.

III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến
quốc”.

1.Nội chính
+ Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang
trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự
Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo
Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam
nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng
đáng vào hội đầu tiên của nước ta . Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể
nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn
bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân
chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống
xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được
tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản
hôm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên

KSTN Hóa dầu K54 5


trong lịch sử dân tộc. Báo Sự Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất
cả hãy đến thùng phiếu". Báo Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của
Người: "Khuyên đồng bào nam nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu
để bầu những đại biểu xứng đáng vào hội đầu tiên của nước ta. Chỉ hơn 4 tháng
sau ngày Độc Lập, toàn thể nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển
cử. Dưới ách thống trị tàn bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị
tước đoạt mọi quyền dân chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới
vào mọi mặt của đời sống xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần
đầu tiên, mọi người được tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu
xứng đáng vào Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
+ Ra hiến pháp 9/11/1946: ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng
và xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:
- Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

2. Kinh tế tài chính:

“ Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi đua,
thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”

+ Diệt giặc đói:


“Tôi xin các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc, các
cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, đồng bào phú hào thi đua mở mang
doanh nghiệp, đồng bào công nông thi đua sản xuất, đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua
sáng tác, phát minh, nhân viên chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, bộ đội
thi đua giết giặc”. “Tôi đề nghị với Chính phủ là phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất…
Tôi đề nghị mở một cuộc lạc quyên. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào chúng ta nhịn ăn một
bữa. Gạo tiết kiệm được sẽ góp lại và phát cho người nghèo”.
Hồ Chí Minh

KSTN Hóa dầu K54 6


Người đã khởi xướng, đề xuất và gương mẫu thực hiện phong trào hũ gạo
cứu đói, với nghĩa cử cao đẹp mỗi tuần nhịn ăn một bữa, cùng với phong trào
''Tuần lễ vàng''. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, ở khắp các địa phương
trên cả nước, Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc vận động nhân dân
hưởng ứng lời kêu gọi. Một phong trào quyên góp, tổ chức “ngày đồng tâm”, “hũ
gạo cứu đói”... được phát động mạnh mẽ. Trên tinh thần “tình làng nghĩa xóm”,
hoạn nạn có nhau, chỉ sau một thời gian ngắn số lương thực cứu đói thu được khá
nhiều, giải quyết kịp thời nhu cầu bức thiết của đời sống nhân dân.
Song song với công tác lạc quyên cứu đói, chính quyền cách mạng còn phát
động phong trào tăng gia sản xuất để giải quyết nạn đói tận gốc. Đối với Bác, dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào, Bác đều đặt vấn đề đẩy mạnh phong trào tăng gia sản
xuất như là một nhu cầu nội tại của quốc gia, của cách mạng. Trong bài viết “Gửi
nông gia Việt Nam” in trên báo “Tấc đất” (12/1945), Bác nói: “Thực túc thì binh
cường. Cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện tấc đất tấc vàng thì chúng ta
quyết thắng lợi trong hai việc đó. Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay!
Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của
chúng ta để giữ vững quyền tự do độc lập”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác, nhân
dân ta đã phát huy tinh thần hăng hái lao động, đẩy mạnh tăng gia sản xuất.
Nhiều quãng đê bị vỡ đã được gia cố lại, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu
năm 1946, tức là chỉ bốn tháng sau cách mạng, công tác đê điều đã hoàn thành.
Đồng thời với việc đắp đê, với khẩu hiệu “tấc đất tấc vàng”, chính quyền và nhân
dân tất cả các địa phương ra sức cải tạo đất công cộng còn trống như sân bãi, vỉa
hè, bờ đê để trồng trọt, nhất là hoa màu ngắn ngày. Nhờ đó, chỉ sau một thời gian
ngắn, nạn đói đã bị đánh lui. Những thành quả của cách mạng những năm đầu
sau cách mạng, nhất là trên lĩnh vực tiêu diệt giặc đói, đẩy mạnh tăng gia sản
xuất thực sự là một kỳ công của chế độ dân chủ mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Giữa bao bộn bề, lo toan, phải đối phó với thù trong giặc ngoài đoàn kết

KSTN Hóa dầu K54 7


xây dựng chính quyền đang trong thời kỳ trứng nước, Bác Hồ đã đặc biệt quan
tâm tới nông dân và mặt trận nông nghiệp.

Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không vì thế mà chúng ta coi nhẹ mặt
trận nông nghiệp. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hoàn cảnh thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất
nông nghiệp đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

+ Phát động “tuần lễ vàng”, “ tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.

Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân
dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946,
phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Bà Tống Minh Phương,
người đã đem 200 cây vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng.
Từ năm 1947 đến năm 1950, bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông
coi kho vàng. Số vàng quyên góp được trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn
Lương Bằng giao cho bà quản lý.

Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Hà Nội.
Đông đảo nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu
tháng 9 năm 1945, nhân dân Thủ đô đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn
trong khuôn khổ chủ trương xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần
lễ vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945 với mục đích "thu góp số vàng trong nhân
dân và nhất là của các nhà giàu để dùng vào những việc khẩn cấp và việc quan
trọng nhất của chúng ta lúc này, nhất là việc quốc phòng". "Tuần lễ vàng" ở Hà
Nội khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội có mời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người không đến được,

KSTN Hóa dầu K54 8


nhưng Người có bức thư ngỏ cùng đồng bào cả nước. Thư của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đăng trên báo Cứu quốc ngày 17-9-1945, có đoạn: "Tôi tin rằng, toàn quốc
đồng bào, nhất là các nhà giàu có, trong sự quyên giúp này sẽ xứng đáng với sức
hy sinh phấn đấu của các chiến sĩ ái quốc trên các mặt trận". Tinh thần yêu nước
của nhân dân đã thể hiện bằng hành động cụ thể trong Tuần lễ vàng. Tại Hà Nội,
người đóng góp nhiều vàng nhất là bà Vương Thị Lài, với 109,872 lạng, được
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Huy chương vàng. Ở khu Đồng Xuân, trong một đám
cưới "đời sống mới", cô dâu và chú rể tuyên bố dành chiếc nhẫn cưới cho Tuần lễ
vàng.

Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời
bà Nam Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”,
“Tuần lễ đồng”. Bà Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố và
các tổ chức xã hội khác vận động nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong
hòang tộc đóng góp vàng bạc của cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần
lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng,
ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng huyện Phú Vang thu được 25
lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng.

3.Văn hóa (Diệt giặc dốt).

Bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm
1945 (sắc lệnh 19/SL và 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập.
Phong trào này nằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất
của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau "giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn
90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu
tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh

KSTN Hóa dầu K54 9


đề nghị mở chiến dịch "Chống nạn mù chữ", vì "Một dân tộc dốt là một dân tộc
yếu". Để phục vụ chiến dịch xóa nạn mù chữ, Nha bình dân học vụ được thành
lập ngày 18 tháng 9, khoá huấn luyện giáo viên Bình dân học vụ đầu tiên mang
tên Hồ Chí Minh mở tại Hà Nội. Vì nhà nước non trẻ ngân sách thiếu thốn, phong
trào dựa vào sức dân là chính. Ngân quỹ được chỉ dụng cho chương trình chỉ trả
lương được tối đa 1.000 giáo viên, trong khi số giáo viên cần thiết tối thiểu là
100.000. Người đi học được miễn phí. Giáo viên không nhận lương. Mỗi tỉnh
phải tự túc giáo viên. Khi ngân sách còn eo hẹp, các lớp bình dân học vụ dùng
phấn hay gạch để viết xuống đất thay cho bút và giấy. Phong trào nhanh chóng
lan rộng khắp cả nước. Các lớp học bình dân được mở khắp nơi, trong nhà dân,
đình chùa, miếu mạo, chỉ cần mấy chiếc ghế băng, ghế tựa đặt quanh bàn, quanh
chiếc phản, cánh cửa, tấm ván mộc làm bảng đã thành lớp học. Các đội Nhi đồng
cứu vong khua trống ếch cổ động người dân đi học. Tại các nơi nhiều người qua
lại, như các ngõ xóm, điếm canh, cổng đình, cổng làng, người ta treo nong, nia,
mẹt, phên cốt, trên viết các chữ cái bằng vôi để ai đi qua cũng có dịp nhẩm, ôn
các chữ đã học. Các câu văn vần miêu cả các chữ cái được sử dụng để người học
dễ thuộc. Ví dụ:

"i, t (tờ), có móc cả hai.


i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang;
e, ê, l (lờ) cũng một loài.
ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn;
o tròn như quả trứng gà.
ô thì đội mũ, ơ thời thêm râu".

Xuất hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ. Ví dụ:

"Hôm qua anh đến chơi nhà.


Thấy mẹ dệt vải thấy cha đi bừa.
Thấy nàng mải miết xe tơ.

KSTN Hóa dầu K54 10


Thấy cháu "i - tờ" ngồi học bi bô.
Thì ra vâng lệnh Cụ Hồ.
Cả nhà yêu nước "thi đua" học hành".

Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ.
Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai
chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau
hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ
Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên
và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách
trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả. Đến
cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo
viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.

4. Quân sự - ngoại giao.


+ Đội Việt Nam giải phóng quân thành lập ( 5 - 1945 ) được chuyển thành Vệ
quốc đoàn ( 9 - 1945 ) và thành Quân đội quốc gia ( 22 - 5 - 1946 ).
+ Cuối 1945, lực lượng tự vệ ở xã, huyện phát triển với số lượng hàng vạn người.

+ Thúc đẩy , động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến .

IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.

1.Kết quả
Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới
- chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến
pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính
quyền từ trung ương đến các làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ

KSTN Hóa dầu K54 11


chuyên chính như Vệ quốc đoàn, Công an nhân dân được thiết lập và tăng cường.
Các đoàn thể nhân dân như Mặt trận Việt Minh, Hội liên hiệp quốc dân Việt
Nam, Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được xây
dựng và mở rộng. Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam được thành
lập.
Về kinh tế văn hóa: Đã phát động phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói, xóa
bỏ các thứ thuế vô lý của chế độ cũ, ra sắc lệnh giảm tô 25%, xây dựng ngân quỹ
quốc gia. Các lĩnh vực sản xuất được phục hồi. Cuối năm 1945, nạn đói cơ bản
được đẩy lùi, năm 1946 đời sống nhân dân được ổn định và có cải thiện. Tháng
11-1946, giấy bạc “Cụ Hồ” được phát hành. Đã mở lại các trường lớp và tổ chức
khai giảng năm học mới. Cuộc vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới đã
bước đầu xóa bỏ được nhiều tệ nạn xã hội và tập tục lạc hậu. Phong trào diệt dốt,
bình dân học vụ được thực hiện sôi nổi. Cuối năm 1946 cả nước có thêm 2.5 triệu
người biết đọc, biết viết.
Về bảo vệ chính quyền cách mạng: Ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng
chiếm Sài gòn và mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh Nam Bộ, Đảng đã kịp
thời lãnh đạo nhân dân Nam bộ đứng lên kháng chiến và phát động phong trào
Nam tiến chi viện Nam Bộ, ngăn không cho quan Pháp đánh ra Trung Bộ. Ở
miền Bắc, bằng chủ trương lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, Đảng và
Chính Phủ ta đã thực hiện sách lược nhân nhượng với quân đội Tưởng và tay sai
của chúng để giữ vững chính quyền, tập trung lực lương chống Pháp ở miền
Nam. Khi Pháp-Tưởng ký hiệp ước Trùng Khánh (28-2-1946), thỏa thuận mua
bán quyền lợi với nhau, cho Pháp kéo quan ra miền Bắc, Đảng mau lẹ chỉ đạo
chon giải pháp hòa hoãn, dàn xếp với Pháp để buộc quân Tưởng phải rút về nước.
Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, cuộc đàm phán ở Đà Lạt, ở Phôngtenơbờlô, Tạm ước
14-9-1946 đã tạo điều kiện cho nhân dân ta có thêm thời gian để chuẩn bị cho
cuộc chiến đấu mới.

KSTN Hóa dầu K54 12


2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi
Những thành quả nói trên đã bảo vệ được nền độc lập của đất nước, giữ
vững chính quyền cách mạng, xây dựng được nền móng đầu tiên và cơ bản cho
một chế độ mới, chế độ Việt Nam dân chủ Cộng hòa; chuẩn bị được những điều
kiện cần thiết trực tiếp cho cuộc kháng chiến toàn quốc sau đó.
Nguyên nhân thắng lợi: Có được những thắng lợi quan trọng đó là do Đảng
đã đánh giá đúng tình hình nước ta sau Cách màng Tháng Tám, kịp thời đề ra chủ
trương kháng chiến, kiến quốc đúng đắn; xây dựng và phát huy được sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc, lợi dụng được mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch.

3. Bài học kinh nghiệm

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có
nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng
lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ
địch bội ước.

KSTN Hóa dầu K54 13


PHẦN KẾT BÀI

Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu
tranh,củng cố và bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. Nó thể hiện một quy luật
cách mạng - xây dựng chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó
tạo điều kiện để nước ta phát triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ
chình trị đến quân sự. Nước ta đã thoát được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một
nền nông nghiệp ổn định. Tư tương của Đảng được thấm nhuần vào suy nghĩ của
từng người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc
Việt Nam. Có thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” là một bước đi vô
cùng quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,
xây dựng một xã hội lý tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như toàn thế nhân dân Việt Nam!

KSTN Hóa dầu K54 14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
5. Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr.82-84.
6. http://www.lichsuvietnam.vn/
7. http://vi.wikipedia.org/wiki/

KSTN Hóa dầu K54 15


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................2
I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945................................................................2
II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc” 25-11-
1945......................................................................................................................................4
III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc”.........5
1.Nội chính...........................................................................................................................5
2. Kinh tế tài chính:..............................................................................................................6
“ Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi
đua, thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”................6
3.Văn hóa (Diệt giặc dốt)....................................................................................................9
4. Quân sự - ngoại giao......................................................................................................11
IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.......................................................................11
1.Kết quả............................................................................................................................11
2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi.................................................................................13
3. Bài học kinh nghiệm......................................................................................................13
PHẦN KẾT BÀI................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................15
MỤC LỤC.........................................................................................................................16

KSTN Hóa dầu K54 16

You might also like