Professional Documents
Culture Documents
Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà. Nhà nước cách mạng non trẻ vừa mới ra đời đã đứng trước
những thách thức tưởng chừng khó vượt qua: thù trong, giặc ngoài và những khó
khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...do chế độ thực dân phong kiến để lại.
Vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí
mật trở thành Đảng cầm quyền, đứng trước tình thế phức tạp, buộc Đảng lại phải
rút vào hoạt động bí mật (dưới hình thức tuyên bố "Tự ý giải tán" từ ngày 11-11-
19451), nhưng vẫn duy trì phương thức lãnh đạo "khôn khéo", "kín đáo". Vì vậy,
các cơ quan lãnh đạo của Đảng phải có hình thức ban hành nghị quyết phù hợp,
linh hoạt, bảo đảm lãnh đạo kịp thời công cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ
chính quyền non trẻ. Ngày 25-11-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ
thị Kháng chiến kiến quốc. Chỉ thị phân tích những thay đổi căn bản về tình hình
quốc tế và trong nước sau chiến tranh, nhận định lực lượng hoà bình, dân chủ thế
giới đã mạnh hơn lực lượng chiến tranh. Bốn mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn
còn và ngày càng sâu sắc, nhưng mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa đế quốc gay go hơn hết ở Đông Nam Á. Về tình hình trong nước, Chỉ thị
nhận định: chính quyền nhân dân đã được thành lập trên khắp đất nước nhưng
đang ở trong tình thế vô cùng gay go, phức tạp, không những phải đối phó với
thực dân Pháp xâm lược mà còn phải đối phó với quân Anh, quân Tưởng, với
bọn phản cách mạng, với nạn đói và các khó khăn về kinh tế, tài chính.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó
khăn của thời kì nước ta mới ra đời. Để hiểu thêm về công cuộc xây dựng đất
nước ta trong thời kì này, chúng em xin nghiên cứu đề tài: “Chủ trương “kháng
chiến – kiến quốc” của trung ương đảng ngày 25/11/1945”.
II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến
quốc” 25-11-1945.
Về chỉ đạo chiến lược: Đảng xác định mục tiêu phải nêu cao của cách mạng
Việt Nam lúc này vẫn là dân tộc giải phóng, khẩu hiệu lúc này là: “dân tộc trên
hết, tổ quốc trên hết”, nhưng không phải là giành độc lập mà giữ vững độc lập.
III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến
quốc”.
1.Nội chính
+ Tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản hôm đó đều dành vị trí trang
trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Báo Sự
Thật ghi lên đầu trang nhất dòng chữ đậm nét: "Tất cả hãy đến thùng phiếu". Báo
Quốc hội in hình Hồ Chủ tịch với lời khuyên của Người: "Khuyên đồng bào nam
nữ 18 tuổi trở lên, hôm nay tất cả đều đi bỏ phiếu để bầu những đại biểu xứng
đáng vào hội đầu tiên của nước ta . Chỉ hơn 4 tháng sau ngày Độc Lập, toàn thể
nhân dân ta đón chào ngày hội lớn - ngày Tổng tuyển cử. Dưới ách thống trị tàn
bạo của đế quốc và phong kiến, người dân Việt Nam bị tước đoạt mọi quyền dân
chủ. Cách mạng tháng Tám đã thổi một luồng gió mới vào mọi mặt của đời sống
xã hội, đem lại quyền làm chủ cho mỗi công dân. Lần đầu tiên, mọi người được
tự do thảo luận, bàn bạc và chọn lựa những đại biểu xứng đáng vào Quốc hội của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, báo chí xuất bản
hôm đó đều dành vị trí trang trọng nhất, giới thiệu cuộc tổng tuyển cử đầu tiên
“ Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi đua,
thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không vì thế mà chúng ta coi nhẹ mặt
trận nông nghiệp. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong hoàn cảnh thiên tai,
dịch bệnh diễn biến phức tạp những năm gần đây, vấn đề an ninh lương thực luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Những lời dạy của Bác về sản xuất
nông nghiệp đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
+ Phát động “tuần lễ vàng”, “ tuần lễ đồng” ủng hộ quỹ độc lập.
Để khắc phục khó khăn trước mắt về tài chính, Chính phủ động viên nhân
dân xây dựng “Quỹ độc lập”, hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và đến tháng 1-1946,
phát hành tiền Việt Nam, xây dựng nền tiền tệ độc lập. Bà Tống Minh Phương,
người đã đem 200 cây vàng của gia đình ủng hộ cho đất nước trong Tuần lễ vàng.
Từ năm 1947 đến năm 1950, bà Tống Minh Phương được tin tưởng giao trông
coi kho vàng. Số vàng quyên góp được trong Tuần lễ vàng, đồng chí Nguyễn
Lương Bằng giao cho bà quản lý.
Phong trào xây dựng "Quỹ độc lập" được phát động đầu tiên tại Hà Nội.
Đông đảo nhân dân Thủ đô đã hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ trong mấy tuần đầu
tháng 9 năm 1945, nhân dân Thủ đô đã đóng góp được trên 50 vạn đồng. Vẫn
trong khuôn khổ chủ trương xây dựng "Quỹ độc lập", Chính phủ mở tiếp "Tuần
lễ vàng", bắt đầu từ ngày 16-9-1945 với mục đích "thu góp số vàng trong nhân
dân và nhất là của các nhà giàu để dùng vào những việc khẩn cấp và việc quan
trọng nhất của chúng ta lúc này, nhất là việc quốc phòng". "Tuần lễ vàng" ở Hà
Nội khai mạc ngày 16-9-1945. Ban tổ chức "Tuần lễ vàng" ở Hà Nội có mời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đến dự lễ khai mạc, song vì bận nên Người không đến được,
Tại thành phố Huế, chính quyền Cách Mạng và mặt trận Việt minh đã mời
bà Nam Phương (vợ vua Bảo Ðại) làm cố vấn cho ban tổ chức “Tuần Lễ vàng”,
“Tuần lễ đồng”. Bà Nam Phương đã cùng với Hội phụ nữ cứu quốc thành phố và
các tổ chức xã hội khác vận động nhiều gia đình giàu có ở thành phố và trong
hòang tộc đóng góp vàng bạc của cải cho quỹ độc lập. Chỉ trên dưới một tuần
lễ,với sự nhiệt tình của quần chúng, thành phố Huế đã thu được 945 lượng vàng,
ba huyện phía Bắc đóng góp 10kg vàng, riêng huyện Phú Vang thu được 25
lượng, ngay cả một thôn Cự Lại (Phú Vang) đóng góp trên 5 tạ đồng.
Bình dân học vụ là phong trào xóa nạn mù chữ trong toàn dân, được Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phát động ngày 8 tháng 9 năm
1945 (sắc lệnh 19/SL và 20/SL) ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập.
Phong trào này nằm giải quyết "giặc dốt" - một trong các vấn đề cấp bách nhất
của Việt Nam lúc bấy giờ (chỉ sau "giặc đói"). Trong suốt thời Pháp thuộc, hơn
90% dân Việt Nam mù chữ, đây là một trong các quốc nạn. Tại phiên họp đầu
tiên của Chính phủ ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
Xuất hiện nhiều ca dao, hò vè cổ động cho phong trào Bình dân học vụ. Ví dụ:
Để thúc giục người dân học chữ, một số nơi còn dựng "cổng mù" ở đầu chợ.
Người muốn vào chợ phải thử đọc chữ, ai đọc được thì được đi cổng chính, ai
chưa đọc được thì phải qua "cổng mù" để vào chợ. Tính đến cuối năm 1945, sau
hơn ba tháng phát động, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh Bắc bộ gửi về Bộ
Quốc gia giáo dục thì đã mở được hơn 22.100 lớp học với gần 30 nghìn giáo viên
và đã dạy biết chữ cho hơn 500 nghìn học viên mà tổng chi phí xuất từ ngân sách
trung ương là 815,68 đồng, còn lại đều do các địa phương và tư nhân chi trả. Đến
cuối năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục báo cáo có 74.975 lớp với 95.665 giáo
viên, riêng ở Bắc Bộ và Trung Bộ đã có 2.520.678 người biết đọc, biết viết.
+ Thúc đẩy , động viên toàn dân cùng nhau tham gia kháng chiến .
1.Kết quả
Về chính trị xã hội: Đã xây dựng được nền móng cho một chế độ xã hội mới
- chế độ dân chủ nhân dân với đầy đủ các yếu tố cấu thành cần thiết. Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp được thành lập thông qua phổ thông bầu cử. Hiến
pháp dân chủ nhân dân được Quốc hội thông qua và ban hành. Bộ máy chính
quyền từ trung ương đến các làng, xã và các cơ quan tư pháp, tòa án, các công cụ
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dựa vào dân để xây dựng
và bảo vệ chính quyền cách mạng. Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong
nội bộ kẻ thù, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính, coi sự nhân nhượng có
nguyên tắc với kẻ địch cũng là một biện pháp đấu tranh cách mạng cần
thiết trong hoàn cảnh cụ thể. Tận dụng khả năng hòa hoãn để xây dựng
lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, đồng thời đề cao cảnh giác,
sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng ra cả nước khi kẻ
địch bội ước.
Chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” đã soi sáng con đường đấu
tranh,củng cố và bảo vệ chính quyền của nhân dân ta. Nó thể hiện một quy luật
cách mạng - xây dựng chế độ mới phải luôn đi đôi với bảo vệ chế độ mới. Từ đó
tạo điều kiện để nước ta phát triển về mọi lĩnh vực từ văn hóa đến kinh tế, từ
chình trị đến quân sự. Nước ta đã thoát được khỏi nạn đói, bắt đầu phát triển một
nền nông nghiệp ổn định. Tư tương của Đảng được thấm nhuần vào suy nghĩ của
từng người dân, nêu cao tinh thần đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc
Việt Nam. Có thể nói chủ trương “Kháng chiến-kiến quốc” là một bước đi vô
cùng quan trọng của Đảng, tạo tiền đề để đất nước ta tiền hành quá độ lên chủ
nghĩa xã hội sau năm 1954, xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,
xây dựng một xã hội lý tưởng theo mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như toàn thế nhân dân Việt Nam!
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr. 26-27.
5. Giáo trình đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam nhà xuất bản
chính trị quốc gia, tr.82-84.
6. http://www.lichsuvietnam.vn/
7. http://vi.wikipedia.org/wiki/
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................................2
I/ Bối cảnh nước ta sau cách mạng tháng 8/1945................................................................2
II/ Nội dung chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc” 25-11-
1945......................................................................................................................................4
III/ Triển khai chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương về “kháng chiến kiến quốc”.........5
1.Nội chính...........................................................................................................................5
2. Kinh tế tài chính:..............................................................................................................6
“ Thi đua, thi đua làm sao, thi đua thi đua cùng nhau, sĩ, nông, công, thương và binh. Thi
đua, thi đua trừ đói, thi đua thi đua trừ dốt, thi đua thi đua trừ giặc ngoại xâm”................6
3.Văn hóa (Diệt giặc dốt)....................................................................................................9
4. Quân sự - ngoại giao......................................................................................................11
IV/ Kết quả, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm.......................................................................11
1.Kết quả............................................................................................................................11
2. Ý nghĩa và nguyên nhân thắng lợi.................................................................................13
3. Bài học kinh nghiệm......................................................................................................13
PHẦN KẾT BÀI................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................15
MỤC LỤC.........................................................................................................................16